Nghiên cứu các yếu tố cơ bản về thị trường phân bón vô cơ trên thị trường Việt Nam

Nghiên cứu các yếu tố cơ bản của thị trường phân bón vô cơ trên thị trường Việt nam Lời nói đầu 1.Tính cấp thiết của đề tài: - Nông nghiệp là một ngành sản xuất quan trọng của Việt Nam, hiện tại nông nghiệp vẫn chiếm 70% lực lượng lao động của toàn xã hội và khoảng 27,2% GDP của cả nước. Theo nghị quyết đại hội toàn quốc lần thứ VIII của Đảng cộng sản Việt Nam, từ năm 1997 trở đi Việt Nam sẽ chuyển sang một giai đoạn phát triển mới giai đoạn thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mặc dù vậy

doc67 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1472 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu các yếu tố cơ bản về thị trường phân bón vô cơ trên thị trường Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sản xuất nông nghiệp vẫn có một vị trí hết sức quan trọng trong nhiều năm nữa. - Trong sản xuất nông nghiệp, có nhiều yếu tố tác động đến năng suất và sản lượng các loài cây trồng như: đất đai, thời tiết, khí hậu, các thiết bị kỹ thuật, giống, phân bón ...v.v. Song phân bón bao giờ cũng là yếu tố có tính quyết định thường xuyên. Bởi vậy, ở Việt Nam phân bón được xếp vào loại mặt hàng chiến lược hết sức quan trọng. - Là một nước nông nghiệp, nên nhu cầu về phân bón của Việt Nam rất lớn (bình quân mỗi năm trên 2 triệu tấn). Tuy nhiên công nghiệp phân bón của Việt Nam đang còn quá nhỏ bé và lạc hậu, hiện tại mới sản xuất và cung ứng được khoảng 8- 10% nhu cầu về phân ure của cả nước, số còn lại phải dựa vào nhập khẩu từ bên ngoài. - Nông nghiệp luôn cần phân, song do nhiều lý do khách quan và chủ quan tác động (tài chính, tổ chức quản lý, cơ chế chính sách...) nên việc nhập khẩu phân bón của Việt Nam vừa qua diễn ra không được thuận lợi. Điều này đã làm cho Cung-Cầu, giá cả phân bón ở Việt Nam diễn ra không ổn định: lúc sốt nóng, lúc sốt lạnh gây không ít khó khăn cho nông dân và cho sản xuất nông nghiệp. Chính vì vậy, việc nghiên cứu các yếu tố cơ bản của thị trường phân bón vô cơ như: cung, cầu, giá cả phân bón vô cơ trên thị trường và các chính sách điều tiết của nhà nước nhằm tìm ra những giải pháp hữu hiệu. Giải quyết một cách căn bản, ổn định vấn đề phân bón và thị trường phân bón ở Việt Nam là một đòi hỏi cấp bách hiện nay. 2. Mục đích nghiên cứu: -Mục đích của đề tài là đánh giá đúng đắn thực trạng cung cầu phân bón vô cơ trên thị trường ở Việt Nam hiện nay. -Hệ thống hoá các công cụ điều tiết của nhà nước quản lý vĩ mô hoạt động thương mại kinh doanh phân bón vô cơ. -Đề xuất những giải pháp chủ yếu, trong đó quan trọng nhất là cơ chế tổ chức và hệ thống chính sách nhằm giải quyết một cách căn bản vấn đề phân bón và ổn định thị trường phân bón ở Việt Nam trong giai đoạn tới (2000 - 2010). Phần 1: Nhu cầu phân bón vô cỏ trên thị trường Việt nam Mục tiêu phát triển nền nông nghiệp bền vững và nhu cầu phân bón vô cơ. 1.1.Phát triển nông nghiệp-mục tiêu mũi nhọn của nền kinh tế Việt nam. Khi đánh giá về những thành tựu đạt được trong sự nghiệp đổi mới kinh tế Việt Nam, các nhà kinh tế thế giới đều thống nhất nhận định rằng: Thành công lớn nhất là nông nghiệp. Điều đó hoàn toàn đúng, nông nghiệp Việt Nam bắt đầu đổi mới cơ chế quản lý từ sau Nghị quyết 10(4/1988). Nếu trước đổi mới nông nghiệp Việt Nam mang nặng tính tự túc tự cấp, làm không đủ ăn, lương thực thiếu triền miên từ năm này qua năm khác thì từ sau đổi mới, tình hình đã khác hẳn. Nông nghiệp Việt Nam hiện nay được xem là ngành quan trọng để phát triển kinh tế đất nước. Vai trò của nó được thể hiện như sau: + Sản xuất nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong quá trình tích luỹ vốn cho Công nghiệp hoá. Trong nhiều năm trước đây, nông nghiệp đã tạo ra trên 40% thu nhập quốc dân sản xuất và hiện nay ngành này đang tạo ra gần 30% GDP và hơn 45% giá trị xuất khẩu của cả nước. Tích luỹ từ nông nghiệp tuy không lớn về ngoại tệ, nhưng lại diễn ra trên phạm vi rộng (trên 10 triệu hộ nông nghiệp). Tích luỹ từ ngành này được thực hiện trực tiếp thông qua thuế nông nghiệp trước đây(nay là thuế sử dụng đất nông nghiệp). Đối với các Tỉnh, Huyện nông nghiệp thì đây là nguồn thu chủ yếu. Biểu 1: tỷ lệ thuế nông nghiệp trong tổng thu ngân sách và GDP nông nghiệp (1993-1998) Năm Tỷ lệ thuế nông nghiệp so với Tổng thu ngân sách Tổng GDP nông nghiệp 1993 4,7% 1,9% 1994 6,7% 2,3% 1995 6,1% 3,6% 1996 4,2% 3,3% 1997 2,7% 2,4% 1998 2,7% 2,5% Mức và tỷ lệ đóng góp của thuế nông nghiệp vào ngân sách nhà nước và vào GDP tuy không lớn nhưng là nguồn thu ổn định, có ý nghĩa rất quan trọng đến sự phát triển kinh tế địa phương trong bước đi ban đầu của thời kỳ công nghiệp hoá. + Sản xuất nông nghiệp là nguồn cung cấp ngoại tệ nhờ xuất khẩu: Để hiện đại hoá và công nghiệp hoá đất nước thì nước ta phải tạo điều kiện dựa vào thế mạnh của mình- đó là sự thuận lợi cho phát triển nông nghiệp và sản xuất hàng tiêu dùng. Nhờ vậy sản phẩm nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc xuất khẩu, tạo điều kiện cho việc mở rộng và phân công hợp tác quốc tế. Hơn nữa, với khoa học kỹ thuật còn kém, công nghiệp nhỏ bé, sản phẩm công nghiệp chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới thì nguồn tích luỹ từ nông nghiệp có ý nghĩa to lớn. Từ những mặt hàng xuất khẩu như gạo, cà phê, ca cao, chè... sẽ tạo nguồn ngoại tệ cho đất nước nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ cho phát triển các ngành kinh tế khác của đất nước. + Nông nghiệp và nông thôn là thị trường rộng lớn của công nghiệp và dịch vụ vì khu vực này chiếm 80% dân số cả nước. có thể nói sức mua của nông dân có vai trò quan trọng, đôi khi là quyết định đối với quy mô và tốc độ phát triển của công nghiệp và dịch vụ. Vì vậy, muốn phát triển kinh tế bền vững và ổn định phải dựa vào thị trường trong nước, trước hết là nông dân. Sức mua của thị trường này hiện nay còn rất thấp cho nên tiềm năng có thể khai thác là rất lớn. Nông dân càng giàu thì chênh lệch giữa nông thôn và thành thị càng thấp, sức mạnh của nông dân càng cao, tăng trương kinh tế càng lớn và ổn định. Ngược lai, thu nhập của nông dân càng thấp, chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị càng cao thì sức mua của nông thôn sẽ giảm, kéo theo nhiều vấn đề phức tạp như tỷ lệ đói nghèo cao, di cư từ nông thôn ra thành thị sẽ tăng, tỷ lệ thất nghiệp, lạm phát làm chậm quá trình tăng trưởng kinh tế. +Sản xuất nông nghiệp là nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm cho đời sống và cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp. Cho đến nay, lương thực thực phẩm tạo ra từ nông nghiệp vẫn là nguồn nuôi dưỡng không thể thiếu được của xã hội loài người. Nhu cầu lương thực, thực phẩm ngày càng tăng do dân số ngày càng nhiều, cũng như qua trình công nghiệp hoá gắn liền với sự tăng liên tục của lực lượng lao động phi nông nghiệp. Lương thực, thực phẩm không những là yếu tố vật chất cơ bản nuôi sống con người mà còn cung cấp các nguyên liệu cần thíêt cho Công nghiệp chế biến. Quy mô và tốc độ tăng trưởng của công nghiệp chế biến phụ thuộc vào quy mô và tốc độ phát triển nông nghiệp. Hiện nay công nghiệp chế biến ở ở nước ta chưa đạt đến trình độ cao. Nhiều nông sản nguyên liệu vẫn phải xuất thô, giá trị thấp như cà phê nhân, cao su tấm, cao su xốp, chè sơ chế, thuỷ sản đông lạnh, gỗ ván sàn.... cùng với quá trình công nghiệp hoá, tình trạng đó sẽ được khắc phục dần bằng việc xuất khẩu các sản phẩm tinh chế qua công nghiệp kỹ thuật cao. Khi đó vai trò của nông nghiệp trong việc cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp càng tăng lên. +Nông nghiệp còn là nguồn cung cấp nhân lực cho công nghiệp và dịch vụ. Học thuyết về kinh tế và