Nghiên cứu môi trường đầu tư của các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn tại Hà Nội

Tài liệu Nghiên cứu môi trường đầu tư của các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn tại Hà Nội: ... Ebook Nghiên cứu môi trường đầu tư của các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn tại Hà Nội

doc93 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1258 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu môi trường đầu tư của các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn tại Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o Tr­êng ®¹i häc n«ng nghiÖp hµ néi ------› ¶ š------ luËn v¨n tèt nghiÖp ®¹i häc NGHIÊN CỨU MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP TRONG LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN TẠI HÀ NỘI Tên sinh viên : Phùng Thị Nga Chuyên ngành đào tạo : Kinh tế nông nghiệp Lớp : KT A - K50 Niên khoá : 2005 - 2009 Giảng viên hướng dẫn : Trần Đình Thao Nguyễn Thị Thu Huyền HÀ NỘI - 2009 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc. Tác giả luận văn Phùng Thị Nga LỜI CẢM ƠN §Ó hoµn thµnh LuËn v¨n thùc tËp tèt nghiÖp nµy, tr­íc hÕt t«i xin bµy tá lßng biÕt ¬n s©u s¾c têi thÇy c« gi¸o trong khoa Kinh tÕ vµ ph¸t triÓn n«ng th«n, tr­êng §¹i häc N«ng nghiÖp Hµ Néi. Nh÷ng ng­ßi ®· trang bÞ cho t«i hµnh trang kiÕn thøc trªn gi¶ng ®­êng ®¹i häc vµ gióp t«i khi gÆp khã kh¨n trong qu¸ tr×nh häc tËp. T«i bµy tá lßng biÕt ¬n ch©n thµnh vµ s©u s¾c nhÊt tíi ThÇy gi¸o TrÇn §×nh Thao vµ c« gi¸o NguyÔn ThÞ Thu HuyÒn ®· tËn t×nh chØ b¶o, h­íng dÉn vµ ®éng viªn t«i trong suèt thêi gian thùc tËp. T«i xin ch©n thµnh c¶m ¬n Ban l·nh ®¹o c¸c phßng ban vµ c¸n bé nh©n viªn t¹i së N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n Hµ Néi, ®· t¹o mäi ®iÒu kiÖn thuËn lîi ®Ó t«i hoµn thµnh tèt néi dung ®Ò tµi. T«i xin ch©n thµnh c¶m ¬n gia ®×nh, b¹n bÌ ®· ®éng viªn, gióp ®ì t«i trong suèt qu¸ tr×nh häc tËp vµ thùc hiÖn ®Ò tµi luËn v¨n tèt nghiÖp cña m×nh. T«i xin ch©n thµnh c¶m ¬n! Hµ Néi, ngµy 22 th¸ng 05 n¨m 2009 Ng­ßi viÕt Sinh viªn Phïng ThÞ Nga TÓM TẮT LUẬN VĂN Lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn nước ta hiện nay vẫn chưa thu hút nhiều dự án đầu tư của các doanh nghiệp. Tổng số vốn đầu tư vào lĩnh vực này còn rất hạn chế, các dự án đầu tư còn thuộc quy mô nhỏ so với mức đầu tư của các dự án ở các ngành khác. Bên cạnh đó, các dự án đầu tư vào lĩnh vực này thường tập trung ở các khu đô thị do đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu môi trường đầu tư của các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn tại Hà Nội”. Để việc tìm hiểu đề tài khoa học hơn chúng tôi nêu mục tiêu chung, các mục tiêu cụ thể, các câu hỏi nghiên cứu liên quan đến việc giải quyết vấn đề đặt ra. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các doanh nghiệp nông nghiệp hoạt động trên địa bàn Hà Nội; Môi trường đầu tư của các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và các yếu tố tác động tới khả năng thu hút đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Việc đưa ra một số khái niệm về đầu tư cho chúng ta hiểu rõ hơn về đầu tư. Mặc dù có nhiều khái niệm về đầu tư nhưng trong đề tài này đầu tư được xem xét theo quan điểm của các doanh nghiệp: “Đầu tư là hoạt động bỏ vốn kinh doanh với mục tiêu thu được số vốn lớn hơn số vốn bỏ ra”. Đồng thời đưa ra khái niệm môi trường đầu tư: “Môi trường đầu tư được hiểu là bao gồm tất cả các điều kiện liên quan đến kinh tế, chính trị, hành chính, cơ sở hạnh tầng tác động đến hoạt động đầu tư và kết quả hoạt động của doanh nghiệp”. Về doanh nghiệp có nhiều quan điểm khác nhau nhưng rút ra được một khái niệm chung “Doanh nghiệp là một đơn vị sản xuất kinh doanh được tổ chức nhằm tạo ra sản phẩm và dịch vụ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trên thị trường, thông qua đó để tối đa hóa lợi nhuận trên cơ sở tôn trọng luật pháp của Nhà nước và quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng”. Thông qua việc tìm hiểu môi trường đầu tư của một số nước trên thế giới như Trung Quốc, Thái Lan và Philippin chúng ta rút ra được những kinh nghiệm cho môi trường đầu tư trong nước. Các phương pháp thu thập số liệu là thu thập số liệu thứ cấp và số liệu sơ cấp. Phương pháp phân tích số liệu gồm có phương pháp thống kê kinh tế trong đó có thống kê so sánh và thống kê mô tả; Phương pháp phân tích ma trận SWOT và phân tích cây vấn đề. Hệ thống chỉ tiêu sử dụng để đánh giá hiệu quả đầu tư là giá trị sản xuất (GO), chi phí sản xuất kinh doanh (TC), giá trị gia tăng (VA), các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả chi phí gồm có tỷ suất giá trị sản xuất theo chi phí (GO/TC) và tỷ suất giá trị tăng thêm theo chi phí (VA/TC). Kết quả nghiên cứu đề tài cho chúng ta thấy được tình trạng đầu tư của các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn và thực trạng đầu tư này được chia theo nhiều tiêu thức khác nhau như thực trạng đầu tư phân theo loại hình doanh nghiệp cho biết tổng số doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp năm 2006 là 15 doanh nghiệp, năm 2007 là 19 doanh nghiệp và năm 2008 là 22 doanh nghiệp; phân theo lĩnh vực đầu tư cho biết các doanh nghiệp đầu tư vào ngành nào có nhiều doanh nghiệp đầu tư vào nhất, ngành nào ít đầu tư vào nhất và nguyên nhân. Năm 2006 số doanh nghiệp đầu tư