Nghiên cứu hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài văn bản văn học lớp 11 qua hai bộ sách ngữ văn chuẩn và nâng cao

Tài liệu Nghiên cứu hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài văn bản văn học lớp 11 qua hai bộ sách ngữ văn chuẩn và nâng cao: ... Ebook Nghiên cứu hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài văn bản văn học lớp 11 qua hai bộ sách ngữ văn chuẩn và nâng cao

pdf87 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3021 | Lượt tải: 5download
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài văn bản văn học lớp 11 qua hai bộ sách ngữ văn chuẩn và nâng cao, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ------------------------ ĐỖ THỊ HẢI NGHIÊN CỨU HỆ THỐNG CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC BÀI VĂN BẢN VĂN HỌC LỚP 11 QUA HAI BỘ SÁCH NGỮ VĂN CHUẨN VÀ NÂNG CAO LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC THÁI NGUYÊN - 2008 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ------------------------ ĐỖ THỊ HẢI NGHIÊN CỨU HỆ THỐNG CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC BÀI VĂN BẢN VĂN HỌC LỚP 11 QUA HAI BỘ SÁCH NGỮ VĂN CHUẨN VÀ NÂNG CAO Chuyên ngành: LÍ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC VĂN - TIẾNG VIỆT MÃ SỐ: 60.14.10 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS. PHAN TRỌNG LUẬN THÁI NGUYÊN - 2008 3 Lời cảm ơn Với tấm lòng thành kính, em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới G.S Phan Trọng Luận - người thầy đã tận tâm, nhiệt tình chỉ bảo và giúp đỡ em trong suốt quá trình nghiên cứu hoàn thành luận văn. Em xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong khoa Ngữ Văn -Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu đề tài. Em xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng đào tạo và nghiên cứu khoa học trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên, thư viện trường Đại học Sư phạm đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để em hoàn thành luận văn . Xin cảm ơn Ban giám đốc và các bạn đồng nghiệp Trung tâm GDTX huyện Võ Nhai đã động viên, giúp đỡ tôi hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu của mình. Thái nguyên, tháng 11 năm 2008 Tác giả Đỗ Thị Hải 4 MỤC LỤC Trang Phần 1: Phần mở đầu.....................................................................................1 1. Lí do chọn đề tài..........................................................................................1 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...............................................................2 3. Mục đích nghiên cứu...................................................................................3 4. Nhiệm vụ nghiên cứu..................................................................................3 5. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................3 6. Giả thuyết khoa học.....................................................................................4 7. Lịch sử vấn đề.............................................................................................4 8. Cấu trúc luận văn.........................................................................................7 Phần 2: Nội dung.............................................................................................8 Chƣơng 1: Khảo sát hệ thống CHHDHB (phần thơ hiện đại) trong hai bộ SGK Ngữ văn chuẩn và nâng cao lớp 11 (NXB giáo dục, 2007)................8 1. Mục đích khảo sát.......................................................................................8 2. Thống kê, phân loại....................................................................................8 2.1 Thống kê số lượng câu hỏi......................................................................8 2.2 Phân loại câu hỏi.....................................................................................9 3. Những ưu điểm và hạn chế của hệ thống câu hỏi (Phần thơ hiện đại)......13 3.1 Ưu điểm.................................................................................................14 3.1.1 Số lượng câu hỏi...............................................................................14 3.1.2 Câu hỏi sáng tạo...............................................................................14 3.1.3 Câu hỏi mang tính hệ thống ............................................................17 3.1.4 Câu hỏi có tính then chốt..................................................................19 3.1.5 Câu hỏi vừa sức................................................................................21 3.1.6 Câu hỏi khó......................................................................................21 3.2 Nhược điểm...........................................................................................22 5 3.2.1 Câu hỏi còn chưa chú ý đến việc đọc diễn cảm cho học sinh..........22 3.2.2 Câu hỏi có dung lượng kiến thức lớn và khó, chưa phù hợp với thời gian và khả năng nhận thức của học sinh.......................................................23 3.2.3 Cách đặt câu hỏi..............................................................................23 3.3 Kết luận................................................................................................25 Chƣơng 2: Tiêu chí xây dựng hệ thống CHHDHB tác phẩm văn chƣơng trong SGK Ngữ văn......................................................................................28 1. Cơ sở lí luận cho việc xây dựng hệ thống câu hỏi.....................................28 1.1 CHHDHB thể hiện tư tưởng đổi mới phương pháp dạy học.................28 1.2 Thể hiện rõ chức năng định hướng của CHHDHB...............................33 1.3 Vận dụng những thành tựu của thi pháp học hiện đại vào hệ thống CHHDHB.......................................................................................................36 1.4 Vận dụng thành tựu của ngành ngôn ngữ học hiện đại vào CHHDHB......39 1.5 Vận dụng những ưu điểm của dạy học nêu vấn đề...............................42 2. Những tiêu chí xây dựng hệ thống CHHDHB trong SGK Ngữ văn.........46 2.1 Câu hỏi phải định hướng cho học sinh khám phá giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm..................................................................................47 2.2 Câu hỏi thể hiện được đặc trưng thi pháp của tác phẩm.......................48 2.3 Câu hỏi có tính hệ thống.......................................................................50 2.4 Câu hỏi khơi gợi tình cảm, cảm xúc, tâm hồn của học sinh..................53 2.5 Câu hỏi phải chuẩn bị tâm thế cho học sinh học trên lớp......................55 2.6 Câu hỏi cần phù hợp với trình độ và thời gian thực tế của học sinh.....56 Chƣơng 3: Thể nghiệm – xây dựng câu hỏi hƣớng vào một số bài học cụ thể...................................................................................................................58 1. Giới thuyết chung......................................................................................58 2. Xây dựng câu hỏi cho bài “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử...............58 6 2.1 Bảng đối chiếu hệ thống câu hỏi sách Ngữ văn chuẩn và nâng cao với câu hỏi luận văn...............................................................................................58 2.2 Thuyết minh cho câu hỏi luận văn........................................................60 3. Xây dựng câu hỏi cho bài “Tôi yêu em” của Puskin.................................62 3.1 Bảng đối chiếu hệ thống câu hỏi sách Ngữ văn chuẩn và nâng cao với câu hỏi luận văn..............................................................................................62 3.2 Thuyết minh cho câu hỏi luận văn........................................................64 4. Kết luận rút ra từ câu hỏi thể nghiệm........................................................65 Phần 3: Kết luận chung.................................................................................67 Phụ lục............................................................................................................70 Tài liệu tham khảo.........................................................................................80 1 PHẦN 1: PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: 1.1 Dạy học văn là một quá trình nhận thức trải qua nhiều công đoạn khác nhau. Mỗi công đoạn có một vai trò, nhiệm vụ riêng. Trong đó, câu hỏi hướng dẫn học bài (CHHDHB) là một công đoạn rất quan trọng, có tác dụng quyết định chất lượng học tập, tạo tâm thế cho học sinh chiếm lĩnh tác phẩm, giúp học sinh hình thành và rèn luyện một phương pháp tự tìm hiểu, tự khám phá và cảm nhận tác phẩm văn học. 1.2 Hệ thống CHHDHB trong tác phẩm văn chương không phải là vấn đề mới mẻ nhưng trong quan niệm cũng như trong cách vận dụng của giáo viên phổ thông còn nhiều lúng túng. Cần phải khẳng định rằng, hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa (SGK) không chỉ quan trọng đối với học sinh mà còn giúp giáo viên xây dựng cho mình một phương án dạy tối ưu, đạt hiệu quả cao. Giáo án của giáo viên không thể không tính đến nội dung và cách thức xõy dựng của những câu hỏi trong SGK. Câu hỏi mà học sinh chuẩn bị ở nhà theo SGK và câu hỏi trong giáo án của giáo viên tuy có sự khác nhau nhưng cùng hướng đến một mục đích chung là giúp học sinh tự mình tìm hiểu tác phẩm bằng cách tự học, tự suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo. Vì thế chúng có liên quan mật thiết và hỗ trợ cho nhau. Tuy vậy, nhiều giáo viên trong quá trình soạn bài và lên lớp chưa quan tâm đúng mức tới CHHDHB trong SGK, chưa thể hiện được mối liên hệ giữa những vấn đề mà học sinh chuẩn bị ở nhà với những vấn đề mà thầy cô phát vấn trên lớp. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng dạy học văn trong nhà trường phổ thông. Với đề tài này của luận văn, chúng tôi muốn góp một phần nhỏ việc thay đổi cách nhìn nhận và vận dụng câu hỏi trong SGK đối vói quá trình dạy và học của giáo viên. 2 13 CHHDHB trong SGK thể hiện được rất rõ tư tưởng đổi mới hay chưa đổi mới phương pháp. Vì vậy việc đi sâu, nghiên cứu, tìm hiểu, để nhận định những đóng góp quan trọng vào quá trình đổi mới phương pháp dạy học văn trong nhà trường phổ thông hiện nay là công việc cần thiết. 1.4 Đổi mới phương phỏp dạy học văn theo định hướng coi học sinh là chủ thể sỏng tạo phải là sự thay đổi toàn diện và đồng bộ, trong đó có sự thay đổi của hệ thống câu hỏi trong SGK. Nhưng để đi đến sự hoàn thiện của công việc đổi mới cần phải có sự cố gắng từ nhiều phía, đặc biệt là những nhà sư phạm và đông đảo giáo viên. Là giáo viên trực tiếp giảng dạy chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài về hệ thống CHHDHB trước hết là để rút kinh nghiệm, trên cơ sở đó đưa ra những đề xuất nhằm góp phần tích cực vào quá trình đổi mới phương pháp dạy học văn. Trên đây là những lý do để chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài '' Nghiên cứu hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài văn bản văn học lớp 11 qua hai bộ sách Ngữ văn chuẩn và nâng cao'' cho luận văn thạc sỹ của mình. Chúng tôi cho rằng, kết quả của việc khảo sát đánh giá, xem xét hệ thống câu hỏi trong hai bộ sách Ngữ văn chuẩn và nâng cao sẽ là một yếu tố quan trọng góp phần nâng cao chất lượng dạy học văn ở nhà trường phổ thông. 