Nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên Thị trường quốc tế

Lời mở đầu Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với xu hướng toàn cầu hoá tiến đến nền kinh tế tri thức, cạnh tranh ngày càng diễn ra mạnh mẽ và có nhiều xu hướng khác nhau. Việt Nam là thành viên chính thức của WTO, điều này cho thấy cơ hội và thách thức đang chờ ở phía trước. Chúng ta phải tiến lên và giành lấy nó. Sức ép của môi trường kinh doanh ngày càng lớn. Vì thế doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải có khả năng cạnh tranh cao. Đặc biệt, đối với ngành dệt may, là ngành

doc27 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1217 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên Thị trường quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có tốc độ phát triển cao, chiếm tỷ trọng lớn trong xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may năm 2008 đạt 5 tỷ đô tăng thêm 30% so với năm 2002 là mức son mới của ngành. Là ngành với đặc điểm không đòi hỏi vốn lớn, thu hồi vốn nhanh, sử dụng nhiều lao động mà ngành mà hầu hết các nước đang phát triển tham gia lên mức độ cạnh tranh cao. Việt Nam có lớn thế chiếm lĩnh thị trường quốc tế đặc biệt là 3 thị trường EU, Nhật Bản và Mĩ. Chế độ bảo vệ hạn ngạch, chấm dứt chuyển sang cạnh tranh thực sự giữa các nước xuất khẩu. Trong khi đó, Việt Nam còn nhiều yếu điểm về chất lượng, giá, mẫu mã. Vì thế nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường quốc tế là vấn đề sống còn của doanh nghiệp. Để đạt được thắng lợi các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần phải nâng cao cạnh tranh và đưa ra các giải pháp nhằm tăng khả năng cạnh tranh. Đó cũng là lý do em chọn đề tài: "Giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường quốc tế". Với sự giúp đỡ tận tình của Thạc sĩ Nguyễn Thị Thu Hường em đã hoàn thành đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn cô đã góp ý và giúp đỡ em. Phần I Một số vấn đề về khả năng cạnh tranh I - Khái niệm 1.1. Cạnh tranh là gì? Ngày nay, hầu hết tất cả các quốc gia trên thế giới đều phải thừa nhận trong mọi hoạt động kinh tế đều phải có cạnh tranh và coi cạnh tranh không những là môi trường, động lực của sự phát triển nói chung, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển và tăng năng suất lao động, hiệu quả của các doanh nghiệp nói riêng mà còn là yếu tố quan trọng làm lành mạnh hoá các quan hệ xã hội. Một trong những khó khăn là không có một sự đồng nhất trong quan niệm về cạnh tranh. Lý do là thuật ngữ này được sử dụng để đánh giá cho tất cả các doanh nghiệp, các ngành, các quốc gia và cả khu vực liên quốc gia. Khi xác định tính cạnh tranh của một doanh nghiệp hay của một ngành công nghiệp chỉ cần xét đến tiềm năng sản xuất một hàng hoá hay dịch vụ ở một mức giá ngang bằng hay thấp hơn mức giá phổ biến mà không phải có trợ cấp. Uỷ ban cạnh tranh công nghiệp của Tổng thống Mỹ sử dụng định nghĩa cạnh tranh đối với một quốc gia như sau: “Cạnh tranh đối với một quốc gia là mức độ mà ở đó dưới các điều kiện thị trường tự do và công bằng , có thể sản xuất các hàng hoá và dịch vụ đáp ứng được các đòi hỏi của các thị trường quốc tế , đồng thời duy trì và mở rộng được thu nhập thực tế của nhân dân nước đó”. Báo cáo về cạnh tranh toàn cầu định nghĩa cạnh tranh đối với một quốc gia là: “Khả năng của nước đó đạt được những thành quả nhanh và bền vững về mức sống nghĩa là đạt được các tỉ lệ tăng trưởng kinh tế kinh tế cao được xác định bằng sự thay đổi của tổng sản phẩm quốc nội(GDP) trên đầu người theo thời gian”. Diễn đàn cấp cao về cạnh tranh công nghiệp của tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đã chọn định nghĩa về cạnh tranh, cố gắng kết hợp các doanh nghiệp , ngành và quốc gia như sau : “ Khả năng của các doanh nghiệp, ngành, quốc gia và vùng trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế”. Định nghĩa trên phù hợp vì nó phản ánh khả năng cạnh tranh quốc gia nằm trong mối liên hệ trực tiếp với hoạt