vào trồng trọt là 7 doanh nghiệp là cao nhất, lĩnh vực đầu tư ít nhất là các ngành chế biến, DVNN và tổng hợp là 1 doanh nghiệp. Năm 2007 lĩnh vực nhiều doanh nghiệp đầu tư nhất vẫn là ngành trồng trọt 6 doanh nghiệp và đứng cuối cùng là đầu tư tổng hợp là 1 doanh nghiệp. Năm 2008 ngành thu hút nhiều doanh nghiệp đầu tư nhất là chế biến và DVNN với 6 doanh nghiệp; phân theo vốn đầu tư cho biết số doanh nghiệp đầu tư theo từng quy mô, có 3 quy mô là quy mô 1 có tổng vốn đầu tư nhỏ hơn 1 tỷ, quy mô 2 có tổng vốn đầu tư trên 1 tỷ dưới 15 tỷ đồng và quy mô 3 có tổng vốn đầu tư trên 15 tỷ đồng. Từ việc tìm hiểu các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp cho chúng ta thấy được hiệu quả đầu tư của các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp. Hầu hết các doanh nghiệp đều đầu tư có hiệu quả nhưng không thể so sánh loại hình doanh nghiệp nào, lĩnh vực đầu tư nào, quy mô đầu tư nào hiệu quả nhất bởi mỗi loại có điều kiện nội và ngoại lực khác nhau. Việc các doanh nghiệp tự đánh giá môi trường đầu tư đã đưa ra kết luận chung về môi trường đầu tư tại Hà Nội là các doanh nghiệp chịu tác động nhiều nhất từ các nhân tố là mặt bằng cho dự án đầu tư, vốn, cơ sở hạ tầng, thị trường, lao động, dịch bệnh, thủ tục hành chính và các chính sách của các cơ quan có thẩm quyền. Theo sự đánh giá bằng cách cho điểm của các doanh nghiệp thì yếu tố về thủ tục hành chính là có điểm số thấp nhất do thủ tục hành chính còn rườm rà gây cản trở hoạt động của các doanh nghiệp. Việc xây dựng cây vấn đề cho biết rõ ràng hơn về các yếu tố ảnh hưởng tới đầu tư của các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp và đưa ra ma trận SWOT là một công cụ hữu ích kịp thời đưa ra những giải pháp và chiến lược một cách khoa học, hợp lý và hiệu quả. Từ những kết quả nghiên cứu trên chúng tôi có đưa ra một số kết luận và khuyến nghị đối với các cơ quan có thẩm quyền cũng như đối với các doanh nghiệp. MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG Bảng 4.1: Tình hình đầu tư phân theo loại hình doanh nghiệp 45 Bảng 4.2 Tình hình đầu tư phân theo lĩnh vực 46 Bảng 4.3 Tình hình đầu tư phân theo quy mô vốn 49 Bảng 4.4 Tình hình vốn đầu tư của các doanh nghiệp 52 Bảng 4.5 Hiệu quả đầu tư các dự án phân theo loại hình doanh nghiệp năm 2008 53 Bảng 4.6 Hiệu quả đầu tư các dự án phân theo lĩnh vực năm 2008 54 Bảng 4.7 Hiệu quả đầu tư của các dự án theo quy mô vốn năm 2008 55 Bảng 4.8 Đánh giá môi trường đầu tư phân theo loại hình doanh nghiệp 57 Bảng 4.9 Đánh giá môi trường đầu tư phân theo lĩnh vực đầu tư 59 Bảng 4.10 Đánh giá môi trường đầu tư phân theo quy mô vốn 61 Bảng 4.11 Bảng điểm yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động đầu tư của các DN 66 Bảng 4.12 Ma trận SWOT 72 DANH MỤC BIỂU Biểu 4.1 Số doanh nghiệp tham gia đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp qua 3 năm 41 Biểu 4.2 Lĩnh vực đầu tư của các doanh nghiệp qua 3 năm 44 DANH MỤC ĐỒ THỊ Đồ thị 4.1 Cơ cấu vốn đầu tư vào các ngành các doanh nghiệp thuộc quy mô 3 48 Đồ thị 4.2 Cơ cấu nguồn vốn đầu tư trong quy mô 1 năm 2008 50 Đồ thị 4.3 Cơ cấu nguồn vốn đầu tư trong quy mô 2 năm 2008 51 Đồ thị 4.4 Cơ cấu nguồn vốn đầu tư trong quy mô 3 năm 2008 51 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Ký hiệu Nội dung BQ Bình quân CC Cơ cấu CSH Chủ sở hữu CSHT Cơ sở hạ tầng DN Doanh nghiệp DNNN Doanh nghiệp nông nghiệp DVNN Dịch vụ nông nghiệp ĐTH-KCN Đô thị hoá-khu công nghiệp ĐVT Đơn vị tính FDI Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài GTGT Giá trị gia tăng GTSX Giá trị sản xuất HC Hành chính HTX Hợp tác xã HQ Hiệu quả KQ Kết quả Lđ Lao động NGO Nguồn vốn của các tổ chức phi chính phủ NNĐT Nông nghiệp đô thị NXB Nhà xuất bản ODA Nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức SL Số lượng STT Số thứ tự SX Sản xuất TNHH Trách nhiệm hữu hạn Trđ Triệu đồng Phần thứ nhất ĐẶT VẤN ĐỀ 1.1 Tính cấp thiết của đề tài Nông nghiệp là một trong những ngành kinh tế có vai trò quan trọng và đã có bước phát triển vượt bậc trong thời gian qua. Ngoài việc đáp ứng về cơ bản nhu cầu tiêu dùng trong nước ngày một tăng với 85 triệu dân Nguyễn Lê Hà. Luận văn tốt nghiệp đại học năm 2008. Đại học Nông nghiệp Hà Nội , Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Bộ NN và PTNT) đã chỉ ra trong những tháng đầu năm 2008 thị trường trong nước về các loại nông sản, thực phẩm tăng mạnh. Sản xuất nông, lâm, thuỷ sản được mùa đã góp phần quan trọng vào việc kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả đưa kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản năm 2008 đạt 16,24 tỷ USD, tăng 22,7% so với năm 2007, đạt mức tăng trưởng cao nhất từ trước đến nay. Trong đó các mặt hàng nông sản ước 8,42 tỷ USD, tăng 34%; lâm sản và gỗ đạt 3,0 tỷ USD, tăng 13,4%; mặt hàng thuỷ sản 4,5 tỷ USD, tăng 19,6%. Sáu mặt hàng đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD cụ thể là: gạo 2,87 tỷ USD, cà phê 2,0 tỷ USD, cao su 1,6 tỷ USD, đồ gỗ 2,8 tỷ USD, tôm gần 1,5 tỷ USD, cá tra trên 1 tỷ USD. Đặc biệt, mặt hàng điều có kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh, đạt trên 908 triệu USD, tăng 38,8% so với năm 2007. Có được những thành công đó, một mặt là nhờ đóng góp của người nông dân và các doanh nghiệp kinh doanh trong nông nghiệp, mặt khác là do có sự quan tâm đặc biệt của Chính phủ đến nông nghiệp, nông thôn và nông dân . Hiện nay Việt Nam đang hội nhập mạnh với nền kinh tế thế giới. Ngày 11/01/2007 Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức Kinh tế Thế giới (WTO). Đây là một mốc quan trọng của nền kinh tế Việt Nam nói riêng và của cả đất nước nói chung. Nó mở ra cho nông nghiệp nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách thức. Bối cảnh hội nhập quốc tế đang đặt ra các yêu cầu Việt Nam phải mở cửa thị trường, cắt giảm thuế và tiến tới thực hiện một khu vực phi thuế quan. Việt Nam không được thực hiện các biện pháp trợ cấp làm bóp méo thương mại, đặc biệt là các biện pháp trợ cấp xuất khẩu. Các biện pháp hỗ trợ trong nông nghiệp nhất là thực hiện nhóm chính sách hộp xanh là rất quan trọng và cần thiết. Vì thế nhiệm vụ trọng tâm của toàn ngành năm 2009 là tập trung đối phó hiệu quả với các khó khăn thử thách, ngăn ngừa suy giảm, duy trì tăng trưởng chủ yếu thông qua nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị, hiệu quả và sức cạnh tranh các sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản, công nghiệp, dịch vụ nông thôn…. Hiện nay Nhà nước đã có đầu tư rất lớn cho ngành nông nghiệp, tuy nhiên thực trạng thu hút đầu tư vào nông nghiệp nông thôn (NNNT) hiện nay còn rất hạn chế. Đây là một địa bàn đầu tư khó khăn, độ rủi ro cao, lợi nhuận thấp. Mặc dù kể từ khi luật Đầu tư có hiệu lực năm 2000, tình hình đầu tư của các doanh nghiệp (DN) về NNNT đã cải thiện đáng kể. Tuy nhiên tính đến nay, theo kết quả điều tra của IPSARD Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn , phần lớn các DN FDI vào lĩnh vực nông lâm nghiệp là các DN vừa và nhỏ, có mức vốn thấp, chủ yếu là các DN có mức vốn dưới 2 triệu USD, thậm chí có một số DN có mức vốn dưới 500.000 USD. Các DN đầu tư từ 5 triệu USD trở lên không nhiều, chỉ chiếm khoảng 18% tổng số DN. Trong đó, DN liên doanh có mức vốn bình quân gấp 1,81 lần so với DN 100% vốn đầu tư nước ngoài. Thực tế, phần lớn các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp lại tập trung ở các khu đô thị. Về cơ bản, các doanh nghiệp này thường có quy mô nhỏ và số lượng cũng hạn chế. Vậy nguyên nhân là gì? Từ những vấn đề nêu trên chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu môi trường đầu tư của các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn tại Hà Nội”. 1.2 Mục tiêu nghiên cứu 1.2.1 Mục tiêu chung Nghiên cứu thực trạng đầu tư và các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng thu hút đầu tư của các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm cải thiện môi trường đầu tư của các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. 1.2.2 Mục tiêu cụ thể Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về môi trường đầu tư nói chung và môi trường đầu tư của các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn nói riêng; Tìm hiểu thực trạng đầu tư của các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn; Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng thu hút đầu tư của các doanh nghiệp vào nông nghiệp, nông thôn; Đề xuất một số định hướng giải pháp nhằm cải thiện môi trường đầu tư của các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. 1.3 Câu hỏi nghiên cứu Tình hình đầu tư của các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn hiện nay như thế nào? Các kết quả đạt được của các dự án đầu tư của các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn ra sao? Có những yếu tố nào tác động tới khả năng thu hút đầu tư của các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn? Yếu tố nào đóng vai trò quan trọng trong việc tăng khả năng thu hút đầu tư của các doanh nghiệp vào nông nghiệp, nông thôn? Làm thế nào để tăng khả năng thu hút đầu tư của các doanh nghiệp vào nông nghiệp, nông thôn? 1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 1.4.1 Đối tượng nghiên cứu - Các doanh nghiệp nông nghiệp hoạt động trên địa bàn Hà Nội. Môi trường đầu tư của các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Các yếu tố tác động tới khả năng thu hút đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. 1.4.2 Phạm vi nghiên cứu Phạm vi không gian: Đề tài tiến hành nghiên cứu tại thành phố Hà Nội. Phạm vi thời gian: + Thời gian nghiên cứu: các số liệu sử dụng trong đề tài từ năm 2006 – 2008; + Thời gian thực hiện đề tài: Từ 10/1/2009 đến 23/5/2009. Phạm vi nội dung: Nghiên cứu môi trường đầu tư của các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn tại Hà Nội. Phần thứ hai CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 2.1 Cơ sở lý luận 2.1.1 Một số khái niệm liên quan 2.1.1.1 Khái niệm đầu tư 2.1.1.1.1 Khái niệm Có nhiều cách phát biểu về đầu tư của các tác giả khác nhau, sau đây xin dẫn ra một số ví dụ cụ thể. a. Cách diễn đạt thứ nhất Đầu tư đó là quá trình bỏ vốn để tạo nên cũng như để vận hành một loại tài sản kinh doanh nào đó như nhà xưởng, máy móc và vật tư, (thường gọi là đầu tư cho các đối tượng vật chất) cũng như để mua cổ phiếu, trái phiếu hoặc cho vay lấy lãi (thường gọi là đầu tư tài chính), mà ở đây những tài sản đầu tư này có thể sinh lợi dần hoặc thoả mãn dần một nhu cầu nhất định nào đó cho người bỏ vốn cũng như toàn xã hội trong một thời gian nhất định trong tương lai (thường gọi là vòng đời dự án đầu tư). Cách diễn đạt này thiên về đầu tư cho các nhân tố sản xuất và kinh doanh, chỉ rõ các đối tượng đầu tư, chỉ rõ đầu tư là sự bỏ vốn ở thời điểm hiện tại để sinh lợi trong thời gian tương lai. Cách này thường được dùng hơn cả. b. Cách diễn đạt thứ hai Đầu tư đó là sự sử dụng vốn nhằm tạo nên các dự trữ và tiềm năng về tài sản để sinh lợi dần theo thời gian trong tương lai. Ở đây cần hiểu đúng ý nghĩa của danh từ dự trữ. Ví dụ một nhà máy công nghiệp được xây dựng lên không phải là để sử dụng hết ngay một lúc, mà phải khai thác và vận hành nó trong nhiều năm, phần chưa sử dụng hết của nó có thể coi như một dự trữ hay một tiềm năng. Dự trữ về vật tư để hình thành vốn lưu động cũng có ý nghĩa tương tự. Theo cách diễn đạt này thì thiên về đầu tư theo giác độ tài sản. c. Cách diễn đạt thứ ba Đầu tư là một chuỗi hành động chi cho một chủ trương kinh doanh nào đó, và ngược lại chủ đầu tư sẽ nhận được một chuỗi các khoản thu để đảm bảo hoàn vốn và có lãi một cách thoả đáng. Như vậy, ở đây đầu tư được quan niệm như một dòng nghiệp vụ thu chi sinh ra từ một chủ trương kinh doanh nào đó. Cách diễn đạt này lại thiên về giác độ tài chính và thường được dùng để phân tích tài chính của dự án đầu tư. d. Cách diễn đạt thứ tư Đầu tư đó là một quá trình quản lý sử dụng tài sản một cách hợp lý, nhất là về mặt cơ cấu của tài sản để sinh lời. Ở đây cần lưu ý rằng tài sản đó là một tổng thể các nhân tố và nguồn lực của sản xuất – kinh doanh thuộc quyền sử dụng của một doanh nghiệp nào đó tồn tại dưới hình thức vật chất (như nhà xưởng, máy móc, dự trữ vật tư), hoặc dưới hình thức tiền tệ và tài chính (như các phương tiện tiền mặt, các khoản cho vay, các giấy có giá…), hoặc dưới hình thức phi vật chất (như uy tín đối với thị trường), hoặc dưới hình thức lực lượng lao động. Đây là một khái niệm về đầu tư có nội dung tổng quát và rộng rãi nhất. Cách này thiên về giác độ tổng quát, có nội dung rộng rãi nhất về đầu tư, những dễ lẫn với quá trình kinh doanh nói chung. e. Cách diễn đạt thứ năm Đầu tư cho phương tiện sản xuất để thay thế lao động trực tiếp thủ công là một cách đi đường vòng và là lao động gián tiếp, đầu tư cũng là một hình thức hạn chế tiêu dùng hôm nay để thu được hàng tiêu dùng nhiều hơn trong ngày mai. Cách diễn đạt này muốn nhấn mạnh khía cạnh tiến bộ của khoa học và công nghệ làm thay đổi cách thức lao động của đầu tư. g. Cách diễn đạt thứ sáu Đầu tư là sử dụng cách khoản tiền đã tích luỹ được của xã hội, của các cơ sở sản xuất – kinh doanh và dịch vụ, tiền tiết kiệm của dân vào việc tái sản xuất của xã hội nhằm tạo ra các tiềm lực lớn hơn về mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội. Cách diễn đạt này thiên về giác độ vĩ mô, chỉ rõ các nguồn vốn đầu tư và lưu ý đến khía cạnh tái sản xuất. GS. TSKH Nguyễn Văn Chọn. Kinh tế đầu tư tập 1. NXB Thống kê 11/2005. Trang 13 Hay theo Điều 3 - Chương I - Luật đầu tư số 59/2005/QH11 ngày 29-11-2005 của Quốc hội (có hiệu lực từ ngày 01-07-2006): Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Cách diễn đạt này nhấn mạnh tới vấn đề đầu tư phải theo quy định của pháp luật. Trong chuyên đề này, đầu tư được xem xét theo quan điểm của các doanh nghiệp đó là: Đầu tư là hoạt động bỏ vốn kinh doanh với mục tiêu thu được số vốn lớn hơn số đã bỏ ra. Vốn đầu tư là tiền và các tài sản hợp pháp khác để thực hiện các hoạt động đầu tư. Hoạt động đầu tư là hoạt động của nhà đầu tư trong quá trình đầu tư. Thực chất đó là việc sử dụng vốn đầu tư để phục hồi năng lực sản xuất cũ và tạo thêm năng lực mới. Nói cách khác, đó là quá trình thực hiện tái sản xuất các loại tài sản. Dự án đầu tư là tập hợp các đề xuất bỏ vốn để tiến hành các hoạt động đầu tư trên địa bàn cụ thể, trong khoảng thời gian xác định. Hoạt động đầu tư là hoạt động của nhà đầu tư trong quá trình đầu tư bao gồm các khâu chuẩn bị, thực hiện và quản lý dự án đầu tư. Chủ đầu tư là tổ chức, cá nhân sở hữu vốn hoặc người thay mặt chủ sở hữu hoặc người vay vốn và trực tiếp quản lý, sử dụng vốn để thực hiện hoạt động đầu tư Các tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật Việt Nam được gọi là nhà đầu tư, bao gồm: các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; các hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã; hộ kinh doanh, cá nhân; tổ chức, cá nhân nước ngoài; người Việt Nam định cư ở nước ngoài; người nước ngoài thường trú ở Việt Nam; các tổ chức khác theo quy định của pháp luật Việt Nam Theo mục 4 - điều 3 - Chương I - Luật đầu tư số 59/2005/QH11 ngày 29-11-2005 của Quốc hội (có hiệu lực từ ngày 01-07-2006) . Nhà đầu tư được quyền tự chủ đầu tư kinh doanh bao gồm lựa chọn lĩnh vực, hình thức, địa bàn, quy mô, đối tác đầu tư, phương thức huy động vốn và thời hạn hoạt động của dự án đầu tư. Họ cũng được tiếp cận, sử dụng nguồn lực; xuất khẩu, nhập khẩu, quảng cáo, tiếp thị, gia công; chuyển nhượng, điều chỉnh vốn hoặc dự án đầu tư; và các quyền khác theo quy định của pháp luật Theo điều 13 đến điều 19 - chương III - Luật đầu tư số 59/2005/QH11 ngày 29-11-2005 của Quốc hội (có hiệu lực từ ngày 01-07-2006) . Tuy nhiên họ phải tuân thủ quy định về thủ tục đầu tư; thực hiện hoạt động đầu tư theo đúng nội dung đăng ký. Họ phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính, quy định về kế toán, kiểm toán, thống kê, bảo hiểm xã hội, lao động và các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật Theo điều 13 đến điều 19 - chương III - Luật đầu tư số 59/2005/QH11 ngày 29-11-2005 của Quốc hội (có hiệu lực từ ngày 01-07-2006) . Về chính sách và môi trường đầu tư, Nhà nước đối xử bình đẳng trước pháp luật đối với các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế, giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài; khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư. Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu tài sản, trí tuệ, quyền được bảo đảm đầu tư trong trường hợp thay đổi pháp luật, chính sách; bảo đảm vốn đầu tư, thu nhập và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của nhà đầu tư; thừa nhận sự tồn tại và phát triển lâu dài của các hoạt động đầu tư. Nhà nước cũng khuyến khích và có chính sách ưu đãi đối với đầu tư vào các lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư. Ðầu tư có thể được thực hiện thông qua hình thức là trực tiếp bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư, hoặc gián tiếp thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư. 2.1.1.1.2 Phân loại đầu tư Để dễ quản lý, đầu tư phải được phân loại theo các giác độ khác nhau. Sau đây là các cách phân loại chính. a. Phân loại theo đối tượng đầu tư Theo giác độ này gồm các loại: - Đầu tư cho các đối tượng vật chất (nhà, xưởng, thiết bị, máy móc, dự trữ vật tư…). Đầu tư loại này có thể phục vụ cho sản xuất kinh doanh và dịch vụ, hoặc phục vụ cho các mục đích văn hoá và xã hội. - Đầu tư tài chính, bao gồm các hình thức như mua cổ phiếu, trái phiếu, cho vay lấy lãi, gửi tiết kiệm… b. Phân loại theo chủ đầu tư Theo giác độ này bao gồm các loại: - Chủ đầu tư là Nhà nước, ví dụ việc đầu tư để xây dựng công trình cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội do vốn cấp từ ngân sách của Nhà nước. - Chủ đầu tư là các chủ doanh nghiệp (quốc doanh và ngoài quốc doanh, độc lập và liên kết, trong nước và nước ngoài). - Chủ đầu tư là các tập thể người trong xã hội, ví dụ đầu tư để xây dựng các công trình do vốn góp của các tập thể và dùng để phục vụ trực tiếp cho tập thể góp vốn. - Chủ đầu tư là các cá nhân và vốn đầu tư ở đây được lấy từ ngân sách của các hộ gia đình. - Các loại chủ đầu tư khác (các đoàn thể chính trị, xã hội, các cơ quan đại sứ quán nước ngoài, chủ đầu tư liên quốc gia). c. Phân loại theo nguồn vốn Theo giác độ này bao gồm các loại đầu tư sau: - Đầu tư từ vốn của Nhà nước cho một số đối tượng theo quy định như: cho cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, hỗ trợ cho các doanh nghiệp Nhà nước đầu tư vào các lĩnh vực cần có sự tham gia của Nhà nước đầu tư vào các lĩnh vực cần có sự tham gia của Nhà nước, cho điều tra khảo sát, lập quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, cho các doanh nghiệp vay để đầu tư phát triển, vốn khấu hao và các nguồn thu của Nhà nước để lại cho doanh nghiệp. - Đầu tư từ vốn tín dụng của Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước (do các doanh nghiệp vay của Nhà nước để đầu tư). - Đầu tư từ vốn đầu tư phát triển của các doanh nghiệp Nhà nước. - Nguồn vốn đầu tư nước ngoài gồm đầu tư trực tiếp FDI và vốn vay ODA. - Các nguồn vốn đầu tư khác của các tư nhân và tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh, của các cơ quan ngoại giao và các tổ chức quốc tế khác ở Việt Nam. d. Phân loại theo cơ cấu đầu tư Theo giác độ này bao gồm các loại đầu tư sau: - Đầu tư theo các ngành kinh tế (phân loại theo các ngành kinh tế cấp I, cấp II, cấp III, cấp IV). - Đầu tư theo các vùng lãnh thổ và các địa phương. - Đầu tư theo các thành phần kinh tế của nền kinh tế quốc dân. - Đầu tư cho các công trình cơ sở hạ tầng và phi hạ tầng. - Đầu tư theo cơ cấu hợp tác quốc tế (cơ cấu giữa nội lực và ngoại lực). e. Phân loại theo giác độ tái sản xuất tài sản cố định Theo giác độ này bao gồm các loại đầu tư sau: - Đầu tư mới, tức là đầu tư để xây dựng, mua sắm toàn bộ thiết bị máy móc loại mới. - Đầu tư lại, bao gồm các đầu tư để thay thế các loại tài sản cố định đã hết tuổi thọ quy định bằng các loại tài sản cố định cùng loại nhưng còn mới và chưa được sử dụng, cũng như bao gồm các loại đầu tư để cải tạo và hiện đại hoá các loại tài sản cố định hiện có đã lạc hậu. - Đầu tư kết hợp hai loại trên. g. Phân loại theo giác độ trình độ tiến bộ kỹ thuật Theo giác độ này bao gồm các loại đầu tư sau: - Đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu: Đầu tư theo chiều rộng là đầu tư để mở rộng sản xuất bằng kỹ thuật và công nghệ lặp lại như cũ. Đầu tư theo chiều sâu là đầu tư để mở rộng sản xuất bằng kỹ thuật và công nghệ tiến bộ và hiệu quả hơn. Đầu tư theo chiều sâu có thể thực hiện bằng cách mua sắm tài sản cố định sản xuất loại mới tiến bộ và hiệu quả hơn, hoặc bằng cách cải tạo và hiện đại hoá các máy móc xí nghiệp hiện có lạc hậu. - Đầu tư theo trình độ cơ giới hoá, tự động hoá, tin học hoá… - Đầu tư theo tỷ trọng vốn đầu tư cho các phần mua sắm thiết bị, cho xây lắp phần kết cấu xây dựng và chi phí đầu tư khác. Theo kinh nghiệm tỷ trọng, chi phí cho phần mua sắm thiết bị và máy móc càng lớn thì trình độ kỹ thuật càng cao. h. Phân loại theo thời đoạn kế hoạch Theo giác độ này bao gồm các loại đầu tư: - Đầu tư dài hạn (thường cho các công trình chiến lược để đáp ứng các lợi ích dài hạn và đón đầu tình thế chiến lược). - Đầu tư trung hạn (thường cho các công trình để đáp ứng lợi ích trung hạn). - Đầu tư ngắn hạn (cho các công trình đáp ứng lợi ích trước mắt). k. Phân loại theo tính chất và quy mô của dự án đầu tư Theo cách này hiện nay theo quy định của điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng bao gồm các loại sau: - Dự án đầu tư thuộc nhóm A Bao gồm cá dự án có một trong các điều kiện sau đây: + Các dự án đầu tư mới không kể mức vốn đầu tư là bao nhiêu thuộc phạm vi bảo mật quốc gia, an ninh, quốc phòng hoặc có ý nghĩa chính trị, xã hội quan trọng của đất nước, và các dự án đầu tư thành lập và xây dựng hạ tầng khu công nghiệp mới, dự án sản xuất chất độc hại, chất nổ. + Những dự án tuỳ theo ngành nghề kinh tế có các mức vốn đầu tư sau: trên 400 tỷ đồng, trên 200 tỷ đồng, trên 100 tỷ đồng và trên 75 tỷ đồng theo quy định cụ thể của qui chế quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo Nghị định 52/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999. - Dự án đầu tư thuộc nhóm B Bao gồm những dự án có một trong các quy mô sau đây: kèm theo các chỉ dẫn ngành nghề cụ thể theo quy chế hiện hành; từ 30 đến 400 tỷ đồng, từ 20 đến 200 tỷ đồng, từ 15 đến 100 tỷ đồng, từ 7 đến 75 tỷ đồng. - Dự án đầu tư thuộc nhóm C Bao gồm các dự án có các quy mô sau đây kèm theo các chỉ dẫn ngành nghề cụ thể theo quy chế hiện hành: dưới 30 tỷ đồng, dưới 20 tỷ đồng, dưới 15 tỷ đồng và dưới 7 tỷ đồng. 2.1.1.2 Một số nội dung cơ bản về đầu tư. Các nguồn hình thành vốn đầu tư. Khi nhà đầu tư quyết định đầu tư, hay mua sắm tư liệu sản xuất, họ cần có vốn. Vốn có thể huy động qua các kênh huy động vốn. Thứ nhất, vốn được huy động trong nước thông qua việc tiết kiệm của Chính phủ, tiết kiệm của các công ty, tiết kiệm của dân cư. Thứ hai, chúng ta có thể huy động nguồn vốn từ bên ngoài, đó chính là các khoản đầu tư nước ngoài hay còn gọi là đầu tư quốc tế. Nguồn vốn này có thể được thực hiện thông qua vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA), nguồn vốn của các tổ chức phi Chính phủ (NGO) hoặc nguồn vốn tín dụng thương mại. Huy động vốn đầu tư. Sự ổn định về kinh tế, chính trị và xã hội sẽ giúp các nhà đầu tư yên tâm bỏ vốn thực hiện các hoạt động kinh doanh. Do đó việc tạo môi trường khuyến khích và nâng cao hiệu quả vốn đầu tư là điều kiện tiên quyết trong việc thu hút vốn đầu tư. Bên cạnh đó, việc phát triển thị trường tài chính cũng là kênh dẫn vốn đến các nhà đầu tư. Sự giúp đỡ của các trung gian tài chính được thực hiện thông qua hai kênh: trực tiếp qua thị trường chứng khoán hoặc gián tiếp qua hệ thống ngân hàng, các quỹ tín dụng, các công ty bảo hiểm, công ty tài chính, các quỹ đầu tư... Ngoài ra việc cải cách hệ thống thuế để tạo và nuôi dưỡng nguồn thu, khuyến khích sản xuất, công bằng xã hội, nâng cao năng lực của bộ máy quản lý Nhà nước cũng như việc nâng cao hiệu quả các nguồn vốn đầu tư là yếu tố quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế đất nước. Trong đề tài này, việc huy động vốn đầu tư sẽ được nghiên cứu qua các nguồn cơ bản là vốn chủ sở hữu, vốn đầu tư nước ngoài, vốn liên doanh, vốn vay và vốn khác. Đầu tư bao gồm một số nội dung cơ bản sau: Đầu tư phát triển sản xuất. Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng - kỹ thuật chung của nền kinh tế. Đầu tư phát triển văn hoá, giáo dục, đào tạo. Đầu tư phát triển y tế và dịch vụ xã hội khác. Đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật. Đầu tư các lĩnh vực khác trực tiếp tác động đến sự duy trì hoạt động của cơ sở vật chất kỹ thuật đang tồn tại. Đầu tư trong nông nghiệp: Đầu tư trong nông nghiệp được thực hiện thông qua một số nội dung cơ bản như sau: Đầu tư sản xuất (trồng), chế biến và kinh doanh các loại sản phẩm của ngành trồng trọt. Bao gồm cụ thể: Sản xuất, chế biến kinh doanh các sản phẩm từ cây hàng năm như: Cây lương thực có hạt như lúa, ngô... và cây có bột như khoai, sắn...; Các sản phẩm cây rau, đậu thực phẩm như các loại rau lá, rau củ, quả ngắn ngày, rau gia vị...; Cây công nghiệp hằng năm như lạc, đậu tương; Hoa, cây cảnh. Sản xuất, chế biến kinh doanh các sản phẩm từ cây lâu năm như các loại cây ăn quả, cây chè... Đầu tư sản xuất, chế biến, kinh doanh trong ngành chăn nuôi như chăn nuôi lợn hướng nạc, chăn nuôi bò, chăn nuôi gia cầm, chăn nuôi bò sữa, nuôi ong, dê... Đầu tư sản xuất, chế biến, kinh doanh các sản phẩm ngành lâm nghiệp bao gồm việc đầu tư trồng rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, rừng sản xuất; khai thác lâm sản, đầu tư cảnh quan sinh thái lâm nghiệp đô thị để cải thiện cảnh quan môi trường và thúc đẩy phát triển các hoạt động dịch vụ- du lịch. Đầu tư sản xuất, chế biến, kinh doanh các sản phẩn ngành nuôi trồng thuỷ sản. Hiện nay ở Hà nội chủ yếu chỉ tập trung vào nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt bao gồm các loại cá, tôm, cua, ốc, lươn... Đầu tư cho cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp bao gồm: Hệ thống các công trình th._.uỷ lợi và kênh mương tưới tiêu: các trạm bơm, máy bơm, đập, hồ chứa nước, hệ thống kênh mương, công trình phòng chống lũ lụt như đê ngăn lũ, điếm canh... Hệ thống các cơ sở hạ tầng cơ bản khác bao gồm hệ thống giao thông và lưới điện, hệ thống thông tin liên lạc. Đầu tư phát triển khoa học, công nghệ trong nông nghiệp bao gồm: Đầu tư trong lĩnh vực nghiên cứu, triển khai, áp dụng công nghệ sinh học như lai tạo giống cây trồng, vật nuôi có ưu thế, năng suất cao, khả năng sinh trưởng nhanh; đầu tư trong việc đẩy mạnh ứng dụng trong các hoạt động xử lý chất thải, xử lý môi trường, công nghệ bảo quản, công nghệ chế biến, công nghệ và thiết bị kiểm tra và giám sát dư lượng kháng sinh, thuốc trừ sâu, kim loại nặng... Đầu tư trong lĩnh vực nghiên cứu, triển khai, áp dụng công nghệ canh tác như thuỷ canh (canh tác không dùng đất), canh tác trong hệ thống nhà kính, nhà lưới, công nghệ thâm canh cao... Đầu tư cho đào tạo trong nông nghiệp như các chương trình khuyến nông, các lớp tập huấn, các chương trình xây dựng và phổ biến tình hình chuyển đổi đất nông nghiệp. Đầu tư sản xuất, kinh doanh các dịch vụ phục vụ cho sản xuất nông nghiệp về giống cây trồng, vật nuôi, bảo vệ thực vật, thú y, vật tư nông nghiệp, sản xuất thức ăn chăn nuôi 2.1.1.3 Nhu cầu đầu tư Để xác định nhu cầu vốn và mục tiêu tăng trưởng của một nền kinh tế nói chung và của ngành nông nghiệp nói riêng, người ta thường vận dụng chỉ tiêu ICOR. Chỉ số này được dùng trong cả khu vực đầu tư tư nhân lẫn đầu tư của Chính phủ. Vì vốn đầu tư (I) có tác dụng tác động quyết định đến tăng trưởng kinh tế (g) và mức tiết kiệm (S) là nguồn gốc của đầu tư. Ta có: g = Trong đó: Y là chỉ tiêu kết quả sản xuất - ở đây lấy chỉ tiêu GDP, nếu gọi S là mức tiết kiệm của nền kinh tế thì tỷ lệ tích luỹ trong GDP là: s = Vì tiết kiệm là nguồn gốc của đầu tư nên về mặt lý thuyết đầu tư luôn bằng tiết kiệm (S = I). Mục đích của đầu tư là tạo ra vốn sản xuất (I = DK) Từ công thức hệ số ICOR ta có: Vì hay g = Từ quan hệ trên ta, chúng ta có thể rút ra được hai điểm cơ bản sau: Một là: Xác định mục tiêu tăng trưởng kinh tế cho thời kỳ mới khi xác định được khả năng tiết kiệm của nền kinh tế thời kỳ gốc và dự báo hệ số ICOR thời kỳ kế hoạch là một trong những căn cứ quan trọng đối với các nhà hoạch định trong xây dựng chiến lược phát triển kinh tế, xã hội. Hai là: Khi đứng trước một mục tiêu tăng trưởng do yêu cầu đặt ra, mô hình cho phép chúng ta xác định được nhu cầu tích luỹ cần có để đạt được mục tiêu đó. Ngụ ý của chỉ số này là muốn tăng 1 đồng GDP thì phải đầu tư bao nhiêu đồng. Vậy đó là căn cứ để đánh giá khả năng đạt mục tiêu đã đề ra. Theo Tổng cục Thống kê, năm 2008, khối lượng vốn đầu tư toàn xã hội theo giá thực tế 43,1% GDP, tăng 22,2% so với năm 2007, Trong đó, khu vực Nhà nước giảm 11,4%, ngoài Nhà nước tăng 42,7% và khu vực FDI tăng 46,9%. . Tính chung ICOR của Việt Nam trong thời kỳ 1991-2007 là 4,86 lần, trong đó giai đoạn 1990 -2000 chỉ số ICOR  là 4,1 đến giai đoạn 2001-2005 là 5 , và trên 5 trong 2006-2008 . Đây là một chỉ số khá cao, chứng tỏ việc đầu tư còn chưa đạt hiệu quả cao. Vấn đề hiệu quả đầu tư là rất quan trọng, nhất là các nước nghèo, vốn ít như Việt Nam. Với nông nghiệp, chỉ số ICOR lẽ ra phải cao hơn công nghiệp và dịch vụ nhưng thực tế ở Việt Nam lại thường thấp hơn. Năm 2005, chỉ số ICOR của khu vực nông nghiệp  là 5,2 thì của khu vực công nghiệp là 5,4 và khu vực thương mại, dịch vụ là 8,1 . Điều này cho thấy tình trạng các nguồn lực đã bị lấy đi từ nông nghiệp liên tục nhiều năm phục vụ cho công nghiệp hóa và đô thị hóa. Đặc biệt, tuy là ngành kinh tế mũi nhọn và thực tế ngành thuỷ sản mang lại hiệu quả khá cao, tỷ trọng xuất khẩu khá lớn, nhưng chỉ số ICOR của ngành thuỷ sản cũng thấp hơn so với các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp khác. Kinh nghiệm của Nhật Bản chỉ ra rằng ICOR đối với nông nghiệp là khá cao ở giai đoạn đầu phát triển do đầu tư lớn chủ yếu là vào thuỷ lợi và cải tạo đất. Hệ số này cao hơn trong giai đoạn sau khi đầu tư vào cơ giới hoá (Krisha, 1982). Baker và cộng sự (2005) cho rằng tỷ lệ đầu tư vào nông nghiệp so với tổng đầu tư của nền kinh tế phụ thuộc vào: (i) tăng trưởng GDP nông nghiệp; (ii) cơ cấu nông nghiệp trong tổng GDP; (iii) tỷ lệ giữa vốn tăng thêm và sản lượng nông nghiệp; (iv) hệ số ICOR và (v) lượng tiết kiệm hoặc tỷ lệ giữa đầu tư tổng cộng và thu nhập. Byerlee (1998) cho rằng đầu tư cho nghiên cứu và phát triển, cả công cộng và tư nhân ở các nước đang phát triển chiếm 0,6% tổng GDP nông nghiệp, trong khi tỷ lệ này ở các nước phát triển là 5%, cao hơn 8,6 lần. Khi nghiên cứu ở khu vực Châu Á, Pray và Fuglie (2001) cho rằng đầu tư là chính sách quan trọng để thúc đẩy các doanh nghiệp cả trong và ngoài nước hoạt động và mở rộng trong ngành công nghiệp sản xuất yếu tố cho sản xuất nông nghiệp. Ngành nông nghiệp đã cung cấp một lượng lương thực, thực phẩm tương đối lớn và qúy trong khẩu phần ăn của người dân Việt Nam. Nó cung cấp năng lượng cho cuộc sống. Ðiều đó nói lên đòi hỏi và khả năng mở rộng thị trường trong nước cho các sản phẩm lương thực, thực phẩm có nguồn gốc từ nông nghiệp còn rất lớn. Ðó là cơ hội cho phát triển ngành nông nghiệp Việt Nam. Nhu cầu đầu tư là sự mong muốn, sự sẵn sàng của các nhà đầu tư bỏ vật lực, tài lực và nhân lực thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh nhằm đạt mục tiêu của họ. Nó cùng với khả năng huy động vốn đầu tư là hai điều kiện cơ bản để hình thành cầu đầu tư. Cầu đầu tư là lượng vốn mà các cá nhân, các tổ chức có khả năng và sẵn sàng đầu tư tại các mức lợi ích mang lại khác nhau trong những hoàn cảnh nhất định. Cầu đầu tư là cầu thứ phát phụ thuộc chủ yếu vào nhịp độ tăng nhu cầu sản phẩm hàng hoá và dịch vụ. Có hai nhân tố ảnh hưởng đến cầu đầu tư đó là nhân tố lãi suất tiền vay (giá cả của vốn đầu tư) và các nhân tố ngoài lãi suất tiền vay. Lãi suất tiền vay. Yêu cầu của sản xuất đòi hỏi cần tăng thêm máy móc, thiết bị, phương tiện...nhằm mở rộng năng lực sản xuất, cho phép hạ thấp chi phí sản xuất. Tuy nhiên, trước khi đầu tư, các nhà đầu tư thường so sánh lợi ích dự kiến do vốn mang lại- thể hiện qua phần lợi nhuận tăng thêm khi trang bị thêm vốn- với phần chi phí vốn. Vì lợi ích chỉ thực sự có thể tính toán được trong tương lai trong khi vốn đầu tư tại thời điểm hiện tại nên họ thường có xu hướng thanh toán các khoản đầu tư bằng cách vay vốn. Trong trường hợp này, chi phí vốn chính là mức lãi suất tiền vay. Chủ đầu tư sẽ chỉ đầu tư khi lợi nhuận dự báo trong tương lai cao hơn hoặc ít nhất là bằng mức lãi suất tiền vay phải trả. Do đó, nếu lãi suất tiền vay càng cao, thu nhập biên càng giảm và nhu cầu đầu tư sẽ giảm và ngược lại. Bên cạnh lãi suất tiền vay, có một số yếu tố khác cũng ảnh hưởng đến cầu đầu tư, đó là chu kỳ kinh doanh, thuế thu nhập của doanh nghiệp và đặc biệt là môi trường kinh đầu tư. Chu kỳ kinh doanh Nếu việc đầu tư dẫn đến việc tiêu thụ nhiều sản phẩm hơn hoặc tạo ra chi phí sản xuất thấp hơn thì nó sẽ đem lại thêm thu nhập Vũ Thị Ngọc Quỳnh. 2006. Giáo trình kinh tế phát triển. NXB Lao động xã hội. Trang 239 . Do đó, mức sản lượng của đầu ra là yếu tố mang tính quan trọng, ảnh hưởng lớn đến nhu cầu đầu tư và cầu đầu tư của các cá nhân, tổ chức. Tuy nhiên, theo quan điểm kinh tế học, mức sản lượng chịu ảnh hưởng của chu kỳ kinh doanh. Khi chu kỳ kinh doanh nằm ở giai đoạn tăng trưởng, quy mô của nền kinh tế mở rộng, nhu cầu đầu tư tăng lên và ngược lại, khi nó nằm ở giai đoạn suy thoái, quy mô của nền kinh tế bị thu hẹp lại, kéo mức cầu đầu tư xuống thấp tương ứng với mỗi mức lãi tiền vay cụ thể. Thuế thu nhập của doanh nghiệp Ngoài chu kỳ kinh doanh, các quy định về thuế của Chính phủ cũng ảnh hưởng đến nhu cầu đầu tư, đặc biệt là thuế thu nhập doanh nghiệp. Nếu Chính phủ đánh thuế thu nhập cao sẽ làm tăng chi phí đầu tư và thu nhập của nhà đầu tư giảm, làm nản lòng các nhà đầu tư. Ngược lại, nếu Chính phủ khuyến khích đầu tư thông qua các hình thức miễn giảm thuế đối với khoản lợi nhuận dùng để tái đầu tư thì các khoản đầu tư mong muốn sẽ tăng lên, nhu cầu đầu tư tăng. Môi trường đầu tư Đầu tư có thể được ví như một canh bạc ở đó các nhà đầu tư đặt cược một số tiền lớn trong điều kiện hiện tại và hy vọng thu được nhiều lợi nhuận trong tương lai. Do đó, hoạt động này yêu cầu đòi hỏi một môi trường thích hợp, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế có nhiều biến động và xu thế cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay. Môi trường đầu tư bao gồm nhiều yếu tố và có vai trò quan trọng đối với việc thu hút vốn đầu tư. Chúng ta sẽ nghiên cứu kỹ vấn đề này trong mục 3 của phần này. 2.1.1.4 Vai trò của đầu tư Đầu tư là điều kiện tạo ra vật chất cho xã hội, là yếu tố then chốt để tăng trưởng kinh tế Hoạt động đầu tư hết sức cần thiết vì nó tạo điều kiện để: Bù đắp giá trị tài sản bị hao mòn và duy trì dự trữ nguyên vật liệu cho quá trình sản xuất tiếp theo - nói cách khác, đầu tư nhằm thực hiện tái sản xuất giản đơn; Làm tăng thêm giá trị tài sản và dự trữ nguyên vật liệu nhằm thực hiện tái sản xuất mở rộng do nhu cầu quy mô sản xuất xã hội ngày càng tăng; Mua sắm mới nhằm thay thế các tài sản bị hao mòn vô hình do sự tiến bộ khoa học công nghệ diễn ra nhanh và liên tục trong cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện nay. Đầu tư để phát triển năng lực sản xuất không chỉ giới hạn trong tài sản vật chất mà yêu cầu cả về khoa học, công nghệ, tăng cường vốn nhân lực và xây dựng vốn xã hội. Để có thể tạo ra được những tài sản vật chất cho xã hội, chúng ta phải sử dụng vốn đầu tư thông qua các hoạt động đầu tư. Nhà kinh tế học nổi tiếng J. M. Keynes cho rằng để có thể đưa mức sản lượng tiến gần đến mức tiềm năng thì đầu tư có vai trò quyết định Vũ Thị Ngọc Quỳnh. 2006. Giáo trình kinh tế phát triển. NXB Lao động xã hội. Trang 233 . Hai nhà kinh tế học khác là Roy Harrod và Evsay Domar thì khẳng định sản lượng sản xuất của các đơn vị kinh tế, "dù là một công ty, một ngành hay toàn bộ nền kinh tế sẽ phụ thuộc vào số vốn đầu tư cho đơn vị đó" Vũ Thị Ngọc Quỳnh. 2006. Giáo trình kinh tế phát triển. NXB Lao động xã hội. Trang 233 . Các ông đã sử dụng hệ số ICOR để xem xét, phân tích, kiểm chứng và đưa ra kết luận: yếu tố then chốt của tăng trưởng chính là vốn sản xuất được tạo ra bằng đầu tư dưới dạng máy móc và trang thiết bị trong sản xuất. Mundlax đã phân tích vai trò của vốn trong việc giải thích sự khác biệt trong tăng trưởng nông nghiệp ở các quốc gia và qua thời gian, sử dụng biến chuỗi thời gian trong nông nghiệp. Ông đưa ra kết luận vốn là nhân tố quyết định trong tăng trưởng nông nghiệp và thiếu vốn có thể là cản trở chính cho tăng trưởng nông nghiệp. Vốn cùng với đất được xem là hai nhân tố then chốt làm thay đổi mức sản lượng qua thời gian ở các quốc gia khác nhau Mundlax, Larson, Butzer. 1998. Các nhân tố quyết định trong sản xuất nông nghiệp: Phân tích số liệu chéo giữa các quốc gia. Trang 3. . Đầu tư là yếu tố quan trọng trong việc tạo việc làm, tăng năng suất và thu nhập cho người lao động. Trên quan điểm vĩ mô, đầu tư là một bộ phận lớn và hay thay đổi trong tổng chi tiêu. Những thay đổi trong đầu tư sