Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam

Mở Đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Từ cuối năm 2006, Việt Nam đã trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO). Điều này đã mở ra cho nước ta những cơ hội lớn để phát triển song cũng đặt nước ta trước những thách thức và khó khăn không nhỏ. Trong những cam kết đa phương và song phương với các nước trên thế giới để gia nhập WTO, Việt Nam đã cam kết mở cửa thị trường dịch vụ bảo hiểm. Điều đó đã đặt các doanh nghiệp dịch vụ bảo hiểm vào quá trình cạnh tranh gay gắt không chỉ giữa c

doc101 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1865 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ác doanh nghiệp trong nước mà còn với các doanh nghiệp nước ngoài. Khi thực hiện chính sách mở cửa, tăng cường hội nhập quốc tế, thị trường dịch vụ bảo hiểm Việt Nam đã phát triển vượt bậc cả về số lượng và chất lượng, đánh dấu một bước chuyển căn bản từ một thị trường độc quyền nhà nước sang một thị trường cạnh tranh với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế hoạt động trong tất cả các lĩnh vực bảo hiểm Tuy nhiên, việc mở cửa lĩnh vực bảo hiểm cũng đặt ra những đòi hỏi mới đối với các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam. Đây chính là lý do tại sao các doanh nghiệp trong nước dù vẫn đang giành thế áp đảo về doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ (93%) và duy trì vị trí đứng đầu về doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ nhưng các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam, trong đó các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ vẫn đang đứng trước những thách thức không nhỏ về khả năng bị thu hẹp thị phần và mất đi thế cạnh tranh trên sân nhà. Xuất phát từ thực tế trên, việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam để tồn tại và tăng trưởng, góp phần củng cố phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam là đòi hỏi bức xúc trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam” là sự cần thiết cả về lý luận và thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu ở nước ta những năm gần đây đã có một số công trình nghiên cứu, bài viết khoa học xung quanh vấn đề này với nhiều cách tiếp cận khác nhau, tiêu biểu như: - GS.TS Chu Văn Cấp (chủ biên): Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003. - Lê Hữu Thành: Sức cạnh tranh của doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta hiện nay trong hội nhập kinh tế quốc tế, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2004. - Nguyễn Đức Hải: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2005. - Đỗ Tất Cường: Dịch vụ bảo hiểm ở nước ta hiện nay trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2005. - Trần Trọng Phúc: Một số chính sách từ phía nhà nước nhằm đẩy mạnh hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, Tạp chí Tài chính, số 10/2005, tr.26-28 - Xuân Long: Thị trường bảo hiểm nhân thọ, cạnh tranh gay gắt giữa các công ty, Tạp chí Thị trường giá cả, số 12/ 2002, tr.10-11. - GS.TS Phí Trọng Thảo: Tổng quan thị trường bảo hiểm Việt Nam năm 2002 và dự báo năm 2003, Tạp chí Tài chính, số 1, 2/2003, tr.82-85. - Lê Song Lai: Thị trường bảo hiểm Việt Nam 6 tháng đầu năm 2005- bức tranh sáng màu, Tạp chí Tài chính, số7/2005. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đề cập và nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ thống và chuyên sâu về năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam dưới góc độ kinh tế chính trị. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích nghiên cứu Luận văn tập trung làm rõ thực trạng, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ. Trên cơ sở đó, đề xuất phương hướng các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam. * Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh và các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung và của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nói riêng - Làm rõ tính tất yếu khách quan phải nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam. - Phân tích, đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam trong thời gian qua. - Đề xuất phương hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam. - Phạm vi nghiên cứu: Chủ yếu từ năm 2003 đến nay. 5. Cơ sở lý luận - Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về cạnh tranh và dịch vụ bảo hiểm, các lý thuyết kinh tế học hiện đại về cạnh tranh, và những quan điểm đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước ta về tăng trưởng kinh tế và nâng cao sức cạnh tranh và kinh doanh dịch vụ bảo hiểm. - Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp biện chứng duy vật và duy vật lịch sử; phương pháp trìu tượng hoá khoa học, kết hợp với các phương pháp cụ thể như: Phân tích, tổng hợp, thống kê, nghiên cứu tổng kết thực tiễn và kế thừa có chọn lọc những thành quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn trước đây liên quan đến đề tài. 6. Những đóng góp khoa học của luận văn - Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về cạnh tranh trong lĩnh vực bảo hiểm, khẳng định sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam. - Đánh giá được thực trạng hoạt động kinh doanh, tình hình thị trường dịch vụ bảo hiểm, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam trong thời gian qua. Làm rõ những kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế đó trong quá trình nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam. Đề xuất phương hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 9 tiết. Chương 1 Cạnh tranh và Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam 1.1. Cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 1.1.1. Khái niệm cạnh tranh Lý luận về cạnh tranh từ lâu đã có rất nhiều các học giả quan tâm nghiên cứu. Cạnh tranh xuất hiện trong quá trình hình thành, phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá (kinh tế hàng hoá, cao hơn là kinh tế thị trường). Nó phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể của nền kinh tế thị trường cùng theo đuổi mục đích lợi nhuận tối đa. Mặc dù "cạnh tranh" không phải là một khái niệm mới nhưng để có được một định nghĩa thống nhất thì rất khó. ở mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau, quan niệm và nhận thức về vấn đề cạnh tranh, phạm vi và các cấp độ áp dụng nó cũng khác nhau. C. Mác khi nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản đã đề cập đến cạnh tranh và vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Theo C. Mác: "Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản để giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch" [22, tr.27]. Trong ngôn ngữ học, khái niệm cạnh tranh được hiểu là "cố gắng giành phần thắng về mình giữa những người, những tổ chức hoạt động nhằm những lợi ích như nhau". Theo Đại từ điển tiếng Việt thì cạnh tranh là sự "tranh đua giữa những cá nhân, tập thể có chức năng như nhau, giành phần hơn, phần thắng về mình". Theo từ điển thuật ngữ kinh tế học " Cạnh tranh là sự đấu tranh đối lập giữa các cá nhân, tập đoàn hay quốc gia. Cạnh tranh nảy sinh khi hai bên hay nhiều bên cố gắng giành lấy thứ mà không phải ai cũng có thể giành được". Như vậy nếu hình dung toàn bộ nền kinh tế như một trường đua trong thể thao, ai tham gia vào đó cũng đều mong muốn đạt giải bằng sự cố gắng hết mình, thì cạnh tranh là động lực cho sự phát triển của nền kinh tế - xã hội, nó làm cho mỗi thành viên trong xã hội đều phải luôn tự hoàn thiện mình để đạt được kết quả cao nhất có thể. Từ thực tế đã cho thấy, có rất nhiều quan niệm, định nghĩa khác nhau về cạnh tranh. Tuy nhiên, xét theo quan điểm tổng hợp thì có thể hiểu khái niệm cạnh tranh như sau: Cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm mọi biện pháp (cả nghệ thuật kinh doanh lẫn thủ đoạn) để đạt mục tiêu kinh tế của mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hoá lợi ích. Đối với người sản xuất kinh doanh là lợi nhuận, đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi [3, tr.9]. Như vậy trên bình diện toàn bộ nền kinh tế, cạnh tranh có vai trò là động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế, góp phần phân bổ nguồn lực hiệu quả thông qua việc kích thích các DN sử dụng các nguồn lực tối ưu nhất cũng như hạn chế được các méo mó của thị trường, góp phần phân phối lại thu nhập một cách hiệu quả và nâng cao phúc lợi xã hội. Trên bình diện doanh nghiệp, bằng sự hấp dẫn của lợi nhuận cũng như áp lực phá sản nếu dừng lại, cạnh tranh buộc các DN phải luôn cải tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ, phương pháp sản xuất, năng lực quản lý nhằm nâng cao chất lượng, đa dạng hóa mẫu mã sản phẩm, qua đó nâng cao tính cạnh tranh của chính các DN. Trong cạnh tranh các DN yếu kém bị đào thải, DN làm ăn có hiệu quả sẽ tiếp tục tồn tại và phát triển. Đây là kết quả tất yêu của quy luật cạnh tranh. Trên bình diện người tiêu dùng, cạnh tranh tạo ra sự lựa chọn rộng rãi hơn, bảo đảm cho cả người sản xuất lẫn người tiêu dùng không thể áp đặt giá cả tuỳ tiện. Với khía cạnh đó, cạnh tranh là yếu tố điều tiết nền kinh tế thị trường và quan hệ cung cầu, góp phần hạn chế méo mó giá cả và lành mạnh hoá các quan hệ xã hội. Trên bình diện quốc tế, chính cạnh tranh đã thúc ép các DN mở rộng tìm kiếm thị trường với mục đích tiêu thụ, đầu tư huy động nguồn vốn, lao động, công nghệ, kỹ năng lao động, quản lý trên thị trường quốc tế. Thông qua cạnh tranh quốc tế các DN thấy được lợi thế so sánh cũng như các điểm yếu kém của mình để hoàn thiện, xây dựng các chiến lược kinh doanh, cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Cạnh tranh cũng như các quy luật, hiện tượng kinh tế khác, chỉ xuất hiện tồn tại và phát triển khi có điều kiện như nhu cầu cạnh tranh, môi trường cạnh tranh và vận hành tốt khi có môi trường cạnh tranh hiệu quả. Ngày nay hầu hết các nước trên thế giới đều thừa nhận sự tồn tại tất yếu khách quan của cạnh tranh và coi cạnh tranh vừa là môi trường, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Cạnh tranh lành mạnh được các nước ủng hộ và khuyến khích phát triển bằng cách pháp lý hoá chúng trong các đạo luật về chống độc quyền và bảo vệ cạnh tranh. 1.1.2. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Về mặt ngôn ngữ học, năng lực được hiểu là "khả năng đảm nhận công việc và hoàn thành với kết quả tốt". Vậy năng lực chính là khả năng hay tiềm năng của một chủ thể (là cá nhân, hay đơn vị) có thể đáp ứng được một nhu cầu nào đó của cuộc sống và thực hiện một công việc nào đó hiệu quả. Năng lực cạnh tranh ( Sức cạnh tranh hay khả năng cạnh tranh) được xét dưới ba cấp độ: Năng lực cạnh tranh quốc gia. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ. Năng lực cạnh tranh của DN. Trong đó: Năng lực cạnh tranh quốc gia: được định nghĩa là năng lực của một nền kinh tế đạt được và duy trì được mức tăng trưởng cao, thu hút được đầu tư, bảo đảm ổn định kinh tế-xã hội, nâng cao đời sống của người dân. Năng lực canh tranh của sản phẩm, dịch vụ: được đo bằng thị phần của sản phẩm hay dịch vụ cụ thể trên thị trường. Còn Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp: Theo định nghĩa CIEM và UNDP thì "Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đo bằng khả năng duy trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh trong nước và ngoài nước" [46, tr.14]. Như vậy, Năng lực cạnh tranh của DN có thể hiểu là khả năng cạnh tranh bù đắp chi phí, duy trì lợi nhuận và được đo bằng thị phần của sản phẩm và dịch vụ trên thị trường trong môi trường cạnh tranh trong nước và quốc tế. Cơ sở của năng lực cạnh tranh thường được xem xét dựa trên tỷ suất lợi nhuận của DN. Một DN có năng lực cạnh tranh khi có tỷ suất lợi nhuận cao hơn mức trung bình của ngành hay đối thủ cạnh tranh. Để tăng tỷ suất lợi nhuận hoặc để tỷ suất lợi nhuận cao hơn mức trung bình của ngành hoặc đối thủ cạnh tranh thì phải có một trong các điều kiện sau: - Giá bán sản phẩm của DN trên thị trường phải cao hơn đối thủ cạnh tranh nhưng chi phí tương đương với mức trung bình của ngành. - Chi phí cho một đơn vị sản phẩm thấp hơn mức của đối thủ cạnh tranh mà giá lại tương đương với mức trung bình của ngành. - Chi phí của một đơn vị sản phẩm thấp hơn và giá đơn vị sản phẩm cao hơn mức bình quân của ngành. Như vậy để đạt được lợi thế cạnh tranh, DN phải có chi phí đơn vị sản phẩm thấp hơn các đối thủ cạnh tranh, hoặc phải làm cho sản phẩm của mình khác biệt với sản phẩm của đối thủ, hoặc phải thực hiện cả hai. Có bốn yếu tố cơ bản tạo nên năng lực cạnh tranh của DN, biểu thị cách thức cơ bản để giảm chi phí và tạo sự khác biệt hoá sản phẩm mà bất kỳ một DN nào ở một ngành nào cũng có thể áp dụng, cụ thể: Yếu tố thứ nhất là hiệu quả: Hiệu quả thường được đo bằng số yếu tố đầu vào cần thiết (chi phí) để tao ra một đơn vị đầu ra (sản phẩm, doanh thu, lợi nhuận). DN càng nâng cao được hiệu quả thì chi phí đầu vào để tạo ra một đơn vị đầu ra càng thấp và như vậy thì DN sẽ có năng lực cạnh tranh cao dựa trên chi phí. Yếu tố thứ hai là chất lượng: Chất lượng sản phẩm là những đặc tính của sản phẩm được thể hiện trong quá trình hình thành và sử dụng sản phẩm đó. Chất lượng gắn với khả năng thoả mãn những nhu cầu đã định cho sản phẩm. Theo ISO 9000 "Chất lượng là tập hợp các đặc tính của một thực thể tạo cho thực thể đó khả năng thoả mãn những nhu cầu đã được công bố hoặc còn tiềm ẩn". Người cung cấp phải tối ưu hoá chất lượng sản phẩm, không được để "thấp" hơn nhu cầu nhưng cũng không nên thừa hay "cao" quá mức cần thiết để khỏi ảnh hưởng đến giá cả. Sản phẩm có chất lượng cao giúp DN tăng uy tín, từ đó có thể tăng giá bán. Yếu tố thứ ba là đổi mới: Đổi mới bao gồm sự hoàn thiện về sản phẩm, công nghệ, hệ thống quản lý, cơ cấu tổ chức... của DN. Trong đó đổi mới công nghệ được coi là nguồn chính của năng lực cạnh tranh, nó giúp DN khác biệt hóa sản phẩm so với đối thủ cạnh tranh hoặc giảm chi phí sản xuất. Các DN vì thế thường sản xuất theo seri sản phẩm, không duy trì lâu hoặc với khối lượng lớn một sản phẩm nào đó. Điển hình như kiểu dáng ô-tô, ti-vi, radio, máy tính... Yếu tố thứ tư là nắm bắt kịp thời nhu cầu khách hàng: Để đáp ứng nhu cầu khách hàng, DN cần cung cấp các mặt hàng mà họ cần và đúng thời điểm họ muốn. Việc nâng cao hiệu quả, chất lượng và đổi mới suy cho cùng là nhằm mục tiêu đáp ứng các nhu cầu rất đa dạng của khách hàng. Giữa ba cấp độ năng lực cạnh tranh nói trên có mối quan hệ hữu cơ với nhau, tạo điều kiện cho nhau, chế định nhau và phụ thuộc lẫn nhau. Một nền kinh tế có năng lực cạnh tranh quốc gia cao thì đòi hỏi phải có nhiều DN có năng lực cạnh tranh. Và ngược lại các DN chỉ có thể cạnh tranh tốt trong nền kinh tế quốc gia thuận lợi, chính sách kinh tế vĩ mô rõ ràng, môi trường đầu tư ổn định và kết cấu hạ tầng đảm bảo... Mặt khác tính năng động nhạy bén trong quản lý DN cũng là một yếu tố quan trọng, bởi vì trong cùng một môi trường kinh doanh có DN thành công nhưng cũng có DN bị thất bại. Bên cạnh đó DN chỉ có sức cạnh tranh cao khi sản phẩm của mình có năng lực cạnh tranh cao so với đối thủ cạnh tranh và được xã hội chấp nhận. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ ngoài chất lượng nội tại còn phụ thuộc nhiều vào danh tiếng va uy tín của DN. Vì vậy nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ là cơ sở, điều kiện để nâng cao năng lực cạnh tranh của DN và của nền kinh tế đất nước. Hiện nay nước ta đang tiến sâu vào quá trình hội nhập thì yêu cầu nâng cao năng lực cạnh tranh trên cả ba cấp độ: quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm dịch vụ ngày càng trở nên bức bách. Trong đó tính chr động tịch cực, sáng tạo của các doanh nghiệp giữ vai trò quyết định. 1.2. Đặc điểm hoạt động kinh doanh và các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam 1.2.1. Khái niệm và phân loại nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ 1.2.1.1. Khái niệm BH được phân thành hai nhóm lớn là: BHNT và BHPNT. Trong đó: - BHNT là loại hình BH mà các sự kiện được BH đều liên quan đến cuộc sống và sinh mạng của con người, thường có tính chất dài hạn nhiều năm và gắn với tiết kiệm. - BHPNT bao gồm các loại hình BH còn lại, nó được sử dụng như một khái niệm tổng hợp mang ý nghĩa hàm chứa tất cả các nghiệp vụ BH thiệt hại (BH tài sản, BH trách nhiệm dân sự) và các nghiệp vụ BH con người không thuộc BHNT (như BH tai nạn, bệnh tật, ốm đau, BH trợ cấp nằm viện và phẫu thuật...). Mục đích chủ yếu của BHPNT là nhằm bồi thường cho người được BH những hậu quả của một biến cố ngẫu nhiên gây thiệt hại đến tài sản, lợi ích và con người của họ. Theo điều 3, chương 1, Luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam giải thích về thuật ngữ BHPNT như sau: " Bảo hiểm phi nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo hiểm tài sản, trách nhiệm dân sự và các nghiệp vụ bảo hiểm khác không thuộc BHNT". 1.2.1.2. Phân loại nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ Trên thị trường thế giới cũng như ở Việt Nam hiện nay có rất nhiều nghiệp vụ (sản phẩm BH) khác nhau. Tuỳ theo các tiêu thức phân chia khác nhau mà các nghiệp vụ BHPNT có thể phân chia thành các loại cơ bản sau: * Theo nhóm khách hàng: gồm có - Nhóm các sản phẩm dành cho cá nhân - Nhóm các sản phẩm dành cho các tổ chức Việc phân loại theo tiêu thức này giúp DN quản lý và thiết kế được các sản phẩm phù hợp, đáp ứng được nhu cầu riêng của các cá nhân cũng như phục vụ nhu cầu công việc của cac tổ chức. * Theo loại hình sản phẩm: bao gồm: - Nhóm sản phẩm BH riêng lẻ. - Nhóm sản phẩm BH trọn gói. Phân lọai theo tiêu thức này sẽ giúp DN dẽ dàng trong việc quản lý sản phẩm, đồng thời có kế hoạch kết hợp các sản phẩm riêng lẻ nhằm tạo ra các sản phẩm BH trọn gói. * Theo phương thức phân phối sản phẩm: bao gồm: - Nhóm sản phẩm phân phối qua kênh phân phối truyền thông. - Nhóm sản phẩm phân phối qua kênh "phản hồi trực tiếp". Việc phân loại theo tiêu thức này sẽ giúp DNBH quản lý được sản phẩm theo kênh phân phối và có chiến lược thiết kế các sản phẩm phù hợp để chào bán qua các kênh phân phối đó. * Theo đối tượng BH: Theo tiêu thức này, nghiệp vụ BH được chia thành ba nhóm: - BH tài sản (BHTS) - BH trách nhiện dân sự (BHTNDS). - BH con người phi nhân thọ (BHCN). + Bảo hiểm tài sản: Đây là loại hình BH mà đối tượng BH là tài sản (cố định hay lưu động) của người được BH. Ví dụ: BH cho thiệt hại vật chất xe cơ giới, BH hàng hoá của các chủ hàng trong BH hàng hoá xuất nhập khẩu, BH tài sản của chủ nhà trong BH trộm cắp. Giá trị BH là giá trị thực tế của tài sản tham gia BH, nó là căn cứ quan trọng để tính phí BH và giới hạn thanh toán tiền bồi thường BH. Nghĩa là số tiền bồi thường mà bên được BH nhận được trong mọi trường hợp đều không được vượt quá thiệt hại thực tế trong sự cố BH. Ví dụ: Một chủ xe máy tham gia BH cho toàn bộ xe của mình trị giá 20 triệu đồng. Trong một vụ tai nạn, chiếc xe bị hư hỏng với giá trị thiệt hại là 8 triệu đồng. Như vậy số tiền bồi thường mà chủ xe nhận được trong mọi trường hợp chỉ là 8 triệu đồng. + BH trách nhiệm dân sự: Theo Luật dân sư, trách nhiệm dân sụ của một chủ thể (như chủ tài sản, chủ doanh nghiệp...) được hiểu là trách nhiệm phải bồi thường các thiệt hại về con người, tài sản...gây ra cho người khác do lỗi của người chủ đó. Ví dụ: BH trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, chủ lao động; BH trách nhiệm sản phẩm; BH trách nhiệm công cộng... Khác với BH tài sản và BH con người, đối tượng được BH của loại hợp đồng này là một khái niệm trìu tượng khi hợp đồng được ký kết. Tuy nhiên trách nhiệm bồi thường của BH vẫn căn cứ vào các thiệ hại thực tế xảy ra cho người thứ ba. + BH con người phi nhân thọ: là loại hình BH có đối tượng được BH là tính mạng, tình trạng sức khoẻ hoặc các sự kiện liên quan và ảnh hưởng đến cuộc sống của con người. Nhưng khác với BH con người nhân thọ ở chỗ: BH con người phi nhân thọ là loại hình BH chỉ liên quan đến các rủi ro của con người như: tai nạn, bệnh tật, mất khả năng lao động và cả tử vong. Đặc điểm của loại này là không liên quan đến tuổi thọ của con người. Ví dụ: BH tai nạn 24/24, BH tai nạn hành khách, BH khách Du lịch... Khi thanh tóan tiền BH, "nguyên tắc khoán" được áp dụng chủ yếu khi thanh toán tiền BH. Tức là về nguyên tắc, số tiền chi trả BH sẽ dựa vào qui định chủ quan của hợp đồng và số tiền BH được thoả thuận khi ký kết hợp đồng chứ không dựa vào thiệt hại thực tế. Bởi vì tính mạng của con người là vô giá, không thể xác định được bằngmột khoản tiền nào đấy. Cho nên việc thanh toán tiền BH trong nghiệp vụ BH con người chỉ mang tính trợ giúp về tài chính khi không may gặp rủi ro. Tuy nhiên, có thể áp dụng kết hợp với nguyên tắc bồi thường khi thanh toán các chi phí y tế phát sinh nằm trong phạm vi được BH của các hợp đồng BH con người. 1.2.2. Đặc trưng của bảo hiểm phi nhân thọ 1.2.2.1. Mục đích bảo hiểm BH được biết đến trước hết như một phương pháp chuyển giao rủi ro hữu hiệu và mục đích của các nghiệp vụ BHPNT thể hiện rất rõ ý nghĩa của phương pháp đó. Lý do chính đáng cho việc giao kết các hợp đồng BHPNT là sự chuyển giao các tổn thất tài chính có thể xảy ra từ người mua BH cho công ty BH. Khi xảy ra tổn thất, công ty BHPNT thực hiện triệt để việc xác định giới hạn cũng như trách nhiệm bồi thường đã được quy định trong hợp đồng BH đã được giao kết với người được BH, do đó giúp bên được BH khắc phục hậu quả về mặt vật chất, tài chính. Một lý do mà vì nó không ít các hợp đồng BHPNT được ký kết cũng khá đặc biệt, đó là: + Nhằm tuân thủ các qui định của luật pháp về việc bắt buộc phải mua BH đối với các loại hình bảo hiểm như: đối với các cá nhân, tổ chức và công ty có tài sản nguy hiểm về cháy nổ bắt buộc phải mua BH Cháy, nổ; đối với Dự án xây dựng thì bắt buộc các nhà thầu hoặc chủ dự án phải mua BH Xây dựng lắp đặt. Ngoài ra còn có bảo hiểm Trách nhiệm dân sự cho người thứ 3 đối với những người sử dụng và vận hành xe mô tô, xe gắn máy, ô tô... + Trong các hoạt động kinh doanh XNK để phù hợp với các tập quán, thông lệ quốc tế thì việc bắt buộc phải có các hợp đồng bảo hiểm hàng hoá là không thể thiếu. Những quy định và tập quán trên không bao giờ áp dụng đối với BHNT. Vì thế, những lý do rất riêng trong mục đích BH có thể coi là đặc trưng thứ nhất của BHPNT. 