thực tiễn các nước đã qua công nghiệp hoá chỉ ra rằng, quá trình phát triển kinh tế theo hướng hiện đại đều gắn kết với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động từ nông thôn ra thành thị, từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp. Công nghiệp hoá gắn liền với thành thị hoá và thu hút nguồn lao động từ nông nghiệp chuyển sang các ngành phi nông nghiệp. Quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá không đòi hỏi tăng nhanh số lượng lao động vào các hoạt động thuần tuý Công nghiệp nhưng đòi hỏi nhiều hoạt động dịch vụ hỗ trợ như vận chuyển, bao bì, đóng gói, phân loại sản phẩm, nhận hàng, tiếp thị, thông tin thị trường, y tế, văn hoá, giáo dục,....khi các hoạt động này tăng lên tất yếu đòi hỏi nguồn lao động bổ sung rất lớn từ nông nghiệp. Từ sự phân tích trên, chúng ta có thể thấy rằng nông nghiệp giữ một vị trí cực kỳ quan trọng trong sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Chính vì vậy, Đảng ta đã khẳng định: Phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn đã, đang và sẽ còn là mối quan tâm hàng đầu có vai trò quyết định đối với việc ổn định tình hình kinh tế, xã hội, tạo cơ sở cho phát triển công nghiệp. 1.2.Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp và nhu cầu phân bón vô cơ. Trước năm 1950, trong sản xuất nông nghiệp người nông dân Việt Nam dường như chỉ dùng các loại phân hữu cơ (phân chuồng, phân xanh, phân bùn, phân bắc....) để bón cho các loại cây trồng. Phân hữu cơ có những ưu điểm là: làm cho đất tơi xốp, từng bước được cải tạo, nâng cao dần độ màu mỡ của đất, song nhược điểm là phân huỷ lâu, cây trồng sử dụng được ít. Vì thế năng suất cây trồng tăng chậm. Từ những năm 1960 trở lại đây, các loại phân bón vô cơ như ure, kali, lân.... được đưa vào sử dụng ngày một tăng ở Việt Nam. Ngày nay, để vừa cải tạo đất, vừa nâng cao năng suất cây trồng người nông dân Việt Nam thường dùng kết hợp giữa phân hữu cơ và phân vô cơ. Tuy nhiên phân hữu cơ chủ yếu được dùng từ miềnTrung trở ra và thường là các hộ nông dân, ai có bao nhiêu dùng bấy nhiêu, nó không phải là hàng hoá mua bán trên thị trường như phânvô cơ. ở đồng bằng Sông Cửu Long do đồng ruộng hàng năm luôn được phù xa bồi đắp nên người nông dân không có tập quán dùng phân hưũ cơ để bón ruộng. Nói tới Cung- cầu về phân vô cơ là nói tới nhu cầu của người dân về loại phân này và khả năng cung ứng của các loại doanh nghiệp (thuộc mọi thành phần kinh tế ) cho họ. Tuy nhiên phân bón là một mặt hàng khá đặc biệt về cầu và cung. Mặt hàng này ở Việt Nam có những nét đặc trưng riêng hơi khác so với thị trường phân bón bình thường ở các nước có nền kinh tế phát triển hoàn hảo. Thứ nhất, nông nghiệp là ngành có lịch sử phát triển lâu đời. Nó mang tính kế thừa sâu sắc về các kỹ thuật gieo trồng từ đời nọ sang đời kia qua hàng nghìn năm với tính bảo thủ cao và khó thay đổi. Thứ hai, lao động trong nông nghiệp chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số lực lượng lao động nhất là ở những nước nông nghiệp như nước ta, những giá trị sản xuất nông nghiệp lại thấp hơn. Tuy nhiên, xu hướng biến đổi tỷ trọng nông nghiệp giảm dần về mặt số lao động và giá trị sản lượng. Theo quy luật tiêu thụ sản phẩm, sản phẩm nông nghiệp là sản phẩm thiết yếu, con người chỉ có thể tiêu dùng ở một mức độ nhất định mà không thể tăng mức tiêu dùng lên cao mãi được. Ngày nay, năng suất lao động ngày càng tăng, nên lao động cần cho sản xuất giảm. Như các ngành khác, nông nghiệp sẽ dần dần được cơ giới hoá sử dụng nhiều máy móc và chỉ cần ít người làm. Thứ ba, sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan như đất đai, thời tiết, nguồn nước....Trong đó đất đai giữ vai trò quyết định, đây là tư liệu sản xuất cơ bản của sản xuất nông nghiệp. Gắn liền vơí vai trò chủ đạo của đất đai là ảnh hưởng của thời tiết- yếu tố quan trọng quyết định sản lượng của nông nghiệp cao hay thấp. Trong nông nghiệp sự khác nhau về chất lượng đất trồng, khí hậu và nguồn nước sẵn dẫn đến việc sản xuất lương thực khác nhau và các biện pháp để nâng cao năng suất của mùa vụ cũng khác nhau. Tuy khối lượng chất dinh dưỡng trong đất rất lớn nhưng trên thực tế cây trồng không thể huy động hết được. Mặt khác, tỷ lệ chất dinh dưỡng trong đất không giống nhau. Có loại đất chứa nhiều đạm nhưng ít lân, Ka li và ngược lại. Ngoài ra, chất dinh dưỡng còn bị các loại cây trên mặt đất sử dụng hoặc đất bị rửa trôi. Do đó mà việc sử dụng phân bón cho đất, cho cây là rất cần thiết. 1.3.Phân bón vô cơ và nhu cầu phân bón vô cơ trong nông nghiệp Phân bón đã từng là một trong những nhân tố quan trọng (cùng với giống và thuỷ lợi) của cách mạng xanh, giúp cho nhiều nước đông dân tự túc được lương thực thoát khỏi đói nghèo. Trước đây sản lượng ngũ cốc chủ yếu đưa vào 2 yếu tố: Diện tích và năng suất. Trong thời gian gần đây khi diện tích đất canh tác ngày càng tới gần giới hạn tối đa thì vai trò năng suất ngày càng quan trọng.Theo tính toán của IFPRI năm 1996, hiện nay tăng năng suất đóng góp trên 80% tăng sản lượng ngũ cốc và trong tương lai, việc tăng sản lượng sẽ cũng dựa vào tăng năng suất. Để đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, thâm canh gần như là giải pháp duy nhất đối với Việt Nam. Mà trong thâm canh, vai trò của phân bón lại càng quan trọng, phân bón có thể góp phần tăng năng suất cây trồng qua nhiều cơ chế tác động khác nhau. Song quan trọng hơn cả là phân bón cung cấp cho cây trồng những dinh dưỡng cần thiết mà đất không đủ khả năng cung cấp, góp phần duy trì độ phì nhiêu của đất trong canh tác. Thêm nữa, cùng với năng suất kinh tế, phân bón góp phần tăng lượng sinh khối và nhờ đó tăng hữu cơ trở lại cho đất- yếu tố cực kỳ quan trọng với đất nhiệt đới. Cùng với gieo cấy các giống mới, việc nâng cao hệ số sử dụng đất thông qua tăng vụ cũng là nguyên nhân làm cho nhu cầu dinh dưỡng phải bổ sung tăng lên. Như vậy, ngoài những nguyên nhân gây thoái hoá đất như sói mòn, rửa trôi.... thì việc không đảm bảo cân bằng giữa lượng dinh dưỡng được bón vào đất cũng là một yếu tố làm đất thoái hoá (dạng thoái hoá này có xu hướng tăng lên). ở những vùng đồi núi nơi mà nông dân có tập quán du canh thì trước đây thông thường chu kỳ bỏ hoá là 10- 15 năm. Hiện nay do áp lực về dân số nên chu kỳ bỏ hoá chỉ còn 5 năm, thậm chí 3 năm. Như vậy về mặt thời gian không đủ cho đất phục hồi phì nhiêu một cách tự nhiên. Việc xoá bỏ du canh, thiết lập một nền tảng thâm canh, trong đó cân bằng dinh dưỡng thông qua phân bón giữ một vị trí quyết định. Ngoài ra, việc bón phân không những chỉ là cung cấp dinh dưỡng mà còn có ý nghĩa cải tạo đất, hoặc loại trừ các yếu tố hạn chế năng suất trong đất. Trong một số trường hợp, phân bón (nhất là Lân, Kali và một vài nguyên tố vi lượng khác) còn thúc đẩy quá trình cố định đạm của cây Bộ đậu, và tăng cường dinh dưỡng cho đất. Đồng thời việc kết hợp hài hoà các nguồn dinh dưỡng như hữu cơ, phân khoáng, phân sinh học... sẽ đảm bảo cho một nền thâm canh ổn định. Khuyến nông phân bón. (Chương trình thực hiện ở 15 tỉnh với 3726 ha ) Phương pháp bón Quy mô Số HTX Số hộ Sản lượng tham gia tăng(Tấn) -Bón phân cân đối cho lúa vàng thâm canh 1.000 29 10610 800 -Bón phân cân đối cho vùng nghèo dinh dưỡng 448 22 4.272 535 -Bón phân cân đối cho vùng trũng 300 16 3.185 150 -Bón phân cân đối cho vùng mặn 350 10 2.281 277 -Sử dụng các chế phẩm vi sinh 538 27 5.686 215 -Bón phân phun lá 490 23 5.200 190 -Bón phân cân đối cho Ngô 300 17 3.110 - -Bón phân cân đối cho đậu tương 250 26 3.036 - -Bón phân cân đối cho lạc 50 2 698 58 Cộng 3.726 172 38.120 2.225 Mặc dù đã có nhiều tiến bộ trong sử dụng phân bón vô cơ, song hệ số sử dụng phân đạm ở Việt Nam cũng chỉ mới đạt 30-40%, phân lân và kali khoảng 50-60%. Một lượng lớn phân vô cơ bị mất đi do rửa trôi, xói mòn, bay hơi, cố định chặt.... Chỉ tính riêng với phân đạm, hàng năm chúng ta mất đi xấp xỉ 1-1,2 triệu tấn (quy ure) với giá trị hàng triệu USD/ năm, còn chưa kể đến những tác động môi trường do sự mất mát này đem lại. Bón phân cân đối hiện nay được coi là giải pháp quan trọng nhất để năng cao hiệu lực phân bón. Theo tổng kết của FAO, bón phân không cân đối có thể giảm hiệu lực phân bón từ 20-50%. ở các nước đang phát triển như Việt Nam hiên nay, việc sử dụng không cân đối dinh dưỡng với liều lượng phân đạm tương đối cao đã làm giảm hiệu lực phân bón (khái niệm cân đối bao gồm: cân đối về nhu cầu và lượng hút của cây trồng, cân đối giữa các chất dinh dưỡng tại các thơì kỳ sinh trưởng khác nhau, cân đối với các điều kiện tự nhiên liên quan đến hiệu lực phân bón, cũng như cân đối với từng loại cây trồng trong một hệ thống luân canh). Tóm lại, phân bón nói chung và phân bón vô cơ nói riêng rất cần cho cây trồng. Song để sử dụng mang lại kết quả như mong muốn thì phải quan tâm và nghiên cứu đến tính chất, tác dụng từng loại phân cũng như đặc điểm đất đai, sử dụng hợp lý và đúng thời vụ. 2. Các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến cầu phân bón vô cơ ở Việt nam. ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển hoàn hảo, có nền nông nghiệp phát triển cao, cơ cấu các loại cây trồng tương đối ổn định thì nhu cầu phân vô cơ của người nông dân chủ yếu phụ thuộc vào thu nhập của người nông dân, song ở Việt Nam nhu cầu phân vô cơ hiện tại còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố đó là: 2.1. Phụ thuộc vào sự phát triển của diện tích gieo trồng. Việt Nam chỉ có khoảng 7 triệu ha đất nông nghiệp, song do Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, mưa nhiều, nắng cũng nhiều, thời tiết nóng ẩm quanh năm. Các loại cây ngắn ngày, nếu giải quyết vấn đề tưới tiêu nước, vấn đề phòng trừ sâu bệnh .... thì có thể làm cho diện tích gieo trồng của đất nước tăng lên qua từng năm. Việt Nam còn 3 triệu ha đất có khả năng nông nghiệp có thể khai hoang để chuyển thành đất nông nghiệp, song thực ra diện tích đất khai hoang chỉ đủ cho diện tích đất nông nghiệp bị mất đi hàng năm do chuyển sang đất xây dựng cơ bản, vì thế diện tích gieo trồng tăng chủ yếu là do tăng vụ mà có. Theo con số thống kê thì năm 1996 so với năm 1989 diện tích gieo trồng của Việt Nam đã tăng lên 1.932.800ha, bình quân mỗi năm tăng lên khoảng 276.114ha. Trong đó cây hàng năm tăng 1.415.000 ha. Bình quân mỗi năm tăng 201.142ha, diện tích tăng này chủ yếu là do tăng vụ mà có, cây lâu năm tăng 518.200ha. Trong số này cây công nghiệp lâu năm tăng 402.900ha (chủ yếu là do khai hoang trồng mới) và cây ăn quả tăng 63.000 ha (chủ yếu là do cải tạo các vườn tạp mà có). Giả thiết rằng, các điều kiện khác không có gì thay đổi thì chính việc tăng diện tích gieo trồng đã làm cho nhu cầu phân vô cơ tăng lên, 1ha một năm cần khoảng 200kg các loại phân vô cơ, thì riêng việc tăng diện tích mỗi năm cũng làm cho nhu cầu phân bón tăng thêm 55.228 tấn. 2.2. Phụ thuộc vào loại cây trồng. Tập đoàn cây trồng của Việt Nam hết sức phong phú đa dạng: có cây lương thực, cây công nghiệp, cây rau đậu, cây ăn quả, cây dược liệu, cây thức ăn cho gia súc. Song trong từng loại cây có hàng chục, hàng trăm loại cây cụ thể. Ví dụ, riêng cây lương thực ở Việt Nam đã có các loại: lúa , ngô, khoai, sắn, đỗ ..(trừ đỗ tương), đồng thời cũng có thể tính cả cây khoai tây nữa. Trong tập đoàn cây trồng đó, không phải cây nào người nông dân Việt Nam cũng dùng phân bón vô cơ để bón trong quá trình sản xuất. Thực tiễn sự phát triển của nền nông nghiệp Việt Nam mấy chục năm vừa qua đã cho thấy, phân bón vô cơ hầu như 80% là dùng bón cho cây lúa, các loại cây trồng khác, chỉ bón có 20% mà thôi (các cây này chủ yếu là caphê, chè, mía, rau, hoa). Các loại cây còn lại người ta thường dùng phân xanh, phân chuồng, phân rác.Tất nhiên, như thế không có nghĩa là các loại cây trồng khác không cần dùng phân vô cơ, rất cần song vì khả năng có hạn, nên trước hết người ta phải ưu tiên cho các loại cây trồng giữ vai trò chủ yếu (bảo đảm an ninh lương thực Quốc gia, tạo ra hàng hoá lớn phục vụ cho xuất khẩu ...). Bởi vậy, khi khả năng đầu tư của người nông dân ngày một tăng thì các loại cấy trồng được bón phân vô cơ cũng sẽ được mở rộng thêm và như vậy nhu cầu phân vô cơ sẽ tăng. 2.3. Phụ thuộc vào thu nhập của người nông dân Về mặt lý thuyết thì dường như người nông dân nào của Việt Nam cũng hiểu được rằng, muốn nâng cao năng suất cây trồng phải có sự đầu tư thoả đáng, đặc biệt là đầu tư phân bón. Song với một đất nước 80% dân số sống ở nông thôn, trên 70% lực lượng lao động của toàn xã hội làm việc trong nông nghiệp nhưng đất nông nghiệp lại quá ít (tính bình quân đầu người vào loại ít nhất thế giới). Đã thế lại chịu sự tàn phá nặng nề của 2 cuộc chiến tranh trong suốt 30 năm, do đó người dân, nhất là nông dân nghèo cho đến nay GDP bình quân ở nông thôn mới đạt khoảng 200 USD/năm /người, thì nông dân khó có thể đem nhiều tiền để mua phân bón, bởi lẽ họ còn nhiều nhu cầu khác cần thiết hơn. Theo đánh giá của một số chuyên gia, người dân nước ta chưa đủ khả năng để dùng phân bón vừa đủ. So với định mức của Hội phân bón Quốc tế(IFA), mức phân bón cho cây lúa, cam, chè ở Việt nam chỉ đạt 50%, cho cây cà phê chỉ đạt 70%, khoai sắn chỉ đạt 6-7%. Mấy năm gần đây, nhờ thu nhập của người nông dân có tăng lên, do đó việc đầu tư mua phân bón có khá hơn. 2.4. phụ thuộc vào tập quán sản xuất và trình độ thâm canh của từng vùng trong nước. Xuất phát từ điều kiện tự nhiên- kinh tế -xã hội cụ thể, lãnh thổ Việt Nam được chia thành, vùng kinh tế và sinh thái khác nhau. -Vùng trung du và miền núi bắc bộ -Vùng đồng bằng sông hồng -Vùng khu 4 cũ -Vùng Duyên Hải nam trung bộ -Vùng tây Nguyên -Vùng đông nam bộ và -Vùng đồng bằng Sông cửu Long Dưới đây là diện tích cây trồng mỗi vùng . biểu số 2: Diện tích cây trồng phân theo vùng ở Việt Nam Đơn vị tính: 1000ha Vùng 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 Cả nước 8978,2 9040 9409,7 9752 9979,7 10172,4 10496 Miền núi-trung du bắc bộ 1348,2 1314,2 1377,2 1492,1 1521,6 1512,8 1528 Đồng bằng sông Hồng 1475,1 1436 1441,4 1397,3 1412,3 1401,4 1400 Khu 4 cũ 1091,6 1076,6 1078,8 1133 1117,5 1134,3 1141 Duyên hải miền trung 801,7 802 835,8 849,6 867,1 862,8 875 Tây nguyên 457,6 464,7 473,6 500,1 524 533,8 631 Đông nam bộ 838,3 850,9 881,8 935,7 1.000,2 1096,8 1133 ĐB Sông Cửu Long 2963 3097,1 3321,2 3444,2 3535,9 3819,9 3781 Nguồn: Tổng cục thống kê Biểu trên cho ta thấy, trừ đồng bằng Sông Cửu Long có diện tích trên 4 triệu ha, lớn nhất cả nước. Còn các vùng khác có diện tích gần bằng nhau. (riêng Tây Nguyên là ít nhất song vùng này cũng có khả năng mở rộng ra trong tương lai). Tuy nhiên, không phải nông dân ở 7 vùng đều có nhu cầu sử dụng phân bón vô cơ như nhau. Đồng bào thuộc các dân tộc ít người ở miền núi phía bắc, khu 4 cũ, Duyên hải miền trung và ở Tây Nguyên với phương thức canh tác rất lạc hậu , đốt nương làm rẫy (chọc lỗ, gieo hạt, sau đó là trăm sự nhờ trời ) nên ít sử dụng phân bón. Một bộ phận đồng bào các dân tộc sống định canh ở các cánh đồng lúa nước ven các thung lũng, hoặc những vùng cây nguyên liệu tập trung như Chè, Cà phê, Cao su.v.v... đã biết sử dụng phân vô cơ, nhưng do thu nhập của họ còn quá thấp nên số lượng sử dụng cũng không nhiều. Nông dân các vùng đồng bằng đều có sử dụng phân vô cơ vào sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên mức độ cũng có khác nhau, ở đồng bằng Sông Cửu Long do sản xuất lúa gạo hàng hoá là chính và người dân ở đây cũng quen với việc dùng phân vô cơ hơn nên số lượng họ dùng để bón cho 1 ha cây trồng thường cao hơn ở đồng bằng Sông Hồng, Đồng bằng khu 4 cũ và đồng bằng Duyên hải miền trung. Chẳng hạn, tổng số phân bón NPK bón cho 1ha lúa ở đồng bằng sông Hồng những năm qua bình quân từ 150-200 kg/vụ, thì ở đồng bằng Sông Cửu Long con số đó là 200-250kg. Thêm vào đó là việc không hiểu biết của người nông dân, nhiều khi do một ý thích nẩy sinh không có cơ sở khoa học có thể thích loại phân này hơn loại khác. Có thời kỳ nông dân thích sử dụng loại phân đạm hạt nhỏ làm cho loại hạt to bị ứ đọng, mặc dù nó có tác dụng đến cây trồng là như nhau. Như vậy, để nâng cao hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ thì phải nắm bắt đựơc các tính chất này, để từ đó đảm bảo được cân bằng cung cầu trên thị trường. Có như vậy mới bảo đảm được chi phí lưu kho, tăng được vòng quay vốn, nâng cao được kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. 