2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu hệ thống câu hỏi trong hai bộ sách Ngữ văn chuẩn và nâng cao lớp 11. Khảo sát đánh giá các CHHDHB phần thơ hiện đại trong hai bộ sách Ngữ văn chuẩn và nâng cao lớp 11. (Nhà xuất bản Giáo dục- 2007). Hệ thống câu hỏi gồm 8 bài với 33 câu hỏi trong sách Ngữ văn chuẩn và 44 câu hỏi trong sách Ngữ văn nâng cao. 3 3. Mục đích nghiên cứu: Mục đích khoa học của luận văn là khảo sát và đánh giá hệ thống CHHDHB phần thơ hiện đại trong hai bộ sách Ngữ văn chuẩn và nâng cao để rút ra một số kinh nghiệm bổ ích cho việc xác định một quan niệm và phương pháp đúng đắn về cách soạn CHHDHB tác phẩm văn chương ở nhà trường. Thực hiện đề tài này, chúng tôi hy vọng góp một phần nhỏ bé vào việc hoàn thiện, đổi mới phương pháp dạy học tác phẩm văn chương trong nhà trường phổ thông. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu: Khảo sát và đánh giá một cách khách quan, có căn cứ CHHDHB trong hai bộ sách Ngữ văn chuẩn và nâng cao lớp 11. Đưa ra những đề xuất có tính tiêu chí nhằm góp phần xây dựng vào quá trình hoàn thiện của CHHDHB trong SGK từ quá trình khảo sát. Soạn thể nghiệm câu hỏi để đề xuất hướng vào một số bài học tác phẩm văn chương (phần thơ hiện đại) trong chương trình lớp 11. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu: Phương pháp điều tra, thống kê, phân loại: Điều tra thực tiễn giáo viên và học sinh để có cách nhìn nhận rõ hơn về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của hệ thống CHHDHB trong SGK Ngữ văn lớp 11. Thống kê, phân loại để khảo sát những ưu điểm, tư tưởng đổi mới cũng như những hạn chế của hệ thống câu hỏi. Tìm hiểu các công trình nghiên cứu về hệ thống câu hỏi trong dạy học văn nói chung và CHHDHB trong SGK Ngữ văn lớp 11 nói riêng để xác định được những căn cứ làm cơ sở lý luận ban đầu để tiếp tục nghiên cứu. Trên cơ sở lí luận, những tiêu chí xây dựng câu hỏi đã đưa ra, kết hợp với kinh nghiệm dạy học, chúng tôi tiến hành thể nghiệm câu hỏi cho một số bài học tác phẩm văn chương phần thơ hiện đại trong SGK Ngữ văn lớp 11. 4 6. Giả thuyết khoa học: CHHDHB trong SGK nếu được biên soạn tốt thì sẽ là minh chứng cụ thể cho sự đổi mới về phương pháp dạy học tác phẩm văn chương trong nhà trường. Từ đó góp phần xây dựng một quan niệm đầy đủ hơn về hệ thống câu hỏi trong SGK Ngữ văn, nhằm rèn luyện năng lực tự cảm thụ tác phẩm văn chương cho học sinh THPT và tạo điều kiện kết hợp được giữa việc tổ chức hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của trò ở trên lớp. 7. Lịch sử vấn đề: Có thể khẳng định rằng, vấn đề hệ thống câu hỏi trong quá trình dạy học không phải là vấn đề mới. Nó đã được đặt ra từ rất lâu trong lịch sử dạy học. Trước Công nguyên Xôcrat (429-399 TCN), một triết gia Hy lạp cổ đại nhằm mục đích lôi cuốn, kích thích tính chủ động tích cực, sự tự vận động đã sử dụng phương pháp đặt câu hỏi khi giảng bài triết học cho các môn đệ. Ngày nay, với sự lớn mạnh không ngừng của các ngành khoa học trong mọi lĩnh vực, vấn đề câu hỏi trong dạy học văn đã thu hút được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Các công trình ở nước ngoài có thể kể đến một số công trình như: ''Phương pháp luận dạy văn học'' do IA. Rez chủ biên, tác giả đã cho rằng: ''Xây dựng hệ thống câu hỏi lô gíc chặt chẽ có thể dẫn dắt một cách liên tục sự suy nghĩ của học sinh từ quan sát đến phân tích hiện tượng, từ những kết luận mang tính chất bộ phận đến những kết luận khái quát hơn. Hệ thống câu hỏi tạo nên cuộc đàm thoại gợi tìm, không những phải đưa học sinh đến những tri thức tự tìm lấy, mà còn phải chỉ ra các phương hướng, phương pháp nhằm đạt tới các tri thức đó nữa.'' [ 24, tr.57 ] Trong ''Phương pháp giảng dạy văn học ở nhà trường phổ thông'', tác giả Nhikônxki đã nhấn mạnh ''Các câu hỏi đặt ra cho học sinh phải tạo ra 5 cho các em khả năng trả lời câu hỏi tương đối tự do và có khả năng để các em thảo luận, bàn bạc.'' [ 20 ] Hai tác giả đã đề cập tới việc dạy học văn ở nhà trường với những góc độ khác nhau nhưng việc vận dụng vào thực tiễn còn hạn chế, dù câu hỏi đã có ý nghĩa về phương pháp luận. Ở Việt Nam, vấn đề câu hỏi trong quá trình dạy học văn mới xuất hiện trong thế kỷ XX có thể kể đến những công trình nghiên cứu như: ''Cảm thụ văn học, giảng dạy văn học'', ''Phân tích tác phẩm văn học trong nhà trường'' của G.S Phan Trọng Luận. ''Phương pháp dạy học văn'' tập I của G.S Phan Trọng Luận và G.S -T.S Nguyễn Thanh Hùng. Các công trình đó đã có bàn luận về câu hỏi trong dạy học văn. Câu hỏi được nghiên cứu gắn với phương pháp dạy học cụ thể có: ''Câu hỏi trong giảng văn của'' Trương Dĩnh, Tiểu luận ''Những cơ sở khoa học của phương pháp đặt câu hỏi gợi mở trong dạy học tác phẩm văn chương'' của Hoàng Dư. Hai tác giả đã đi sâu nghiên cứu câu hỏi trong phương pháp dạy học văn. Tác giả Trương Dĩnh đề cập đến ''nghệ thuật hỏi trên lớp'' nhưng hình thức hỏi còn chưa tạo thành các khâu trong quá trình lô gíc, chưa lập thành hệ thống để dẫn dắt học sinh khám phá tác phẩm. Luận văn tốt nghiệp đại học của Dương Thị Mai Hương, đề tài '' nhận xét câu hỏi hướng dẫn chuẩn bị bài trong SGK văn 11 PTTH'' khoá 1989- 1993. Đề tài đã chú ý khảo sát câu hỏi cụ thể, có cơ sở lý luận và đề xuất câu hỏi phù hợp với đối tượng học sinh nhưng mới chỉ dừng lại ở sự thể nghiệm cụ thể chứ chưa nâng khái quát lên thành vấn đề cần đi sâu nghiên cứu. Luận văn thạc sĩ của Dương Thị Quy, đề tài ''Câu hỏi hướng dẫn chuẩn bị bài trong SGK văn PTTH''- ĐHSP Hà Nội, 1996. Từ việc khảo sát và nhận xét kết quả, luận văn đã đưa ra cơ sở lí luận và tiêu chí xây dựng câu hỏi 6 chuẩn bị bài. Tuy nhiên, phần nhận xét chưa mang tính khái quát vấn đề, một số tiêu chí xây dựng câu hỏi chưa thật sự khoa học. ''Hệ thống câu hỏi trong SGK văn học bậc PTTH phần tác phẩm văn học Việt Nam'' của Nguyễn Quang Cương- luận án tiến sĩ khoa học, ĐHSP Hà Nội, 2000 và ''Câu hỏi nêu vấn đề trong giảng văn ở THPT'' của Nguyễn Thị Ngân - luận án tiến sĩ khoa học, ĐHSP Hà Nội, 2001. Các tác giả đều cho rằng việc sử dụng hệ thống câu hỏi là một biện pháp, quy trình đem lại hiệu quả cao cho giờ học văn theo khuynh hướng phát huy tính tích cực của chủ thể người học, coi học sinh là bạn đọc sáng tạo, kích thích tư duy tìm tòi, phát hiện và khám phá của học sinh. Đây là những luận án nghiên cứu thuộc hệ thống câu hỏi trên lớp và câu hỏi nêu vấn đề. Tóm lại: Trong tầm bao quát và mức độ hiểu biết của bản thân, nhìn chung các luận văn, luận án đã chú trọng đến câu hỏi phần chuẩn bị bài ở nhà của học sinh trong SGK, nghiên cứu trên nền tảng phương pháp luận. Càng về sau, các luận văn, luận án đã rút ngắn hơn khoảng cách giữa lí luận và thực tiễn, câu hỏi ngày càng có sự phân hoá rõ nét, đáp ứng yêu cầu không ngừng đổi mới phương pháp dạy học văn trong nhà trường phổ thông. Một số công trình từ việc xác định cơ sở lí luận đã đề xuất những tiêu chí xây dựng hệ thống câu hỏi trong SGK. Tuy nhiên, để đi đến thống nhất về một lý thuyết câu hỏi thực sự khoa học còn là cả một quá trình cần được hoàn thiện về lí thuyết và thực thi về biện pháp. Điều này dễ hiểu vì sao những tiêu chí xây dựng câu hỏi mà các luận văn và luận án đưa ra vẫn còn nhiều điểm chưa thống nhất. 8. Cấu trúc luận văn: Luận văn gồm 82 trang. Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, phần nội dung được thể hiện trong 3 chương: 7 Chƣơng 1: Khảo sát hệ thống CHHDHB tác phẩm văn chương (phần thơ hiện đại) trong SGK Ngữ văn chuẩn và nâng cao lớp 11. Chƣơng 2: Tiêu chí xây dựng hệ thống CHHDHB tác phẩm văn chương (phần thơ hiện đại) trong SGK Ngữ văn. Chƣơng 3: Xây dựng câu hỏi thể nghiệm cho một số tác phẩm phần thơ hiện đại trong SGK Ngữ văn lớp 11. 8 PHẦN 2: NỘI DUNG Chƣơng 1 KHẢO SÁT HỆ THỐNG CHHDHB (PHẦN THƠ HIỆN ĐẠI) TRONG HAI BỘ SGK NGỮ VĂN CHUẨN VÀ NÂNG CAO LỚP 11 (NXB GIÁO DỤC, 2007) 1. Mục đích khảo sát: 1.1 Nhận định những thành công và chỉ ra những hạn chế của hệ thống CHHDHB trong SGK Ngữ văn lớp 11. Chúng tôi xem xét câu hỏi đã thực sự chú trọng tới tính sáng tạo của chủ thể học sinh hay mới chỉ dừng ở mức độ tái hiện đơn giản như trước đây? Câu hỏi đã phù hợp với quy luật cảm thụ văn chương, quy luật nhận thức của học sinh THPT chưa? Câu hỏi đã thể hiện đặc trưng riêng của thể loại văn học chưa? Câu hỏi đã có tính hệ thống dẫn dắt học sinh đi vào tác phẩm hay chưa?... 1.2 CHHDHB là nơi biểu hiện rõ nhất tư tưởng đổi mới của những người biên soạn sách, đồng thời giúp chúng ta nhìn nhận và khẳng định được bước đường phát triển của hệ thống CHHDHB trong SGK. 1.3 Kết quả của việc khảo sát giúp chúng tôi nhìn nhận, đánh giá CHHDHB trong SGK được khách quan. Từ đó đưa ra những đề xuất, Những thể nghiệm riêng nhằm góp phần xây dựng cho sự hoàn thiện của hệ thống CHHDHB trong SGK. 2. Thống kê, phân loại: 2.1 Thống kê số lƣợng câu hỏi: Phạm vi khảo sát: CHHDHB tác phẩm văn chương (phần thơ hiện đại) trong SGK Ngữ văn chuẩn và nâng cao lớp 11. (NXB Giáo dục, 2007) Tổng số bài khảo sát: 08 bài. 9 Số câu hỏi trong SGK Ngữ văn chuẩn: 33, bình quân 4,1 câu hỏi/1 bài học. Số câu hỏi trong SGK Ngữ văn nâng cao: 44, bình quân 5,5 câu hỏi/1 bài học. Tổng số câu hỏi trong hai bộ sách là 77 câu. 2.2 Phân loại câu hỏi: Bảng phân loại: Loại câu hỏi Số lƣợng câu hỏi (%) Ví dụ Tái hiện Sách Ngữ văn chuẩn: 8/33 (24,2%) Sách Ngữ văn nâng cao: 10/44 (22,7%) 1. Tố Hữu đã dùng những hình ảnh nào để chỉ lí tưởng và biểu hiện niềm vui sướng, say mê khi bắt gặp lí tưởng? ( CHHDHB ''Từ ấy'' trang 44, tập 2 - sách Ngữ văn chuẩn) 2. So sánh bản dịch thơ với bản dịch nghĩa, tìm những chỗ chưa sát với nguyên tác (chú ý câu 2 và câu 3) (CHHDHB “Chiều tối” trang 42, tập 2 - Sách Ngữ văn chuẩn) 3. Dựa vào cảnh ngộ của tác giả (xem phần tiểu dẫn) hãy nhận xét nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong 2 câu đầu của bài thơ. (CHHDHB ''Chiều tối'' trang 76, tập 2 - Sách Ngữ văn nâng cao) 4. Bài thơ được viết như một dòng cảm xúc hối hả tuôn trào, nhưng vẫn tuân theo một bố cục khá rõ ràng, thể hiện mạch triết lí sâu 10 sắc và chặt chẽ. Hãy tìm bố cục ấy. (CHHDHB ''Vội vàng'' trang 29, tập 2 - Sách Ngữ văn nâng cao) Sáng tạo Sách Ngữ văn chuẩn:24/33 (72,7%) Sách Ngữ văn nâng cao: 30/44 (68,1%) 1. Bài thơ gợi cho anh (chị) những cảm nghĩ gì về tâm hồn Puskin và về tình yêu? (CHHDHB ''Tôi yêu em'' trang 60, tập 2 - Sách Ngữ văn chuẩn) 2. Hỡnh ảnh thiên nhiên, sự sống quen thuộc được tác giả cảm nhận và diễn tả như thế nào? Hãy chỉ ra những nét mới trong quan niệm của Xuân Diệu về cuộc sống, tuổi trẻ và hạnh phúc? (CHHDHB ''Vội vàng'' trang 23, tập 2 - Sách Ngữ văn chuẩn) 3. Hãy nêu cảm nhận của anh (chị) về bức tranh thiên nhiên được thể hiện trong bài thơ. Câu đề từ ''bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài'' có mối liên hệ đối với hình ảnh tạo vật thiên nhiên và tâm trạng của tác giả được thể hiện trong bài? (CHHDHB ''Tràng giang'' trang 50, tập 2 - Sách Ngữ văn nâng cao) 4. Cõu thơ “Ai biết tình ai có đậm đà?” có chút hoài nghi. Theo anh (chị), đó là nỗi hoài nghi của sự chán đời hay của niềm tha thiết với cuộc đời? Tại sao? CHHDHB ''Đây thôn Vĩ Dạ'' trang 47, tập 2 11 - Sách Ngữ văn nâng cao) Dẫn dắt, gợi mở Sách Ngữ văn chuẩn: 14/33 (42,4%) Sách Ngữ văn nâng cao: 20/44 (45,4%) 1. Điệp khúc nào làm nổi bật cảm xúc chủ đạo của bài thơ? Bài thơ dường như là lời từ giã cho một mối tình không thành, lời từ giã của Puskin có gì đặc biệt? (CHHDHB ''Tôi yêu em'' trang 60, tập 2 - Sách Ngữ văn chuẩn) 2. Giọng điệu trữ tình chuyển biến như thế nào từ hai câu 1-2 sang hai câu 3-4 và từ câu 5-6 sang hai câu 7-8? Diễn biến tâm trạng phức tạp của nhân vật trữ tình được thể hiện tinh tế ra sao? (CHHDHB ''Tôi yêu em'' trang 60, tập 2 - Sách Ngữ văn chuẩn) 3. Mỗi khổ thơ trong bài đều chứa đựng câu hỏi. Các câu hỏi ấy đã góp phần tạo nên âm điệu riêng của bài thơ. Âm điệu ấy đã thể hiện mạch tâm trạng gì của tác giả? CHHDHB ''Đây thôn Vĩ Dạ'' trang 47, tập 2 - Sách Ngữ văn nâng cao) 4. Anh (chị) có cảm nhận như thế nào về âm điệu chung của toàn bài thơ? Âm điệu ấy đó gúp phần thể hiện tâm trạng gì của tác giả trước thiên nhiên? (CHHDHB ''Tràng giang'', trang 50, tập 2 - Sách Ngữ văn nâng cao) 12 Câu hỏi vừa sức Sách Ngữ văn chuẩn: 30/33 (90%) Sách Ngữ văn nâng cao: 39/44 (88,,6%) 1. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là cảm hứng lãng mạn, nhưng trong bài lại có một đoạn rất hiện thực. Đó là đoạn thơ nào? Tìm hiểu ý nghĩa đoạn thơ đó. Theo anh (chị) hai nguồn cảm hứng này ở thi sĩ Tản Đà có mối liên hệ với nhau như thế nào? (CHHDHB ''Hầu trời'' trang 17, tập 2 - Sách Ngữ văn chuẩn) 2. Sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm của nhà thơ được thể hiện ra sao? (CHHDHB ''Từ ấy'' trang 44, tập 2 - Sách Ngữ văn chuẩn) 3. Cảm xúc trong 2 câu thơ: ''Tôi yêu em âm thầm không hy vọng- Lúc rụt rè khi hậm hực lòng ghen'' có gì đặc biệt? Nó hé mở trạng thái tình cảm gì trong nhân vật trữ tình? (CHHDHB ''Tôi yêu em'' trang 167, tập 2 - Sách Ngữ văn nâng cao) 4. Hình ảnh lũ than rực hồng ở cuối bài thơ có ý nghĩa như thế nào trong bức tranh chiều tối của tác giả? Điều này thể hiện đặc điểm gì của tâm hồn Hồ chí Minh? (CHHDHB ''Chiều tối'' trang 76 , tập 2 - Sách Ngữ văn nâng cao) 13 Câu hỏi khó Sách Ngữ văn chuẩn: 3/33 (9%) Sách Ngữ văn nâng cao: 5/44 (11,3%) 1. Có gì đáng chú ý trong tứ thơ và bút pháp của bài thơ? (CHHDHB “Đây thôn Vĩ Dạ” trang 39, tập 2 - Sách Ngữ văn chuẩn) 2. Nhận xét chung về giá trị tư tưởng và nghệ thuật của bài thơ. (CHHDHB ''Hầu Trời'' trang 12, tập 2 - Sách Ngữ văn nâng cao) 3. Màu sắc cổ điển của bài thơ thể hiện ở đâu và như thế nào? Vì sao người ta thường nói thơ nghệ thuật của Hồ Chí Minh tuy rất cổ điển nhưng vẫn là thơ hiện đại? Hãy phân tích bài ''Chiều tối'' để giải thích và chứng minh. (CHHDHB ''Chiều tối'' trang 76 , tập 2- Sách Ngữ văn nâng cao) 3. Những ƣu điểm và hạn chế của hệ thống câu hỏi (phần thơ hiện đại): Qua khảo sát chúng tôi nhận thấy hệ thống câu hỏi phần thơ hiện đại trong 2 bộ sách Ngữ văn chuẩn và nâng cao có những ưu điểm rất lớn, bên cạnh đó còn có những hạn chế nhất định. 3.1 Ƣu điểm: Những thành công của hệ thống câu hỏi được biểu hiện trên những phương diện sau: 14 3.1.1 Số lƣợng câu hỏi: Kết quả khảo sát cho thấy tổng số câu hỏi ở bộ sách Ngữ văn chuẩn là 33 câu/8 bài, bình quân 4,1 câu/1 bài. Ở sách Ngữ văn nâng cao là 44 câu/8 bài, bình quân 5,5 câu/1 bài. Số lượng câu hỏi như vậy là tương đối hợp lí, phù hợp với điều kiện học tập của học sinh và tương quan giữa các môn học khác. Nếu số lượng câu hỏi quá ít cho một bài học sẽ khó có thể giúp học sinh chiếm lĩnh hết các giá trị cơ bản của bài học. Ngược lại, nếu số lượng câu hỏi quá nhiều, học sinh sẽ không đủ thời gian hoặc không đủ kiên nhẫn để chuẩn bị, dễ gây tâm lí chán nản. 3.1.2 Câu hỏi sáng tạo: Sách Ngữ văn chuẩn: 24/33 (72,7%) Sách Ngữ văn nâng cao: 30/44 (68,1%) Câu hỏi mang tính sáng tạo là những ưu điểm vượt trội của hệ thống CHHDHB. Loại câu hỏi nàychiếm tỉ lệ lớn là biểu hiện rõ nhất của phương pháp dạy học mới, phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác của học sinh. Trong SGK Ngữ văn cũ, câu hỏi sáng tạo chưa được chú ý đúng mức, nhiều câu còn ở dạng tái hiện. Giáo sư Lê Trí Viễn, một người vừa dạy học vừa viết sách từ những năm 1950, là một trong những tác giả của bộ sách giáo khoa văn THPT khi nhìn nhận lại sách giáo khoa của mình cũng phải thừa nhận rằng: “Kinh nghiệm của tôi khiến cho tôi có chỗ chưa hài lòng về hệ thống câu hỏi hướng dẫn của SGK”[30] Trong luận văn thạc sĩ, đề tài ''Câu hỏi hướng dẫn chuẩn bị bài trong SGK văn THPT'' của Dương Thị Quy, tác giả đã nhận xét: ''Câu hỏi đã có sự chú ý dẫn dắt học sinh vào tác phẩm xong việc làm mới dừng lại ở sự tái hiện, nặng về tái hiện hơn là sáng tạo'' [ 23 ] 15 Luận án tiến sĩ của Nguyễn Quang Cương, đề tài ''Hệ thống câu hỏi trong SGK văn học- bậc PTTH- phần tác phẩm văn học Việt Nam'' cũng đã nhận xét: ''Học sinh ở nhà do có nhiều thời gian suy nghĩ; hơn nữa lại có thể tham khảo tài liệu hướng dẫn ngoài, vì thế rất cần quan tâm đến loại câu hỏi sáng tạo, buộc học sinh suy nghĩ tìm tòi trước khi đến lớp, tránh tình trạng các em chỉ cần xem SGK và trả lời một cách quá dễ dàng'' [ 2 ] Như vậy chúng tôi có thể nhận định, câu hỏi sáng tạo trong SGK Ngữ văn chuẩn và nâng cao (phần thơ hiện đại) so với sách cũ đã tăng rõ rệt. Đa số các câu hỏi đều thiên về tính sáng tạo nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học coi học sinh là bạn đọc, phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác của người học. Câu hỏi sáng tạo phong phú và đa dạng, có nhiều cách hỏi, cách nêu vấn đề khác nhau, tuỳ thuộc vào tính chất, đặc điểm riêng của mỗi bài học. Từ những câu hỏi đó yêu cầu học sinh phải biết so sánh, phân tích, đánh giá, gợi mở...đánh thức sự sáng tạo tiềm ẩn trong mỗi học sinh. Trong phạm vi luận văn để tiện cho việc nghiên cứu, tìm hiểu, đồng thời căn cứ vào đặc điểm, tính chất riêng của câu hỏi, chúng tôi tạm phân ra các dạng nhỏ của câu hỏi sáng tạo như sau: 3.1.2.1 Câu hỏi có tính nêu vấn đề: Đây là loại câu hỏi nhằm hướng dẫn học sinh xâu chuỗi các vấn đề, các chi tiết và sự kiện trong tác phẩm, từ đó học sinh nắm bắt kiến thức một cách hệ thống, lô gíc và toàn diện. “Nhằm tìm cách làm cho hoạt động nhận thức của học sinh thành tự giác, phát triển tư duy cho các em, phát triển kĩ năng độc lập giải quyết các nhiệm vụ nhận thức phức tạp”. [24, tr.67] Câu hỏi nêu vấn đề chứa đựng dung lượng rộng lớn bao gồm một khối lượng tư liệu rộng rãi, nó mang tính chất tổng hợp, gợi lên giữa cái đã biết và cái chưa biết trong nhận thức của học sinh. Loại câu hỏi này, SGK Ngữ văn cũ ít khi đề cập đến. 16 Câu hỏi nêu vấn đề thường lôi cuốn học sinh, tác động đến tâm lí, thị hiếu, cảm xúc, kích thích trí thông minh, óc tưởng tượng, kĩ năng sáng tạo của học sinh, từ đó các em phát hiện ra những vấn đề cốt lõi, trọng tâm trong tác phẩm. Vì thế câu hỏi nêu vấn đề luôn có ý nghĩa đối với khoa học sư phạm và thực tiễn giảng dạy ở các bộ môn. Ví dụ 1: Tình yêu thiên nhiên ở đây có thấm đượm lòng yêu nước thầm kín không? Vì sao? (CHHDHB ''Tràng giang'', trang 30, tập 2- Sách Ngữ văn chuẩn) Ví dụ 2: Ở khổ thơ thứ 3, nhà thơ bộc lộ tâm sự của mình như thế nào? Chút hoài nghi trong câu thơ ''Ai biết tình ai có đậm đà?'' có biểu hiện niềm tha thiết với cuộc đời không? Vì sao? (CHHDHB ''Đây thôn Vĩ Dạ'' trang 47, tập 2- sách Ngữ văn chuẩn) Ví dụ 3: Lí tưởng Cộng sản đã đem đến cho Tố Hữu sự thức tỉnh về mối quan hệ tình cảm mới như thế nào? Vì sao sự thức tỉnh về quan hệ tình cảm ấy lại đem đến cho Tố Hữu sức mạnh và niềm vui? (CHHDHB ''Từ ấy'', trang 88, tập 2- Sách Ngữ văn nâng cao) Ví dụ 4: Tại sao có thể nói tình yêu thiên nhiên ở đây cũng chứa đựng lòng yêu nước thầm kín? (CHHDHB ''Tràng giang'', trang 50, tập 2- Sách Ngữ văn nâng cao) 3.1.2.2 Câu hỏi dẫn dắt, gợi mở: Phần lớn câu hỏi dẫn dắt gợi mở góp phần tác động đến tư duy sáng tạo của học sinh. Nó kích thích hứng thú, mang lại niềm say mê học tập và định hướng cho học sinh biết tìm ra con đường để đi tới chân lý. Sau đây là một số ví dụ. Ví dụ 1: Tư duy mới mẻ, táo bạo và khát vọng hành động của nhà chí sĩ cách mạng trong buổi ra đi tìm đường cứu nước được biểu lộ như thế nào? 17 Dựa trên cảm xúc của tác giả và những hình ảnh nghệ thuật trong bài thơ, chú ý tìm hiểu các vấn đề sau: - Quan niệm mới về chí làm trai và tư thế, tầm vóc của con người trong vũ trụ. - Ý thức trách nhiệm cá nhân trước thời cuộc. - Thái độ quyết liệt trước._. tình cảnh đất nước và những tín điều xưa cũ. - Khát vọng hành động và tư thế buổi lên đường. (CHHDHB ''Lưu biệt khi xuất dương'', trang 5, tập 2 - Sách Ngữ văn chuẩn) Ví dụ 2: Anh (chị) có cảm nhận như thế nào về âm điệu chung của toàn bài thơ?Âm điệu ấy đã góp phần thể hiện tâm trạng gì của tác giả trước thiên nhiên? (CHHDHB ''Tràng giang'', trang 50, tập 2- Sách nâng cao) 3.1.3 Câu hỏi mang tính hệ thống: Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy đa số các CHHDHB sau mỗi bài học đều nằm trong một thể thống nhất, nhằm làm nổi bật những giá trị chính của tác phẩm. Sau đây là hai ví dụ trong hai bộ sách về hệ thống CHHDHB ''Tôi yêu em'' của Puskin: Sách Ngữ văn chuẩn, trang 60, tập 2: Câu 1: Điệp khúc nào làm nổi bật cảm xúc chủ đạo của bài thơ?Bài thơ dường như là lời từ giã cho một mối tình không thành. Lời từ giã của Puskin có gì đặc biệt? Câu 2: Giọng điệu trữ tình chuyển biến như thế nào từ hai câu 1-2 sang hai câu 3-4 và từ hai câu 5-6 sang hai câu 7-8? Diễn biến tâm trạng phức tạp của nhân vật trữ tình được thể hiện tinh tế ra sao? Câu 3: Tại sao có thể nói hai câu kết là bất ngờ, hàm chứa nhiều ý vị? 18 Câu 4: Bài thơ gợi cho anh (chị) những cảm nghĩ gì về tâm hồn Puskin và về tình yêu? Sách Ngữ văn nâng cao, trang 167, tập 2: Câu 1: Đọc diễn cảm bài thơ, lưu ý cụm từ "Tôi yêu em" và vị trí của cụm từ này trong toàn bài, hãy tìm hiểu kết cấu bài thơ và diễn biến tâm trạng của nhân vật trữ tình. Câu 2; Tình cảm phức tạp, tế nhị của nhân vật trữ tình trong bài thơ đựơc Puskin diễn tả tinh tế như thế nào qua 4 câu thơ đầu? Câu 3: Cảm xúc trong hai câu thơ: "Tôi yêu em âm thầm không hy vọng- Lúc rụt rè khi hậm hực lòng ghen" có gì đặc biệt? Nó hé mở trạng thái tình cảm gì trong nhân vật trữ tình? Câu 4: Xu hướng vươn tới sự cao cả trong tư tưởng, tình cảm là đặc trưng cơ bản của thơ Puskin. Phân tích hai câu thơ cuối để chứng minh. Chúng ta thấy rất rõ, các câu hỏi của bài thơ trong hai bộ SGK đều nằm trên một chỉnh thể, tạo nên một hệ thống liền mạch, có tác dụng định hướng, dẫn dắt học sinh đi vào khám phá, chiếm lĩnh giá trị nội dung và nghệ thuật, phù hợp với nhận thức của học sinh. Hai hệ thống câu hỏi đã làm nổi bật được vấn đề trọng tâm của tác phẩm. Đó là vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật trữ tình trong tình yêu: Chân thành, say đắm, vị tha, cao thượng. So với câu hỏi của bài ''Tôi yêu em'' trong SGK cũ thì câu hỏi trong sách mới có nhiều ưu điểm hơn. Chúng tôi xin được dẫn ra để người đọc tiện đối sánh. Cõu hỏi trong SGK cũ: Câu 1: Dựa vào cách chấm câu, tìm xem bài thơ gồm mấy câu, mấy ý lớn và xác định kết cấu của nó. 19 Câu 2: Nhân vật trữ tình giãi bày tâm trạng theo lô gíc lí trí hay theo mạch cảm xúc? Hai cách này có mâu thuẫn với nhau không? Mãnh lực tình yêu của nhân vật trữ tình. Câu 3: Tìm hiểu quan hệ giữa em và nhân vật trữ tình. Câu 4: Qua bài thơ này, đặc biệt là câu cuối hãy hình dung nhân vật trữ tình là người như thế nào (ích kỉ hay vị tha, thấp kém hay cao thượng)? Câu 5: Puskin sử dụng những thủ pháp tu từ gì trong bài thơ này? Điều thể hiện rõ trong hệ thống câu hỏi ở SGK cũ còn nặng về câu hỏi tái hiện, đơn giản, chưa tạo nên một hệ thống liền mạch để hướng dẫn học sinh tìm hiểu tác phẩm văn học từ nhiều phương diện nhằm bồi dưỡng một cách toàn diện năng lực văn học cho các em. 3.1.4 Câu hỏi có tính then chốt: Vấn đề then chốt của tác phẩm có thể hiểu là những vấn đề quan trọng nhất, có tác dụng quyết định tới sự phát triển của toàn bộ tác phẩm. Qua khảo sát, chúng tôi thấy hệ thống CHHDHB trong SGK đều có những câu then chốt. Ví dụ 1: Vấn đề quan trọng nhất trong bài thơ ''Vội vàng'' của Xuân Diệu là niềm khao khát sống mãnh liệt, sống hết mình và quan niệm về thời gian, về tuổi trẻ và hạnh phúc. Tư tưởng đó được thể hiện qua một hình thức nghệ thuật điêu luyện: Sự kết hợp nhuần nhị giữa mạch cảm xúc và luận lí, giọng điệu say mê, sôi nổi, những sáng tạo độc đáo về ngôn từ và hình ảnh thơ. Những câu hỏi mang tính then chốt trong SGK Ngữ văn chuẩn (trang 23) là: Câu2: Xuân Diệu cảm nhận về thời gian như thế nào? Vì sao nhà thơ có tâm trạng vội vàng, cuống quýt trước sự trôi qua nhanh chóng của thời gian? 20 Câu 3: Hình ảnh thiên nhiên, sự sống quen thuộc được tác giả cảm nhận và diễn tả như thế nào? Hãy chỉ ra những nét mới trong quan niệm của Xuân Diệu về cuộc sống, tuổi trẻ và hạnh phúc. Câu 4: Hãy nhận xét về đặc điểm của hình ảnh, ngôn từ, nhịp điệu trong đoạn thơ cuối của bài thơ. Nhà thơ đã sáng tạo được hình ảnh nào mà anh (chị) cho là mới mẻ, độc đáo nhất? Ví dụ 2: Vấn đề then chốt của bài thơ ''Từ ấy'' là niềm vui sướng, say mê mãnh liệt của Tố Hữu trong buổi đầu gặp gỡ lí tưởng cách mạng và tác dụng kỳ diệu của lí tưởng với cuộc đời nhà thơ. Những câu hỏi mang tính then chốt trong SGK Ngữ văn nâng cao (trang 88) là: Câu 1: Tìm hiểu tâm trạng của Tố Hữu trong giây phút bắt gặp lí tưởng cộng sản. Qua hình ảnh ''Mặt trời chân lí chói qua tim'' có thể hiểu quan niệm của nhà thơ về lí tưởng cộng sản như thế nào? Câu 3: Lí tưởng cộng sản đã đem đến cho Tố Hữu sự thức tỉnh về mối quan hệ tình cảm mới như thế nào? Vì sao sự thức tỉnh về quan hệ tình cảm ấy lại đem đến cho Tố Hữu sức mạnh và niềm vui? Tóm lại: Hệ thống CHHDHB văn bản văn học (phần thơ hiện đại) trong hai bộ sách Ngữ văn chuẩn và nâng cao có nhiều ưu điểm đáng kể. Trong đó nổi bật nhất là việc đưa ra số lượng lớn câu hỏi sáng tạo ở nhiều mức độ khác nhau, định hướng được nhiều hình thức hoạt động của học sinh, phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, khơi gợi cảm xúc, suy nghĩ của các em. 3.1.5 Loại câu hỏi vừa sức: Qua khảo sát, tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy phần lớn CHHDHB trong hai bộ sách Ngữ văn chuẩn và nâng cao (phần thơ hiện đại) phần lớn phù hợp với đối tượng học sinh. Nếu chịu khó tìm hiểu kĩ tác phẩm và nắm vững yêu 21 cầu về kiến thức đặt ra của bài học, các em sẽ giải quyết được đúng hướng đa số những câu hỏi đưa ra trong SGK. Xin dẫn một số ví dụ như sau: Ví dụ 1: Hãy nhận xét về đặc điểm của hình ảnh ngôn từ, nhịp điệu trong đoạn thơ cuối của bài thơ. Nhà thơ đã sáng tạo được hình ảnh nào mà anh (chị) cho là mới mẻ, độc đáo nhất? (CHHDHB ''Vội vàng'', trang 23, tập 2- Sách Ngữ văn chuẩn) Ví dụ 2: Hình ảnh lò than rực hồng ở cuối bài thơ có ý nghĩa như thế nào trong bức tranh chiều tối của tác giả? Điều này thể hiện đặc điểm gì của tâm hồn Hồ Chí Minh? (CHHDHB ''Chiều tối'', trang 76, tập 2- Sách Ngữ văn nâng cao) 3.1.6 Câu hỏi khó: Tuy không chiếm số lượng nhiều, nhưng loại câu hỏi này có tác dụng phân loại, phát huy năng lực văn chương của học sinh khá, giỏi. Nếu câu hỏi vừa sức phù hợp vói đa số các đối tượng học sinh thì câu hỏi khó lại đòi hỏi học sinh phải có năng khiếu văn chương, năng lực tư duy tổng hợp mới có thể trả lời được. Có thể nói đây là loại câu hỏi mang tính sáng tạo cao. Ví dụ 1: Có gì đáng chú ý trong tứ thơ và bút pháp của bài thơ? (CHHDHB “Đây thôn Vĩ Dạ” trang 39, tập 2 - Sách Ngữ văn chuẩn) Ví dụ 2: Hình ảnh “nắng hàng cau nắng mới lên” thật giản dị, cũng thật giàu sức gợi. Hãy dùng những hiểu biết và trí tưỏng tượng của mình để cảm nhận và tái tạo vẻ đẹp của hình ảnh ấy. (CHHDHB “Đây thôn Vĩ Dạ” trang 50, tập 2 - Sách Ngữ văn nâng cao) 3.2 Nhƣợc điểm: Qua khảo sát và tham khảo ý kiến từ phía đồng nghiệp, chúng tôi thấy hệ thống CHHDHB trong hai bộ sách Ngữ văn chuẩn và nâng cao còn có những hạn chế nhất định. Điều này hết sức bình thường và tất nhiên, bởi theo 22 giáo sư Phan Trọng Luận “Không thể có ảo tưởng về một cuốn sách giáo khoa nhất là sách Ngữ văn hoàn hảo 100%”, Secbina cũng đó từng nhận xột “Văn học nhà trường là một vấn đề cực kì phức tạp”. Nhược điểm biểu hiện trên những khía cạnh sau: 3.2.1 Câu hỏi còn chƣa chú ý đến hoạt động đọc của học sinh: Trong tiếp nhận văn học nói chung và tiếp nhận văn chương trong nhà trường nói riêng thì đọc văn bản là một khâu vô cùng quan trọng, là chìa khoá đầu tiên mở đường cho chủ thể tiếp nhận đi vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm, bởi “Đọc văn có nghĩa là chuyển đổi tác phẩm nghệ thuật thành một vũ trụ tình cảm và cảm xúc thẩm mĩ trong tư duy hình tượng cho riêng mình. Có thể nói đọc văn thực sự là một khoa học và nghệ thuật của tư duy ngôn ngữ, là lao động và sáng tạo” ( Nguyễn Thanh Hùng). G.S Phan Trọng Luận đã nhấn mạnh tầm quan trọng của đọc văn ''Đọc sẽ làm âm vang lên những tín hiệu của cuộc sống mà nhà văn định gửi gắm. Âm vang của lời đọc kích thích quá trình tri giác, tưởng tượng và tái hiện hình ảnh.'' Như vậy, con đường đi vào tác phẩm nhất thiết phải từ đọc, gắn liền với việc đọc. Đọc phải là một hình thức có tính chất đặc thù của nhận thức về văn học. Qua khảo sát chúng tôi nhận thấy CHHDHB phần thơ hiện đại trong hai bộ sách Ngữ văn chuẩn và nâng cao cũn chưa chú ý tới hoạt động đọc của học sinh.Theo chúng tôi, khi xây dựng CHHDHB cần có những câu hỏi cho học sinh đọc ở nhà vì mỗi tiết học trên lớp chỉ có 45 phút, bên cạnh việc cung cấp cho các em một số lượng kiến thức, giáo viên khó có thể có đủ thời gian để hướng dẫn học sinh đọc tốt trên lớp nếu không cho các em đọc trước ở nhà. 23 3.2.2 Câu hỏi còn có dung lƣợng kiến thức lớn và khó, chƣa phù hợp với thời gian và khả năng nhận thức của học sinh: Tuy không nhiều nhưng ở một số bài cách đặt câu hỏi còn chưa phù hợp với thời gian và khả năng nhận thức của học sinh. Có thể dẫn ví dụ như sau: Ví dụ 1: Màu sắc cổ điển của bài thơ thể hiện ở đâu và như thế nào? Vì sao người ta thường nói thơ nghệ thuật của Hồ Chí Minh tuy rất cổ điển nhưng vẫn là thơ hiện đại? Hãy phân tích bài ''Chiều tối'' để giải thích và chứng minh. Việc phân tích bài thơ chỉ có thể thực hiện được ở lớp dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Học sinh hầu như không có khả năng tự phân tích một bài thơ khi không có những định hướng của người thầy. Câu hỏi này mang tính chất một đề văn chứ không phải là một câu hỏi hướng dẫn. Hơn nữa, với câu hỏi này học sinh phải dùng nhiều thời gian học ở nhà mới hoàn thành được, trong khi học tới phổ thông trung học các em còn phải học nhiều môn khác, mà chương trình đề ra cho mỗi môn cũng khá nặng nề, mụn nào cũng phải làm đủ bài tập cũ, chuẩn bị bài mới. Với dung lượng nặng nề học sinh dễ chán nản, bỏ mà không soạn văn. 3.2.3 Cách đặt câu hỏi : Trong hệ thống CHHDHB ở hai bộ sách Ngữ văn chuẩn và nâng cao, phần thơ hiện đại còn nhiều câu hỏi có từ “hãy”. Vớ dụ, hệ thống câu hỏi bài “Chiều tối” ở sách Ngữ văn nâng cao trang tập 2 gồm 5 câu: Câu 1. Dựa vào cảnh ngộ của tác giả (xem phần tiểu dẫn) hãy nhận xét nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong hai câu đầu của bài thơ. Câu 2. Anh (chị) hãy nêu nhận xét về thủ pháp nghệ thuật mà tác giả dùng để tả màn đêm đã buông xuống ở câu cuối bài thơ. 24 Câu 3. Hình ảnh lò than rực hồng ở cuối bài thơ có ý nghĩa như thế nào trong bức tranh chiều tối của tác giả? Điều này thể hiện đặc điểm gì của tâm hồn Hồ chí Minh? Câu 4. Màu sắc cổ điển của bài thơ thể hiện ở đâu và như thế nào? Vì sao người ta thường nói thơ nghệ thuật của Hồ Chí Minh tuy rất cổ điển như- ng vẫn là thơ hiện đại? Hãy phân tích bài ''chiều tối'' để giải thích và chứng minh. Câu 5. Học thuộc lòng bản phiên âm và bản dịch bài thơ. Trong 5 câu hỏi này có đến 3 câu dùng từ “hãy”: “Hãy nhận xét”, “Hãy nêu nhận xét”, “Hãy phân tích”. Hệ thống câu hỏi bài “Vội vàng” ở sách Ngữ văn chuẩn trang 23, tập 2 gồm 4 câu: Câu 1. Bài thơ có thể chia làm mấy đoạn? Nêu ý chính của từng đoạn Câu 2. Xuân Diệu cảm nhận về thời gian như thế nào? Vì sao nhà thơ có tâm trạng vội vàng, cuống quýt trước sự trôi qua nhanh chóng của thời gian? Câu 3. Hình ảnh thiên nhiên, sự sống quen thuộc được tác giả cảm nhận và diễn tả như thế nào? Hãy chỉ ra những nét mới trong quan niệm của Xuân Diệu về cuộc sống, tuổi trẻ và hạnh phúc. Câu 4. Hãy nhận xét về đặc điểm của hình ảnh, ngôn từ, nhịp điệu trong đoạn thơ cuối của bài thơ. Nhà thơ đã sáng tạo được hình ảnh nào mà anh (chị) cho là mới mẻ, độc đáo nhất? Trong 4 câu hỏi thì có 2 câu dùng từ “hãy”: “Hãy chỉ ra”, “Hãy nhận xét”. Cách đặt câu hỏi như vậy giống như những mệnh lệnh, mang tính chất áp đặt. Điều này dễ gây tâm lí nặng nề, ít tạo tâm thế học tập cho học sinh. 25 Theo chúng tôi, cách đặt câu hỏi cần có sự khéo léo, tế nhị để gây hứng thú trong quá trình tự tìm hiểu, tự khám phá và rèn luyện tư duy sáng tạo cho học sinh. 3.3 Kết luận: Nhìn chung hệ thống CHHDHB trong hai bộ sách Ngữ văn chuẩn và nâng cao lớp 11 (phần thơ hiện đại) đã bộc lộ nhiều ưu điểm. Tuy nhiên, sự hoàn thiện cũng chưa thể khẳng định được. Thành công lớn nhất là những câu hỏi mang bản chất sáng tạo đã được chú trọng, kích tích được tư duy sáng tạo, hứng thú học tập, phù hợp với qui luật tiếp nhận và trình độ nhận thức của nhiều đối tượng học sinh. Đổi mới phương pháp dạy học văn cũng có nghĩa là đổi mới cả hệ thống câu hỏi (kể cả CHHDHB trong SGK cũng như câu hỏi mà giáo viên đưa ra trên lớp). Qua khảo sát, nghiên cứu chúng tôi nhận thấy hệ thống CHHDHB phần thơ hiện đại trong hai bộ sách chuẩn và nâng cao lớp 11 thể hiện rất rõ tư tưởng đổi mới phương pháp dạy học của các nhà biên soạn. Tổ chức và hướng dẫn cho học sinh tự đọc - hiểu, tự khám phá, tự tiếp nhận và chiếm lĩnh các giá trị của tác phẩm văn học bằng một hệ thống câu hỏi đa dạng, phong phú, hấp dẫn mang tính khoa học, tính nghệ thuật sư phạm, để rồi khi đến lớp “Mỗi tiết học bình thường học sinh được hoạt động nhiều hơn, thực hành nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn và quan trọng là được suy nghĩ nhiều hơn trên con đường chiếm lĩnh nội dung học tập” [ 7 ] Biểu hiện bao trùm nhất của tinh thần đổi mới là việc chú trọng đưa ra những câu hỏi có tính sáng tạo. Mức độ khó, dễ của loại câu hỏi này tuy không giống nhau nhưng đều hướng đến một mục đích chung là nhằm phát huy được tính độc lập suy nghĩ, tìm tòi khám phá, sáng tạo của học sinh trong quá trình chiếm lĩnh tác phẩm văn chương. Loại câu hỏi này luôn đặt học sinh 26 trước tình huống phải tư