1.2.2.2. Sự chênh lệch về “giá trị” giữa các dịch vụ bảo hiểm phi nhân thọ Trước sự đa dạng của đối tượng BH, rủi ro BH.., các DNBHPNT buộc phải tận dụng mọi khả năng có thể, khai thác triệt để mọi cơ hội để thực hiện luật số lớn nhằm giảm thiểu rủi ro mình. Vì vậy, cho dù có là đề nghị về một hợp đồng BH khiêm tốn với số tiền BH vài chục triệu VNĐ hay những hợp đồng BH lớn mà số tiền BH lên đến đôi ba trăm tỷ VNĐ. Cũng vì lẽ đó mà hình thức đồng BH và nhất là tái BH được sử dụng như là một trong những công cụ hữu hiệu trong việc khai thác các hợp đồng BH. Nếu như tái BHNT gặp không ít khó khăn từ việc phải đáp ứng những yêu cầu về môi trường đầu tư để có thể đảm bảo lãi suất đầu tư kỹ thuật thì trong BHPNT vấn đề hóc búa này không phải là vấn đề chính ảnh hưởng đến quyết định tiến hành nhận hay nhượng TBH hay không giữa công ty BH gốc và công ty nhận tái BH; mà chủ yếu phụ thuộc vào rủi ro được bảo hiểm và điều kiện, điều khoản được giao kết trong hợp đồng gốc. 1.2.2.3. Mức độ ràng buộc về các cam kết trong hợp đồng bảo hiểm Hợp đồng BH bao hàm các cam kết đã thoả thuận giữa bên mua BH và DNBH cho một thời hạn nhất định. Các trường hợp huỷ bỏ, ngừng thực hiện cam kết phải tuân theo pháp luật về chấm dứt hợp đồng BH. Thực tế, điều này đã được quy định rất rõ ràng trong "Luật kinh doanh bảo hiểm". Đối với bên mua cũng như bên bán BH, sự ràng buộc về cam kết phải được xác định rõ trong hợp đồng BH. Theo đó bên mua và bên bán BH có nghĩa vụ thực hiện các cam kết đã được quy định trong hợp đồng BH đến hết thời hạn BH, ngoại trừ vì lý do nào đó phải chấm dứt hợp đồng BH trước thời hạn theo qui định của pháp luật. Điều này rất khác với BHNT. Trong BHNT bên mua BH có quyền chấm dứt hợp đồng vào bất cứ thời điểm nào mà không cần phải viện dẫn lý do. Những hậu quả pháp lý mà các bên phải gánh chịu một khi chấm dứt hợp đồng trước thời điểm kết thúc thời hạn BH trong BHPNT rất đa dạng. Đáng chú ý là: nếu như trong BHNT, DNBH không được khởi kiện đòi bên mua BH đóng phí BH thì đối với BHPNT đó là điều được phép và cần phải làm trong một số trường hợp nhất định. 1.2.2.4. áp dụng kỹ thuật phân chia Thời hạn các hợp đồng BHPNT thường ngắn và có sự khác nhau rõ rệt giữa các nghiệp vụ BH. Chẳng hạn như: đối với BH xe cơ giới thời hạn BH thường là một năm, trong khi đó, có những hợp đồng BH hàng hoá vận chuyển chỉ kéo dài một vài tháng, thậm chí thời hạn BH của BH tai nạn hành khách có thể chỉ là vài ba giờ. Nhưng thông thường thời hạn BH của các hợp đồng BH thường là một năm. Điều đáng lưu ý là: trách nhiệm bồi thường (hoặc trả tiền BH) của DNBH vẫn có thể phát sinh sau thời điểm kết thúc thời hạn BH. Một số nghiệp vụ BH trách nhiệm dân sự vẫn được mệnh danh là loại “Long tail business” tức là trách nhiệm bồi thường có thể kéo dài đến cả chục năm sau đó. Trong khi đó, phí BH có thể thanh toán toàn bộ ngay khi giao kết hợp đồng BH hoặc vài ba kỳ thanh toán trong thời hạn BH. Vì thế, việc quản lý tài chính thu chi các nghiệp vụ phải áp dụng kỹ thuật phân chia. Yêu cầu cơ bản khi áp dụng kỹ thuật phân chia là: việc xác định kết quả kinh doanh nghiệp vụ vào thời điểm khoá sổ kế toán (31/12) phải tính đến các dự phòng nghiệp vụ. Các loại dự phòng nghiêp vụ cơ bản của DNBHPNTgồm có: dự phòng phí chưa được hưởng, dự phòng bồi thường và dự phòng dao động lớn. Hơn nữa, kỹ thuật phân chia còn đòi hỏi các phương pháp trích lập phải phù hợp với đặc tính của từng loại nghiệp vụ BH. Chẳng hạn, đối với trích lập dự phòng phí chưa được hưởng, nếu là BH xe cơ giới với thời hạn BH phần lớn là một năm nên có thể sử dụng phương pháp 1/8, nhưng BH hàng hoá vận chuyển lại cần sử dụng phương pháp 1/24 hoặc 1/365 vì thời hạn các hợp đồng BH ngắn. 1.2.2.5. Đối tượng được bảo hiểm và cơ sở để tính toán số tiền được bảo hiểm Khác với BHNT, đối tượng được bảo hiểm trong BHPNT thường là tài sản của người được BH. Trong BHNT giới hạn hợp đồng BH là vô hạn do đối tượng được bảo hiểm là con người và thường thì giới hạn hợp đồng là do người mua BH lựa chọn trên cơ sở nhu cầu của bản thân hoặc sự đề nghị của DNBH. Còn trong BHPNT số tiền bảo hiểm chủ yếu được tính trên cơ sở giá trị thị trường của tài sản được BH tại thời điểm giao kết hợp đồng BH. 1.2.2.6. Nguy cơ trục lợi Một đặc trưng nữa của BHPNT là khả năng trục lợi là rất cao. Điều này phụ thuộc vào đạo đức và tính trung thực của người mua BH. Cụ thể: do đối tượng được BH chỉ là tài sản vì vậy người được BH có thể vì một lý do nào đó tự tiêu hủy tài sản của mình. Chẳng hạn như: tự đốt cháy chính căn nhà của mình hoặc xưởng sản xuất của mình sau đó tiền hành đòi tiền BH từ DNBH. Điều khó khăn là nghĩa vụ chứng minh tổn thất đó là vô tình hay cố ý lại thuộc về DNBH. Vì vậy, một trong những quy tắc bất di bất dịch trong BHPNT khi giao kết hợp đồng BH là quy tắc “trung thực tuyệt đối”. 1.2.3. Những hoạt động cơ bản của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ Cũng giống như toàn bộ các DNBH, hoạt động kinh doanh BH của một DNBHPNT thường bao gồm những nội dung sau: 1.2.3.1. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm và tái bảo hiểm * Hoạt động kinh doanh BH: là hoạt động cơ bản của DNBH nhằm mục đích sinh lời. Đây là một quá trình liên hoàn từ khâu cấp đơn cho người tham gia BH, thu phí BH, theo dõi quá trình thực hiện hợp đồng BH cho đến khâu giám định tổn thất và giải quyết bồi thường BH. Kinh doanh BH phải đảm bảo nguyên tắc có tính chất quy luật là "số đông bù số ít". Theo quy luật đó, DNBH phải thu hút được nhiều người tham gia vào một nghiệp vụ hay một sản phẩm BH cụ thể. Quy trình thực hiện công việc kinh doanh BH bắt đầu từ việc DNBH thông qua mạng lưới đại lý hoặc các nhân viên khai thác chào bán các dịch vụ BH tới từng khách hàng có nhu cầu. Sau khi hai bên thống nhất được các điều kiện cơ bản thì hợp đồng BH được thiết lập. Hợp đồng BH là bằng chứng pháp lý thể hiện sự xác lập quyền và nghĩa vụ giữa DNBH và người tham gia BH, là sự thoả thuận giữa bên mua BH và DNBH, theo đó bên mua BH phải đóng phí BH còn DNBH phải trả tiền cho người được BH khi xảy ra sự kiện BH. Theo quy định của Luật kinh doanh BH (điều 17, 19, 20), DNBH và người tham gia BH có các quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ sau đây: - Đối với DNBH: + DNBH có quyền: thu phí BH, quyền đề nghị được sửa đổi một số điều kiện, điều khoản của hợp đồng, quyền chấm dứt hợp đồng. Nếu DNBH đã thực hiện việc bồi thường thì được phép thế quyền người được BH để yêu cầu người thứ ba trả lại toàn bộ hoặc một phần số tiền do lỗi của người thứ ba gây ra. + DNBH có trách nhiệm: cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến hợp đồng BH, giải thích các điều kiện, điều khoản BH; quyền và nghĩa vụ của bên mua BH, hướng dẫn giải thích về mọi thủ tục cần thiết để người tham gia BH lập hồ sơ khiếu nại đòi tiền BH khi có sự kiện BH xảy ra. + DNBH có nghĩa vụ: bồi thường hoặc trả tiền BH kịp thời cho người được BH hoặc người thụ hưởng. Nếu trong hợp đồng không thỏa thuận cụ thể về thời hạn này thì bên BH phải trả tiền BH hoặc bồi thường trong thời hạn 15 ngày kể thừ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ khiếu nại hợp lệ. - Đối với người tham gia BH: + Người tham gia BH có quyền: được hưởng khoản tiền bồi thường từ DNBH khi xảy ra sự kiện BH; quyền được cung cấp mọi thông tin liên quan đến hợp đồng BH và quá trình lập hồ sơ khiếu nại BH, quyền được thay đổi một số điều kiện, điều khoản trong hợp đồng. + Người tham gia BH có nghĩa vụ: khai báo trung thực mọi thông tin mà họ biết được liên quan đến đối tượng BH ngay từ khi giao kết hợp đồng BH, đóng phí BH đẩy đủ, khai báo trung thực khi xảy ra sự kiện BH; có nghĩa vụ đề phòng và ngăn ngừa rủi ro, hạn chế tổn thất, bảo lưu quyền đòi người thứ ba cho DNBH. Như vậy, thông qua kết quả của hoạt động kinh doanh BH, DNBH sẽ thể hiện được vị trí, uy tín của mình trên thị trường cũng như phát huy năng lực cạnh tranh của mình trước đối thủ cạnh tranh. Doanh thu, kết quả từ hoạt động kinh ._.doanh BH là cơ sở, nền tảng để DN khuyếch trương và tăng cường hoạt động đầu tư nhằm mang lại lợi nhuận và sự phát triển bền vững. * Hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm: là một hoạt động không thể tách rời hoạt động kinh doanh BH của bất kỳ một DNBH nào. Tái BH là hoạt động của DN mà theo đó DNBH nhận một khoản phí BH của DNBH khác để cam kết bồi thường cho các trách nhiệm đã nhận BH Có thể nói, tái BH như là một tấm lá chắn cho hoạt động của mỗi DN, là một hình thức DNBH tự BH cho chính mình sau khi nhận về mình các rủi ro của khách hàng. Kinh doanh tái BH bao gồm: hoạt động nhận tái BH và nhượng tái BH. Cụ thể như sau: - Hoạt động nhận tái bảo hiểm: là việc một DNBH nhận BH cho một phần rủi ro của một DNBH khác trong một hợp đồng BH gốc. Đứng trên góc độ kinh doanh thì hoạt động nhận tái BH được coi như là một hình thức bán BH. Sau khi nhận tái BH, DN có thể nhượng lại cho những DN nhận tái BH khác. Mục đích của hoạt động nhận tái BH là để tăng thêm nguồn thu phí BH cho DN, ngoài ra, mục đích lớn hơn là việc chia sẻ rủi ro giữa các DNBH. Trong mối quan hệ đan xen với nhau trên thị trường, một DNBH khi thì đứng ở vị trí người nhận lại rủi ro nhưng có khi lại ở vị trí là người chia sẻ rủi ro. DN nhận tái BH có trách nhiệm đối với các rủi ro mình nhận về tương đương như DNBH gốc đã nhận với khách hàng. Tuy nhiên, giới hạn trách nhiệm sẽ tương ứng với tỷ lệ mà DN nhận tái BH. Theo đó, khi xảy ra sự kiện BH, DN nhận tái BH cũng phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường và trả tiền BH cho công ty BH gốc theo đúng phần trách nhiệm mình đã nhận. Để bù đắp các chi phí mà DNBH gốc đã bỏ ra để ký kết được hợp đồng BH với khách hàng, DN nhận tái BH phải chi trả cho DN nhượng tái BH một khoản chi phí nhất định gọi là hoa hồng nhận tái BH. Tương ứng với phần trách nhiệm nhận về, DN nhận tái BH sẽ nhận được một khoản chi phí BH từ DN nhượng tái, đây chính là doanh thu từ hoạt động nhận tái BH. - Hoạt động nhượng tái bảo hiểm: Như ta đã biết, nhu cầu an toàn trong kinh doanh BH luôn được đặt lên hàng đầu, và để thực hiện được điều đó, một DNBH cũng phải tìm cách tự BH cho chính bản thân mình thông qua việc nhượng tái BH. Nhượng tái BH là việc DNBH chuyển một phần trách nhiệm BH đã cam kết với khách hàng (người được BH) của mình cho một hoặc nhiều DNBH khác. Cũng tương tự như hoạt động nhận tái BH nhưng ở vị trí ngược lại, DN nhượng tái BH cũng phải chuyển cho DN nhận tái BH một phần trong doanh thu phí BH gốc tương ứng với phần trách nhiệm chuyển đi. Bù lại, DN nhượng tái BH sẽ thu được một tỷ lệ hoa hồng tái BH nhất định theo thoả thuận từ DN nhận tái BH. Trách nhiệm về giải quyết bồi thường và khiếu nại phát sinh từ hợp đồng BH gốc sẽ được chia sẻ giữa DN nhận và nhượng theo hợp đồng tái BH. Tuy nhiên, trong cả hai trường hợp nhận và nhượng tái BH thì đầu mối giải quyết bồi thường và khiếu nại với khách hàng vẫn là DNBH gốc - người trực tiếp ký kết hợp đồng BH. Có thể nói, hoạt động nhượng tái BH giúp DNBH có được tình hình tài chính lành mạnh, an toàn; giúp người tham gia BH yên tâm về khả năng chi trả bồi thường của DNBH; giúp DNBH chủ động tính toán được giới hạn trách nhiệm tài chính tối đa tại một thời điểm nhất định bất kỳ; giúp chia sẻ rủi ro trong cộng đồng...Từ đó, tạo cho DNBH một năng lực cạnh tranh tốt nhất để phát triển hoạt động kinh doanh BH gốc của mình. Thông qua hoạt động nhượng và nhận tái BH, DNBH vừa ổn định tình hình kinh doanh, vừa phát triển quan hệ kinh tế với các nước. 1.2.3.2. Hoạt động đề phòng và hạn chế tổn thất DNBH không chỉ có trách nhiệm bồi thường tổn thất thuộc phạm vi BH do rủi ro tai nạn bất ngờ gây ra nhằm giúp cho người được BH ổn định kinh tế, khôi phục sản xuất và đời sống, mà còn tiến hành các biện pháp đề phòng rủi ro, tổn thất trước và sau khi tai nạn xảy ra. Thông qua việc phân tích nguyên nhân của những rủi ro tai nạn bất ngờ, DNBH rút ra được những biện pháp cần thiết để cùng khách hàng thực hiện nhằm đề phòng tổn thất xảy ra. Ví dụ: - Trong BH cháy, DNBH cùng người tham gia BH thực hiện các biện pháp để hạn chế chập điện, nổ ...như: tăng thiết bị an toàn về điện, thiết bị chống sét hoặc mua sắm thêm phương tiện chữa cháy. - Trong BH xe cơ giới làm thêm biển báo các nơi tránh xe trên các đèo dốc để giảm bớt tai nạn... 1.2.3.3. Hoạt động giám định, bồi thường tổn thất và đòi người thứ ba Hoạt động giám định, bồi thường tổn thất và đòi người thứ ba là một nhiệm vụ quan trọng trong chu trình kinh doanh BH, là khâu cuối cùng khép lại hoạt động kinh doanh BH của DNBH. Trong đó: Giám định: là hoạt động do DNBH trực tiếp tiến hành hoặc thông qua một DN hay đại lý giám định khác để thực hiện việc xác định tính chất, nguyên nhân và mức độ tổn thất. Điều quan trọng của công tác giám định là xác định nguyên nhân rủi ro có thuộc phạm vi BH không, tổn thất thực tế là bảo nhiêu.. để làm căn cứ phục vụ cho công tác giải quyết bồi thường và trả tiền BH cho khách hàng được chính xác. Bồi thường hoặc trả tiền BH: là việc DNBH thực hiện cam kết trong hợp đồng BH, chi trả cho người được BH một khoản tiền nhất định khi xảy ra sự kiện BH. Đòi người thứ ba: là hoạt động do DNBH trực tiếp tiến hành hoặc thông qua một đại lý trung gian khác để yêu cầu người thứ ba phải bồi hoàn cho những tổn thất do lỗi của người thứ ba đó gây nên sau khi DNBH đã bồi thường và nhận thế quyền từ người được BH. Chất lượng hoạt động giám định, bồi thường khẳng định chất lượng sản phẩm của chính DNBH, bởi tại khâu này sản phẩm của DNBH mới thực sự được khách hàng sử dụng và đánh giá. Nếu chất lượng tốt, DNBH không những giữ được khách hàng cũ mà còn thu hút thêm được khách hàng mới, tăng uy tín và thị phần của DN mình. Nếu giám định và bồi thường tổn thất được coi là một khoản chi thì kết quả của việc đòi người thứ ba được coi như là một khoản thu để giảm chi. Do đó, thực hiện tốt công tác đòi người thứ ba là một yếu tố quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh BH, tăng lợi nhuận cho DN. 1.2.3.4. Hoạt động đầu tư Bên cạnh hoạt động kinh doanh BH, hoạt động đầu tư có vai trò hết sức quan trọng, nó được coi là một trong những hoạt động mang lại nguồn thu chính cho DNBH. Hoạt động đầu tư không chỉ giúp các DNBH sử dụng hiệu quả nguồn vốn nhàn rỗi của mình để thu lợi nhuận, mà còn giúp DNBH ổn định để kinh doanh và đảm bảo quyền lợi cho khách hàng. Bởi vì: do tính đặc thù trong hoạt động kinh doanh BH mà các DNBH thường xuyên có một lượng vốn tạm thời nhàn rỗi từ các quỹ dự phòng nghiệp vụ vốn điều lệ, lợi nhuận để lại.., trong khi nhu cầu về vốn cho nền kinh tế luôn ở mức cao. Do đó DNBH có thể sử dụng các nguồn vốn này để đầu tư vào các lĩnh vực mà pháp luật cho phép nhằm mang lại lợi nhuận như: đầu tư chứng khoán, đầu tư bất động sản, uỷ thác đầu tư…Nguồn thu nhập từ hoạt động đầu tư sẽ giúp DNBH tăng hiệu quả sử dụng vốn, nâng cao năng lực tài chính và khả năng cạnh tranh, qua đó DN luôn đảm bảo được khả năng chi trả BH cho khách hàng. Để đảm bảo sự an toàn trong hoạt động đầu tư của DN, đảm bảo tính thanh khoản và chi trả thường xuyên của DNBH, Điều 11, Nghị định số 43/2001/NĐ-CP ngày 1/8/2001 của Chính phủ qui định rõ nguồn vốn dùng để đầu tư của DNBHPNT bao gồm: Vốn điều lệ; Quỹ dự trữ bắt buộc; Quỹ dự trữ tự nguyện; Lợi nhuận để lại; Nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nhiệp vụ. Riêng đối với nguồn vốn từ dự phòng nghiệp vụ, thực chất đây là khoản DNBH nợ khách hàng, do đó để đảm bảo khả năng thanh toán của DN, pháp luật qui định rất chặt chẽ tổng hạn mức được phép sử dụng để đầu tư cũng như hạn mức đầu tư cho từng lĩnh vực. Điều 13, Nghị định 43/2001/NĐ-CP ngày 1/8/2001 của Chính phủ quy định DN chỉ được đầu tư nguồn vốn này tại Việt Nam và dùng để: mua trái phiếu Chính phủ, trái phiếu DN có bảo lãnh; gửi tiền tại các tổ chức tín dụng không hạn chế; mua cổ phiếu, trái phiếu DN không có bảo lãnh; góp vốn vào các DN khác tối đa 35%; kinh doanh bất động sản, cho vay, uỷ thác đầu tư qua các tổ chức tài chính - tín dụng tối đa 20%. 1.2.4. Các yếu tố tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ Năng lực cạnh tranh của các DNBH trên thị trường DVBH phản ánh khả năng tồn tại và phát triển bền vững của một DN. Năng lực cạnh tranh của DNBH nói chung và DNBHPNT nói riêng thường bị tác động bởi một số yếu tố cơ bản sau: 1.2.4.1. Môi trường vĩ mô Gồm các yếu tố bên ngoài DN như kinh tế, chính trị, xã hội, tự nhiên. Môi trường vĩ mô tạo điều kiện cho các DNBH phát triển, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của DN. * Yếu tố kinh tế Các yếu tố kinh tế có ảnh hưởng rất lớn và tổng hợp đến các DNBH, trong khuôn khổ luận văn này chỉ nghiên cứu một số yếu tố có tác động trực tiếp nhất. Bao gồm: - Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế : Một nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao sẽ phát sinh thêm các nhu cầu mới do thu nhập của người lao động tăng lên và dẫn đến khả năng thanh toán đối với dịch vụ BH cũng tăng lên. Đây vừa là cơ hội lớn để các DNBH mở rộng lĩnh vực kinh doanh, nhưng đồng thời cũng là thách thức đối với các DN khi xuất hiện thêm nhiều đối thủ cạnh tranh, Điều này sẽ làm cho chi phí và tiền lương của DN tăng lên, làm giảm khả năng cạnh tranh của các DNBH. - Tỷ lệ lạm phát: lạm phát có thể gây xáo trộn nền kinh tế, làm cho sự tăng trưởng kinh tế chậm lại, tỉ lệ lãi suất tăng và sự biến động của đồng tiền trở nên không lường trước được. Nếu lạm phát liên tục, các hoạt động đầu tư của DN trở thành công việc hoàn toàn may rủi. Sự bất trắc này khiến các DN không muốn bỏ tiền vào đầu tư. Do đó, lạm phát cao luôn là nguy cơ đối với các DNBH. Có thể nói, có rất nhiều vấn đề trong yếu tố kinh tế ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến hoạt động kinh doanh của DNBH. Có những yếu tố là nguy cơ, có những yếu tố là cơ hội. Vì vậy trong quá trình hoạt động, các DNBHPNT phải luôn bám sát phân tích tình hình kinh tế để tận dụng thời cơ trong kinh doanh. * Yếu tố chính trị và pháp luật Các DNBHPNT hoạt động trên thị trường phải tuân theo các quy định của Pháp luật như: Biểu phí, hoa hồng phí, thuế, thuê mướn lao động, quảng cáo, quy định môi trường… Vì vậy đòi hỏi các DNBH cần phải hiểu rõ những quy định của địa phương hoặc của đất nước - nơi DNBH thực hiện các hoạt động kinh doanh. Có như vậy, họ mới thực sự chủ động trước sự thay đổi của môi trường chính trị và pháp luật. * Môi trường văn hoá, xã hội Văn hoá, xã hội cũng là yếu tố đóng vai trò quan trọng trong sự biến động và phát triển của một DNBH, đặc biệt là các nhân tố có ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhu cầu BH như: thu nhập bình quân đầu người, trình độ dân trí... Bởi vì nhu cầu BH không phải là nhu cầu căn bản của con người, vì thế nhu cầu BH chi có thể phát triển khi con người đã thoả mãn, đã giải quyết các nhu cầu căn bản khác. Thêm vào đó khi trình độ dân trí nâng lên người dân sẽ nhận thức được sự cần thiết của các hoạt động BH bảo đảm cho những rủi ro có thể xảy ra trong cuộc sống của họ. Chính điều này đã mở rộng thêm thị trường DVBH. * Xu hướng toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế Cũng giống các yếu tố khác đều có tác động hai mặt đến hoạt động kinh doanh của DNBH, xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế cũng mở ra rất nhiều cơ hội nhưng đồng thời cũng đem lại cho DN rất nhiều nguy cơ và các mối đe dọa lớn. Toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế sẽ giúp DNBH xoá bỏ các rào cản kinh tế, mở rộng thị trường hoạt động, tiếp thu được những tiến bộ khoa học công nghệ một cách nhanh chóng… Nhưng đồng thời nó lại cũng tạo ra áp lực cạnh tranh mạnh mẽ hơn do sức ép từ các đối thủ tiềm ẩn trong ngành ngày càng tăng, các DN nước ngoài thâm nhập vào thị trường nội địa ngày càng nhiều. Chính vì vậy, các DNBHPNT trong nước phải nhận thức rõ toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế là một xu thế không thể đảo ngược. Họ buộc phải nâng cao sức cạnh tranh, nhanh chóng nắm lấy cơ hội nhưng đồng thời phải có biện pháp để đẩy lùi và hạn chế những nguy cơ và thách thức. 1.2.4.2. Môi trường kinh doanh trong ngành Gồm các yếu tố trong ngành kinh doanh BH như: đối thủ cạnh tranh, khách hàng, sản phẩm thay thế. * Đối thủ cạnh tranh Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh vừa tạo động lực thúc đẩy sự phát triển của các DNBH, vừa tạo ra sức ép đòi hỏi khả năng thích ứng của các DN này. Cạnh tranh giữa các DN nhằm thu hút khách hàng là điều tất yếu và diễn ra ngày càng quyết liệt. sự cạnh tranh giữa các DNBH hoạt động trong ngành là một trong những yếu tố quan trọng đối với sự phát triển của DNBH. Nếu sự cạnh tranh này ít sẽ là cơ hội để các DNBH mở rộng hoạt động inh doanh, nhằm chiếm lĩnh thị phần và thu được nhiều lợi nhuận. Còn nếu sự cạnh tranh này diễn ra quyết liệt sẽ là sực ép lớn đối với các DNBH, đặc biệt là các DNBH mới và nhỏ. Vì vậy các DNBH luôn phải biết được đối thủ nào mới xuất hiện; nó có bị cản trở xâm nhập thị trường từ phía các đối thủ khác không? Có thể làm gì để cản trở đối thủ này? Các đối thủ ngang sức có những điểm nào mạnh hơn, điểm nào yếu hơn? Và từ đó họ tìm mọi cách để hạn chế các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn nhảy vào lĩnh vực kinh doanh của họ. * Sức ép về giá của khách hàng Sức ép từ phía khách hàng là được coi là một trong những yếu tố quyết định đến công tác hoạch định chiến lược bởi vì khách hàng là mục tiêu hướng tới của bất kỳ DN sản xuất kinh doanh nào. Do đó, DN cũng cần phải trả lời hàng loạt các câu hỏi như: - Những khách hàng nào quan trọng nhất? - Số lượng hàng hoá do khách hàng đó tiêu thụ chiếm bao nhiêu % trong tổng số? - Nếu một khách hàng từ bỏ DN thì sẽ gây thiệt hại cho DN như thế nào? - Liệu có đối thủ nào cản trở khách hàng trung thành và họ sử dụng thủ đoạn nào? - Phải làm gì để giữ được khách hàng hiện có và phát triển thêm khách hàng mới? Khi các DNBH cạnh tranh với nhau, dưới áp lực của khách hàng khiến giá cả bị giảm xuống hoặc họ yêu cầu chất lượng sản phẩm, dịch vụ tốt hơn. Điều này sẽ làm cho chi phí hoạt động của DN tăng lên. Ngược lại, nếu khách hàng có khả năng bị yếu thế thì sẽ là cơ hội tốt để các DNBH tăng giá và kiếm nhiều lợi nhuận hơn. 1.2.4.3. Môi trường trong nội bộ doanh nghiệp Gồm các yếu tố bên trong DNBH như: nguồn nhân lực, tài chính, nghiên cứu và phát triển, marketing, cơ cấu tổ chức của DN. Cụ thể: * Tài chính Bất cứ một DN nào muốn tồn tại và phát triển đều cần có nguồn vốn, mà trước hết là nguồn vốn tài chính. Nguồn tài chính của DN có thể bằng nhiều hình thức: nguồn tự có, nguồn vốn vay, ngân sách cấp, trợ cấp… Nguồn tài chính có ý nghĩa quyết định giúp DN chớp cơ hội đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất, tận dụng lợi thế về quy mô và vượt lên trước đối thủ cạnh tranh. * Nguồn nhân lực Nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng trong quá trình hoạch định và thực hiện chiến lược kinh doanh của một DNBH, bởi vì con người là trung tâm của mọi hoạt động. Do vậy cần phải có kế hoạch quản trị nguồn nhân lực, mục tiêu của quản trị nhân lực như là: Sắp xếp hợp lý nguồn nhân lực; Đảm bảo cung - cầu về nguồn nhân lực cho các hoạt động; xác định biện pháp cụ thể để quản lý nguồn nhân lực và dự đoán về nguồn nhân lực mà DN có nhu cầu trong tương lai... Yêu cầu của quản trị nhân lực là xây dựng được đội ngũ lao động tích cực, có kinh nghiệm, có kỹ năng quản lỹ, kỹ năng kinh doanh. Điều đó sẽ giúp cho DN có lợi thế cơ bản so với đối thủ cạnh tranh. * Hoạt động nghiên cứu và phát triển sản phẩm Trong các hoạt động đầu tư thì đầu tư vào nghiên cứu và phát triển sản phẩm thường đưa lại kết quả rất lớn. Hoạt động nghiên cứu và phát triển thường được chia làm 3 loại: Nghiên cứu đổi mới sản phẩm, nghiên cứu cải tiến sản phẩm nhằm nâng cao chất lượng hay hoàn thiện các đặc tính của sản phẩm hiện có và nghiên cứu đổi mới công nghệ nhằm cải tiến quá trình kinh doanh để giảm chi phí hoặc nâng cao chất lượng. Hoạt động nghiên cứu và phát triển thường tạo ra bước đột phá cho DNBH trong hoạt động kinh doanh, tạo ra lợi thế kinh doanh cho DN trong một khoảng thời gian nhất định. Đặc điểm của khoa học công nghệ là luôn đổi mới và phát triển, vì vậy DN muốn tạo được lợi thế kinh doanh lâu dài thì phải có những bước đi cụ thể, có sự đầu tư hợp lý vào hoạt động nghiên cứu và phát triển sản phẩm. * Marketing, bán hàng và dịch vụ ( Chưa xem và chưa sửa) Marketing là một quá trình xác định, dự báo, thiết lập và thỏa mãn các nhu cầu mong muốn của người tiêu dùng đối với sản phẩm hay dịch vụ. Việc phân tích hoạt động marketing thường bao gồm các nội dung: phân tích khách hàng, nghiên cứu thị trường, mua và bán hàng hoá. Việc phân tích chức năng marketing và bán hàng cần quan tâm đến một số vấn đề sau: mặt hàng sản phẩm có đáp ứng mục tiêu đề ra hay không? Thái độ của người tiêu dùng về chất lượng sản phẩm, giá đối với DN và đối thủ cạnh tranh? Hiệu quả của các kênh phân phối? Lực lượng bán hàng có đủ để đạt được mục tiêu đề ra hay không? Các hoạt động dịch vụ bán hàng và sau bán hàng hoạt động như hoạt động giám định, bồi thường ra sao? Hiệu quả của công tác quảng cáo về sản phẩm, dịch vụ của DN?… * Cơ cấu tổ chức Cơ cấu tổ chức là tổng hợp việc sắp xếp bố trí các phòng ban chức năng của một DNBH. Cơ cấu tổ chức của một DNBH đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc vận hành hoạt động kinh doanh của DN. DN nào có được cơ cấu tổ chức hợp lý với sự gắn kết trong hoạt động, sự hỗ trợ nhau trong công việc sẽ tạo ra cho DN đó một lợi thế kinh doanh hơn hẳn đối thủ cạnh tranh. Như vậy có thể nói, môi trường vĩ mô và môi trường kinh doanh trong ngành là những yếu tố tác động bên ngoài, còn môi trường trong nội bộ DN là các yếu tố mang tính bên trong. Vì vậy muốn nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNBHPNT thì đòi các DN phải có sự gắn bó chặt chẽ giữa các yếu tố bên trong và bên ngoài DN. 1.3. Sự cần thiết khách quan phải nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ 1.3.1. Những cam kết đặt ra đối với các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam khi hội nhập kinh tế quốc tế Cùng với tiến trình hội nhập kinh tế của đất nước ngành BH Việt Nam đã tích cực ký kết những cam kết khi mở cửa thị trường DVBH. Do đó, yêu cầu đặt ra cho các DNBHPNT Việt Nam phải hiểu rõ cam kết này để chuẩn bị cho chiến lược cạnh tranh mới khi những cam kết này được thực hiện: * Cam kết theo Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ được ký kết vào ngày13/07/2000 và chính thức có hiệu lực từ ngày 10/12/2001 sau khi Quốc hội hai nước phê chuẩn. Theo hiệp định này, Việt Nam đã đưa ra các cam kết trong các lĩnh vực của hoạt động kinh doanh BH, trong đó có cam kết về việc các công ty BH của Mỹ tham gia vào thị trường DVBH Việt Nam. Nhìn chung sự hiện diện của các công ty BH Mỹ không bị hạn chế nhưng phải tuân thủ theo lộ trình tự do hoá từng bước trong giai đoạn từ 3 - 5 năm: - Sau 3 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, các công ty BH của Mỹ được thành lập công ty liên doanh với các đối tác được phép kinh doanh ở Việt Nam, trong đó tỷ lệ vốn góp của đối tác Mỹ không vượt quá 60% vốn pháp định. - Sau 5 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, Việt Nam cho phép thành lập Công ty BH 100% vốn của Mỹ. - Ngoài ra, các công ty cung cấp dịch vụ có vốn đầu tư của Mỹ không được phép kinh doanh các đại lý BH. - Sau 3 năm đối với công ty liên doanh và 6 năm đối với công ty BH 100% vốn của Mỹ kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực, Việt Nam sẽ xoá bỏ việc không cho phép các công ty BH Mỹ kinh doanh các dịch vụ BH bắt buộc. - Sau năm 2006, Việt Nam sẽ xoá bỏ tỷ lệ tái BH bắt buộc 20% qua Công ty tái BH quốc gia Việt Nam. Các DNBH không bị giới hạn ở tỷ lệ tái BH và công ty tái BH. Theo nguyên tắc tối huệ quốc, những cam kết trong Hiệp định thương mại Việt - Mỹ cũng sẽ áp dụng tương tự đối với những nước có quan hệ song phương với Việt Nam. Do đó, tác động của cam kết trên còn được mở rộng sang các đối tác thương mại như EU, Nhật Bản, ASEAN... trong lĩnh vực kinh doanh BH. * Cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO Việt Nam đã gia nhập gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) từ cuối năm 2006. Các cam kết gia nhập WTO dựa trên quy định của pháp luật hiện hành và có tính đến các cam kết trong Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ. BH là lĩnh vực mà các đối tác thương mại lớn của Việt Nam như Mỹ, liên minh Châu Âu, Nhật Bản, Canada gây sức ép để Việt Nam mở cửa hơn nữa thị trường DVBH. Gia nhập vào WTO, Việt Nam đã cam kết trong lĩnh vực dịch vụ bảo hiểm phi nhân thọ như sau: (1) Không hạn chế đối với: - Dịch vụ BH cung cấp cho các DN, người nước ngoài làm việc tại Việt Nam - Dịch vụ tái BH - Dịch vụ BH vận tải quốc tế, bao gồm BH cho các loại rủi ro liên quan tới: + Vận tải biển quốc tế và vận tải hàng không thương mại quốc tế, với phạm vi BH, bao gồm bất kỳ hoặc toàn bộ các khoản mục sau: hàng hoá vận chuyển, phương tiện vận chuyển hàng hoá và bất kỳ trách nhiệm nào phát sinh từ đó; + Hàng hoá đang vận chuyển quá cảnh quốc tế - Dịch vụ môi giới BH và môi giới tái BH - Dịch vụ tư vấn, dịch vụ tính toán, đánh giá rủi ro và giải quyết bồi thường. (2) Không hạn chế, ngoại trừ: DNBH 100% vốn nước ngoài không được kinh doanh các dịch vụ bắt buộc, bao gồm BH trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba, BH xây dựng và lắp đặt, BH các công trình dầu khí và các công trình dễ gây nguy hiểm đến an ninh cộng đồng và môi trường. Hạn chế này sẽ được huỷ bỏ vào ngày 1/1/2008. Sau 5 năm kể từ khi gia nhập, cho phép DNBH nước ngoài thành lập chi nhánh BHPNT, căn cứ vào các quy định thận trọng [44, tr.1006-1007]. * Cam kết trong khuôn khổ ASEAN: Hiệp định khung về dịch vụ của ASEAN được ký kết tháng 12/1998 và có hiệu lực kể từ ngày 13/10/1999, 7 nước thành viên ASEAN (trừ Lào, Myanmar, Camphuchia), đã đưa ra các cam kết cụ thể trong lĩnh vực BH theo hướng huỷ bỏ về cơ bản những hạn chế về tiếp cận thị trường và tăng cường chiều sâu và phạm vi tự do hoá trong lĩnh vực BH. Hiện nay, các nước ASEAN đang trong quá trình triển khai thực hiện Nghị định thư số 5 về thiết lập chương trình chung của ASEAN về BH trách nhiệm bắt buộc đối với bên thứ ba của chủ xe cơ giới. Nhìn chung, các cam kết về mở cửa thị trường DVBH trong khuôn khổ ASEAN chủ yếu vẫn mang tính chất cam kết chung mà chưa có được các cam kết có tính cụ thể. Điều này giúp giảm nhẹ các sức ép về cam kết hội nhập của Việt Nam trong lĩnh vực BH. * Cam kết trong khuôn khổ APEC: APEC được thành lập tháng 11/1989, đến nay có 18 thành viên. Mục tiêu chủ yếu của APEC là duy trì sự phát triển và tăng trưởng vì các nước trong khu vực, tăng cường kinh tế cho khu vực... Mục tiêu của APEC là tự do hoá thương mại và đầu tư vào năm 2010 đối với các nước phát triển và 2020 đối với các nước đang phát triển. Lĩnh vực BH là một trong những lĩnh vực được ưu tiên trong hợp tác trong khuôn khổ APEC. Hàng năm, các quốc gia thành viên, trong đó có Việt Nam đã xây dựng các chương trình hành động trong lĩnh vực BH, trong đó tập trung vào việc xác định những lĩnh vực còn tồn tại các rào cản thương mại, bãi bỏ dần các hạn chế về tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia, nâng cao năng lực cạnh tranh của các thị trường DVBH trong nước để chuẩn bị cho xu hướng tự do hoá. Như vậy, so với các nước trong khu vực và trên thế giới, có thể nói Việt Nam là một trong những nước có mức độ mở cửa thị trường BH tương đối thoáng nhất. Có thể nhận thấy điều này qua Bảng 1.2 sau: Biểu 1.2: So sánh mức độ mở cửa thị trường bảo hiểm của một số nước đang phát triển Nước Hiện trạng mở cửa tại thời điểm 1997 Cam kết mở cửa thị trường bảo hiểm trong WTO Brazil Cho phép liên doanh bảo hiểm với 50% vốn nước ngoài, với điều kiện cổ đông nước ngoài có cổ phần lớn nhất không quá 30%. Cấm hoàn toàn hình thức chi nhánh và 100% vốn nước ngoài ngoại trừ đối với kinh doanh bảo hiểm sức khoẻ. Tái bảo hiểm do Nhà nước độc quyền. - Cho phép thành lập DNBH 100% vốn nước ngoài trên cơ sở phê duyệt theo từng trường hợp cụ thể của cơ quan quản lý chuyên ngành - Bảo lưu quyền cấm chi nhánh Trung Quốc Quá trình xin cấp phép kéo dài 3 năm. Chỉ cho phép liên doanh với 49% vốn nước ngoài. Tính đến năm 1997, chỉ có 3 giấy phép liên doanh được phê duyệt. Hạn chế đối với việc chuyển lợi nhuận về nước của bên liên doanh nước ngoài. Các DNBH liên doanh với nước ngoài chỉ được kinh doanh các lĩnh vực không cạnh tranh với các DNBH Nhà nước - Cho phép mở rộng hoạt động của các công ty bảo hiểm nước ngoài trong các lĩnh vực bảo hiểm y tế và bảo hiểm hưu trí sau 5 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực. Bảo hiểm tài sản và tai nạn được phép thực hiện ngay khi cấp phép. - Cho phép 50% vốn góp bên ngoài đối với bảo hiểm nhân thọ và 51% đối với bảo hiểm phi nhân thọ. Các công ty liên doanh được phép thành lập chi nhánh ngay sau khi cấp giấy phép. Sau 2 năm, các doanh nghiệp này được phép mở công ty con. Thị trường tái bảo hiểm được mở cửa hoàn toàn kể từ khi các cam kết trong Hiệp định có hiệu lực. - Cam kết xoá bỏ các hạn chế về phạm vi địa lý cũng như phạm vi sản phẩm được phép kinh doanh - Nới lỏng dần các yêu cầu về mức vốn pháp định ban đầu. ấn Độ Không mở cửa Không cam kết Inđônêxia Cho phép liên doanh với 80% vốn nước ngoài. Chỉ có các DNBH có vốn nước ngoài thành lập ở Inđônêxia trước 1972 mới có thể chuyển sang hình thức 100% vốn nước ngoài. Các DNBH có vốn đầu tư nước ngoài phải có vốn pháp định ban đầu cao hơn so với doanh nghiệp trong nước. Chỉ liên doanh mới được cung cấp dịch vụ cho người Inđônêxia. - Cho phép thành lập DNBH 100% vốn nước ngoài. - Bảo lưu quyền không cho phép mở chi nhánh - Xoá bỏ dần phân biệt đối xử về vốn pháp định Malaysia Cho phép liên doanh với 49% vốn nước ngoài. Không bảo lưu giấy phép cho các DNBH có vốn đầu tư nước ngoài lớn hơn 49% được thành lập trước năm 1997. Không cho phép thành lập thêm chi nhánh mới (ngoại trừ tái bảo hiểm). Năm 1998 không chấp nhận hình thức chi nhánh mà yêu cầu chuyển đổi thành doanh nghiệp. Các DNBH có vốn đầu tư nước ngoài không được cung cấp dịch vụ bảo hiểm tàu, hàng không và tài sản. - Tăng tỷ lệ vốn nước ngoài lên 51% - Không áp dụng điều khoản bảo lưu điều kiện ưu đãi hơn đối với các DNBH có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập trước ngày thực hiện cam kết Mêxicô Cho phép liên doanh với 49% vốn nước ngoài - Cho phép thành lập DNBH 100% vốn đầu tư nước ngoài Philippines Cho phép liên doanh với 40% vốn nước ngoài. Không cho phép mở chi nhánh - Tăng tỷ lệ vốn nước ngoài lên 51% trong liên doanh - Cho phép thành lập DNBH 100% vốn nước ngoài - Bảo lưu quyền không cho phép mở chi nhánh Thái Lan Cho phép liên doanh với 25% vốn nước ngoài đối với dịch vụ bảo hiểm trực tiếp. Cho phép liên doanh với 49% vốn nước ngoài đối với dịch vụ phụ trợ. Cho phép mở chi nhánh - Cam kết giữ nguyên mức mở cửa tại thời điểm 1997 1.3.2. Cơ hội và thách thức đối với doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam trong xu thế mở cửa thị trường bảo hiểm và hội nhập quốc tế 1.3.2.1. Cơ hội Trong bối cảnh toàn cầu hoá thị trường đang diễn ra nhanh chóng, việc đưa ngành BH hội nhập kinh tế quốc tế là một yêu cầu cấp thiết đối với Việt Nam. Quá trình hội nhập đã tạo ra cho DNBH, trong đó có DNBHPNT Việt Nam những cơ hội mới. Thứ nhất, nền kinh tế Việt Nam trong thời gian qua tăng trưởng với tốc độ cao, cùng với định hướng phát triển kinh tế nhiều thành phần sẽ tạo ra nhiều cơ hội đầu tư và mở rộng sản xuất kinh doanh cho các ngành và lĩnh vực, từ đó tạo ra cơ hội cho các DN và thị trường DVBH phát triển. Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, chắc chắn việc trao đổi thương mại hàng hoá giữa Việt Nam và các nước sẽ được đẩy mạnh, DN nước ngoài tham gia vào thị trường Việt Nam sẽ tăng làm cho tiềm năng thị trường BH được mở rộng, nhu cầu về các sản phẩm BH mới tăng cao sẽ tạo cơ hội cho các DNBH Việt Nam mở rộng thị trường, tăng doanh thu phí BH gốc. Có thể nói thị trường DVBH nói chung và thị trường BHPNT Việt Nam nói riêng đầy tiềm năng và hứa hẹn nhiều triển vọng. Bên cạnh đó các hoạt động đầu tư trong nước với các khu đô thị mới, khu chế xuất và khu công nghiệp được hình thành, mở ra cơ hội cho BH xây dựng, lắp đặt; BH kỹ thuật. Các lĩnh vực công nghiệp, cơ sở hạ tầng, thương mại, du lịch, đầu tư quốc tế đều là những lĩnh vực tiềm năng cho dịch vụ BHPNT trong tương lai. Thứ hai, mức sống, thu nhập của xã hội tăng cao; trình độ dân trí và nhận thức của đại đa số dân cư được nâng lên thì nhu cầu chăm sóc sức khoẻ của dân cư ngày càng được quan tâm và cải thiện, làm tăng thêm nhu cầu về các loại hình BH. Dịch vụ BH không còn đơn thuần chỉ là BH mà mở rộng ra như những dịch vụ tài chính khép kín. Thứ ba, quan hệ hợp tác quốc tế phát triển, các quá trình chuyển giao công nghệ và đào tạo nhân lực, việc ứng dụng các quy trình quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế được khuyến khích. Cùng với quá trình đó, các hoạt động tái BH, đồng BH, hợp tác liên doanh trên phạm vi quốc tế sẽ không ngừng được mở rộng. Thứ tư, hội nhập kinh tế sẽ thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn và thị trường chứng khoán, sự phát triển đó sẽ mở ra những hướng đầu tư mới cho hoạt động của các DNBH vốn đã gắn liền với việc hình thành các quỹ tài chính sẽ có khả năng đầu tư. Cơ hội này cho phép các DNBH đa dạng hoá hoạt động đầu tư và tham gia theo hướng chuyên môn hoá vào lĩnh vực này, điều đó sẽ mang lại hiệu quả cao cho các DNBH Thứ năm, mở cửa thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế giúp chúng ta mở rộng được thị trường xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ, tăng sức thu hút đầu tư và chuyển giao kỹ thuật, công nghệ từ các nước khác, tạo cơ hội thuận lợi để DNBH Việt Nam mở rộng quan hệ, học tập, tiếp thu kinh nghiệm quản lý tiên tiến, tiếp cận với những phương thức kinh doanh hiện đại; áp dụng rộng rãi công nghệ tin học vào các lĩnh vực BH nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ và hiệu quả kinh doanh. 1.3.2.2. Thách thức Cùng với việc tạo ra những cơ hội phát triển cho các, yếu tố tự do hoá thương mại, mở cửa và hội nhập thị trường DVBH quốc tế cũng đang đặt ra những khó khăn và thách thức mà các DNBHPNT Việt Nam phải đương đầu trong giai đoạn tới, sức ép cạnh tranh trong kinh doanh dịch vụ BH sẽ ngày một lớn hơn, các DNBHPNT Việt Nam có nguy cơ bị thua thiệt trong cạnh tranh khi mở cửa thị trường dịch vụ BH, thể hiện ở những mặt sau đây: Thứ nhất, thị trường DVBH Việt Nam với tiềm năng và tốc độ tăng trưởng cao, ổn định sẽ là nơi hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài - các tập đoàn BH, các DNBH quốc tế hàng đầu với kinh nghiệm kinh doanh lâu năm, phạm vi._.được lên lãnh đạo để có hướng giải quyết. 3.3. Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam 3.3.1. Xây dựng và quảng bá thương hiệu, đẩy mạnh hoạt động Marketing tư vấn và đa dạng hoá các kênh phân phối để thu hút khách hàng, mở rộng thị phần Hình ảnh và thương hiệu của một DNBH là tiền đề để khách hàng xem xét, quyết định mua BH. Một DNBH có uy tín và thương hiệu trên thị trường dễ dàng được khách hàng lựa chọn hơn khi quyết định mua BH. Vậy để xây dựng và phát triển thương hiệu, DNBHPNT Việt Nam cần thực hiện: Thứ nhất, nâng cao hiệu quả kinh doanh, đảm bảo cung cấp cho khách hàng những dịch vụ tốt nhất; phải thực hiện đồng bộ các giải pháp để tạo niềm tin cho khách hàng từ khâu giới thiệu và bán sản phẩm, sau đó là quá trình theo dõi hợp đồng và giải quyết bồi thường nhanh chóng, thoả đáng, giữ đúng cam kết với khách hàng, giúp đỡ khách hàng trong công tác phòng ngừa, hạn chế rủi ro. Luôn giữ quan hệ mật thiết với khách hàng: Các DNBH phải kiên quyết giữ quan hệ với khách hàng và phải giữ quan hệ cả ngay sau khi đã cung cấp dịch vụ, bởi vì các nhà kinh doanh hiện đại đã rút ra được kết luận sau “chi phí để tìm kiếm một khách hàng mới đắt gấp 5 lần chi phí để duy trì một khách hàng quen cũ”. Thứ hai, bên cạnh việc nâng cao hiệu quả kinh doanh để xây dựng hình ảnh và phát triển thương hiệu, các DNBH cần phải xây dựng văn hoá DN. Văn hoá DN là hệ thống tư duy, hành động của con người trong DN. Để xây dựng văn hoá DN các DNBH cần xây dựng các quy phạm hành động hàng ngày của nhân viên, đồng thời chú trọng tác phong nghề nghiệp, trang phục nhân viên, phong cách tiếp xúc với khách hàng, thái độ phục vụ chu đáo nhiệt tình, kiên trì với phản hồi từ phía khách hàng. Văn hoá ND tạo ra những nét đặc trưng của DN, phân biệt DN này với DN khác, nhờ đó thương hiệu của DNBH từng bước được tạo dựng. Thứ ba, việc xây dựng được một chiến lược marketing thích hợp cũng góp phần phát triển thương hiệu của DN bởi vì: một trong những nguyên tắc cơ bản của kinh doanh BH là dựa vào “quy luật số đông”. Do đó hoạt động marketing giúp DN nắm bắt được nhu cầu thị trường để từ đó xây dựng kế hoạch hoặc thiết kế, định giá và bán sản phẩm nhằm thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Vì vậy các DNBH cần quan tâm hơn nữa đến công tác quảng cáo, nâng cao hình ảnh, uy tín của DN bằng cách đa dạng hoá các hình thức quảng cáo như: quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, gửi thư trực tiếp, điên thoại tới khách hàng, sử dụng pano áp phích; ngoài ra các DN cũng cần thiết lập mối quan hệ tốt đẹp với công chúng thông qua hội nghị khách hàng, tổ chức họp báo, tư vấn tới khách hàng các sản phẩm BH, tham gia các chương trình tài trợ, các hoạt động ủng hộ... Bên cạnh đó để sản phẩm BH đến được với khách hàng một cách nhanh chóng thì các DNBHPNT phải đa dạng hoá các kênh phân phối. Kênh phân phối có vai trò rất quan trọng vì nó quyết định đến thời gian đưa sản phẩm đến với khách hàng nhanh hay chậm? Hiệu quả hay không hiệu quả? Khách hàng có thoả mãn hay không? Tiếp tục chú trọng đến mạng lưới bán hàng trực tiếp vì đây được coi là mạng phân phối tạo điều kiện cho khách hàng dễ tiếp xúc và đảm bảo cho khách hàng khi có sự cố xảy ra. Đối với kênh phân phối truyền thống là đại lý BH, DNBH cần phát hiện và lựa chọn được các đại lý bán hàng giỏi, phải xây dựng được chương trình đào tạo đào tạo đại lý một cách thường xuyên, chuyên nghiệp để nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng. Các DNBH cũng cần phải xây dựng được một cơ chế tài chính phù hợp cho các đại lý hoạt động nhằm kích thích và phát huy hết nội lực của đại lý, tạo được sự gắn bó lâu dài của đại lý với công ty. Ngoài ra, các DNBH cần phát triển mạnh mạng lưới cộng tác, môi giới để khai thác và cung cấp dịch vụ; phát triển các kênh phân phối khác như phân phối qua ngân hàng, Internet... 3.3.2. Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng chuyên môn nghiẹp vụ cho các cán bộ nhân viên bảo hiểm Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc hoạch định và thực hiện thành công chiến lược kinh doanh của DNBH nói chung và DNBHPNT Việt Nam nói riêng. Để một DN thắng thế trong cạnh tranh, thực tế cho thấy trước hết DN cần phải có một đội ngũ lao động có năng lực kinh doanh chuyên nghiệp và nhạy bén hơn các đối thủ cạnh tranh khác. Trong đó đào tạo phát triển nguồn nhân lực đúng hướng, có chọn lọc sẽ mang lại hiệu quả cao hơn rất nhiều. Một trong những hạn chế hiện nay của các DNBHPNT Việt Nam chính là ở đội ngũ cán bộ thiếu năng lực quản lý chưa cao, trình độ nghiệp vụ chuyên môn còn thấp kém. Vì vậy, trong giai đoạn trước mắt các DNBHPNT Việt Nam nên tập trung đào tạo một số chuyên gia trong lĩnh vực thiết kế sản phẩm, xây dựng biểu phí BH, đầu tư... Với mỗi loại lao động khác nhau nên tập trung đào tạo theo hướng khác nhau, chẳng hạn: - Đối với lao động quản lý: Cần phân cấp giao quyền rõ ràng, khuyến khích sự độc lập, sáng tạo, nắm vững chủ trương, chính sách của Nhà nước, nắm vững nghiệp vụ. Có kế hạch quy hoạch nguồn cán bộ, cử đi đào tạo các chương trình nâng cao công tác quản lý... - Đối với lao động khai thác dịch vụ, phục vụ: Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, luôn có kế hoạch cử đi đào tạo và đào tạo lại các lớp kỹ năng về bảo hiểm, bồi dưỡng kỹ năng ứng xử và tác phong phục vụ.., Để chuẩn bị cho giai đoạn tiếp theo thì việc cần thiết lúc này là các DNBHPNT Việt Nam phải đánh giá được thực trạng đội ngũ lao động về các mặt trình độ, năng lực, cơ cấu để có cơ sở cho công tác lập quy hoạch nguồn cán bộ, kế hoạch đào tạo, kế hoạch về chi phí đào tạo phục vụ mục tiêu phát triển trong bối cảnh cạnh tranh và hội nhập. Việc xây dựng chính sách đào tạo và tái đào tạo nguồn nhân lực để đáp ứng nhu cầu phát triển từng giai đoạn, tập trung theo hướng chuyên môn sâu, tránh đào tạo manh mún và lãng phí cũng là một công việc quan trọng. 3.3.3. Sử dụng các công nghệ hiện đại trong tổ chức kinh doanh dịch vụ bảo hiểm Hiện nay công nghệ thông tin đối với DNBHPNT Việt Nam là bước đi không thể bỏ qua, đó là yếu tố góp phần quan trọng vào cải thiện năng suất và hiệu quả hoạt động kinh doanh của các DNBH. ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động kinh doanh BH đã trở thành đòn bẩy cho sự phát triển của DN, là điều kiện hội nhập vào cộng đồng tài chính quốc tế. Các DNBH phải xác định được tầm vóc của việc áp dụng công nghệ thông tin hiện đại trong hoạt động kinh doanh của mình để đầu tư hợp lý cho phát triển quy mô, công nghệ. Đối với các DNBHPNT, kết quả của công tác thống kê rủi ro, tổn thất đóng vai trò vô cùng quan trọng, nó là cơ sở để DN hoạch định các cơ chế, chính sách trọng yếu như: địnhgiá sản phẩm, sàng lọc rủi ro, trích lập quỹ dự phòng... Thông qua việc áp dụng công nghệ hiện đại công tác thống kê sẽ được thực hiện một cách dễ dàng chính xác và nhanh chóng góp phần nâng cao chất lượng DVBH, nâng cao năng suất lao động, đáp ứng được yêu cầu cuả quản lý và tăng sức cạnh tranh cho các DNBHPNT Việt Nam. Vì vậy, trong thời gian tới các DNBHPNT Việt Nam cần chú trọng đẩy mạnh việc áp dụng công nghệ thông tin hiện đại trong công tác quản lý ở các DN và các đại lý BH như: xây dựng thông tin nội bộ, lập trang Web nhằm củng cố mối quan hệ giữa DN với đại lý, giữa các đại lý với nhau và giữa công ty, đại lý với khách hàng, đảm bảo thông tin được truyền đi nhanh chóng. Khả năng cuả một DNBH khi tiếp cận với công nghệ mới trong mọi lĩnh vực hoạt động sẽ đảm bảo cho DN có được lợi thế cạnh tranh với các đối thủ trên thị trường. 3.3.4. Hoàn thiện môi trường pháp lý của Nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm Trong thời gian qua, một loạt các văn bản pháp lý đã được thông qua nhằm hướng dẫn thi hành "Luật kinh doanh bảo hiểm" như: hướng dẫn sử dụng chuyên viên tính phí chỉ định.., đây là văn bản pháp lý quan trọng nhằm tạo điều kiện cho các DNBHPNT phát triển đồng thời tăng cường sự quản lý của nhà nước. Tuy nhiên để đáp ứng được yêu cầu phát triển tương đối mạnh của thị trường BH trong thời gian tới, Nhà Nước và các cơ quan quản lý cần bổ sung các quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm và các văn bản liên quan phù hợp với tập quán kinh doanh BH quốc tế, điều kiện thực tế Việt Nam và mục tiêu định hướng của Nhà nước về phát triển thị trường DVBH; thực thi luật cạnh tranh, để đảm bảo cạnh tranh lành mạnh. Bên cạnh đó Nhà nước cần có những quy định chặt chẽ hơn về việc cho phép các Công ty BH nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Các quy định của pháp luật cần tạo ra sự bình đẳng theo hướng các DN cùng hoạt động trong một lĩnh vực thì được hưởng những quyền và thực hiện những nghĩa vụ pháp luật như nhau. Đồng thời Nhà nước cần thực hiện cơ chế quản lý và giám sát chặt chẽ nhằm tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng và đảm bảo sự phát triển ổn định của thị trường, cụ thể: - Nâng cao quyền tự chủ kinh doanh và tự chịu trách nhiệm của DN trong việc thực hiện các yêu cầu báo cáo theo quy định pháp luật. - Quản lý và giám sát thị trường một cách minh bạch và công khai, đặc biệt chú trọng đến các yêu cầu về an toàn tài chính. Xây dựng các chỉ tiêu hoàn chỉnh phục vụ cho công tác giám sát tài chính được chặt chẽ. Từ đó có cơ sở can thiệp kịp thời khi DN có nguy cơ mất khả năng thanh toán, đảm bảo cho thị trường DVBH Việt Nam phát triển ổn định và bền vững. - Hạn chế sự can thiệp hành chính vào hoạt động thường ngày của các DNBH và tăng cường củng cố tổ chức bộ máy cơ quan quản lý Nhà nước về kinh doanh BH theo hướng đảm bảo qui mô phù hợp với qui mô phát triển của thị trường, đồng thời đảm bảo quản lý theo loại hình nghiệp vụ BH. Cơ quan quản lý phải thực hiện chuyên môn hoá hai chức năng cơ bản là chức năng quản lý ngành kinh tế - kỹ thuật và chức năng quản lý, xây dựng mối quan hệ giữa cơ quan quản lý DN trên cơ sở hợp tác và tin cậy lẫn nhau. - Đơn giản hoá các thủ tục hành chính trong việc cấp giấy phép, đăng ký, phê chuẩn sản phẩm và sửa đổi giấy phép. Ngoài ra, Nhà nước cũng cần thực hiện các cam kết quốc tế và mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực BHPNT. Để phù hợp với con đường hội nhập của ngành bảo hiểm Việt Nam, Chính phủ cần có những điều chỉnh dần lới lỏng và dần bãi bỏ những quy định ràng buộc quá chặt chẽ và làm hạn chế sự phát triển của thị trường BHPNT trong xu thế hội nhập theo hướng: - Giảm dần sự bảo hộ của Nhà nước đối với các DN trong nước, tiến tới một môi trường pháp lý minh bạch áp dụng bình đẳng cho các DN thuộc tất cả các thành phần kinh tế, thể chế hoá các cam kết quốc tế bằng các quy định pháp luật cụ thể. - Mở rộng hợp tác với các cơ quan quản lý BH nước ngoài và các tổ chức quốc tế nhằm tận dụng sự hỗ trợ về công nghệ, trao đổi thông tin và kinh nghiệm, đào tạo cán bộ nhằm đẩy nhanh quá trình hội nhập của ngành BH với thị trường khu vực và quốc tế. - Xem xét và đối chiếu các quy định pháp lý hiện tại với các luật lệ của Tổ chức Thương Mại Thế giới nhằm xác định những quy định cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với các tiêu chuẩn và nguyên tắc quốc tế. Đồng thời Nhà nước cần có biện pháp hạn chế tình trạng cạnh tranh không lành mạnh như: ban hành biểu phí thống nhất, quy định mức hoa hồng đối với từng lĩnh vực BH. Cùng với xu thế chung của thị trường tài chính quốc tế, việc hợp tác phát triển kinh doanh các bên cùng có lợi giữa các DNBH, ngân hàng thương mại và các công ty tài chính sẽ ngày càng phát triển theo hướng cung cấp cho khách hàng các dịch vụ trọn gói và hoàn hảo. Do vậy, ranh giới giữa các ngành trong các lĩnh vực tài chính ngày càng mờ dần. Do đó, đòi hỏi cơ quan quản lý thị trường BH phải có những thay đổi và thích ứng kịp thời, một mặt vừa để tạo cho các DNBH phát triển mạnh mẽ nhờ các hình thức hợp tác linh hoạt, mặt khác, cũng có được một cơ chế pháp lý đảm bảo sự tuân thủ các quy định về nghiệp vụ của các DNBH và bảo đảm được quyền lợi của khách hàng trước các sản phẩm tài chính ngày càng phức tạp. 3.3.5. Nâng cao vai trò cầu nối của Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam đối với các hoạt động bảo hiểm ở các nước phát triển, BH là nhu cầu. Do đó, đòi hỏi hoạt động này phải mở rộng nhiều loại hình, phải kinh doanh với những sản phẩm thật đa dạng. Với Việt Nam, hoạt động BH trong nhận thức của mọi người còn mới, vậy nên tiềm năng nhiều nhưng thách thức cũng rất lớn, nhất là trong nền kinh tế đầy tính cạnh tranh hiện nay. Chính vì vậy, vai trò tổ chức, tập hợp của Hiệp hội càng cần phải khẳng định bằng tính năng động và hiệu quả.., Trong thời gian qua, có thể nói, Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam đã góp phần không nhỏ giúp các DNBH Việt Nam đạt được kết quả kinh doanh cao. Ra đời và chính thức hoạt động từ năm 2000, Hiệp hội đã nhanh chóng trở thành “cầu nối” tin cậy đối với các DNBH hoạt động trong môi trường còn mới mẻ và có tính cạnh tranh cao; là tâm điểm trong “những vấn đề lớn” của hoạt động kinh doanh BH như: xây dựng quy tắc, phạm vi, biểu phí BH, tuyên truyền hoạt động BH, đề phòng hạn chế tổn thất..,Hiệp hội còn trở thành cầu nối giữa cơ quan quản lý Nhà nước - các DNBH - người tiêu dùng nhằm xây dựng một môi trường kinh doanh lành mạnh. Hiệp hội đã làm tốt chức năng đại diện cho tiếng nói và nguyện vọng của các doanh nghiệp BH trước cơ quan quản lý nhà nước và công chúng về hoạt động kinh doanh BH, thực hiện quy chế tự quản, duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh và thúc đẩy hợp tác trong kinh doanh giữa các DNBH. Trong năm 2002 Hiệp hội đã có những nỗ lực nhằm thực hiện triệt để Nghị định số 115/1997/NĐ-CP ngày 17/02/1997 của Chính phủ về chế độ BH bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. Đặc biệt trong nửa đầu năm 2005, Hiệp hội đã thúc đẩy sự hợp tác chặt chẽ giữa các DN thành viên thông qua hàng loạt các thoả thuận hợp tác trong BH Tàu biển, BH Cháy nổ – Kỹ thuật, BH học sinh và BH nhân thọ, thông qua quy tắc ứng xử giữa các DNBH góp phần lành mạnh hoá thị trường BH Việt Nam. Ngoài ra công tác tuyên truyền tăng cường hợp tác quốc tế giữa Hiệp hội và các đối tác nước ngoài cũng đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ. Là một tổ chức dân sự nghề nghiệp hoạt động trên cơ sở tham gia tự nguyện và đóng góp kinh phí của các hội viên là các DNBH, hoạt động của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam thực chất là hoạt động tự quản của các DNBH. Vì vậy vai trò “ trọng tài” của Hiệp hội phụ thuộc rất nhiều vào ý thức chấp hành của mọi thành viên. Mặc dù đã có rất nhiều cố gắng nhưng bên cạnh những kết quả đã đạt được vẫn còn có những hạn chế mà Hiệp hội cần khắc phục như: hiệu quả hoạt động còn rất thấp so với yêu cầu của các công ty hội viên cũng như của thị trường; năng lực hiện tại còn nhiều bất cập so với nhiệm vụ đặt ra. Vì vậy trong thời gian tới để phát huy hơn nữa vai trò “ trọng tài” của Hiệp hội bảo hiểm Việt nam, thì Hiệp hội cần kiện toàn, sắp xếp bộ máy tổ chức, nghiên cứu đưa ra những quy tắc, phạm vi, biểu phí mới phù hợp với tình hình mới. Ngoài ra các cơ chế tài chính của Hiệp hội phải được các hội viên tán thành. Đi liền với cơ chế tài chính thì trách nhiệm và quyền hạn của Hiệp hội phải đủ mạnh để xử phạt những hội viên vi phạm những thoả thuận hợp tác. Muốn vây cần có những quy định rất rõ ràng về mức phạt cho từng trường hợp vi phạm. Mặt khác các DNBH khi là hội viên của Hiệp hội phải được hưởng một số ưu đãi từ chính sách quản lý của Nhà nước nhằm khuyến khích các doanh nghiệp tham gia vào Hiệp hội. Khi Hiệp hội thực hiện tốt vai trò “ trọng tài”, đẩy lùi tình trạng cạnh tranh không lành mạnh thì công việc quản lý của các cơ quan Nhà nước cũng sẽ được giảm nhẹ. Do đó các cơ quan Nhà nước cũng cần hỗ trợ Hiệp hội có những can thiệp hành chính đối với nhưũng DNBH vi phạm luật chơi; mặt khác Nhà nước cũng cần có cơ quan chức năng để giám sát hoạt động của Hiệp hội. kết luận Qua hơn 10 năm, từ khi Nghị định 100/NĐ-CP ngày18/12/1993 ra đời, những rào cản độc quyền trên thị trường DVBH Việt Nam đang dần dần được tháo gỡ. Thị trường DVBH những năm gần đây đạt tốc độ tăng trưởng cao, bình quân từ 29-30%. Dự báo thị trường DVBH Việt Nam với các các loại hình bảo hiểm chất lượng cao, thu hút nhiều vốn đầu tư sẽ có xu hướng phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới. Tới đây, thị trường DVBH nói chung và các DNBHPNT Việt Nam nói riêng sẽ phải tuân thủ các cam kết quốc tế, các cam kết gia nhập WTO cũng như các hiệp định song và đa phương. Đây chính là thời điểm các DNBH kinh doanh trong môi trường cạnh tranh để chờ đón thời cơ và đối mặt với những thách thức. Trong điều kiện đó đòi hỏi các DNBH phải có định hướng chiến lược đúng đắn và hệ thống các giải pháp hữu hiệu để khai thác hết được tiềm năng của thị trường DVBH, nâng cao khả năng cạnh tranh của DN. Để đạt được mục tiêu đặt ra, luận văn đã tập trung giải quyết những vấn đề cơ bản sau đây: - Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của DN: khái niệm cạnh tranh, năng lực cạnh tranh, những nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của DN nói chung. Đồng thời làm rõ đặc điểm hoạt động kinh doanh và những nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của DNBHPNT trong điều kiện Việt Nam là thành viên của WTO và đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế một cách sâu rộng. Bên cạnh đó, luận văn đã nêu lên những cam kết quốc tế, những cam kết gia nhập WTO từ phía Việt Nam về mở cửa thị trường DVBH và làm rõ những cơ hội và thách thức đối với các DNBHPNT Việt Nam trong điều kiện đó. Từ đó thấy được sự cần thiết khách quan phải nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNBHPNT Việt Nam. - Trên cơ sở những lý luận cơ bản, luận văn đã phân tích thực trạng hoạt động kinh doanh và năng lực cạnh tranh của các DNBHPNT Việt Nam chủ yếu từ năm 2003 đến nay; chỉ rõ thị trường DVBH Việt Nam trong thời gian qua đã có những bước phát triển nhanh chóng, tình trạng độc quyền trong kinh doanh BH dần được xoá bỏ; đặc biệt là từ sau khi nghị định 100/NĐ-CP ngày 18/12/1993 đến nay thi trường DVBH Việt Nam đã hình thành nên một hệ thống các DNBH đa dạng gồm 37 doanh nghiệp, trong đó có 21 DNBHPNT thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau, thúc đẩy quá trình cạnh tranh lành mạnh, tạo ra động lực phát triển cho thị trường DVBH Việt Nam trong tương lai. Trên cơ sở khái quát tình hình cạnh tranh của các DNBHPNT như: cạnh tranh về phí BH; cạnh tranh về chi trả hoa hồng; về sản phẩm BH... Luận văn đã đánh giá năng lực cạnh tranh của các DNBHPNH hiện nay và chỉ rõ những kết quả, những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế đó là: mặc dù doanh thu có tăng nhanh và liên tục qua các năm nhưng tỷ lệ phí BH trên GDP còn thấp; quy mô vốn của các DNBHPNT còn nhỏ, việc trích quỹ dự phòng và quỹ dự trữ còn hạn chế do thời gian hoạt động của các DN chưa dài; vẫn còn tồn tại rất nhiều hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh; hoạt động đầu tư tuy được mở rộng hơn nhưng danh mục đầu tư còn nghèo nàn, chủ yếu mới tập trung vào hình thức gửi ngân hàng, mua trái phiếu chính phủ, ít quan tâm đến các hình thức đầu tư có hiệu quả hơn như mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp, đầu tư bất động sản, góp vốn… Vì vậy hiệu quả đầu tư của các DNBHPNT còn chưa cao (tỷ lệ lợi nhuận chỉ đạt từ 7-15%); trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và số lượng đội ngũ cán bộ nhân viên còn