động cạnh tranh của các doanh nghiệp và lợi thế cạnh tranh trở thành một nhân tố quan trọng trong hoạt động kinh tế. 1.2. Khả năng cạnh tranh là gì ? Thuật ngữ “khả năng cạnh tranh” được sử dụng rộng rãi trong các phương tiện thông tin đại chúng, trong sách báo chuyên môn, trong giao tiếp hàng ngày của các chuyên gia kinh tế, các nhà kinh doanh… Nhưng cho đến nay vẫn chưa có một sự nhất trí cao trong các học giả và giới chuyên môn về khái niệm khả năng cạnh tranh ở cả cấp quốc gia lẫn cấp ngành, công ty, xí nghiệp. Lý do cơ bản là ở chỗ có nhiều cách hiểu khác nhau về khả năng cạnh tranh. Đối với một số người, khả năng cạnh tranh chỉ có ý nghĩa rất hẹp, được thể hiện qua các chỉ số về tỷ giá thực và trong mối quan hệ thương mại.Trong khi đó, đối với những người khác, khái niệm khả năng cạnh tranh lại bao gồm khả năng sản xuất hàng hoá và dịch vụ đủ sức đáp ứng đòi hỏi của cạnh tranh quốc tế và yêu cầu bảo đảm mức sống cao cho các công dân trong nước . Trong cuốn sách nổi tiếng “Lợi thế cạnh tranh của các quốc gia”của M.Porter đã cho rằng chỉ có năng suất là chỉ số có ý nghĩa khi nói về khả năng cạnh tranh quốc gia. Còn Krugman(1994) thì lại cho rằng : Khái niệm về khả năng cạnh tranh chỉ phù hợp với cấp độ công ty, đơn giản là vì nếu một công ty nào đó không đủ khả năng bù đắp chi phí của mình, thì chắc chắn phải từ bỏ kinh doanh hoặc phá sản. II . Phân loại khả năng cạnh tranh Khả năng cạnh tranh của nền kinh tế gồm khái niệm cạnh tranh quốc gia, khái niệm cạnh tranh doanh nghiệp và khái niệm cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ.Trong đó, khả năng cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ là nhiệm vụ trọng tâm và cơ bản để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. 2.1. Khả năng cạnh tranh quốc gia Đây là một khái niệm phức hợp, bao gồm các yếu tố ở tầm vĩ mô, đồng thời cũng bao gồm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong cả nước. Khả năng cạnh tranh được định nghĩa là khả năng của một nền kinh tế đạt được tăng trưởng bền vững, thu hút được đầu tư bảo đảm ổn định kinh tế xã hội, nâng cao đời sống của người dân . Xếp loại tổng thể trên 118 nước Tiếp cận thị trường 112 Hàng rào thuế quan và phi thuế quan 114 Xu hướng thương mại 66 Quản lý đại tại cửa khẩu 76 Hiệu quả của hải quan 79 Hiệu quả của quá trình xuất nhập khẩu 50 Minh bạch và quản lý tại cửa khẩu 102 Hạ tầng giao thông và thông tin 75 Chất lượng hạ tầng giao thông 100 Chất lượng dịch vụ giao thông 48 áp dụng công nghệ thông tin 71 Môi trường kinh doanh 61 Môi trường chính sách 83 An ninh vật chất 46 Năng lực cạnh tranh của Việt Nam xếp hàng 77/125 quốc gia. Năm 2006 Việt Nam được WEF xếp hạng 77/125, tụt 3 bậc so với năm 2005 là 75. Quốc gia Xếp hạng cạnh tranh Singapo 23 Malaixia 26 Thái Lan 35 Indonêxia 50 Philipin 71 Campuchia 103 2.2. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp được đo bằng khả năng duy trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh trong nước và quốc tế. Một doanh nghiệp có thể kinh doanh một hay nhiều sản phẩm và dịch vụ. Vì vậy mà có phân biệt khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp với khả năng cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ. 2.3. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm Khả năng cạnh tranh của sản phẩm được đo bằng thị phần của sản phẩm đó trên thị trường . Giữa ba cấp độ khả năng cạnh tranh có mối quan hệ qua lại mật thiết với nhau, tạo điều kiện cho nhau, chế định và phụ thuộc lẫn nhau. Một nền kinh tế có khả năng cạnh tranh cao phải có nhiều doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh. Ngựơc lại để tạo điều kiện cho doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh, môi trường kinh doanh của nền kinh tế phải thuận lợi, các chính sách kinh tế vĩ mô phải rõ ràng, có thể dự báo được, nền kinh tế phải ổn định, bộ máy nhà nước phải trong sạch, hoạt động có hiệu quả, có tính chuyên nghiệp. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp được thể hiện qua hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp được đo thông qua lợi nhuận, thị phần của doanh nghiệp, thể hiện qua chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Là tế bào của nền kinh tế , khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp tạo cơ sở cho khả năng cạnh tranh quốc gia. Đồng thời khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cũng thể hiện qua khả năng cạnh tranh của các sản phẩm mà doanh nghiệp đó kinh doanh. Doanh nghiệp có thể kinh doanh một hay một số sản phẩm có khả năng cạnh tranh. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm phụ thuộc vào chính sách quốc gia, vào năng lực và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. III - Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của dệt may Việt Nam 1. Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam 1.1. Nhà cung ứng Trong sản xuất dệt may , nguyên liệu đóng vai trò quan trọng và có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất. Ngành dệt may Việt Nam sử dụng các nguyên liệu chính là: bông xơ, xơ sợi tổng hợp, len, đay ,tơ tằm, xơ liber khác, các loại hoá chất cơ bản khác và thuốc nhuộm…trong đó quan trọng nhất là bông xơ và xơ sợi tổng hợp. Do không chủ động được nguồn nguyên liệu(80%% nguyên liệu sử dụng cho ngành dệt may phải nhập từ nước ngoài)nên ngành dệt may Việt Nam phải chịu sức ép nặng nề của việc tăng giá nguyên liệu trên thế giới. Mặt khác, nguồn nguyên liệu phụ thuộc vào nhập khẩu mà không thống nhất ở một vài đơn vị có chức năng nhập và do nhiều đầu mối, thậm chí không phải ngành dệt may vẫn đứng ra nhập và phân phối theo nhiều loại giá khác nhau, làm cho biến động giá đầu vào khiến đầu ra không ổn định.Hiện nay phần lớn nguyên liệu sử dụng cho ngành dệt may phải nhập từ Trung Quốc. Ngoài ra còn nhập của một số nước như:Thái Lan,Australia,Hàn Quốc,Pakistan…làm ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế của ngành dệt may, gây nên tình trạng bị động trong điều hành sản xuất… 1.2 .Nguồn nhân lực Nguồn nhân lực có vai trò quyết định và ảnh hưởng tới sự thành bại của một doanh nghiệp. Lao động của doanh nghiệp là một yếu tố đầu vào cơ bản của quá trình sản xuất. Doanh nghiệp sử dụng lao động có kỹ năng càng cao thì càng hiệu quả và thực hiện nhiệm vụ một cách nhanh hơn và chính xác hơn so với các lao động có kỹ năng thấp. Do vậy nguồn nhân lực tốt là một đảm bảo cho sự phát triển lâu dài và bền vững. Các doanh nghiệp dệt may cần một đội ngũ lớn công nhân lành nghề, cán bộ quản lý, kỹ sư thực hành, nhà thiết kế thời trang, thiết kế mẫu mã cho đến giám đốc doanh nghiệp và cán bộ quản lý cấp cao để đảm bảo hoạt động có hiệu quả, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm dệt may đặc biệt là trên thị trường quốc tế. 1.3 .Tài chính Khủng hoảng tài chính kinh tế kéo theo nhiều về vốn Việt Nam cũng không nằm ngoài tình hình đó. Lạm phát tăng cao, tiền trượt giá, đời sống khó khăn ảnh hưởng không ít đến hiệu quả của doanh nghiệp. Theo đánh giá chung của Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam thanh khoản và nguồn vốn khả dụng được cải thiện. Lãi suất vay vốn việt Nam đồng các kỳ hạn trên thị trường liên ngân hàng cũng trong xu hướng giảm giao dịch bình quân kỳ hạn qua đêm trong tuần cuối tháng9 la 13,53%/năm, một tuần 14,49%/năm, 2tuần la 15,30%/năm,1tháng là 16,28%/năm, 3 tháng 15,93%/năm, 6 tháng 18,4%/năm. Do lãi suất giảm các doanh nghiệp có cơ hội nhận vay đến ngân hàng để kinh doanh, đầu tư cải tạo trang thiết bị. Phần II Thực trạng về khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường quốc tế I – Tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trong những năm qua Ngành may Việt Nam thực sự khởi săc từ thập niên 90 và có tốc độ tăng trưởng khá nhanh. Số liệu về tốc độ tăng xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam trên ba thị trường chủ yếu: Mỹ , EU và Nhật Bản đã phản ánh những cố gắng lớn của ngành này trong hơn mười năm qua. Hàng may Việt Nam xuất khẩu giai đoạn 1994-2000 sang thị ttrường Mỹ chưa đáng kể , tốc độ tăng xuất khẩu đạt trung bình 52,6 % / năm. Nhưng với sự mở đường của Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ thì kim ngạch xuất khẩu vào Mỹ đã tăng nhanh từ 49 triệu USD năm 2001 lên 975 triệu USD năm 2002 và theo Hiệp định dệt may Việt Nam - Hoa Kỳ vừa ký, hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam năm 2003 ước đạt 1,7 tỷ USD và triển vọng tăng trưởng ổn định trong những năm tới. EU được coi là thị trường chính, khá quen thuộc của ngành may Việt Nam, khi Việt Nam ký Hiệp định hàng Dệt- May vào năm 1992 thì từ năm 1993 đến 1997, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng dệt may đạt hơn 23%/ năm. Và hạn ngạch giai đoạn 1998 -2000 tăng thêm 40% so với giai doạn trước và thoả thuận sơ bộ cho giai đoạn 2003-2005 có mức tăng từ 50- 70% tuỳ theo nhóm hàng.Tuy nhiên, 2 năm 2001 và 2002 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang EU đang có xu hướng giảm từ 617 triệu USD năm 2001 xuống còn 540 triệu USD năm 2000 ( giảm 12%) Nhật bản là thị trường không hạn ngạch lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh, đặc biệt kể từ năm 1994. Năm 1997, Việt Nam đã trở thành một trong bẩy nước xuất khẩu quần áo lớn nhất vào Nhật Bản với thị ttrường hàng dệt thoi là 3,6% và dệt kim là 2,3%. Nhưng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Nhật Bản đang trong chiều hướng giảm, năm 2000 đã đạt 619 triệu USD tăng 5% so với năm trước nhưng năm 2001 giảm 0,5% còn 616 triệu USD và năm 2002 là 419 triệu USD, giảm 20%. Tuy nhiên, cũng như ở các thị trường khác, hàng may Việt Nam cũng chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ bé trong tổng nhập khẩu của thị trường này: năm 2001 tỷ trọng hàng dệt may Việt Nam là 3,18%. Trong 10 năm trở lại đây ngành dệt may đã chứng tỏ là một ngành công nghiệp mũi nhọn trong nền kinh tế, có những bước tiến vượt bậc trong lĩnh vực xuất khẩu. Từ năm 1991 đến nay, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may nước ta không ngừng tăng. Năm 1991, tổng giá trị xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam chỉ đạt 158 triệu USD, đến năm 1998 đã gấp 9,18 lần, đạt 1450 triệu USD, tương đương với tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 43,5% tức khoảng 160 triệu USD/năm. Năm 2001 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt 2 tỷ USD gấp 16,9 lần so với năm 1990 và chiếm tỷ trọng 13,25% trong cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may năm 2003 đạt 3,6 tỷ USD, tăng thêm 30% so với năm 2002 là một thắng lợi lớn của ngành dệt may. Nó không chỉ góp phần đưa kim ngạch xuất khẩu nói nhung của cả nước tăng 20% mà còn tạo cơ sở vững chắc cho sự tăng trưởng xuất khẩu trong những năm sau. Hàng dệt may Việt Nam hiện đang xuất khẩu vào hai khu vực thị trường : thị trường có hạn ngạch và thị trường phi hạn ngạch.Trong các thị trường xuất khẩu đó thì ba thị trường quan trọng nhất là: thị trường Mỹ ,thị trường Eu và thị trường Nhật Bản với tình hình xuất khẩu như sau: 1. Tốc độ xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ Xuất khẩu hàng Việt Nam vào Mỹ tăng đáng kể. Mặc dù chính phủ Mỹ liên tục các chính sách thương mại đối với Việt Nam như ban hành quy chế quan hệ thương mại bình thường áp dụng Quata, nhập khẩu đối với một số loại sản phẩm nhưng Việt Nam vẫn luôn tuân thủ những cam kết khi gia nhập WTO. Thực tế xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Mỹ vẫn tăng đều và thị phần hàng dệt may cũng tăng dần qua các năm. Tuy nhiên sản phẩm hàng dệt may Việt Nam vào Mỹ vẫn còn nhiều nan dải và thách thức lớn. Thị trường Mỹ chiếm tỷ trọng khoảng 55% và Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam có tốc độ tăng trưởng đều hàng năm. Tuy nhiên tình hình tài chính và kinh tế Mỹ đang suy thoái, sức mua của người dân giảm trong đó tiêu dùng với hàng dệt may giảm đáng kể. Từ tháng 2 năm 2009 hàng dệt may vào Mỹ khó khăn hơn, lý do là uỷ ban ATSP tiêu dùng Hoa Kỳ đã công bố với các doanh nghiệp dệt may tại TP. Hồ Chí Minh về những quy định mới về xuất khẩu dệt may vào Mỹ. Quốc hội Mỹ cũng vừa thông qua luật mới về an toàn sản phẩm nhập khẩu vào Mỹ từ 14/08/2008 . Ngoài ra, để gia tăng sản phẩm dệt may và xuất khẩu sang Mỹ các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần phải chủ động tìm kiếm các nguồn nguyên liệu trong nước để góp phần làm giảm tỷ lệ gia công cho nghành dệt may.Nếu làm tốt công tác thương hiệu va đánh giá tỷ lệ gia công chắc chắn trong thời gian tới XK hàng dệt may sang Mỹ có nhiều bước đột phá. 2 .Tình hình xuất khẩu sang thị trường EU EU là thị trường có hạn ngạch quan trọng và tiêu biểu nhất. Là một thị trường đông dân khoảng 380 triệu người với sức tiêu dùng vải cao(17 kg/người) . Trước năm 1990, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may giữa Việt Nam - EU hết sức nhỏ bé, do quan hệ hai bên chưa được bình thường hoá. Kể từ khi Hiệp định buôn bán hàng dệt may ký ngày 15/12/1992và có hiệu lực ngày1/1/1993, trải qua bốn lần sửa đổi, bổ sung. Năm 1992, Việt Nam xuất khẩu sang EU khoảng gần 200 triệu USD nhưng đến năm 2002, sau 10 năm Việt Nam đã xuất khẩu sang EU khoảng 550 triệu USD hàng dệt may hàng năm. Trong lần đàm phán mới nhất từ 12-15 /2/2003, EU đã dành cho Việt Nam mức tăng trưởng đột phá.Tất cả các cat nóng, EUđều tăng cho Việt Nam từ 50-70%. Đến năm 2003,hy vọng các doanh nghiệp Việt Nam có thể xuất khẩu sang EU khoảng 550 triệu USD. Về chủng loại hàng xuất khẩu sang EU, hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ tập trung vào sản xuất một số sản phẩm, các mã hàng nóng như: áo Jacket, áo sơ mi, quần Âu, áo len , áo dệt kim, quần áo.T.Shirt và Polo Shirt, quần dệt kim, bộ quần áo bảo hộ lao động, áo khoác nam và áo sơ mi nữ … 3. Tình hình xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản Nhật Bản là thị trường không hạn ngạch lớn nhất, đứng thứ 3 trong các nước nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Với số dân trên 127 triệu dân, là một thị trường rất tiềm năng. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Nhật Bản tăng hàng năm, đến năm 2000 đạt cao nhất là 620 triệu USD và thị phần đạt khoảng 29%. Sau đó đến năm 2001 lại giảm 5% so với năm 2000 còn 592 triệu USD, năm 2002 lại giảm 20% so với năm 2001 đạt 419 triệu USD. Năm 2003 Việt Nam xuất khẩu sang Nhật khoảng 480 triệu USD trong tổng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm dệt may ( 3,7 tỷ USD) . Các sản phẩm của Việt Nam xuất khẩu vào Nhật Bản chủ yếu là hàng may mặc như: áo Jacket, quần áo thể thao, quần âu, sơ mi nữ, sơ mi nam, quần áo lót cho nam, nữ, quần áo dệt kim của nam nữ. Còn các mặt hàng khác xuất khẩu sang Nhật Bản vẫn còn hạn chế Bảng1: kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trong những năm qua Đơn vị: triệu USD Năm Năm Tổng knxk Knxk sang Nhật Bản Knxk sang EU Knxk sang Mỹ Knxk sang thị trường khác 1996 1.150 248 225 9,1 668 1997 1.349 325 410 12 612 1998 1.351 1.351 321 521 26,34 483 1999 1.747 417 605 34 690,9 2000 1.892 620 599 49,57 725,5 2001 1.962 588 617 44,6 710 2002 2.710 419 540 975 775 2003 3.602 480 550 1.731 840 Nguồn: Bộ thương mại và tổng công ty VINATEX Cơ cấu hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam được biểu hiện qua biểu đồ. Đơn vị : Triệu USD III - Ma trận SWOT và khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam Trong quá trình hội nhập thị trường khu vực và thế giới. Ngành dệt may Việt Nam đang có nhiều cơ hội, song cũng đứng trước những thách thức lớn. Phân tích SWOT( Strengths- Điểm mạnh, Weaknesses- Điểm yếu, Opportunities- Cơ hội và Threals- Nguy cơ, thách thức) đối với ngành dệt may Việt Nam có thể nêu ra một số nét chủ yếu trong những năm trước mắt(xem bảng 3) Trên cấp độ ngành thì khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam chủ yếu được tạo ra bởi nguồn nhân lực với đội ngũ nhân công có tay nghề khéo léo, cộng với chi phí tiền lương thấp. Bảng2: so sánh giá nhân công ở một số nước Châu á. Tên nước Chi phí nhân công (USD/ tháng) Việt Nam 40 Trung Quốc 45 Indonesia 83 Thái Lan 100 Malaixia 120 Singapore 415 Hồng Kông 612 Hàn Quốc 767 Đài Loan 772 Nguồn : Báo cáo của Tổng công ty dệt may Việt Nam. Hiện nay, giá nhân công rẻ vẫn là lợi thế trong cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam nên vẫn hấp dẫn các đơn đặt hàng gia công từ các nước: EU,Mỹ, Nhật Bản và một số nước khác. Một thuận lợi cho hàng xuất khẩu nói chung và cho việc xuất khẩu hàng may nói riêng là đồng tiền Việt Nam có xu hướng yếu đi trên các thị trường, điều này tạo điều kiện cho việc cạnh tranh về giá. ở cấp độ doanh nghiệp và sản phẩm thì khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam là rất thấp, do các doanh nghiệp chưa quan tâm đến việc xây dựng và phát triển thương hiệu và mẫu mã sản phẩm, chưa chú trọng đến khâu thiết kế và kiểu dáng sản phẩm. Cũng cần phải nhấn mạnh rằng một số điểm mạnh của ngành dệt may Việt Nam cũng như về cơ hội mà chúng ta có thể tận dụng được hiện nay là chỉ mang tính tạm thời. Trong tương lai có thể không còn hoặc biến thành các nguy cơ. Việc Trung Quốc, Đài Loan đã ra nhập WTO và thương mại dệt may đang tiến gần đến thời điểm 1/1/2005, cột mốc quan trọng đánh dấu sự chấm dứt chế độ hạn ngạch kéo dài suốt 30 năm kể từ năm 1974 với Hiệp định hàng đa sợi (MFA ) và sự bắt đầu thời kỳ mới- thời kỳ tự do hoá thương mại dệt may. Cuộc cạnh tranh trong lĩnh vực này sau năm 2004 sẽ vô cùng khốc liệt và khi hạn ngạch bị rỡ bỏ thì hàng may Việt Nam sẽ khó cạnh tranh được với sản phẩm của các nước khác. Một thuận lợi hiện nay của ngành dệt may Việt Nam mà trong tương lai có thể trở thành một nguy cơ là giá nhân công thấp bởi khi ra nhập WTO, các doanh nghiệp phải trả công cho người lao động theo những chuẩn mực chung. Khi đó nếu các doanh nghiệp dệt may vẫn tiếp tục trả công thấp thì các nước sẽ không chấp nhận sản phẩm của họ. Còn nếu tăng tiền công thì lượng đơn hàng gia công có thể sẽ giảm đi đáng kể. Trong tương lai, ngành may mặc nói chung và từng doanh nghiệp dệt may nói riêng cần có chiến lược mặt hàng mũi nhọn trên cơ sở bí quyết công nghệ đặc thù, tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất nhằm tăng khả năng cạnh tranh cho sản phẩm dệt may Việt Nam. Bảng 3:Ma trận SWOT Strengths- Điểm mạnh Có nguồn nhân công dồi dào và có trình độ Lương giờ bình quân thấp Chi phí sản xuất/1 phút thấp hơn nhiều nước trong khu vực Yêu cầu đầu tư tối thiểu đối với chủ doanh nghiệp Phương tiện gửi hàng và vận chuyển quốc tế thuận lợi và có chi phí thấp Miễn thuế nhập khẩu đối với vật tư dùng cho sản xuất hàng xuất khẩu Hầu hết các doanh nghiệp được trang bị tốt và có đội ngũ công nhân được đào tạo tốt Đội ngũ quản lý có kỹ năng kinh doanh và đang chuyển sang hình thức tiếp cận trực tiếp với khách hàng. Weaknesses- Điểm yếu. Chưa chủ động tạo được nguồn nguyên phụ liệu trong nước phù hợp yêu cầu sản xuất hàng xuất khẩu Sự liên kết với khách hàng kém phát triển: quá phụ thuộc vào các đối tác nước ngoài, ít mối liên hệ với khách hàng cuối cùng Khả năng tiếp thị hạn chế, đặc biệt trong việc đột phá thị trương mới Hầu như chưa có thương hiệu riêng và chủng loại sản phẩm còn hạn chế Việc đào tạo còn hạn chế, đặc biệt đối với các nhà quản lý chuyên ngành Opportunities- Cơ hội Tỷ giá hối đoái thực tế của VND trên một số thị trường đang yếu đi làm tăng khả năng xuất khẩu hàng vào các thị trường đó. Xu hướng chuyển dịch hàng dệt may sang các nước đang phát triển. Xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá, tiến trình hội nhập kinh tế, tự do hoá thương mại trong đó có thương mại dệt may theo ATC/WTO. Việt Nam tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN(AFTA). Trong tương lai gần, Việt Nam sẽ gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Các số liệu xuất khẩu quá khứ cho thấy các thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam là EU,Nhật Bản. Thị trường Mỹ đang có nhu cầu lớn về hàng dệt may Việt Nam Các thị trường mới, trong đó có Nga và các nước SNG là những thị trường tiềm năng lớn đối với hàng dệt may Việt Nam. Threats- Nguy cơ, thách thức. Tính khốc liệt trong cạnh tranh ở tất cả các thị trường đang tăng AFTA sẽ giảm các hàng rào thương mại ở châu á và khuyến khích cạnh tranh khu vực; nhân công một số nước trong khu vực rẻ hơn như Inđônesia, Bangladesh… Chi phí cho các dịch vụ thuộc kết cấu hạ tầng cao: cước phí điện thoại, dịch vụ viễn thông, giá điện, nước,… Cạnh tranh khốc liệt từ phía Trung Quốc do ở đó công nghiệp dệt và phụ liệu đã phát triển và có nguồn nhân công rẻ hơn, năng suất lao động cao hơn. Hiệp định dệt may Việt Nam- Hoa Kỳ quy định việc khống chế hạn ngạch nhập hàng dệt may từ Việt Nam vào Mỹ Trung Quốc ra nhập tổ chức thương mại thế giới – WTO. IV Khó khăn và thách thức đối với hàng dệt may Việt nam đang gặp phải 1 .Khó khăn Khả năng cạnh tranh của hàng may mặc nước ta hiện nay còn yếu so với các nước trong khu vực và thế giới. Năm 1997, Canada xoá bỏ hạn ngạch, mặt hàng áo sơ mi của Việt Nam đã không đủ khả năng cạnh tranh và phải rút khỏi thị trường Canada. Đầu năm 2002, EU xoá bỏ hạn ngạch áo Jacket, mặc dù là mặt hàng truyền thống của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam, nhưng kim ngạch xuất khẩu áo Jacket vào EU năm 2002 giảm xuống đáng kể, chỉ còn 2/3 và đến năm 2003 chỉ còn 1/2 so với năm 2002. Mặc dù đây là hai mặt hàng có lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam, nhưng khả năng cạnh tranh còn rất hạn chế. Sự hạn chế của các mặt hàng dệt may xuất khẩu thể hiện trên các mặt sau: 1.1.Về chất lượng sản phẩm Các sản phẩm may mặc Việt Nam được đánh giá chung là có chất lượng chưa cao, không đồng đều, đến hơn 60% tổng kim ngạch xuất khẩu là làm gia công cho nước ngoài, có nghĩa là làm theo mẫu mã và thêo yêu cầu chất lượng của bên nước ngoài. Còn trong số xuất khẩu trực tiếp thì hầu hết là đáp ứng cho phân đoạn thị trường có nhu cầu “bình dân” yêu cầu về chất lượng thấp, giá rẻ, chỉ có một số ít sản phẩm đủ tiêu chuẩn đáp ứng cho những phân đoạn thị trường có nhu cầu chất lượng cao. Nếu đánh giá theo chỉ số trình độ chất lượng thì hàng may mặc xuất khẩu nước ta có chất lượng còn thấp so với các nước trong khu vực và thế giới. 1.2.Về giá Tính tỷ lệ giá/chất lượng hàng may Việt Nam có tỷ lệ cao, do đó khả năng cạnh tranh về giá cho hàng may mặc xuất khẩu còn nhiều hạn chế.Việc nâng cao chất lượng và giảm giá thành sản phẩm là nhiệm vụ cấp bách của các doanh nghiệp may xuất khẩu nước ta trong thời gian tới. 1.3.Về cơ cấu mặt hàng và khả năng đổi mới mặt hàng: Cơ cấu mặt hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu còn “hẹp”, chủ yếu tập trung vào những mặt hàng được cấp hạn ngạch như: áo sơ mi, áo Jacket và tập trung vào một số thị trường chính như: Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản. Khả năng đổi mới mặt hàng và tạo ra các mặt hàng mới còn chậm, nên khả năng cạnh tranh để mở rộng thị trường còn nhiều hạn chế. Vào đầu năm 2005, khi hàng dệt may xoá bỏ hạn ngạch, các mặt hàng truyền thống của Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn, phải cạnh tranh không cân sức với các mặt hàng của Trung Quốc, ấn Độ, Pakistan, … vốn đã có lợi thế cạnh tranh trên thị trường Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản và khi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu còn “hẹp” nếu bị “ tổn thương” sẽ ảnh hưởng rất lớn đến kim ngạch xuất khẩu của ngành may mặc nước ta. 2. Thách thức Thứ nhất, trong những năm qua, một khoảng thời gian dài, các doanh ngiệp Việt Nam được hưởng chế độ ưu đãi của hàng dệt may, cho nên đã phần nào không kích thích được các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh, đổi mới, mở rộng mặt hàng mà có xu hướng tập trung vào sản xuất những mặt hàng có hạn ngạch. Thứ hai, hầu hết các doanh nghiệp may mặc Việt Nam, kể cả các doanh nghiệp có quy mô lớn, có cơ sở vật chất kỹ thuật, nhà xưởng thiết bị và công nghệ sản xuất còn nghèo nàn, lạc hậu, thiếu các thiết bị có tính chuyên dùng, chưa đáp ứng yêu cầu mới, năng suất lao động thấp, đặc biệt các doanh nghiệp có qui mô nhỏ thường làm gia công thì thiết bị rất lạc hậu so với các nước trong khu vực và thế giới, làm ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng. Do đó làm sản phẩm may mặc nước ta có chất lượng thấp, không ổn định, chi phí cao, kém khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Thứ ba, khả năng cung cấp thiết bị, nguyên vật liệu đầu vào cho ngành may mặc nước ta phụ thuộc vào nhập khẩu. Hầu hết các thiết bị, nguyên phụ liệu đầu vào cung cấp cho ngành may phải nhập khẩu, tỉ lệ nội địa hoá thấp, giá nhập khẩu và chi phí nhập khẩu cao sẽ bất lợi cho sản xuất kinh doanh. Thứ tư, nguồn nhân lực của ngành may mặc nước ta còn thiếu và yếu. Thiếu những nhà thiết kế mẫu có tính chuyên nghiệp và trình độ cao, cho nên khả năng tạo ra những kiểu mốt phù hợp với nhu cầu thị trường và khả năng đổi mới mặt hàng, tạo ra những mặt hàng mới còn nhiều hạn chế. Theo đánh giá của các chuyên gia nước ngoài, khả năng sử dụng thiết bị của công nhân may Việt Nam chỉ đạt hiệu suất 70%, trong khi đó ở các nước khu vực là trên 90%. Năng suất lao động của công nhân thấp, ảnh hưởng đến chất lượng, chi phí và thời gian giao hàng của hàng may mặc xuất khẩu nước ta. Ngoài ra, vấn đề quản lý sản xuất, kinh doanh, khả năng nghiên cứu , tiếp cận , mở rộng thị trường của các doanh nghiệp may xuất khẩu nước ta cũng còn nhiều bất cập, còn phải xuất khẩu thông qua các trung gian là các công ty của Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông… Phần III Giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường quốc tế 3.1 - Giải pháp từ phía doanh nghiệp Thứ nhất, các doanh nghiệp nên đầu tư xây dựng thiết bị nhà xưởng hiện đại, trang bị những thiết bị may hiện đại theo hướng tiếp cận với công nghệ cao trong thiết kế mẫu, trong sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng suất lao động và hạ giá thành. Thứ hai, ngành dệt nên đầu tư trọng điểm để có những dây chuyền thiết bị với công nghệ sản xuất hiện đại, tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh, có chất lượng tốt, giá thành hạ, đủ khả năng cạnh tranh cung cấp cho ngành may mặc và phấn đấu đến năm 2010 có thể cung cấp 60-70% nguyên phụ liệu cho ngành may xuất khẩu, tạo điều kiện cho ngành may chủ động được nguyên phụ liệu. Trong khi còn phải nhập khẩu nguyên liệu, để chủ động cần thành lập các kho ngoại quan để các nhà cung cấp nguyên liệu nước ngoài dự trữ hàng có thể cung cấp kịp thời cho các doanh nghiệp khi ký kết được hợp đồng xuất khẩu có thể nhập ngay được nguyên liệu phục vụ sản xuất, đảm bảo được tiến độ giao hàng. Thứ ba, các doanh nghiệp may phải vừa duy trì hoạt động gia công quốc tế, vừa phải đẩy mạnh xuất khẩu trực tiếp. Hoạt động gia công chủ yếu ở các doanh nghiệp có qui mô nhỏ ở các tỉnh, các doanh nghiệp có qui mô lớn ở TP.HCM và Hà Nội mà trước mắt là các công ty thuộc Tổng công ty dệt may Việt Nam cần phải đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu trực tiếp, thực hiện đa dạng hoá sản phẩm và đa dạng hoá thị trường, có chính sách để phát triển sản phẩm mới, thị trường mới. Thứ tư, các doanh nghiệp trước khi nhận công nhân, cán bộ quản lý, kĩ sư thực hành, nhà thiết kế thời tranh, thiết kế mẫu mã…Cần phải có biện pháp kiểm tra trình độ tay nghề, kĩ thuật, trình độ quản lý, thiết kế mẫu mã. Đồng thời tăng cường đào tạo, bồi dưỡng các nhà thiết kế mẫu theo hướng mở các lớp tập huấn, mời các chuyên gia trong và ngoài nước và gửi đi đào tạo ở nước ngoài để có các nhà thiết kế chuyên nghiệp, có trình độ nắm bắt kịp thời với xu thế lớn trong ngành thời trang. Đặc biệt là mẫu mã, mốt thời trang quốc tế. Thứ năm, các doanh nghiệp dệt may phải tự mình nâng cao tính cạnh tranh về thương hiệu sản phẩm, nâng cao uy tín nhãn hiệu sản phẩm để đưa dần sản phẩm dệt may lên đẳng cấp._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6017.doc
Tài liệu liên quan