duy, động não để giải quyết những vấn đề mà câu hỏi đặt ra. Có thể đưa ra một số câu hỏi như sau: Ví dụ 1: Bài thơ gợi cho anh (chị) những cảm nghĩ gì về tâm hồn Puskin và về tình yêu? (CHHDHB ''Tôi yêu em'', trang 60, tập 2-Sách chuẩn) Ví dụ 2: Câu thơ ''Ai biết tình ai có đậm đà'' có chút hoài nghi. Theo anh (chị), đó là nỗi hoài nghi của sự chán đời hay của niềm tha thiết với cuộc đời? Tại sao? (CHHDHB ''Đây thôn Vĩ Dạ'' trang 47, tập 2- Sách nâng cao) Hai câu hỏi trên, vừa có tính định hướng, dẫn dắt, gợi mở, đồng thời kích thích được tinh thần độc lập, tư duy sáng tạo của các em. Khi được hỏi như vậy học sinh không thể không có sự phản ứng về tư duy, không thể không suy nghĩ để trả lời. Ví dụ 3: Theo anh (chị) những yếu tố nào đã tạo nên sức lôi cuốn mạnh mẽ của bài thơ này? (CHHDHB ''Lưu biệt khi xuất dương'', trang 5, tập 2- Sách chuẩn) Với câu hỏi như vậy sẽ kích thích được những rung động và cảm nhận của mỗi cá thể học sinh, thôi thúc sự tìm tòi cũng như động viên các em thể hiện thái độ và sự lựa chọn của mình trước các tình huống. Bởi vì: “Học sinh THPT đã có khả năng tư duy lí luận, đã xuất hiện những kĩ năng suy luận có giả thiết, sử dụng giả thiết để giải quyết nhiệm vụ trí tuệ. Các hoạt động trí tuệ của học sinh đã chứa đựng những yếu tố sáng tạo. Học sinh đã biết sử dụng nhiều nguồn kiến thức để tư duy, có khả năng phân tích tổng hợp, khái quát hóa những vấn đề phức tạp của tài liệu học tập. Học sinh đã có năng lực tự chọn phương thức giải quyết vấn đề, có khả năng kiểm tra và hoài nghi khoa học” [ 21 ] 27 Tóm lại: Những câu hỏi trên là những câu hỏi mang tính sáng tạo. Nó dẫn dắt, định hướng cho học sinh. Các em cảm thấy mình được đề cao, tôn trọng, được chú ý, được tự do bày tỏ cách hiểu, cách suy nghĩ của bản thân, từ đó rèn luyện học sinh tích cực và sáng tạo trong nhận thức. Trả lời được mỗi câu hỏi sáng tạo là các em đã tự nâng được kiến thức của mình lên, đồng thời rèn luyện cho mình phương pháp học tập tích cực. 28 Chƣơng 2 TIÊU CHÍ XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHHDHB TÁC PHẨM VĂN CHƢƠNG TRONG SGK NGỮ VĂN 1. Cơ sở lí luận cho việc xây dựng hệ thống câu hỏi: Một giờ dạy học tác phẩm văn chương có chất lượng tốt là giờ dạy học mà học sinh có sự chuẩn bị bài một cách cẩn thận trước khi đến lớp. Có thể nói chuẩn bị bài ở nhà là một khâu không thể thiếu nếu muốn đạt kết quả cao trong những giờ dạy học tác phẩm văn chương. Vấn đề đặt ra là câu hỏi cho học sinh chuẩn bị bài ở nhà phải dựa trên cơ sở những lí luận xác định. Để cho các em đi theo con đường tiếp cận tác phẩm một cách tốt nhất, chúng tôi xác định một số cơ sở lí luận như sau: 1.1 CHHDHB thể hiện đƣợc tƣ tƣởng đổi mới phƣơng pháp dạy học: Định hướng chung về đổi mới phương pháp dạy học là phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của học sinh. Nghị quyết Trung ương II xỏc định rừ: “Xây dựng con người và thế hệ thiết tha, gắn bó với lí tưởng độc lập và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước; giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc; có năng lực tiếp thu tinh hoa của văn hóa nhân loại; phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam; có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kĩ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức kỉ luật, có sức khỏe; là những người thực tế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên” như lời căn dăn của Bác Hồ”. (Trích Nghị quyết Trung ương 2, 12/1996) 29 Luật giáo dục, điều 24 cũng chỉ ra: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác chủ động, sáng tạo của học sinh; phự hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.” Trước đây cố vấn Phạm Văn Đồng đã từng nhắc nhở “Chúng ta phải làm thế nào bằng giáo dục phổ thông, qua giáo dục phổ thông mà rèn luyện cho học sinh có bộ óc để suy nghĩ, để tiếp thu cái gì đó có giá trị sau đó tự học và tự vận dụng sáng tạo” [ 3 ] Như vậy, đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông nhằm hướng đến mục đích là thay đổi lối dạy học truyền thụ một chiều sang dạy học theo phương pháp dạy học tích cực, thay đổi phương pháp dạy học truyền thống coi học sinh là “bình chứa kiến thức” của thầy sang phương pháp tích cực “coi học sinh là chủ thể sáng tạo,” chú ý nhiều tới việc cung cấp cách thức tìm ra chân lí chứ không phải là “truyền đạt chân lí.” Đổi mới cách học, cách dạy như thế, kết quả là: Từ năm này đến năm khác, qua biết bao nhiêu lần làm để học, tìm hiểu giải quyết vấn đề, xử lí tình huống, chắc chắn học sinh biết làm, biết cách làm, cách học, cách giải quyết vấn đề, cách ứng xử thích nghi với cuộc sống. “Làm” dần dần trở thành “biết làm”, “muốn làm”, và cuối cùng “muốn tồn tại và phát triển” trong cộng đồng như một con người tự chủ, năng động và sáng tạo. [ 22 ] Nhận xét về lối dạy cổ truyền, G.S Phan Trọng Luận viết: Sai lầm cơ bản của cái gọi là giảng văn truyền thống hay của lối phân tích văn chương trong nhà trường nhiều thập kỷ qua là nhận thức không đúng về người học sinh, là thiếu hiểu biết khoa học về hoạt động chức năng của người học sinh trong quá trình tiếp cận tácphẩm văn chương, là phương 30 pháp nhận thức phiến diện, tách biệt các yếu tố của quá trình gọi là giảng văn - vốn là một thể thống nhất biện chứng. Học sinh được coi là một khách thể thụ động, một đối tượng chịu sự tác động từ phía giáo viên bằng hệ thống biện pháp sư phạm bên ngoài. [ 16 ] Nhận xét của giáo sư chỉ rõ, đã từ lâu lối dạy học văn trong nhà trường chúng ta chỉ cần biết đến văn bản văn chương, chỉ quan tâm đến nghệ thuật và tài năng khám phá chỗ sâu, chỗ độc đáo của tác phẩm văn chương, để rồi tìm ra những thủ pháp lôi cuốn học sinh cảm thông, đồng điệu với những gì giáo viên đã tìm tòi, phát hiện được. Học sinh không trực tiếp rung cảm với tác phẩm, thiếu đi sự giao tiếp cần có giữa nhà văn - tác phẩm với bạn đọc học sinh. Tình trạng đó đã hạn chế chất lượng, hiệu quả dạy và học, không đáp ứng được yêu cầu của xã hội ngày càng phát triển. Khắc phục nhược điểm của lối dạy học văn cũ, mọi biện pháp cơ chế dạy học mới đều hướng vào học sinh, vì học sinh, giúp học sinh tự khám phá chiếm lĩnh kiến thức, có ý thức suy nghĩ tìm tòi sáng tạo và tự phát triển. Cú nghĩa là phương pháp dạy học mới đó “Tạo cơ hội cho người học, cho đối tượng, cái trung tâm phát huy được cái trí tuệ, cái thông minh của mình” [ 4 ] Và “Học sinh phải được coi là những đối tượng có sẵn tiềm năng mà người giáo viên có nhiệm vụ đánh thức và tạo điều kiện để những tiềm năng đó được phát triển tối đa, đặc biệt là tiềm năng sáng tạo” [ 29 ] Cơ chế dạy học văn mới có mối quan hệ tương tác nhiều chiều (tương tác của ba mối quan hệ vốn có giữa tác phẩm với nhà văn, với người giáo viên và với bản thân học sinh). Chúng ta có thể hình dung qua sơ đồ sau: N G H 31 Ở sơ đồ trên, học sinh giữ vị trí chủ thể tiếp nhận, chiếm lĩnh tác phẩm cũng như giáo viên. Học sinh cảm thụ, tiếp nhận tác phẩm dưới sự định hướng, dẫn dắt của giáo viên. Giáo viên là người trung gian giữa nhà văn và học sinh, là người đứng ra tổ chức quá trình học sinh tiếp nhận, chiếm lĩnh tác phẩm. Như vậy “Thông báo cung cấp thông tin có sẵn không còn là chức năng chính của người dạy nữa, mà thay vào đó là tạo ra các tình huống sao cho khi thực hiện người học có được sự chuyển biến cả về kiến thức và các thao tác tư duy, vốn là công cụ để thu được kiến thức đó” [1] Học sinh phải chuẩn bị bài ở nhà, phải có những trăn trở, suy nghĩ về các câu hỏi nêu trong SGK thì các em mới có thể trở thành chủ thể học tích cực. “Việc nêu lên những câu hỏi để học sinh chuẩn bị bài trong phần hướng dẫn học tập gần như là chiếc chìa khóa của việc cải cách giảng dạy (...) Có thể nói phần này quyết định sự thành công của việc dạy và học theo sách mới” [14] Như vậy, việc tìm hiểu bài học (tác phẩm) của học sinh bằng những CHHDHB có tính chất quyết định cho sự thành công của giờ dạy học tác phẩm văn chương. Hệ thống câu hỏi cần phải tạo cơ sở cho học sinh phát huy được tính độc lập suy nghĩ, tìm tòi, khám phá sáng tạo của mình. Câu hỏi phải trở thành niềm say mê, thành hứng thú, thành nhu cầu bức thiết của chính học sinh chứ không phải của chủ thể nào khác. Câu hỏi phải mang tính chủ thể nhưng vẫn phải làm cho học sinh trở thành đối tượng được giáo dục theo những mục đích đã đề ra của nhà trường, đó là: phát triển tri thức, phát triển tư tưởng, tình cảm để từ đó hình thành nhân cách con người mới. Hơn thế nữa, CHHDHB phải có tính định hướng vào các vấn đề cơ bản, then chốt mà giáo viên sẽ dẫn dắt học sinh đi sâu tìm hiểu trên lớp. Hệ thống câu hỏi cần đặt học sinh trước những “chướng ngại,” những “tình huống cần giải quyết” nhằm huy động được tối đa những năng lực trí tuệ và tinh thần của học sinh 32 để các em tự khám phá, tự phát hiện để khi đứng trước quen thuộc hay hoàn toàn mới, học sinh vẫn đủ khả năng giải quyết một cỏch tốt nhất và hiệu quả nhất. Chỉ có bằng con đường tự mình “hành động” như thế mọi tri thức mới được hình thành một cách nhanh chóng và khắc sâu trong mỗi học sinh. Giáo viên có thể đặt câu hỏi khi dạy bài “Vội vàng” của Xuân Diệu như sau: (1) Bốn câu thơ đầu của bài thơ “Vội vàng”, Xuân Diệu muốn tắt nắng, buộc gió, đó là điều không thể, là điều rất vô lí nhưng điều này cũng hết sức có lí. Theo em tại sao? (2) Đoạn đầu bài thơ “Vội vàng”, Xuân Diệu xưng “tôi” nhưng đến cuối bài thơ lại thay bằng đại từ “ta”. Theo em tác giả có dụng ý gì không? Cách đặt câu hỏi như vậy khơi dậy hoạt động bên trong của học sinh, tạo cho các em có nhu cầu nhận xét, đánh giá, tranh luận và phát triển tư duy, phải tự mình suy nghĩ, đưa ra những ý kiến của riêng mình để giải quyết vấn đề đặt ra của câu hỏi. Câu hỏi thứ nhất buộc học sinh nhận thức vấn đề từ ý nghĩa sâu sắc của bài thơ. Điều Xuân Diệu muốn là vô lí bởi nó tráii với quy luật tự nhiên nhưng điều aos trở thành rất có lí vì nó phù hợp với lòng người. Câu hỏi thứ hai yêu cầu học sinh lí giải sự thay đổi trong cách sử dụng đại từ của tác giả, đó là sự khát khao giao cảm với đời, muốn hòa vào cái rung cảm và nhịp đập với mọi người để đồng cảm, sẻ chia. Quá trình học sinh lí giải, đưa ra ý kiến riêng để trả lời các câu hỏi cũng là quá trình hình thành tư duy sáng tạo. Tự các em khám phá, phát hiện ra chứ không phải thầy tìm tri thức hộ. Lúc này câu hỏi thực sự là người dẫn đường trên hành trình tìm hiểu tác phẩm, hướng học sinh không chỉ dừng ở bề ngoài mà còn khám phá cả những tầng ẩn sâu. Trong hệ thống câu hỏi, mỗi thao tác là một khâu dẫn dắt học sinh đi từ khám phá này sang khám phá khác để tìm hiểu, phân tích cái mà học sinh cần 33 tìm, đó là điều tác phẩm “chưa nói”. Quá trình các em tham gia khám phá tác phẩm theo từng cấp độ thể hiện trong hệ thống câu hỏi cũng chính là quá trình đào tạo cho các em khát vọng và mong muốn được tìm điều thú vị nhất diễn ra trong tác phẩm, để từ đó các em biết đánh giá, biết nhận thức bằng quan niệm riêng. Và như vậy học sinh sẽ được phát triển toàn diện về trí tuệ, tâm hồn, nhân cách và năng lực. 1.2 Thể hiện rõ chức năng định hƣớng của CHHDHB: 1.2.1 CHHDHB giúp học sinh sơ bộ chiếm lĩnh tác phẩm: Sư phạm hiện đại chú trọng tới việc tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh vì sự hình thành kiến thức bằng con đường tự khám phá là có hiệu quả nhất. Với việc chuẩn bị bài ở nhà, học sinh bước đầu xây dựng sự hiểu biết, khám phá tác phẩm theo từng cấp độ mà câu hỏi đề ra. Quá trình làm việc ở nhà của học sinh là dữ kiện, là tiền đề cho hoạt động trên lớp. Chiếm lĩnh tác phẩm bao giờ cũng trải qua các giai đoạn tổng - phân - hợp, cho nên chuẩn bị bài ở nhà nằm trong giai đoạn đầu. CHHDHB là người dẫn dắt các em tự chiếm lĩnh tác phẩm, giúp các em bước đầu đi vào thế giới của tác phẩm, định hướng cho học sinh tìm ra các nút then chốt trong tác phẩm. Từ sự cảm thụ của bản thân, học sinh là người tự tìm hiểu tác phẩm một cách sáng tạo. Bởi vậy, CHHDHB như những công cụ và những định hướng ban đầu giúp học sinh tiếp cận tác phẩm một cách đúng hướng. ''Việc chuẩn bị một bài văn chu đáo trước khi đến lớp đối với học sinh có ý nghiã quan trọng trong việc lĩnh hội trên lớp. Quá trình chuẩn bị bài văn vừa là quá trình gạn lọc những ấn tượng ban đầu để tiếp cận hình tượng, tính cách, để lĩnh hội chủ đề tác phẩm, vừa là chuẩn bị cơ sở cho sự tiếp thu lời giảng của thầy giáo'' [19] 34 1.2.2 CHHDHB định hƣớng cho học sinh vào những vấn đề trung tâm cốt lõi của tác phẩm: Dạy học văn là phải tìm ra được mức độ cần đi đến chứ không phải dạy tất cả những gì có. Điều đặt ra với CHHDHB trong SGK Ngữ văn là theo hướng nào để giúp học sinh tìm ra cái hay, cái đẹp, đi vào những vấn đề trung tâm cốt lõi của tác phẩm nghệ thuật. Điều đó đồng nghĩa với việc định hướng cho học sinh nắm bắt được chiều sâu của tác phẩm. Theo G.S - T.S Nguyễn Thanh Hùng, trong tài liệu “Định hướng học tập cho học sinh vào chiều sâu tacc phẩm trong qúa trình dạy học” đã nhận định: ''Chiều sâu của tác phẩm văn chương là giá trị độc đáo của tư tưởng nghệ thuật (tư tưởng chủ đề) biểu hiện nội dung chân-thiện-mĩ rõ ràng trong một hình thức nghệ thuật sáng tác tương ứng.'' Theo nhà văn Nguyễn Minh Châu: ''Chiều sâu tác phẩm là chiều sâu cụ thể nhưng đã hoà quyện vào đấy những khái quát triết học và đời sống. Chiều sâu biểu hiện trong cái cụ thể đời thường cái hiện thực tầng đáy của cuộc sống và ở đấy cái lí tưởng, cái vĩnh cửu thoát thai từ sự nhào nặn của cái mới và lương tri đạo đức và lẽ sống ngàn đời'' (Văn nghệ số 32, 12/08/1989) Như vậy ta có thể hiểu chiều sâu tác phẩm là cái vừa trừu tượng vừa cụ thể. Cụ thể ở tính hấp dẫn bắt nguồn từ ngôn ngữ với vẻ đẹp tự thân của nó, từ nhân vật, bố cục, và chính vẻ đẹp toát ra từ từng chi tiết. Trừu tượng là ở sự khái quát cao hơn của cái cụ thể. Hai vấn đề này kết hợp, đan xen nhau một cách chặt chẽ. Chiều sâu là sự phản ánh cuộc sống một cách sinh động chứ không phải là cái gì bất biến, cúng đờ trong tác phẩm. Nó phải xuất phát từ tác phẩm, từ tư tưởng tình cảm, cảm nhận về đời sống của tác giả thông qua phương thức trình bày nghệ thuật. 35 Do vậy, định hướng vào chiều sâu là con đường ngắn nhất giúp học sinh thâm nhập tác phẩm văn học. Muốn đi sâu phải đi từng bước, từ cụ thể đến khái quát, từ trực quan đến trừu tượng. Các bước đó theo G.S Phan Trọng Luận gồm ba bước: Bước một: Tri giác hình tượng ngôn ngữ, đây là quá trình đọc tái hiện tác phẩm qua những chi tiết nổi bật. Bước hai: Đọc với sức mạnh hồi tưởng, liên tưởng, tưởng tượng, bằng vốn kinh nghiệm bản thân để hoàn chỉnh bức tranh tác phẩm. Bước ba: Phân tích, so sánh tổng hợp khái quát để xác định chủ đề tác phẩm, buớc này cũng soi sáng cho việc chọn lựa hình ảnh, sự việc, biện pháp nghệ thuật mà tác giả sử dụng. [15] Ý kiến trên của G.S Phan trọng Luận cho thấy con đường đi vào tác phẩm văn chương là con đường trải qua nhiều chặng, nhiều giai đoạn để đi từ bề ngoài đến bề trong tác phẩm. Câu hỏi phải từng bước, từ tái hiện đến liên tưởng, tưởng tượng, từ gần đến xa, từ cụ thể đến khái quát, từ dễ đến khó, tập trung vào định hướng hoạt động phân tích, cắt nghĩa để khám phá các lớp nghĩa tiềm ẩn trong tác phẩm. Và như vậy, kiến thức không tĩnh tại, siêu hình, tách rời đối tượng tiếp nhận mà nó được chuyển hoá vào bên trong bằng chính những hoạt động nhận thức của bản thân thể tiếp nhận thông qua con đường vật chất hoá ._. Tử? 59 thiu hoa bắp lay”? Câu 5: Khổ thơ thứ hai có câu “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó- Có chở trăng về kịp tối nay.” Chữ “kịp” gợi lên điều gì về mối tâm tư đầy uẩn khúc của tác giả? Câu 6: Câu thơ “Ai biết Tình ai có đậm đà” có chút hoài nghi. Theo anh (chị) đó là nỗi hoài nghi của sự chán đời hay của niềm tha thiết với cuộc đời? Tại sao? Câu 7: Học thuộc lòng bài thơ. Câu hỏi 1: Câu hỏi này đòi hỏi học sinh đọc bài thơ nhiều lần và phải huy động trí tưởng tượng của mình để thực sự tham gia vào thế giới của tác phẩm, được sống cùng tác phẩm. Từ đó mới thấy được bức tranh thôn Vĩ đẹp, tươi sáng, trong trẻo, gợi cảm và đầy sức sống. Qua bức tranh thôn Vĩ ở khổ một, học sinh còn hình dung ra tâm trạng hân hoan, phấn chấn, niềm vui khi nhận được tín hiệu tình cảm của người trong mộng (dù chỉ là trong cảm nhận của nhà thơ), niềm hi vọng lóe sáng về tình yêu, hạnh phúc. Câu hỏi 2: Đây là câu hỏi so sánh, gợi mở để dẫn dắt học sinh phân tích sự vận động của tứ thơ từ khổ một sang khổ hai, từ niềm hân hoan trước cảnh đẹp và tình người thôn Vĩ, thi tứ Hàn Mặc Tử vụt bay đến một cõi miền đau thương đối lập, gợi sự chia lìa, tan tác. Với câu hỏi này, học sinh còn tìm ra được một sáng tạo thẩm mĩ mới mẻ, độc đáo của hình tượng thơ Hàn Mặc 60 Tử là hình ảnh “sông trăng”. Hình ảnh này như một nét vẽ thơ mộng, chất chứa cái thần thái, “linh hồn” của cảnh sắc thiên nhiên xứ sở. Câu hỏi 3: Câu hỏi cho học sinh tiếp tục so sánh, phát hiện, tìm ra sự vận động khác nhau của ba khổ thơ. Mỗi khổ là một sự bứt phá của thi tứ, không tuân theo mạch lô gíc thông thường nhưng vẫn có chỗ liền nhau, đó là trạng thái xúc cảm. Mỗi khổ là một bức tranh riêng về Vĩ Dạ, tưởng như không ăn khớp với nhau nhưng thực ra nó vẫn nằm trong mạch cảm xúc chung của cả bài: Cảnh thôn Vĩ đẹp, người thôn Vĩ duyên dáng đang vẫy gọi thi nhân nhưng thi nhân không thể trở về vì mặc cảm số phận. Bởi thế đằng sau câu chữ kia ẩn chứa nỗi buồn, nỗi đau đời và niềm khát khao sự đồng cảm của người đời. Câu hỏi 4: Câu hỏi đã hướng dẫn học sinh nhận diện và phân tích được giá trị thẩm mĩ của câu hỏi tu từ. Hồn thơ Hàn Mặc Tử là sự tuôn trào mãnh liệt cảm xúc và câu hỏi tu từ được nhà thơ sử dụng như một thứ nghệ thuật riêng của mình để bộc lộ thế giới tâm hồn, tình cảm. Dòng chảy của chuỗi phát ngôn trữ tình được tạo thành bởi ba câu hỏi nghi vấn cuối mỗi khổ thơ và mối quan hệ giữa các bức tranh phong cảnh chỉ là dòng chảy của một quá trình tâm trạng chứa đựng bên trong hai mặt sáng và tối giống như hai đối cực của một thể thống nhất thường xuyên chuyển hóa lẫn nhau. Ý thứ nhất của câu hỏi mở ra hướng giải quyết vấn đề ở ý hai và ý ba. Câu hỏi này đòi hỏi học sinh phải vận dụng năng lực văn chương kết hợp với tư duy tổng hợp khái quát để phát huy khả năng sáng tạo, tình cảm thẩm mĩ. Cảm nhận được lòng yêu đời, ham sống mãnh liệt, khát khao tình yêu, khát khao giao cảm với đời của hồn thơ Hàn Mặc Tử nghĩa là các em đã nắm bắt được chiều sâu của tác phẩm Tóm lại: Theo chúng tôi, bốn câu hỏi trên phù hợp với con đường nhận thức, khám phá tác phẩm của học sinh. Có những câu hỏi là sự kết hợp giữa 61 hai yếu tố tái hiện và sáng tạo, có những câu hỏi khơi gợi trí liên tuởng, tưởng tượng cao. Tất cả đều nhằm mục đích phát huy tính tích cực, chủ động học tập của học sinh. 3. Xây dựng câu hỏi cho bài “Tôi yêu em” của Puskin. 2.1 Bảng đối chiếu hệ thống câu hỏi sách Ngữ văn chuẩn và nâng cao với câu hỏi luận văn. Câu hỏi của sách chuẩn và sách nâng cao Câu hỏi của luận văn Sách chuẩn: Câu 1: Điệp khúc nào làm nổi bật cảm xúc chủ đạo của bài thơ? Bài thơ dường như là lời từ giã cho một mối tình không thành. Lời từ giã của Puskin có gì đặc biệt. Câu 2: Giọng điệu trữ tình chuyển biến như thế nào từ hai câu 1-2 sang hai câu 3-4 và từ hai câu 5-6 sang hai câu 7-8? Diễn biến tâm trạng phức tạp của nhân vật trữ tình được thể hiện tinh tế ra sao? Câu 3: Tại sao có thể nói hai câu kết là bất ngờ, hàm chứa nhiều ý vị? Câu 4: Bài thơ gợi cho anh (chị) những cảm nghĩ gì về tâm hồn Puskin và về tình yêu? Câu 1: Đọc bài thơ nhiều lần và em hãy cho biết cụm từ mở đầu “tôi yêu em”so với câu dịch nghĩa trong phần chú thích thì bản dịch thơ cụm từ này đã chuyển dịch hết nghĩa chưa? Vì sao? Câu 2: Giọng điệu trữ tình chuyển biến từ câu 1 đến câu 8 như thế nào? Sự chuyển biến đó đã phơi mở đáy sâu tâm hồn nhân vật trữ tình những lớp sóng tình cảm phức tạp nhưng lại rất tế nhị ra sao? Câu 3: Điệp khúc thứ ba gắn liền với hai câu cuối. Theo em hai câu kết có bất ngờ và hàm chứa nhiều ý vị không? Vì sao? Từ đó nêu những cảm 62 Sách nâng cao: Câu 1: Đọc diễn cảm bài thơ, lưu ý cụm từ “tôi yêu em” và vị trí của cụm từ này trong bài, hãy tìm hiểu kết cấu bài thơ và diễn biến tâm trạng của nhân vật trữ tình. Câu 2: Tình cảm phức tạp, tế nhị của nhân vật trữ tình trong bài thơ được Puskin diễn tả tinh tế như thế nào qua bốn câu thơ đầu? Câu 3: Cảm xúc trong hai câu thơ “tôi yêu em âm thầm không hy vọng- Lúc rụt rè khi hậm hực lòng ghen”có gì đặc biệt? Nó hé mở trạng thái tình cảm gì trong nhân vật trữ tình? Câu 4: Xu hướng vươn tới sự cao cả trong tư tưởng, tình cảm là đặc trưng cơ bản của thơ Puskin. Phân tích hai câu thơ cuối để chứng minh. nhận của em về nhân vật trữ tình. Câu 4: Bài thơ trong sáng giản dị đến mức gần như không cần một chú giải nào, hình ảnh thơ không mĩ lệ, không sử dụng các biện pháp tu từ nhưng vẫn cuốn hút người đọc. Theo em sức hấp dẫn của bài thơ ở đâu? Qua bài thơ hãy rút ra những quan niệm đúng đắn về tình yêu và thái độ ứng xử văn hóa trong tình yêu. Câu 5: Học thuộc bài thơ. 3.2 Thuyết minh cho câu hỏi luận văn. Câu hỏi 1: Câu hỏi này sẽ giúp cho học sinh tìm ra được tận cùng ý nghĩa giá trị của tác phẩm, tránh được những sai lầm chỉ quan tâm phân tích câu chữ trong bài thơ dịch mà bỏ sót những ý nghĩa giá trị ẩn sâu trong bề mặt câu chữ. “yêu” trong bản dịch thơ khác với “đã yêu” trong bản dịch nghĩa. 