chưa đáp ứng kịp nhu cầu phát triển của ngành BH…Tất cả những yếu kém trên làm cho năng lực cạnh tranh của các DNBHPNT Việt Nam bị hạn chế. - Từ việc phân tích thực trạng và mục tiêu chiến lược phát triển thị trường BH, luận văn đã đề xuất những phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của DNBHPNT Việt Nam, gồm 3 phương hướng và 5 nhóm giải pháp là: + Xây dựng và quảng bá thương hiệu, đẩy mạnh hoạt động marketing và đa dạng hoá các kênh phân phối để thu hút khách hàng, mở rộng thị phần + Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ nhân viên BH. + Sử dụng công nghệ hiện đại trong tổ chức kinh doanh DVBH. + Hoàn thiện môi trường pháp lý về hoạt động kinh doanh DVBH. + Nâng cao vai trò của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam đối với các hoạt động kinh doanh DVBH. Thực hiện đồng bộ các phương hướng và giải pháp nói trên, trong tương lai không xa các DNBHPNT Việt Nam sẽ dần tăng cường được năng lực tài chính, quảng bá và nâng cao được uy tín, thu hút được ngày càng nhiều khách, khảng định được thương hiệu của mình trên thị trường, góp phần phát triển thị trường DVBH Việt Nam. Từ đó nâng cao được năng lực cạnh tranh trong điều kiện Việt Nam đang hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng./. Danh mục tài liệu tham khảo Hùng Anh (2006), "Thị trường bảo hiểm: Làn sóng đầu tư mới", Tạp chí Đầu tư, (3), tr.5. Bộ Tài Chính (2004), Thông tư số 99/2004/TT – BTC ngày 19/10/2004 của Bộ Tài Chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 43/2001/NĐ-CP. GS.TS Chu Văn Cấp (2003) Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta, trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Chính phủ (2004), Nghị định số 43/2004/NĐ ngày 01/10/2004 của Chính Phủ, quy định chế độ tài chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm. Đỗ Tất Cường (2005), Dịch vụ bảo hiểm ở nước ta hiện nay trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Nguyễn Minh Dũng (2004) “Kinh nghiệm hội nhập Thị trường bảo hiểm quốc tế và bài học đối với Việt Nam”, Tạp chí Thông tin tài chính (4), tr. 25-28. Mai Xuân Dũng (2007), “Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển 2006”, Tạp chí bảo hiểm - Tái bảo hiểm Việt Nam, (1), tr.18-19. Đào Mạnh Dương (2005), "Thị trường bảo hiểm Việt Nam giai đoạn 2001-2005", Tạp chí Bảo hiểm - Tái bảo hiểm Việt Nam, (8), tr. 6-9. Nguyễn Văn Định (2003) Quản trị kinh doanh bảo hiểm, Nxb Thống kê, Hà Nội. “Định hướng phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam 2007 - 2010” (2007), Tạp chí Thị trường Bảo Hiểm-Tái Bảo hiểm Việt Nam (2), tr. 4-7. Nguyễn Đức Hải (2005), Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Hoàng Trần Hậu, Nguyễn Thị Hoài Lê (2002), "Vai trò của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ với sự phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam", Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (12), tr.3-11. Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam (2006), Bản tin, (4), tr. 72-73. Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam (2007), Bản tin, (1), tr. 32-33. Trịnh Thanh Hoan (2005), "Mở cửa thị trường - những cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam", Tạp chí Bảo hiểm, (3), tr.3-5. Tiến Hùng (2006), "Giải pháp đầu tư cho doanh nghiệp bảo hiểm", Thời báo Kinh tế, (181), tr.18-19. Đoàn Trung Kiên (2004), “Hoạt động đầu tư của bảo hiểm Việt Nam trong thị trường tài chính”, Tạp chí nghiên cứu kinh tế, (317), tr.16 – 21. Lê Song Lai (2005), "Thị trường bảo hiểm Việt Nam 6 tháng đầu năm 2005 - Bức tranh sáng màu", Tạp chí Tài chính, (7), tr.37-39. Trương Mộc Lâm, Đoàn Minh Phụng (2005), Giáo trình nghiệp vụ bảo hiểm, Nxb Tài Chính, Hà Nội. Xuân Long (2002), "Thị trường bảo hiểm nhân thọ, cạnh tranh gay gắt giữa các công ty", Tạp chí Thị trường giá cả, (12), tr.10-11. Phùng Đắc Lộc (2007), “Thị trường bảo hiểm Việt Nam với việc gia nhập WTO”, Tạp chí Tài chính-Bảo hiểm (2), tr. 1-5. C.Mác-Ph.Ănghen (1995), Toàn tập, Tập 25, Phần I, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Phan Tiến Nguyên (2006), "Lộ trình mới của các công ty bảo hiểm", Tạp chí Bảo hiểm Châu á, (5), tr.12. Hiền Pha (2005), “Xung quanh năng lực cạnh tranh của dịch vụ bảo hiểm Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế”, Tạp chí Tài Chính, (5), tr. 49-51. Phát triển thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam trong tiến trình hội nhập (2004). Diễm Phúc (2007), “Sản phẩm bảo hiểm liên kết đầu tư. Sự mong đợi của thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam”, Tạp chí Tài chính bảo hiểm (2), tr. 29-32. Trần Trọng Phúc (2005), "Một số chính sách từ phía Nhà nước nhằm đẩy mạnh hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ", Tạp chí Tài chính, (10), tr.26-28. Đoàn Minh Phụng (2004) “Thấy gì qua hiệu quả kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ?” Tạp chí Tài chính (10), tr.20-23. Nguyễn Hùng Quán (2005), "Qua vụ Pacific Airline, rút ra điều gì đối với các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam", Tạp chí Tài chính, (485), tr 17-18. PTS.TS Hồ Sĩ Sà (2000), Giáo trình Bảo hiểm, Nxb Thống kê, Hà Nội. Tạp chí Thị trường bảo hiểm -Tái Bảo hiểm Việt Nam, (4), (2006), tr.33. Lê Hữu Thành (2004), Sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay trong hội nhập kinh tế quốc tế, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Ngô Kim Thanh (2003), “Vai trò của chiến lược kinh doanh đối với các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam trong xu thế hội nhập”, Tạp chí bảo hiểm (4), tr. 4-6. Phí Trọng Thảo (2002), "Nhu cầu bảo hiểm nhân thọ trên thị trường bảo hiểm Việt Nam", Tạp chí Tài chính, (9), tr.41-43. Phí Trọng Thảo (2003), "Tổng quan thị trường bảo hiểm Việt Nam năm 2002 và dự báo năm 2003", Tạp chí Tài chính, (1+2), tr.82-85. Phí Trọng Thảo (2007), “Không ngừng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành bảo hiểm Việt Nam”, Tạp chí tài chính bảo hiểm (2), tr. 5-7. Nguyễn Thị Thoa (2007), “ Thị trường bảo hiểm hàng không 2006”, Tạp chí bảo hiểm - Tái bảo hiểm Việt Nam (1), tr. 20-21. “Thị Trường Bảo Hiểm các nước ASEAN - Hứa hẹn những cơ hội lớn”, (2007), Tạp chí bảo hiểm – Tái bảo hiểm Việt Nam (2), tr. 14-17 (theo Asia Insurance Review 2/2007). “Thị Trường Bảo Hiểm Việt Nam 2006” (2007), Tạp chí thị trường bảo hiểm- Tái bảo hiểm Việt Nam (1),tr. 3-6. “Thị Trường Bảo Hiểm Việt Nam, Cạnh tranh đã tới mức báo động” (2007), Tạp chí bảo hiểm - Tái bảo hiểm Việt Nam (2), tr. 13. Vũ Thế Thường (2002), "Trở ngại tâm lý trong tham gia bảo hiểm nhân thọ ở nước ta hiện nay", Tạp chí Tâm lý học, (11), tr.60-63. Trung tâm đào tạo Bảo Việt (20904) Marketing trong hoạt động khai thác bảo hiểm, Nxb Thống Kê,Hà Nội. Trường Đại học Lao động - Xã hội (2007), Giáo trình Quản trị kinh doanh bảo hiểm, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội. Văn kiện gia nhập WTO của Việt Nam (2006), Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương CIEM, Giáo trình các vấn đề pháp lý và thể chế về chính sách cạnh tranh và kiểm soát độc quyền kinh doanh, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) và Chương trình phát triển Liên hợp quốc(UNDP) (2003), Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội. www avi.org.vn của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam. www mof.gov.vn của Bộ Tài Chính. Phụ lục 10 sự kiện của ngành bảo hiểm Việt Nam năm 2006 1. Việt Nam gia nhập WTO, trong đó cam kết về dịch vụ Bảo hiểm chỉ hạn chế doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn nước ngoài kinh doanh sản phẩm bảo hiểm bắt buộc. Cho đến 1/1/2008 hạn chế này được bãi bỏ, doanh nghiệp bảo hiểm có vốn nước ngoài hoạt động tại Việt Nam được đối xử quốc gia như các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam. Việc này đòi hỏi các doanh nghiệp bảo hiểm đang hoạt động tại Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh hơn nữa. 2. VINARE và Bảo Minh lần lượt niêm yết cổ phiếu trên Thị trường Giao dịch Chứng khoán Hà Nội với giá chào sàn khá cao. Điều này thể hiện các nhà đầu tư và công chúng đánh giá cao uy tín và kỳ vọng vào sụ phát triển của VINARE và Bảo Minh nói riêng, ngành bảo hiểm nói chung. PVI được cổ phần hoá, niêm yết và chào sàn chứng khoán vào 29/12/06. 3. Thị trường bảo hiểm tiếp nhận thêm một số doanh nghiệp bảo hiểm được cấp phép hoạt động: Toàn cầu, bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn, Bảo tín, Ace Non life, Liberty. Lần đầu tiên thị trường bảo hiểm Việt Nam có sự mua bán- chia tách doanh nghiệp bảo hiểm: Công ty Bảo hiểm QBE ( úc ) bán phần vốn của mình trong công ty liên doanh Bảo hiểm Việt úc cho Ngân hàng Đầu tư Phát triển Việt Nam để hình thành Công ty Bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư Phát triển Việt Nam ( BIC ) đồng thời mua lại Công ty Bảo hiểm Allianz để kế thừa thành lập Công ty bảo hiểm mới ( QBE ). 4. Dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 42, Nghị định 43 hướng dẫn thi hành Luật kinh doanh Bảo hiểm đã trình Chính phủ nhằm nâng cao khả năng tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm, tăng cường vai trò tự quản và trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm, bảo vệ quyền và lợi ích của người tham gia bảo hiểm tốt hơn, phù hợp với cam kết WTO trong lĩnh vực hoạt động kinh doanh bảo hiểm. 5. Nghị định 130/2006/NĐ - CP ngày 8/11/2006 Quy định chế độ bảo hiểm cháy nổ bắt buộc và thực hiện tốt hơn công tác phòng cháy, chữa cháy và khắc phục kịp thời thiệt hại về tài chính do cháy nổ gây ra. 6. Bộ Tài chính đang tiến hành sửa đổi bổ xung Quyết định 23 ban hành quy tắc điều khoản biểu phí Bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới theo hướng nâng cao mức trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm, đảm bảo tốt hơn quyền lợi của nạn nhân, tăng cường công tác đề phòng hạn chế và đảm bảo an toàn giao thông. Bộ Tài chính đang dự thảo Quy tắc bảo hiểm bắt buộc xây dựng - lắp đặt và trách nhiệm người sử dụng lao động trong hoạt động xây dựng; Quy tắc bảo hiểm cháy nổ bắt buộc; Quy tắc bảo hiểm bắt buộc người Việt Nam du lịch lữ hành quốc tế, phù hợp cam kết của Việt Nam với WTO, tạo điều kiện cho thị trường bảo hiểm Việt Nam phát triển. 7. Các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đầu tư máy chủ và đưa phần mềm quản lý trị giá trên 500 triệu đồng vào hoạt động nhằm đưa ra danh sách đen các đại lý bảo hiểm đã vi phạm quy định tại Thông tư 98 của Bộ Tài chính, nâng cao chất lượng tuyển chọn và đào tạo đại lý. 8. Các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đã trình Bộ Tài chính phê chuẩn sản phẩm Bảo hiểm liên kết đầu tư, tăng thêm quyền của người tham gia bảo hiểm về quyết định đầu tư sinh lời từ số phí bảo hiểm đã đóng. Hy vọng khi được phê chuẩn, việc triển khai sản phẩm trên sẽ là cơ hội tăng trưởng phát triển của Bảo hiểm nhân thọ. 9. Các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ cùng Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam đầu tư 02 công trình đường hộ lan ngăn cách đường sắt - đường bộ đảm bảo an toàn giao thông trị giá 2 tỷ đồng tại km 159 (Thanh Hoá) và km 313 (Nghệ An ). 10. Do thời tiết khắc nghiệt, 02 cơn bão liên tục đổ bộ vào miền Trung và miền Nam làm tăng số tiền bồi thường của các doanh nghiệp bảo hiểm đồng thời cho thấy có nhiều doanh nghiệp, tổ chức kinh tế xã hội bị tổn thất nặng nề không được bồi thường vì không mua bảo hiểm. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2735.doc
Tài liệu liên quan