3. Các phương pháp xác định nhu cầu phân bón vô cơ ở Việt nam 3.1. Căn cứ vào mức tiêu hao phân bón cho một đơn vị sản phẩm cây trồng. Cách tính này dựa trên quyết định số 18-UB/ĐM của Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước ngày 14/2/1987 về việc ban hành định mức kinh tế kỹ thuật. Trong đó có các quy định về mức phân bón cho 1 đơn vị sản phẩm để làm căn cứ cho việc tính nhu cầu phân bón. +Cơ sở phương pháp Dựa trên 2 yếu tố: *Sản lượng cây trồng dự kiến trong một thời kỳ nhất định *Mức tiêu hao vật tư cho một đơn vị sản phẩm của cây trồng cần xác định. Để xác định nhu cầu một loại vật tư cho một cây trồng trong một thời kỳ kế hoạch, ta lấy sản lượng dự kiến của cây trồng đó nhân với mức tiêu hao vật tư của loại cây đó . Công thức : Q = S.M Q: Nhu cầu một loại vật tư cần xác định cho một loại cây trồng nào đó . S: Sản lượng cây trồng đó M: Mức tiêu hao vật tư cho 1 đơn vị sản phẩm của cây trồng đó VD: Sản lượng Ngô năm 1991là 672 ngàn tấn -Mức tiêu hao phâm đạm theo định mức là 100 kg đạm tiêu chuẩn/ tấn ngô. Nhu cầu phâm đạm cho cây Ngô năm 1991 là: 672 tấn x 100 = 67.200 tấn (đạm tiêu chuẩn) Tổng nhu cầu của một loại vật tư nào đó cho một thời kỳ được xác định theo công thức sau: Q = S.M Q: là tổng nhu cầu của một loại vật tư . Si: sản lượng của các loại cây trồng từ 1 đến n. Mi: là mức tiêu hao vật tư cho các cây trồng từ năm 1-n *Phân đạm tiêu chuẩn: là loại phân có chứa lượng đạm (N) là 20-21% Tính trung bình 20,5% *Phân lân quy Suppe phốt phát Lâm Thao: chứa lượng lân P2O5 -Lân chuẩn 10% P2O5 +Mức độ chính xác của phương pháp. -Lượng vật tư thực tế sử dụng: là số vật tư đã tiêu hao trong quá trình sản xuất. Trong phạm vi cả nước việc thống kê số liệu này là rất khó, vì vậy có thể lấy số lượng vật tư đã được nhập khẩu và số vật tư đã được bán ra của các cơ sở sản xuất trong nước là số vật tư thực tế sử dụng. -Lượng vật tư tính theo lý thuyết: Sử dụng công thức trên. +Ưu điểm của phương pháp: -Trên cùng một đơn vị diện tích nhưng năng suất càng cao, yêu cầu phân bón càng lớn. 3.2. Phương pháp dự tính nhu cầu phân bón căn cứ vào tiêu hao cho một đơn vị diện tích gieo trồng. + Cơ sở phương pháp, dựa vào: -Diện tích gieo trồng . -Tiêu hao vật tư cho 1ha gieo trồng . Định mức này do viện Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp thuộc Bộ nông nghiệp- CNTP ban hành năm 1990 với mục đích làm căn cứ cho việc tính toán các qui hoạch, kế hoạch về vật tư nông nghiệp. Theo phương pháp này, muốn dự tính nhu cầu của một loại phân bón vô cơ nào cho một cây trồng trong một thời kỳ kế hoạch ta lấy diện tích gieo trồng dự kiến của cây trồng đó nhân với mức tiêu hao vật tư cho một đơn vị diện tích gieo trồng của loại cây đó, theo công thức: Q= D.M Q: Nhu cầu dự tính cho một loại cây trồng. D: Diện tích gieo trồng của cây đó . M: Mức tiêu hao vật tư cho một đơn vị diện tích của cây trồng đó. VD:- Diện tích đay bẹ năm 1995 là 7.000ha. -Tiêu hao phâm đạm cho 1ha đay bẹ là 750kg phân đạm tiêu chuẩn. -Nhu cầu phân đạm cho sản phẩm đay bẹ là 5250tấn . Tổng nhu cầu một loại vật tư cho các loại cây trồng trong một thời kỳ nào đó được xác định theo công thức sau: Q= D.M Q: Tổng nhu cầu của các loại vật tư cần tính. D: là diện tích các loại cây trồng từ 1-n. M: là mức tiêu hao vật tư trên một đơn vị diện tích cây trồng từ 1-n. Trong định mức này lưu ý: Cùng 1 ha gieo trồng nhưng mức bón phân là khác nhau phụ thuộc vào năng xuất cây trồng VD: 1ha gieo trồng lúa đông xuân nếu: Năng suất từ 30-40tạ/ha, mức bón từ 60-80N Năng suất từ 50-60tạ/ha -100-120N/ha +Ưu điểm phương pháp: -Căn cứ vào diện tích gieo trồng là diện tích thực sự cần phân bón -Trong định mức có tính đến năng suất cây trồng khác nhau mức tiêu hao vật tư khác nhau *Một số ảnh hưởng khi áp dụng cách tính nhu cầu phân bón (nhờ việc nâng cao hiệu quả sử dụng phân bón) +Sử dụng công thức QUEFTS hay máy đo diệp lục tố đã giảm bón lượng đạm từ 15-20% mà năng suất lúa không đổi. +Nâng cao hàm lượng chất dinh dưỡng trong phân bằng cách loại bỏ các tạp chất hay những yếu tố không cần thiết cho cây trồng, như sản xuất ure (40%N) thay dần cho Bicacbonatamon hay sunphatAmôn, Clorua amôn, sản xuất DAP, TSP có hàm lượng lân cao (46% P2O5) thay dần cho supephôtphát đơn hay Tecmophotphat. Thông qua sản xuất phân hoá hợp, phana trộn chứa từ 2-3, nguyên tố trở lên như MAP, DAP, Phân NPK các loại. +Sản xuất phân bón chuyên cây. Phần 2. Cung phân bón cô cơ trên thị trường Việt Nam. Có 2 nguồn cung câp phân bón vô cơ cho sản xuất nông nghiệp trên thị trường Việt nam đó là: Nguồn nhập khẩu và nguồn sản xuất phân bón trong nước. 1. Nguồn sản xuấtphân bón vô cơ trong nước. 1.1. Năng lực sản xuất của các doanh nghiệp trong nước: Hiện tại nền công nghiệp hoá chất, nhất là công nghiệp sản xuất phân bón vô cơ của chúng ta chưa có khả năng sản xuất và cung ứng đủ lượng phân bón vô cơ các loại cần thiết cho nông dân theo yêu cầu. Theo các phương pháp tính toán, thu thập được cho thấy, nhu cầu về phân bón ure của toàn quốc là khoảng 1,4 triệu tấn /năm đến 1,5 triệu tấn/năm; nhu cầu về phân DAP là từ khoảng 450.000 tấn/năm đến 500.000tấn/năm; nhu cầu phân NPK là từ khoảng 500.000- 600.000tấn/năm; nhu cầu về phân Kali (K) khoảng 300.000tấn/năm. Trong khi nhu cầu về phân bón vô cơ lớn như vậy nhưng tình hình sản xuất trong nước hết sức hạn chế, nhà máy sản xuất phân ure Hà Bắc sản xuất được 100.000 tấn/năm, hai nhà máy phân lân Long Thành- TPHCM và nhà máy phân bón Lâm Thao cũng chỉ sản xuất được khoảng từ 600.000- 700.000tấn/ năm. Nhà máy sản xuất phân lân nung chảy Văn Điển và Ninh Bình sản xuất được khoảng từ 100.000- 200.000 tấn/ năm . Đối với phân NPK, năm 1999 mới có nhà máy liên doanh với Nhật để sản xuất, còn trước đây ta phải nhập phân bón vô cơ hoàn toàn từ các nước khác. Tổng kết lại, so với nhu cầu của sản xuất nông nghiệp, phân đạm mới đảm bảo khoảng 7% nhu cầu trong tổng nhu cầu phân bón hoá học cả nước, phân lân khoảng 40-50%. Như vậy hơn 90% phân đạm, khoảng 50% phân Lân, 100% Kali và các loại phân bón vô cơ khác cần phải nhập khẩu. Có thể ví dụ về sản lượng năm 1998 của một số công ty sản xuất phân bón vô cơ lớn như sau: Biểu số 3 : Tình hình sản lượng phân bón vô cơ ở một số doanh nghiệp năm 1998 ĐVT:( tấn) Công ty phân đạm và hoá chất Hà Bắc NPK 4.775 urê 120.000 Nhà máy hoá chất phân bón Hải Hưng NPK 613 Lân Ninh Bình Lân nung chảy 42.054 Lân Văn Điển Lân 116.000 Công ty Hoá chất Vinh NPK 6.380 Công ty Hoá chất Quảng Ngãi Lân 4.610 Phân bón Miền Nam NPK 5.014 Các loại khác 379.925 Phân bón Cần thơ NPK 18.785 Supe Lâm Thao Su pe phối phát 565.000 NPK 55.158 Biểu số 4: tổng kết -Sản lượng sản xuất phân bón vô cơ từ năm 1990- 1998 Đơn vị: 1000tấn Năm Sản lượng phân vô cơ các loại 1990 354 1991 450 1992 530 1993 714 1994 841 