63 “Đã yêu” nghĩa là có khoảng cách quá khứ - hiện tại. Tình yêu đẩy về quá khứ và thoạt nghe không mãnh liệt bằng “tôi yêu em” nhưng không phải vì thế mà bản dịch nghĩa làm cho bài thơ giảm giá trị. Lí trí của nhân vật trữ tình cương quyết bao nhiêu thì tình cảm lại mãnh liệt hơn bấy nhiêu, nó trào dâng, nhấn chìm lí trí xuống để trái tim tự cất tiếng hát. Và như vậy vô hình chung bản dịch thơ không thể hiện được hết điều này. Câu hỏi 1 là phương tiện cho học sinh đi vào khám phá bài thơ. Câu hỏi 2: Đây là câu hỏi mang tính gợi mở nhằm phát huy khả năng sáng tạo, giúp cho học sinh khám phá nội tâm nhân vật trữ tình, hướng các em tìm ra sự chuyển biến giọng điệu trữ tình: Từ phân vân, ngập ngừng tới kiên quyết dứt khoát rồi day dứt, dằn vặt và cuối cùng là thiết tha, điềm tĩnh. Khi đã tìm ra được sự chuyển biến giọng điệu, các em sẽ thấy được những lớp sóng tình cảm: yêu đương cháy bỏng trong âm thầm, cuồng nhiệt trong vô vọng, đắm đuối đến bối rối. Âu lo, thắc thỏm, trăn trở, day dứt, và rồi sôi nổi mạnh mẽ, tràn đầy sinh lực của một trái tim yêu. Trả lời được câu hỏi này là các em đã đi được vào chiều sâu của tác phẩm. Câu hỏi 3: Với câu hỏi nêu vấn đề này sẽ khích lệ học sinh tìm tòi, phát hiện, lí giải để đưa ra ý kiến của riêng mình. Quá trình lí giải, đưa ra ý kiến cũng là quá trình tư duy sáng tạo, giúp các em tìm ra được sự bất ngờ của hai câu kết, đó là nhân vật trữ tình quên đi cái tôi của mình để vươn tới cái cao cả của tình yêu chân thành, cao thượng. Từ ý thứ nhất của câu hỏi, học sinh sẽ tìm ra câu trả lời cho ý thứ hai. Câu hỏi này không chỉ giúp cho các em dừng lại ở việc chiếm lĩnh giá trị của một tác phẩm mà quan trọng hơn là các em cảm nhận và hiểu được vẻ đẹp của tình yêu và tâm hồn Puskin: chân thành, say đắm, nhân hậu và cao cả. 64 Câu hỏi 4: Câu hỏi nhằm yêu cầu học sinh tìm hiểu giá trị nghệ thuật của bài thơ. Đó là ngôn ngữ trong sáng, giản dị, giàu nhạc điệu. Vẻ ngọc của bài thơ sáng lên chủ yếu ở xu hướng vươn tới sự cao cả trong tâm hồn và tư tưởng. bên cạnh đó, câu hỏi này còn chú trọng đến chức năng tác động của văn bản đối với bạn đọc học sinh. Câu hỏi rèn cho các em kĩ năng đánh giá bằng quan điểm và suy nghĩ sâu sắc của mình, kích thích các em bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ bên trong, tạo bước chuyển trong tình cảm và nhận thức. Khi đã trả lời được ba câu hỏi trên, đến câu hỏi này học sinh sẽ rút ra được những quan niệm đúng đắn về tình yêu như: tình yêu phải xuất phát từ hai phía, phải xuất phát từ những tình cảm chân thành, say đắm, mãnh liệt, vị tha...Từ quan niệm đúng đắn đó mới có được thái độ ứng xử văn hóa trong tình yêu. Câu hỏi 5: Câu hỏi này không mang tính bắt buộc nhưng khích lệ học sinh học thuộc để khi đến lớp, dưới sự định hướng của thầy cô các em sẽ lĩnh hội bài học tốt hơn. Tóm lại nếu học sinh giải quyết được 5 câu hỏi trên thì về cơ bản dã đáp ứng được yêu cầu kiến thức mà bài học đặt ra. Các câu hỏi được sắp xếp theo hệ thống lô gíc, câu trước là bước đệm cho câu sau, thiên về tính sáng tạo nhằm tác động vào tính tích cực, chủ động của các em. 4. Kết luận rút ra từ câu hỏi thể nghiệm: Từ những câu hỏi thể nghiệm của hai bài “Đây thôn Vĩ Dạ” và “Tôi yêu em”, chúng tôi rút ra một số kết luận sau: Câu hỏi đưa ra cho mỗi bài học đều nằm trong một thể thống nhất, mang tính gợi mở, định hướng cho học sinh nắm bắt sơ bộ được giá trị nội dung và nghệ thuật của văn bản văn chương. Chúng tôi chú trọng đến những câu hỏi sáng tạo khiến học sinh phải cân nhắc kĩ trước khi trả lời, gợi ra những liên tưởng, tưởng tượng, tạo hứng 65 thú cho học sinh. Với những loại câu hỏi như vậy, học sinh không chỉ dừng lại ở việc phát hiện mà còn được định hướng vào chiều sâu những chi tiết và các nút then chốt của bài học. Do vậy câu hỏi có khả năng kích lệ các em tìm tòi, giải đáp và kết quả là các em không chỉ khắc sâu được kiến thức mà còn được rèn luyện khả năng tư duy sáng tạo. Chúng tôi còn quan tâm đến cách đặt câu hỏi nhằm tác động vào cảm xúc, tâm hồn và tình cảm của học sinh. Điều này có nghĩa là câu hỏi phải có tác dụng nuôi dưỡng cảm xúc, nhân cách và tâm hồn cho học sinh. Khi đưa ra câu hỏi cho mỗi bài học, chúng tôi chú trọng đến tính vừa sức của câu hỏi. Tức là câu hỏi phù hợp với trình độ tiếp nhận tác phẩm văn chương của học sinh. Nếu chịu khó tìm hiểu và nắm vững yêu cầu về kiến thức đặt ra trong bài học thì đa số các em sẽ giải quyết đúng hướng những câu hỏi đưa ra. Bên cạnh đó, những câu hỏi này buộc học sinh phải hoàn toàn độc lập suy nghĩ, tìm hiểu ở nhà. Nghĩa là sau khi chuẩn bị bài ở nhà thì các em đã có thể tự mình thâm nhập và nắm bắt tác phẩm một cách cơ bản (dĩ nhiên là theo cách tiếp nhận của các em). Quá trình học ở trên lớp chỉ là sự điều chỉnh, uốn nắn, bổ sung qua trao đổi với thầy, với bạn để khẳng định và củng cố cho cách hiểu, cách cảm của chính bản thân các em. Mục đích mà chúng tôi đặt ra trong các câu hỏi thể nghiệm tất cả không nằm ngoài việc hướng vào đối tượng học sinh, chủ thể tiếp nhận của quá trình dạy học. Tất cả hướng đến phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, đem lại niềm hứng thú trong học tập cho học sinh. 66 PhÇn 3: KÕt luËn chung CHHDHB là một khâu cực kỳ quan trọng, quyết định hiệu quả dạy và học tác phẩm văn chương, đồng thời cũng thể hiện sự nghiên cứu công phu trên cơ sở những hiểu biết khoa học của các ngành khoa học liên quan như: ngôn ngữ, thi pháp, sư phạm hiện đại... CHHDHB còn là một vấn đời sự khoa học vì cho đến nay chưa được nghiên cứu công phu và chưa được quan tâm thỏa đáng. Lịch sử nghiên cứu vấn đề về câu hỏi còn có phần mờ nhạt, những công trình nghiên cứu về câu hỏi trong SGK mới chỉ ở mức độ khiêm tốn. Vì thế việc đưa ra những giải pháp để xây dựng một tiêu chí thống nhất cho hệ thống CHHDHB là việc làm cần thiết, thường xuyên và phải được chú trọng hơn. Hệ thống câu hỏi trong hai bộ sách giáo khoa Ngữ văn chuẩn và nâng cao đã bộc lộ rõ ý đồ đổi mới của người biên soạn, ®ó là chú trọng đến tính sáng tạo của người học qua những câu hỏi có tính sáng tạo cao. Tuy nhiên do chưa nhận thức rõ tầm quan trọng của CHHDHB nên nhiều giáo viên vẫn còn tình trạng tùy tiện, thiếu đầu tư chính đáng trong dạy và học. Số lượng câu hỏi được giáo viên vận dụng để khai thác và làm sáng tỏ bài giảng còn ít. Mối quan hệ giữa câu hỏi trong SGK văn học và câu hỏi trên lớp trong giờ giảng văn của giáo viên còn lỏng lẻo, ít hỗ trợ cho nhau. Điều quan trọng đặt ra là nếu như không có sự cố gắng nỗ lực từ phía giáo viên thì không những không đổi mới được phương pháp dạy học văn mà vô hình chung chúng ta lại dễ trở về với lối mòn dạy học cũ. Với đề tài này của luận văn, chúng tôi hy vọng góp một phần nhỏ vào việc thay đổi cách nhìn nhận và vận dụng CHHDHB trong SGK đối với quá trình dạy và học của giáo viên. CHHDHB theo chúng tôi là một khâu then chốt liên quan đến quá trình học tác phẩm văn chương của học sinh. Hệ thống câu hỏi phong phú, toàn 67 diện, đồng bộ, thống nhất và có cơ sở khoa học thì sẽ hình thành và rèn luyện cho học sinh kĩ năng bình giá, phân tích và năng lực tự tiếp nhận tác phẩm văn học tốt hơn. Khi đặt ra câu hỏi tức là đã đặt học sinh vào một vấn đề nào đó cần giải quyết, buộc các em phải động não, suy nghĩ tìm ra lời giải đáp, từ đó chủ động tiếp thu kiến thức. Điều này gây được tâm thế hứng thú học tập văn bản, tạo được hiệu quả cao trong việc học ở nhà cũng như ở trên lớp của học sinh. Bên cạnh đó hệ thống CHHDHB còn là khâu then chốt liên quan đến hiệu quả giảng dạy của giáo viên. Một giáo án tốt, có tính chất khoa học, hiện đại thì không thể thiếu hệ thống câu hỏi hướng vào học sinh, giúp học sinh tự chiếm lĩnh tri thức, phải có sự đắn đo, cân nhắc tới từng đối tượng học sinh và không thể không dựa vào hệ thống CHHDHB. Giáo viên có thể vận dụng sáng tạo để xây dựng cho mình một hệ thống câu hỏi chuẩn xác và thiết thực, có tác dụng rèn luyện tư duy sáng tạo cho học sinh, từ đó góp phần mang đến một giờ dạy học tác phẩm văn chương có chất lượng tốt. Chúng ta chỉ có thể có một hệ thống câu hỏi cho giờ dạy học văn tốt khi CHHDHB trong SGK được biên soạn công phu và chuẩn xác, kết hợp với sự tích cực, chủ động và sáng tạô trong suy nghĩ của mỗi giáo viên đứng lớp. Mặc dù vậy, chúng ta có thể khẳng định hệ thống CHHDHB trong SGK hiện hành chưa phải đã hoàn thiện. Bên cạnh những mặt đã đạt được thì vẫn tồn tại một số hạn chế nhất định. Đây cũng là điều dễ hiểu, vì đổi mới phương pháp dạy học văn nói chung và đổi mới hệ thống câu hỏi trong SGK nói riêng cần phải có thời gian lâu dài và phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác. Bởi vậy chúng ta chỉ có thể nhìn nhận, đánh giá nó trong sự vận động và phát triển mà thôi. Nâng cao hiệu quả và chất lượng dạy học Ngữ văn luôn luôn là mục tiêu hướng đến của ngành giáo dục nói chung và của các thầy cô giáo trực tiếp 68 làm công tác giảng dạy văn học nói riêng. Thực hiện đề tài này, cùng với lòng nhiệt huyết nghề nghiệp, chúng tôi mong muốn góp mét phần nhá vào việc nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy học văn chương trong nhà trường phổ thông, đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới. Người viết mong được sự góp ý của các nhà khoa học, các nhà sư phạm, các anh, chị, em đồng nghiệp. 69 PHô lôc Câu hỏi phần thơ hiện đại trong hai bộ sách Ngữ văn chuẩn và nâng cao. Bài: Xuất dƣơng lƣu biệt (Phan Bội Châu) Sách chuẩn (Trang 5, tập 2) 1. Đọc tiểu dẫn, chú ý bối cảnh lịch sử đất nước và những ảnh hưởng từ nước ngoài để hiểu bài thơ. 2. Tư duy mới mẻ, táo bạo và khát vọng hành động của nhà chí sĩ cách mạng trong buổi ra đi tìm đường cứu nước được biểu lộ như thế nào? Dựa trên cảm xúc của tác giả và những hình ảnh nghệ thuật trong bài thơ, chú ý tìm hiểu các vấn đề sau: - Quan niệm mới về chí làm trai và tư thế, tầm vóc của con người trong vũ trụ. - Ý thức trách nhiệm cá nhân trước thời cuộc. - Thái độ quyết liệt trước tình cảnh đất nước và những tín điều xưa cũ. - Khát vọng hành động và tư thế buổi lên đường. 3. Anh (chị) có nhận xét gì về hai câu Sách nâng cao (Trang 5, tập 2) 1. Giải nghĩa bốn câu đầu của bài thơ và làm rõ ý thức về hoài bão, sứ mệnh của nhân vật trữ tình - người thanh niên trước thời cuộc. 2. Tìm trong hai câu 5-6 những từ ngữ thể hiện thái độ quyết liệt và tình cảm đau đớn của nhà thơ trước thực trạng đất nước. Riêng trong câu 6, nhà thơ đã bày tỏ thái độ như thế nào đối với nền tư tưởng, học vấn cũ của nước nhà? 3. Hai câu 7-8 thể hiện mong muốn 70 6 và 8 của bản dịch thơ so với nguyên tác (đối chiếu với phần dịch nghĩa). 4. Theo anh (chị) những yếu tố nào đã tạo nên sức lôi cuốn mạnh mẽ của bài thơ này? gì của tác giả? Dựa theo bản dịch nghĩa hãy phân tích vẻ đẹp hào hùng của hình tượng “muôn lớp sóng bạc cùng bay theo”. 4. Theo anh (chị) vì sao bài thơ có được sức lôi cuốn mạnh mẽ đối với thế hệ thanh niên yêu nước đầu thế kỷ XX? Bài: Hầu trời (Tản Đà) Sách chuẩn (Trang 17, tập 2) 1. Anh (chị) hãy phân tích khổ thơ đầu. Cách vào đề của bài thơ gợi cho người đọc cảm giác như thế nào về câu chuyện mà tác giả sắp kể? 2. Tác giả kể lại chuyện mình đọc thơ cho Trời và Chư tiên nghe như thế nào? (Thái độ của tác giả, của chư tiên và những lời khen của Trời). Qua đoạn thơ đó , anh (chị) cảm nhận những điều gì về cá tính nhà thơ và niềm khao khát chân thành của thi sĩ? Nhận xét về giọng kể của tác giả. Sách nâng cao (Trang 12, tập 2) 1. Thuật lại câu chuyện “Hầu Trời” của Tản Đà trong bài thơ và làm rõ tài hư cấu của tác giả (Chú ý cách phân tích, cách tạo tình hưống, chọn chi tiết, dựng đối thoại, bố trí các cảnh, miêu tả tâm lí đa dạng của nhân vật. 2. Chuyến “Hầu Trời” bằng tưởng tượng đã giúp nhà thơ nói được gì về bản thân cùng quan niệm mới của ông về văn và nghề văn? 71 3. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là cảm hứng lãng mạn, nhưng trong bài lại có một đoạn rất hiện thực. Đó là đoạn thơ nào? Tìm hiểu ý nghĩa đoạn thơ đó. Theo anh (chị) hai nguồn cảm hứng này ở thi sĩ Tản Đà có mối liên hệ với nhau như thế nào? 4. Về mặt nghệ thuật, bài thơ này có gì mới và hay? (Chú ý các mặt: thể loại, ngôn từ, cách biểu hiện cảm xúc, hư cấu nghệ thuật...) 3. Tìm các chi tiết thể hiện ý thức cá nhân của tác giả. 4. Chỉ ra nét cách tân của bài thơ ở giọng điệu và cách dùng các yếu tố thuộc khẩu ngữ. 5. Nhận xét chung về giá trị tư tưởng và nghệ thuật của bài thơ. Bài: Vội vàng (Xuân Diệu) Sách chuẩn (Trang 22, tập 2) 1. Bài thơ có thể chia làm mấy đoạn? Nêu ý chính của từng đoạn. 2. Xuân Diệu cảm nhận về thời gian như thế nào? Vì sao nhà thơ có tâm trạng vội vàng, cuống quýt trước sự tôi qua nhanh chóng của thời gian? Sách nâng cao (Trang 29, tập 2) 1. Bài thơ được viết như một dòng cảm xúc hối hả tuôn trào, nhưng vẫn tuân theo một bố cục khá rõ ràng, thể hiện mạch triếtl lí sâu sắc và chặt chẽ. Hãy tìm bố cục ấy. 2. Đọc toàn bài, anh (chị) có cảm nhận thế nào về nhạc điệu của bài thơ? Nhạc điệu ấy được tạo ra bằng những thủ pháp gì? 72 3. Hình ảnh thiên nhiên, sự sống quen thuộc được tác giả cảm nhận và diễn tả như thế nào? Hãy chỉ ra những nét mới trong quan niệm của Xuân Diệu về cuộc sông, tuổi trẻ và hạnh phúc. 4. Hãy nhận xét về đặc điểm của hình ảnh, ngôn từ, nhịp điệu trong đoạn thơ cuối của bài thơ. Nhà thơ đã sáng tạo được hình ảnh nào mà anh (chị) cho là mới mẻ, độc đáo nhất? 3. Tác giả cảm nhận về thời gian như thế nào? Phân tích đoạn từ câu 14 đến câu 24 để làm nổi bật cảm nhận đó. 4. Hình ảnh thiên nhiên, sự sống quen thuộc quanh ta được tác giả cảm nhận và diễn tả một cách hấp dẫn như thế nào? Điều ấy thể hiện quan niệm gì của Xuân Diệu về cuộc sống, tuổi trẻ và hạnh phúc? 5. Phân tích nghệ thuật sử dụng ngôn từ (điệp từ, tính từ...) trong đoạn thơ từ câu 31 đến câu 39, qua đó làm nổi bật tuyên ngôn về lẽ sống của Xuân Diệu. 6. Qua bài thơ có thể hình dung cái tôi của Xuân Diệu như thế nào? 7. Học thuộc lòng bài thơ. 73 Bài: Tràng giang (Huy Cận) Sách chuẩn (Trang 30, tập 2) 1. Anh (chị) hiểu thế nào về câu thơ đề từ “Bâng khuâng trời rộng sông dài”? Đề từ đó có mối liên hệ gì với bức tranh thiên nhiên và tâm trạng của tác giả trong bài thơ? 2. Nêu cảm nghĩ về âm điệu chung của toàn bài thơ. 3. Vì sao nói bức tranh thiên nhiên trong bài thơ đậm màu sắc cổ điển mà vẫn gần gũi, thân thuộc? 4. Tình yêu thiên nhiên ở đây có thấm đượm lòng yêu nước thầm kín không? Tại sao? Sách nâng cao (Trang 50, tập 2) 1. Anh (chị) có cảm nhận như thế nào về âm điệu chung của toàn bài thơ? Âm điệu ấy đã góp phần thể hiện tâm trạng gì của tác giả trước thiên nhiên? 2. Hãy nêu cảm nhận của anh (chị) về bức tranh thiên nhiên được thể hiện trong bài thơ. Câu đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” có mối liên hệ gì đối với hình ảnh tạo vật thiên nhiên và tâm trạng của tác giả được thể hiện trong bài? 3. Hãy phát biểu nhận xét về hình thức tổ chức câu thơ và việc sử dụng lời thơ trong các cặp câu sau: - Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp Con thuyền xuôi mái nước song song - Nắng xuống trời lên sâu chót vót Sông dài trời rộng bến cô liêu 4. Hình ảnh “Củi một cành khô lạc mấy dòng” và hình ảnh “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa” gợi cho anh (chị) những cảm nghĩ gì? 74 5. Phân tích những đặc sắc nghệ thuật của thơ (thể thơ thất ngôn, thủ pháp tương phản, các từ láy, các biện pháp tư từ...) 5. Tại sao có thể nói tình yêu thiên nhiên ở đây cũng chứa đựng lòng yêu nước thầm kín? 6. Học thuộc lòng bài thơ Bài: Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử) Sách chuẩn (Trang 39, tập 2) 1. Phân tích nét đẹp của phong cảnh và tâm trạng của tác giả trong khổ thơ đầu. 2. Hình ảnh gió, mây, sông ,trăng trong khổ thơ thứ hai gợi cảm xúc gì? 3. Ở khổ thơ thứ ba, nhà thơ bộc lộ tâm sự của mình như thế nào? Chút hoài nghi trong câu thơ “Ai biết tình ai có đậm đà” có biểu hiện niềm tha thiết với cuộc đời không? Vì sao? 4. Có gì đáng chú ý trong tứ thơ và Sách nâng cao (Trang 47, tập 2) 1. Bài thơ có ba khổ, mỗi khổ nghiêng về một cảnh sắc, một tâm tình. Hãy nêu nhận xét về sắc thái khác nhau ở mỗi khổ thơ và mạch liên kết giữa các khổ. 2. Mỗi khổ thơ trong bài đều chứa đựng câu hỏi. Các câu hỏi ấy đã góp phần tạo nên âm điệu riêng của bài thơ. Âm điệu ấy đã thể hiện mạch tâm trạng gì của tác giả? 3. Hình ảnh „”nắng hàng cau mới lên” thật giản dị cũng thật giàu sức gợi. Hãy dùng những hiểu biết và trí tưởng tượng của mình để cảm nhận và tái tạo vẻ đẹp của hình ảnh ấy. 4. Anh (chị) có cảm nhận gì về ý 75 bút pháp của bài thơ nghĩa của hai câu thơ “Gió theo lối gió mây đường mây – Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay” 5. Khổ thơ thú hai có câu “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó – Có chở trăng về kịp tối nay” chữ “kịp” gợi lên điều gì về mối tâm tư đầy uẩn khúc của tác giả? 6. Câu thơ “Ai biết tình ai có đậm đà” có chút hoài nghi. Theo anh (chị), đó là nỗi hoài nghi của sự chán đời hay của niềm tha thiết với cuộc đời? Tại sao? 7. Học thuộc lòng bài thơ. Bài: Chiều tối (Hồ Chí Minh) Sách chuẩn (Trang 42, tập 2) 1. So sánh bản dịch thơ với bản dịch nghĩa, tìm những chỗ chưa sát với nguyên tác (chú ý câu 2 và câu 3) 2. Phân tích bức tranh thiên nhiên và cảm xúc của nhà thơ trong hai câu thơ đầu. Sách nâng cao (Trang 76, tập 2) 1. Dựa vào cảnh ngộ của tác giả (xem phần tiểu dẫn) hãy nhận xét nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong hai câu đầu của bài thơ. 2. Anh (chị) hãy nêu nhận xét về thủ pháp nghệ thuật mà tác giả dùng để tả màn đêm đã buông xuống ở câu cuối 76 3. Bức tranh đời sống được cảm nhận trong hai câu sau như thế nào? 4. Nhận xét về nghệ thuật tả cảnh và sử dụng ngôn ngữ trong bài thơ. bài thơ. 3. Hình ảnh lò than rực hồng ở cuối bài thơ có ý nghĩa như thế nào trong bức tranh chiều tối của tác giả? Điều này thể hiện đặc điểm gì của tâm hồn Hồ chí Minh? 4. Màu sắc cổ điển của bài thơ thể hiện ở đâu và như thế nào? Vì sao người ta thường nói thơ nghệ thuật của Hồ Chí Minh tuy rất cổ điển nhưng vẫn là thơ hiện đại? Hãy phân tích bài “Chiều tối” để giải thích và chứng minh. 5. Học thuộc lòng bản phiên âm và bản dịch bài thơ. Bài: Từ ấy (Tố Hữu) Sách chuẩn (Trang 44, tập 2) 1. Tố Hữu đã dùng những hình ảnh nào để chỉ lí tưởng và biểu hiện niềm vui sướng, say mê khi bắt gặp lí tưởng? Sách nâng cao (Trang 88, tập 2) 1. Tìm hiểu tâm trạng của Tố Hữu trong giây phút bắt gặp lí tưởng cộng sản. qua hình ảnh “Mặt trời chân lí chói qua tim”, có thể hiểu quan niệm của nhà thơ về lí tưởng cộng sản như thế nào? 77 2. Khi được ánh sáng của lí tưởng soi rọi, nhà thơ đã có những nhận thức mới về lẽ sống như thế nào? 3. Sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm của nhà thơ được thể hiện ra sao? 4. Nhận xét về các biện pháp tu từ dùng trong bài thơ. Có gì đáng chú ý trong nhịp điệu của các câu thơ? 2. Nhận xét đặc điểm chung về giá trị biểu cảm của các từ ngữ: bừng (nắng hạ), chói (qua tim), rất đậm (hương), rộn (tiếng chim). 3. Lí tưởng cộng sản đã đem đến cho Tố Hữu sự thức tỉnh về mối quan hệ tình cảm mới như thế nào? vì sao sự thức tỉnh về quan hệ tình cảm ấy lại đem đến cho Tố Hữu sức mạnh và niềm vui? 4. Nhận xét về giọng điệu chung của bài thơ. 5. Qua những từ lặp lại ở đầu câu: Để (câu 6-7), là (câu 10-11), anh (chị) hãy nêu cảm nhận của mình về nhịp thơ và tác dụng biểu cảm của nó. 6. Học thuộc lòng bài thơ. 78 Bài: Tôi yêu em (Puskin) Sách chuẩn (Trang 60, tập 2) 1. Điệp khúc nào làm nổi bật cảm xúc chủ đạo của bài thơ? Bài thơ dường như là lời từ giã cho một mối tình không thành. Lời từ giã của Puskin có gì đặc biệt? 2. Giọng điệu trữ tình chuyển biến như thế nào từ câu hai câu 1-2 sang hai câu 3-4 và từ câu 5-6 sang hai câu 7-8? diễn biến tâm trạng phức tạp của nhân vật trữ tình được thể hiện tinh tế ra sao? 3. Tại sao có thể nói hai câu kết là bất ngờ, hàm chứa nhiều ý vị? 4. Bài thơ gợi cho anh (chị) những cảm nghĩ gì về tâm hồn Puskin và về tình yêu? Sách nâng cao (Trang 167, tập 2) 1. Đọc diễn cảm bài thơ, lưu ý cụm từ “tôi yêu em” và vị trí của cụm từ này trong bài, hãy tìm hiểu kết cấu bài thơ và diễn biến tâm trạng nhân vật trữ tình. 2. Tình cảm phức tạp, tế nhị của nhân vật trữ tình trong bài thơ được Puskin diễn tả tinh tế như thế nào qua bốn câu thơ đầu? 3. Cảm xúc trong hai câu thơ “Tôi yêu em âm thầm không hy vọng- Lúc rụt rè khi hậm hực lòng ghen” có gi fđặc biệt? Nó hé mở trạng thái tình cảm gì trong nhân vật trữ tình? 4. Xu hướng vươn tới sự cao cả trong tư tưởng, tình cảm là đặc trưng cơ bản của thơ Puskin. Phân tích hai câu thơ cuối để chứng minh. 79 Tài liệu tham khảo 1. Đinh Quang Báo (11/2003), Bản chất của phương pháp dạy học mới, Dạy và học ngày nay, số 13. 2. Nguyễn Quang Cương (2000), Hệ thống câu hỏi trong SGK văn học, Luận án tiến sĩ, trường Đại học sư phạm Hà Nội. 3. Phạm Văn Đồng, Dạy văn là quá trình rèn luyện toàn diện, Tạp chí NCGD, số 28. 4. Phạm Văn Đồng (12/1992), Phương pháp dạy học phát huy tính tích cực- một phương pháp vô cùng quý báu, NCGD. 5. Lê Bá Hán -Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi, Từ điển thuật ngữ văn học, trang 202-203. 6. Nguyễn Trọng Hoàn (2003), Rèn luyện tư duy sáng tạo trong dạy học tác phẩm văn chương, Nxb Giáo dục Hà Nội. 7. Trần Bá Hoành (2003), Lí luận cơ bản về dạy và học tích cực, Dự án giáo viên trung học cơ sở, Bộ GD&ĐT. 8. Nguyễn Thanh Hùng (23/9/1989), Bản chất văn học và vấn đề đổi mới trong dạy học văn, Báo văn nghệ số 38. 9. Nguyễn Thanh Hương (2001), Dạy học văn ở trường phổ thông, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. 10. Nguyễn Xuân Lạc, bài 18, Ôn tập phương pháp đọc hiểu và kiểm tra, Sách Ngữ văn 11 bộ 2 tập II, Ban KHXH&NV. 11. Nguyễn Lai (1991), Ngôn ngữ và sáng tạo văn học, Khoa học xã hội, Hà Nội. 12. Nguyễn Lai (1990), Tiếp nhận văn học, một số vấn đề thời sự, Báo văn nghệ số 28. 13. Lê-nin (1976), Bút kí triết học, Sự thật, Hà Nội. 80 14. Nguyễn Lộc (1990), Tài liệu bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lí giáo dục PTTH phục vụ cải cách giáo dục, môn văn lớp 10, Hà Nội. 15. Phan Trọng Luận (1983), Cảm thụ văn học, giảng dạy văn học, Nxb Giáo dục. 16. Phan Trọng Luận (1999), Đổi mới giờ học tác phẩm văn chương ở trường THPT (sách bồi dưỡng giáo viên), Giáo dục Hà Nội. 17. Phan Trọng Luận (2005), Phan Trọng Luận tuyển tập, Nxb Giáo dục. 18. Phan Trọng Luận (1977), Phân tích tác phẩm văn chương trong nhà trường, Nxb Giáo dục. 19. Phan Trọng Luận (2003), Văn chương bạn đọc sáng tạo, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 20. Nhikônxki (1978), Phương pháp giảng dạy văn học ở nhà trường phổ thông, Nxb Giáo dục. 21. A.V.Petrovski (1982), Tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư ph¹m tập I, Nxb Giáo dục. 22. Trần Hồng Quân (1995), Cách mạng về phương pháp sẽ đem lại sức sống mới, bộ mặt mới cho giáo dục, NCGD số 1. 23. Dương Thị Quy (1996), Câu hỏi hướng dẫn chuẩn bị bài trong SGK văn THPT, luận văn thạc sĩ, Trường ĐHSP Hà Nội. 24. I.A.Rez (1983), Phương pháp luận dạy văn học, Nxb Giáo dục. 25. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục. 26. Trần Đình Sử (12/2/1998), Môn văn thực trạng và giải pháp, Báo văn nghệ số 7. 27. Trần Đình Sử (1987), Thi pháp thơ Tố Hữu, Tác phẩm mới, Hà Nội. 28. Trần Đình Sử - Phương Lựu - Nguyễn Xuân Nam (1987), Lí luận văn học tập II, Nxb Giáo dục. 81 29. Đỗ Ngọc Thống (4/2003), Chương trình Ngữ văn THPT có gì mới? Tạp chí văn học tuổi trẻ số 4. 30. Lê Trí Viễn (5/1975), Giáo dục văn hóa thẩm mĩ, NCGD. 31. Viện khoa học giáo dục (1993), Mục tiêu chung của chương trình môn văn-tiếng Việt ở trườngPTTH chuyên ban, Hà Nội. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA9227.pdf