1995 937 1996 965 1997 982 1998 974 Nguồn: Tính từ số liệu TCTK Biểu số 5 : sản lượng sản xuất p hân vô cơ từ n ăm 1990 - 1998 ĐVT: (1000 tấn) 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 Phân hoá học các loại 354 450 530 714 841 937 965 982 974 Doanh nghiệp Nhà nước 354 450 530 714 841 937 965 982 974 Doanh nghiệp khác - - - - - - 3 2.4 1.5 DN Nhà nước TW 354 450 530 714 841 937 962 980,6 972,5 Nguồn tính từ._. số liệu của tổng cục Thông kê Nguồn tính từ số liệu của tổng cục thông kê Trước tình hình nhu cầu phân hoá học ngày một tăng các đơn vị sản xuất phân hoá học ở Việt Nam cũng đã tìm cách khôi phục và mở rộng các hoạt động sản xuất của mình. Có thể nhận định tình hình sản xuất phân bón qua những DN chủ yếu sau: 1.1.1. Nhà máy phân đạm Hà Bắc: Từ sản lượng 45.000 tấn urê năm 1992, do việc đầu tư chiều sâu khôi phục và cải tạo và đổi mới thiết bị đã mang lại hiệu quả rõ rệt, đến năm 1995 đã được nâng lên 110.000 tấn và vượt công suất thiết kế (Công suất tối đa 120.000 tấn/năm dây chuyền công nghệ của Trung Quốc). Đồng thời do nông nghiệp càng phát triển thì việc gia tăng sản lượng phân đạm cung cấp cho sản xuất nông nghiệp là tất yếu. Gần đây sản lượng lương thực của đất nước ngày càng gia tăng (Từ 21 triệu tấn năm 1991 lên 29 triệu tấn năm 1998). Bên cạnh đó là mối lo vì tốc độ nhập khẩu phân urê ngày càng gia tăng (từ 781 ngàn tấn năm 1991 lên đến 1,9 triệu tấn năm 1998). Nếu khả năng 1998 chúng ta xuất khẩu được 3 triệu tấn gạo với tổng doanh thu trên 800 triệu USD thì năm 1998, ta lại phải bỏ ra trên 300 triệu USD để nhập khẩu phân urê. Biểu số 6 : Bảng thống kê kết quả sản xuất của Công ty phân đạm và hoá chất Hà bắc. Đơn vị tính 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 Sản phẩm chính: - Urê Tấn 44.891 82.633 100.003 103.223 110.972 120.471 130.000 - NH3 đóng bình Tấn 822 1.078 1.228 961 1.151 1.188 1.188 - Điện sản xuất Mw/h 52.250 64.000 81.974 81.974 95.617 106.548 106.548 Tổng doanh thu tỷ đồng 94,6 158,3 155 233 303 2.585 2.585 Nộp ngân sách tỷ đồng 5,1 15,5 4,4 15 11,6 8 8 Lãi phát sinh tỷ đồng 5,7 4,7 - 5,2 21 28,7 0,7 0,7 Thu nhập bình quân (ngày/tháng) 1000đ 236 372 393 465 655 732 732 Nguồn Tổng cục thống kê Như vậy với mức sản lượng ngày một tăng theo công suất thiết kế thì nhà máy đã có thể đáp ứng tốt từ 5-8% nhu cầu về phân urê cho cả nước. Tuy nhiên tình hình thực tế cho việc sản xuất phân bón ở đây tồn tại mấy vấn đề lớn: - Do dây chuyền công nghệ sản xuất lạc hậu nên chất lượng của sản phẩm do nhà máy sản xuất ra chưa thuyết phục được người tiêu dùng. - Chi phí cho các nguồn nguyên, nhiên liệu đầu vào sản xuất lớn đồng thời hiệu suất của dây chuyền công nghệ thấp dẫn đến chi phí sản xuất lớn (giá điện tăng) do đó tất yếu giá xuất bán sản phẩm phân đạm urê của nhà máy khó có khả năng cạnh tranh với phân urê nhập khẩu. Về lâu dài, nước ta còn ưu tiên phát triển công nghiệp sản xuất phân bón, tăng tỷ trọng phân bón nội địa trong tổng nguồn cung ứng cho sản xuất nông nghiệp. Một trong những khó khăn không nhỏ là vốn đầu tư để sản xuất phân đạm rất lớn nhưng lợi nhuận lại không cao. Do đó không hấp dẫn các nhà đầu tư, cho nên khả năng huy động vốn trong và ngoài nước để liên doanh là một trở ngại lớn (một nhà máy phân đạm với công suất 550.000 tấn urê/năm cần số vốn đầu tư là 500 triệu USD). Vì vậy, Nhà nước cần ưu tiên tập trung vốn để đổi mới dây chuyền công nghệ, tăng sản lượng, hoặc đầu tư thông qua liên doanh, triển khai dự án phân bón trọng điểm. Theo dự đoán của Bộ nông nghiệp và PTNT, nhu cầu phân urê từ nay đến năm 2000 sẽ tăng khoảng 10% năm. Năm 2000 sẽ là 2,5 triệu tấn và năm 2005 sẽ là 3 triệu tấn. Do đó kế hoạch phát triển sản xuất phân urê những năm sắp tới là từng bước triển khai dây chuyền công nghệ 140.000 tấn đạm ở nhà máy phân đạm Hà Bắc, như vậy sản lượng hàng năm sẽ tăng 20 - 30 ngàn tấn/năm so với năm 1995. 1.1.2. Nhà máy supe phốt phát Lâm Thao, nhà máy phân Lân Văn Điển: Đã đầu tư vốn cho việc đổi mới kỹ thuật và công nghệ sản xuất, mở rộng thêm năng lực sản xuất của mình, nhờ đó số lượng cũng như chất lượng của phân lân do các nhà máy sản xuất ra đã được nâng lên hết sức nhanh chóng. Đặc biệt trong những năm gần đây, khi các tỉnh phía nam sử dụng phân lân cho lúa, cho cà phê, cao su, thấy có hiệu quả tốt, thì nhu cầu phân lân (kể cả phân lân nung chảy) đã tăng lên rất nhanh. Tuy nhiên do nguồn nguyên liệu nên đại bộ phận các nhà máy sản xuất phân lân tập trung ở Miền Bắc Việt Nam và sản xuất ra khoảng 90% lượng lân của cả nước. ở phía Nam chỉ có một nhà máy sản xuất được khoảng 10% lượng lân. Sản xuất phân lân trong nước năm 1996 so với 1989 đã tăng gần 3 lần, lượng phân làm ra đã đáp ứng được khoảng 50-65% nhu cầu của nền nông nghiệp. Trong cơ cấu phân lân, thì supe lân chiếm khoảng 70%, loại phân này được sử dụng rộng rãi trên nhiều loại đất và nhiều cây trồng, lân nung chảy chiếm khoảng 30% - loại phân này chủ yếu dùng cho cây lúa và cây công nghiệp trên đất phèn. Biểu số 7 : Sản lượng phân phân lân ở trong nước từ (1989 - 1999) Đơn vị tính: Tấn Năm Lân Phân trong Super lân 1989 329.190 298.390 1990 325.456 280.000 1991 391.125 315.000 1992 418.200 303.000 1993 595.799 420.000 1994 713.370 530.000 1995 799.176 570.000 1996 825.688 567.000 1997 987.412 565.000 1998 1.087.564 576.000 1999 980.000 650.300 Năm 1989 khi chuyển sang cơ chế thị trường, phân lân tiêu thụ có khó khăn hơn, vì dân quen dùng giá thấp do Nhà nước bù lỗ ở thời kỳ kế hoạch hoá tập trung bao cấp. Trước tình hình đó, các DN đã tập trung đầu tư chiều sâu, đổi mới kỹ thuật và công nghệ sản xuất, đổi mới mẫu mã bao bì, đóng gói - Phân lân từ chỗ bán phân rời đã chuyển sang đóng bao bì như phân đạm. Chất lượng phân cũng được nâng cao, công tác tuyên truyền khuyến mại cũng được thực hiện tốt hơn. Do vậy từ năm 1995 đến nay, số lượng phân lân sản xuất cũng như tiêu thụ đã tăng lên khá nhanh, giá bán tương đối ổn định, sản xuất phân lân đã từ hoà vốn tới có lãi và lãi năm sau cao hơn năm trước. Ta có thể thấy điều này qua số liệu so sánh giá bán và chi phí sản xuất phân lân một số năm: Năm Giá vốn Giá bán tại DN sản xuất 1989 109.100 đ/tấn 110.000 đ/tấn 1990 126.300 130.000 1991 424.300 430.000 1992 539.600 540.000 1995 737.700 770.000 1996 838.400 840.000 1997 895.200 900.000 1998 895.300 901.000 1999 923.000 940.000 Riêng phân lân, mục tiêu 5-10 năm tới, nước ta hoàn toàn đáp ứng đủ nhu cầu phân lân trong cả nước với bước đi sau: - Sử dụng hợp lý, có hiệu quả công suất các cơ sở sản xuất Supe phốt phát đơn hiện có, trên cơ sở đầu tư chiều sâu cải tiến thiết bị áp dụng kỹ thuật, công nghệ mới để hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm. - Phân lân nung chảy là loại phân bón có công nghệ đơn giản, nguyên liệu hoàn toàn trong nước, thiết bị hoàn toàn tự thiết kế chế tạo được, vốn đầu tư ít, sản lượng tăng nhanh, sản phẩm thích hợp với nhiều loại đất, nhất là đối với đất chua phèn và loại cây công nghiệp. Đây là loại sản phẩm cần ưu tiên đầu tư phát triển. Trong giai đoạn tới một mặt tiếp tục tuyên truyền hướng dẫn sử dụng, mở rộng thị trường, một mặt tập trung nâng cao hàm lượng dinh dưỡng, đạt trên 18% P2O5 - nghiên cứu đổi mới công nghệ thiết bị để có thể tăng nhanh công suất lên 35 - 40 vạn tấn năm vào năm 2005. Nghiên cứu khả năng nâng công suất phân lân nung chảy Văn Điển 180.000tấn/năm và Lâm Thao supe phốt phát từ 30.000 tấn/năm lên 50.000 tấn/năm phát huy thế mạnh nguồn nguyên liệu từ cây lúa, cây công nghiệp, đặc biệt là đất chua. Nhà máy supe Long Thành dự kiến mở rộng gấp đôi công suất lên 200.000 tấn năm, đồng thời đầu tư một nhà máy sản xuất DAP công suất 330.000tấn/năm (bước đầu nhập Amoniac) dự án đang được trình Chính phủ xin đưa vào kế hoạch, tìm nguồn đầu tư, địa điểm tại khu vực Quảng Ninh. Phân lân nung chảy Ninh Bình từ 100.000 tấn/năm sẽ nâng công suất lên đến 200.000tấn/năm. Với kế hoạch trên tổng lượng phân lân năm 2000 đạt khoảng 1,7 triệu tấn và sẽ đưa lên 2 triệu tấn vào những năm sau đó. 1.1.3.Tình hình sản xuất phân NPK. Hiện nay, nước ta có kế hoạch sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước hàng năm ước tính khoảng 800 - 950 ngàn tấn. Hiện nay Vinachen đã sản xuất với sản lượng khoảng 350.000tấn/năm. Các DN nhỏ khác có khả năng sản xuất khoảng 50 tấn/năm. Theo kế hoạch thì các liên doanh sản xuất phân bón Japan - Việt Nam Fertizers có thể đạt sản lượng 350.000 tấn/năm. Baconcò có sản lượng 150.000tấn/năm và Hydro có sản lượng 200.000 tấn/năm. Như vậy ước tính tổng sản lượng NPK có để đạt đến khoảng 1,25 triệu tấn đủ đáp ứng nhu cầu trong nước. Tuy nhiên có thể thấy giá phân NPK sản xuất trong nước cao hơn giá của thị trường quốc tế do ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau. Nhà nước có chủ trương bảo hộ, giúp đỡ cho sản phẩm nội địa nên mặc dù giá có thể cao hơn giá thị trường quốc tế nhưng vẫn có thể tiêu thụ tốt tại thị trường nội địa. (Sản lượng sản xuất phân urê trong nước năm 2.000 tăng vọt do nhà máy phân đạm Bà Rịa - Vũng Tàu đi vào sản xuất với công suất 600.000 tấn/năm). Kết luận: Trong những năm qua, công nghiệp sản xuất phân bón nước ta đang đi dần vào ổn định. Các cơ sở sản xuất phân bón đã chú trọng đến việc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất giảm tiêu hao vật tư, hạ giá thành sản phẩm, cải tiến mẫu mã bao bì để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của thị trường. Tổng Công ty Hoá chất Việt Nam là doanh nghiệp lớn sản xuất các loại phân bón phục vụ nông nghiệp trong cả nước. Hiện nay, Tổng Công ty có 4 cơ sở sản xuất phân lân chế biến với Tổng công suất 820.000 tấn/năm, một cơ sở sản xuất phân đạm urê công suất 110.000 tấn/năm và 12 cơ sở sản xuất phân tổng hợp NPK. 1.2. Khả năng phát triển nguồn phân bón sản xuất trong nước Như trên đã phân tích, việc sử dụng pphân bón vô cơ là yếu tố quan trọng để nâng cao năng suất cây trồng. Nhưng mức sử dụng chất dinh dưỡng cho cây thấp và không cân đối. Mức sử dụng lân và ka li quá ít với tỷ lệ dinh dưỡng trung bình của thế giới hiện nay là : N : P2O5: K2O là 1: 0,47: 0,35. Đối với các nước phát triển tỷ lệ này là 1: 0,37: 0,17. Còn của Việt Nam mới đạt 1: 0,23: 0,04. Do mức độ sử dụng phân bón khác nhau như vậy, nên năng suất cây trồng của Việt Nam còn thấp so với các nước trong khu vực, năng suất lúa của Việt Nam năm 1989 là 32,3tạ/ ha. Trong khi của Hàn Quốc là 67,5 tạ/ha, Nhật Bản là 61,7tạ/ ha, Inđônêxia 42,3tạ/ha. Vì vậy vấn đề sản xuất phân bón vô cơ là một ngành công nghiệp nặng có nhiệm vụ phục vụ trực tiếp cho chương trình phát triển nông nghiệp, chương trình lương thực quốc gia. Trong dự báo phát triển kinh tế- xã hội đất nước thì đến năm 2000 dân số nước ta khoảng trên dưới 80 triệu dân. Mục tiêu của chương trình phát triển lương thực là trong nước phải giải quyết được căn bản vấn đề ăn của xã hội, có dự trữ Nhà nước ở mức cần thiết, xuất khẩu mỗi năm 1-1,5 triệu tấn lương thực sau năm 2000 phải đạt trên 30 triệu tấn. Với mục tiêu ấy, diện tích trồng trọt sau năm 2000 phải đạt trên 10 triệu ha. Tốc độ tăng diện tích trồng trọt trong giai đoạn 1990-2000 trung bình là 1,2% năm, trong đó với cây lương thực diện tích tăng với tốc độ bình quân 1,37% năm và sản lượng tăng với tốc độ bình quân 3,39%/năm. Đặc biệt diện tích gieo trồng đối với cây thực phẩm tốc độ tăng bình quân 5%/năm và cây công nghiệp 8,2%/năm. Hệ số sử dụng ruộng đất năm 2000 là 1,71lần . Bình quân hiện nay là 1,25 lần . Dự đoán năm 2000 nhu cầu phân bón sẽ là 3,4 triệu tấn đạm tiêu chuẩn hay 1,552.000T/ure. Về phân lân (Quy về Supephôt phát đơn 16,5% P2O5) sẽ là 1,2triệu tấn. Để đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng của sản xuất nông nghiệp, các quan điểm chủ yếu để được thống nhất là: -Cần phát triển một ngành sản xuất phân bón đủ mạnh để làm cơ sở cho phát triển nông nghiệp. -Phát triển nền công nghiệp phân bón Việt Nam là cơ sở sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên trong nước. -Phát triển công nghiệp phân bón gắn liền với phát triển công nghiệp hoá chất. -Chọn chủng loại sản phẩm phân bón và bước đi thích hợp. - Có cách nhìn nhận đánh giá hiệu quả của công nghiệp phân bón. -Cần phải có một tổ chức hợp lý cho việc phát triển sản xuất phân bón . Từ các quan điểm trên, phương hướng chung để phát triển ngành sản xuất phân bón là khai thác mọi tiềm năng sẵn có bao gồm các tài nguyên khoáng sản, lực lượng lao động có kỹ thuật, cơ sở vật chất kỹ thuật, theo hướng đầu tư chiều sâu, hiện đại hoá từng bước, nâng cao năng lực sản xuất. Đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế đầu tư một số công trình mới, có công nghệ tiên tiến, qui mô vừa và lớn tạo tiền đề vật chất cho phát triển ngành trong giai đoạn tới. Phương hướng cho từng sản phẩm như sau: *Phấn đấu sớm hoàn toàn tự túc về phân lân. Mục tiêu 5-10 năm tới ta hoàn toàn đáp ứng đủ nhu cầu phân lân trong nước và với các bước đi sau: + Sử dụng hợp lý, có hiệu quả công suất các cơ sở sản xuất superphốt phát đơn hiện có, trên cơ sở có đầu tư chiều sâu cải tiến thiết bị, áp dụng kĩ thuật công nghệ mới để hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm. + Phân lân nung chẩy là loại phân bón có công nghệ đơn giản nguyên liệu hoàn toàn trong nước, thiết bị hoàn toàn tự thiết kế chế tạo được, vốn đầu tư ít, sản lượng tăng nhanh, sản phẩm thích hợp với nhiều loại đất, nhất là đất chua phèn và nhiều loại cây công nghiệp. Đây là loại sản phẩm cần ưu tiên đầu tư phát triển. Trong giai đoạn tới một mặt tiếp tục tuyên truyền hướng dẫn sử dụng, mở rộng thị trường, một mặt tiếp tục tập trung nâng cao hàm lượng dinh dưỡng đạt trên 18% P2 O5 -Nghiên cứu đổi mới công nghệ thiết bị để có thể tăng nhanh công suất lên 35 -40 vạn tấn / năm vào năm 2005. + Đầu tư phát triển một số sản phẩm có hàm lượng dinh dưỡng cao. Những loại phân bón có hàm lượng dinh dưỡng cao như: superphốtphát giầu (31-32% P2O5 ), Superphốtphát kép (40% P205 ) Diamophos (DAP) có 40% P205 và 18%N . *Từng bước đáp ứng nhu cầu phân đạm. Sẽ đi từ nguyên liệu than antraxit và khí (bao gồm khí thiên nhiên và khí đồng hành). Mục tiêu từng bước nâng cao tỷ lệ phân đạm sản xuất trong nước cung cấp cho nông nghiệp. Trong vòng 10-15 năm tới đáp ứng đủ nhu cầu . -Với công nghệ đi từ than: Trên cơ sở hạ tầng hiện có tại Công ty phân đạm và hoá chất Hà Bắc, đầu tư một qui mô thích hợp với công nghệ khí hoà than cám. Từ kết quả này nghiên cứu xem xét khả năng đầu tư với quy mô lớn hơn 1000 tấn/ngày NH3. -Với công nghệ đi từ khí: Sớm đầu tư một nhà máy phân đạm có công suất 1000tấn NH3/ ngày để có 550.000t/năm ure. *.Phân Kali: Do đặc điểm đất đai Việt Nam, tỷ lệ sử dụng phân Kali không lớn. Mặt khác ở Việt Nam chưa xác định có nguồn quặng kali, nên giai đoạn trước mắt, đến năm 2005 chưa đặt vấn đề sản xuất loại phân bón này trong nước. Nhiều nước như ấn Độ, Đài Loan, Inđônêxia , cũng không sản xuất mà nhập 100% phân Kali. * Ngoài những sản phẩm phân bón chính trên, cần đổi mới kỹ thuật, nâng cao năng lực sản xuất, cải tiến chất lượng các loại phân hỗn hợp đáp ứng nhu cầu của từng loại đất, từng cây và từng vùng. đồng thời nghiên cứu phát triển thêm các loại phân vi sinh, vi lượng, phân phun trên lá và các loại phân khác. Kế hoạch phát triển . Từ những mục tiêu phương hướng trên, xuất phát từ thực trạng của ngành sản xuất phân bón vô cơ nước ta hiện nay và tuỳ thuộc vào khả năng giải quyết vốn đầu tư, cần thiết phải đề xuất và xem xét nhiều phương án phát triển sản xuất cung ứng phân bón trong gia đoạn tới. Có các phương án khác nhau có thể lựa chọn: Phương án 1: *Đối với phân lân: -Supephôtphát, đây là loại phân có chứa Lưu Huỳnh (S) hiện đang được sử dụng rộng rãi, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng phân lân ở Việt Nam. Công ty supe phốt phát và hoá chất Lâm Thao vào cuối năm 1993 sau khi kết thúc mở rộng giai đoạn 3 sẽ có công suất 200.000 tấn/ năm Supe phốt phát đơn. Trong một vài năm tới sẽ khai thác ở mức 400.000tấn-450.000tấn/năm . Với lượng phân Lân như hiện nay, ngoài việc đáp ứng nhu cầu các tỉnh phía bắc (Từ Thừa Thiên Huế trở ra ) khoảng 300.000 tấn/năm, hàng năm vẫn phải vận chuyển vào nam và Tây Nguyên 100.000- 150.000tấn, so với nhu cầu tiêu thụ khu vực này khoảng 60.000-700.000tấn/ năm. Vì vậy cần thiết phải đầu tư xây dựng dây truyền sản xuất phân lân có hàm lượng dinh dưỡng cao nhằm giảm bớt chi phí vận chuyển. Mặt khác phát triển sản phẩm phân lân hàm lượng dinh dưỡng cao, cũng là đồng thời có được sản phẩm axit phốtphoric, một hoá chất cơ bản rất quan trọng cho nền kinh tế. Trong những năm sản phẩm phân lân hàm lượng dinh dưỡng cao thì phát triển supe phốt phát kép có công suất 250.000tấn /năm, (tương đương 700.000tấn/năm suppe phôt phát đơn), tại Công ty suppe phốt phát và hoá chất Lâm Thao. Vốn đầu tư cho toàn bộ công trình supe phốt phát kép khoảng 175 triệu USD thời gian xây dựng khoảng 3 năm. Như vậy đến năm 2000 sẽ có sản phẩm supe phốt phát kép. Khi ấy tại Lâm Thao chỉ còn một dây chuyền supe phốt phát kép. Sản lượng tương đương 900.000-950.000tấn/năm supe phốt phát quy đơn . Tại Long Thành, công suất hiện nay là 100.000tấn/năm ssupe phốt phát đơn. hướng đầu tư ở đây là nhập bổ sung axit Sufuric và nhập Axit phôtphoric, Amôniác để sản xuất Diamophos (DAP) hoặc supe giàu với công suất 150.000 tấn-200.000tấn /năm, (tương đương 450-550 ngàn tấn supe phốt phát đơn ) với phương hướng này đầu tư không nhiều và sớm có được sản phẩm có hàm lượng dinh dưỡng cao. Sau này khi sản xuất ổn định một số năm sẽ đầu tư sản xuất axits phosphoric và đạm từ khí đồng hành tại đây hoặc đưa từ nơi khác đến để từng bước mở rộng công suất. -Lân nung chảy: Do có nguồn nguyên nhiên, liệu cho sản xuất phân lân nung chảy tất cả ở miền bắc. Tiêu hao gần 2 tấn nguyên nhiên liệu mới có được 1 tấn lân nung chảy. Vì vậy các cơ sở sản xuất phân lân nung chảy gắn liền với việc khai thác và cung cấp quặng Apatit loại II, khai thác quặng TT với khối lượng lớn sẽ phức tạp và khó khăn hơn, đòi hỏi đầu tư lớn hơn. Đối với công ty phân lân nung chảy Văn Điển, công suất hiện nay 120.000 tấn/ năm. Do ở gần trung tâm Hà Nội nên mức tăng công suất tối đa sẽ là 150.000-200.000tấn/năm. Nhà máy phân lân Ninh bình hiện nay có cong suất 100.000 tấn/năm. Tại đây có điều kiện để phát triển công suất đạt 200.000 tấn –300.000 tấn/năm. Sản lượng phân lân nung chảy có 2 nnhà máy dự kiến năm 2000 sẽ là 250.000 tấn/ năm và đến 2005 là 300.000tấn/năm. *Đối với phân đạm: Công ty phân đạm và hoá chất Hà Bắc hiện nay có công suất 100.000 tấn/ure/năm. Dự kiến mở rộng thêm 1 dây chuyền với công suất thích hợp trên cơ sở hạ tầng hiện có khoảng 100.000- 250.000tấn/năm ure. Như vậy đến năm 2000 tại Hà Bắc sẽ có công suất 200.000- 340.000 tấn /năm ure. Sẽ đầu tư 1-2 nhà máy phân đạm 1000tấn NH3 /ngày (550.000 tấn /ure/năm ) từ khí đồng hành . Một trong hai nhà máy phải có axit Nitric để từ đó có thể sản xuất Nitrophos, thuốc nổ công nghiệp. Như vây có thể nói theo phương án này, đến năm 2000 chúng ta sẽ cung ứng đủ hoàn toàn phân lân trong cả nước, năm 2005 sẽ có sản lượng 2.000.000tấn/năm. Trong phân lân có 2 sản phẩm có hàm lượng dinh dưỡng cao là Supe phôt phát kép và DAP. Sản lượng phân đạm năm 2000 đáp ứng 75% nhu cầu và đến 2005 đáp ứng 93% nhu cầu. Phương án 2: *Đối với phân lân: Trong trường hợp không xây dựng supe phốt phát kép tại Lâm Thao, có thể làm supe phốt phát giàu công suất 200.000tấn/ năm thay thế cho một xưởng supe phốt phát đơn (tương đương 450.000tấn /năm quy phốt phát đơn). Lúc này tại Lâm Thao sẽ có công suất 550.000tấn/năm quy supe phốt phát đơn. Tại Long Thành, vẫn như phương án trên, có sản phẩm DAP hoặc supe giầu công suất 150.000tán/năm (tương đương 450.000tấn/năm quy phốt phát đơn). Tại phía bắc do không có TSP ở Lâm Thao, bước đầu cần xây dựng ở vùng Quảng Ninh một dây chuyền sản xuất DAP theo phương thức nhập nguyên liệu với công suất 100.000tấn/năm DAP (tươngđương300.000tấn/năm quy phốt phát đơn). -Phân lân nung chảy: Tại Văn Điển phát triển đến công suất 150.000tấn/năm. Tại Ninh Bình năm 2000 công suất 150.000 tấn/năm và 2005 sẽ là 200.000tấn /năm. *Về phân đạm: Tại Hà Bắc đưa lên công suất 200.000- 340.000tấn ure/năm như phương án II. Từ sau năm 2000 sẽ xây dựng một nhà máy đạm từ khí đồng hành ở phía nam với công suất 1000 tấn NH3 /ngày tức 350.000tấn /năm. Như vậy năm 2000 sản lượng urê chỉ là 200 000-340.000t/năm đến năm 2005có sản lượng 750.000-890.000t/n. Theo phương án này đến năm 2000 cơ bản đáp ứng nhu cầu về lân, nhưng phân đạm đáp ứng 28% nhu cầu. Đến 2005 hoàn toàn thoả mãn về lân, đạm đáp ứng 75% nhu cầu. Phương án III. Đối với nhà máy Supe Lân Lâm Thao, duy trì công suất như hiện tại, chỉ cải tạo dây chuyền axit H2SO4 số 1 từ đốt Pyrit sang đốt S. Tại Long Thành sau năm 2000 mới phát triển một công suất DAP 150.000T/năm (tương đương 450.000tấn/năm quy phốt phát đơn). Phân lân nung chảy: Tại Văn Điển vẫn như 2 phương án trên là 150.000t/năm. Tại Ninh Bình sẽ phát triển đến 200.000 t/năm. Do không đầu tư thêm cho lân Lâm Thao nên cần một dây truyền DAP 100.000t/năm (tương đương 300.000tấn/năm quy phốt phát đơn) ở phía bắc. *Đối với đạm : Tại Hà Bắc không phát triển thêm công suất và chỉ có thêm một nhà máy đạm 1000t/nămNh3/ ngày (550tấn ure/năm) Như vậy theo phương án này đến năm 2000 phân lân mới đạt 1-120.000tấn/năm đáp ứng 75% nhu cầu, đến 2005 sẽ có 1,55 triệu tấn/năm đáp ứng 90% nhu cầu. Về đạm đến năm 2000 vẫn chưa thay đổi, vẫn ở công suất 100.000 tấn/ure/năm tại Hà Bắc. Đến 2005 có lượng 650.000tấn /năm đáp ứng được khoảng 40% nhu cầu. Kết luận về nguồn cung ứng phân bón vô cơ đựoc sản xuất trong nước . -Sản xuất phân bón mang tính liên tục, nhưng sử dụng có tính thời vụ, đối tượng sử dụng lại là nông dân. Để phát triển sản xuất thoả mãn nhu cầu nông nghiệp, việc lưu thông cung ứng cần có cơ chế chính sách và cần được cải tiến phù hợp, từ hình thức và qui mô tổ chức quản lý (từ các công ty chuyên doanh vật tư nông nghiệp các công ty vật tư tổng hợp đến các cửa hàng đại lý tư nhân ). Nhưng vấn đề vĩ mô trên cần có sự nghiên cứu đồng bộ và nhất thiết phải có sự điều tiết và hỗ trợ của Nhà nước. -Tổng sản lượng phân bón do tổng công ty sản xuất và cung ứng thực sự đã góp phần quan trọng trong sản xuất nông nghiệp. Tuy vậy để đáp ứng và tiến tới thoả mãn được nhu cầu phân bón của cả nước trong những năm sau này thì việc đầu tư xây dựng thêm các cơ sở sản xuất mới là hết sức cấp bách và mang tính chiến lược cho việc phát triển ngành phân bón Việt Nam. Nhu cầu phân bón những năm 2000 và 2010 được dự tính như sau: +Năm 2000: Phân đạm : 1,8-2triệu tấn (Qui ure) Phân lân : 2 triệu tấn (Qui về supe đơn) +Năm 2010: Phân đạm: 2-2,2 triệu tấn Phân lân: trên 2 triệu tấn -Mục tiêu của Tổng công ty đến năm 2000 sẽ thoả mãn nhu cầu về phân lân trong nước và có thể xuất khẩu một phần lân nung chảy; Phân đạm đáp ứng một phần nhu cầu; Phân Kali nhập 100%.Trên cở sở các phương án đó chúng ta có: Biểu số 8 : Dự kiến sản lượng phân bón sản xuất tới năm 2000. Đơn vị tính: tấn TT 1996 1997 1998 1999 2000 1 Phân urê 1.500.000 1.510.000 1.580.000 1.580.000 1.610.000 - SX trong nước 100.000 110.000 130.000 130.000 1.010.000 - Nhập khẩu 1.400.000 140.000 1.450.000 1.450.000 600.000 2 Phân NPK 515.900 570.000 765.000 765.000 1.200.000 - SX trong nước 195.900 220.000 345.000 345.000 600.000 - Nhập khẩu 320.000 350.000 420.000 420.000 600.000 3 Phân DAP 320.000 320.000 350.000 350.000 600.000 4 Phân Ka li (Nhập khẩu) 110.000 120.000 120.000 150.000 150.000 5 Phân lân (chủ yếu SX trong nước) 820.000 840.000 880.000 990.000 1.000.000 Nguồn Bộ nông nghiệp Phát tiển nông thôn 2. Phân tích nguồn cung ứng phân bón vô cơ từ nhập khẩu. 2.1. Phân tích nguồn cung ứng phân bón vô cơ từ nhập khẩu. Một khi sản xuất trong nước còn chưa phát triển thì buộc phải nhập khẩu. Trước kia khi nền kinh tế nước ta được quản lý theo kiểu kế hoạch hoá tập trung, việc nhập khẩu phân bón vô cơ chủ yếu từ các nước XHCN trong đó phân đạm chiếm gần 80%, Kali 100% so với tổng số nhập khẩu. Nhập từ các nước khác: phân đạm hơn 20%, phân lân 100%. Biểu số 9: tỷ lệ nhập khẩu phân bón vô cơ các giai đoạn Đơn vị tính: % Nhập khẩu 1976-1980 1981-1985 1986-1990 1991-1995 1.Phân đạm 100 100 100 100 -Từ các nước XHCN 100 76,2 78,7 22 -Từ các nước khác - 23,8 28,3 78 2.Phân lân 100 100 100 100 -Từ các nước khác 100 100 100 100 3. Kali 100 100 100 100 -Từ các nước XHCN 100 100 100 70 Số lượng nhập khẩu phân bón ngày càng tăng, trong 5 năm 1991-1995 so với 1986-1990 lượng phân bón nhập khẩu tăng 1,5 lần. Nhưng đến năm 1991, Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu sụp đổ, vì thế việc nhập khẩu phân bón vô cơ hoàn toàn dựa vào các nước khu vực II. Nhập từ thị trường khu vực II (không xã hội chủ nghĩa ) chiếm khoảng 30-40% lượng phân cần nhập. Số phân này do một số DN xuất nhập khẩu Trung ương và địa phương nhập về và bán tự do theo giá thoả thuận và do DN tự qui định giá bán. Điều khó khăn đối với Việt Nam trong việc nhập bón lúc này là ngoại tệ mạnh - nền kinh tế mới được vực dậy, đồng tiền Việt Nam chưa ổn định (tháng 1/1991: 1USD đổi được 7000 đ Việt Nam, thì tháng 11/12/1991 tỷ giá này đã nhảy lên 13.700 - 13.800 đ/USD) giá urê trên thị trường thế giới thời điểm này cũng biến động hết sức nhanh, từ 157USD/tấn tăng lên 190, rồi 210, 220 USD/tấn - Nhà nước Việt Nam thiếu ngoại tệ và các DN cũng rất thiếu ngoại tệ.Chính phủ Việt Nam trong tình hình đó đã làm mọi cách, làm hết sức mình để nhập phân bón về phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Vì thiếu ngoại tệ mạnh, lại mới chuyển sang kinh tế thị trường, mới tiếp cận với thị trường khu vực II - chưa có nhiều kinh nghiệm trên thương trường, nên những năm vừa qua, trong việc nhập khẩu phân bón. Chính phủ Việt Nam thường phải áp dụng các giải pháp tình thế - các giải pháp này dường như phải điều chỉnh và thay đổi theo từng năm một, tuy nhiên có thể tóm tắt trong một số nội dung sau đây: - Huy động nguồn vốn ngoại tệ dự trữ của ngân sách và nguồn ngoại tệ từ xuất khẩu dầu mỏ cho một số DN xuất khẩu thuộc bộ nông nghiệp, công nghiệp thực phẩm (nay là Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn) vay quay 2 vòng để nhập phân bón. - Cho phép các DN xuất khẩu Trung ương và địa phương được phép xuất khẩu hàng hoá nông sản để đổi lấy ngoại tệ nhập khẩu phân bón. Trên cơ sở nguồn phân nhập về, các địa phương trước hết tự cân đối lấy nhu cầu phân bón cho địa phương mình. Tuy nhiên, phương thức này chủ yếu được thực thi ở các tỉnh phía Nam, các tỉnh phía Bắc rất khó làm vì không có nông sản xuất khẩu, hoặc nếu có thì số lượng không đáng kể. - Đến năm 1993, những giải pháp trên cũng khó thực thi, nên Chính phủ đã thả nổi việc nhập phân bón. Các DN có ngoại tệ nếu được Bộ nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm (nay là Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn) và Bộ ngoại thương (nay là Bộ Thương mại) đồng ý đều được phép nhập phân bón về bán trên thị trường theo giá thoả thuận cho mọi đối tượng. Vì vậy, đã có khá nhiều địa phương và DN tham gia nhập khẩu phân bón. Chỉ trong một thời gian rất ngắn đã có tới gần 100 đơn vị đi buôn phân bón về nhiều, ứ đọng, phát sinh thêm các loại phí lưu kho, lưu bãi, lãi suất ngân hàng, buộc phải bán tháo, lúc này phân bón rất nhiều, đồng thời giá thế giới giảm, lúc này chênh lệch, mức lãi suất vay giữa tiền đồng và tiền đô la lớn, cho nên càng khích lệ các DN nhảy vào lĩnh vực nhập khẩu phân bón, cụ thể là: vay đô la thì mức lãi suất 0,5 % tháng (6 % năm). Nếu vay tiền đồng 2,1% tháng ( = 25,2%) như vậy chênh lệch lãi suất giữa vay đô la và tiền đồng là 9,6%/6 tháng. Chính vì vậy mà các nhà DN mang đô la đi mua phân bón về bán dù có phải bán lỗ 5 % (6 tháng) vẫn còn lãi 4,6% và vì vậy các nhà DN làm ngơ chuyện lỗ lãi. Điểm lại Năm 1991 có 23 đơn vị tham gia nhập 1.132.280 tấn phân urê, tính bình quân mỗi đơn vị nhập được 49.000 tấn, trong đó đơn vị nhập nhiều nhất là Bộ nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm, nhập được tổng cộng: 450.000 tấn. Đơn vị nhập ít nhất là tỉnh Cao Bằng chỉ có 233 tấn. Biểu số 10: Tình hình nhập khẩu phân Urê của Việt Nam từ 1989 - 1997 Đơn vị tính: Tấn Năm Luợng phân 1989 765.850 1990 785.900 1991 1.139.280 1992 920.180 1993 925.700 1994 1.211.250 1995 1.335.110 1996 1.467.000 1997 1.486.000 Về phân DAP nhập được 157.430 tấn tập trung ở các tỉnh phía Nam do 12 đơn vị nhập, tính bình quân mỗi đơn vị nhập được 13.000 tấn. Đơn vị nhập được nhiều nhất là Bộ Thương mại và Du lịch 28.000 tấn, đơn vị nhập thấp nhất là tỉnh Đắc Lắc chỉ có 3.200 tấn. Vào năm 1992 có 36 đơn vị tham gia nhập khẩu 920.181 tấn phân urê, trong đó Tổng Công ty vật tư nông nghiệp Việt Nam nhập được nhiều nhất 204 - 450 tấn, đơn vị nhập được ít nhất là Công ty dịch vụ tàu biển, chỉ có 125 tấn. về phân DAP nhập được 138.869 tấn do 14 đơn vị thực hiện trong đó đơn vị nhập nhiều nhất là 36.550 tấn, đơn vị nhập ít nhất là 2.850 tấn. - Về phân NPK nhập được 115.803 tấn, do 15 đơn vị thực hiện, trong đó đơn vị nhập nhiều nhất là 40.800 tấn, đơn vị nhập ít nhất là 500 tấn. Tình hình trên đây kéo dài cho đến năm 1995. Trong những năm này Bộ Thương mại và Bộ nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm dự kiến nhập 1.300.000 tấn phân urê và cũng dự kiến giao cho 25 đơn vị đầu mối làm công việc này. Nhưng khi thực hiện có tới 40 đơn vị tham gia nhập khẩu. Cơ chế nhập phân bón nêu trên có điều tốt là đã huy động được mọi nguồn lực ngoại tệ có trong nước để nhập khẩu phân bón, phục vụ kịp thời cho nhu cầu của sản xuất nông nghiệp - song cơ chế này cũng đã dẫn đến một số điều không tốt. Nhiều DN không am hiểu về nông nghiệp, không am hiểu về phân bón, thị trường phân bón, song nghĩ rằng đây là lĩnh vực kinh doanh có lãi nhiều nên cũng xin nhập khẩu phân bón, khi nhập về thấy khó tiêu thụ đành phải bán tống, bán tháo, bán thấp hơn giá vốn nhằm thu hồi vốn nhanh để làm việc khác, điều này đã góp phần làm cho thị trường phân bón thêm lộn xộn. Nhiều DN không có chức năng kinh doanh phân bón, không có khách hàng nhưng do có mối quan hệ quen biết với các cơ quan quản lý nhập khẩu phân bón, nên cũng xin quota nhập khẩu phân bón, nhưng rồi họ không nhập, mà đem bán quota cho các đơn vị khác để kiếm lời - biến quota thành một hàng hoá đặc biệt. (Theo báo Tiền phong năm 1995 có 26 đầu mối, đã có gần 10% các đầu mối quốc doanh bán quota) Nhập phân về không phải vì mục tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp lợi dụng việc vay trả chậm để mua phân về, rồi bán nhanh cho các đơn vị khác (gọi là sang tàu), để tiến hành kinh doanh các loại hàng hoá khác để kiếm lợi. ví dụ: kinh doanh xi măng, sắt thép, bất động sản vv... Chẳng hạn Công ty TNHH Minh Phụng ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0180.doc
Tài liệu liên quan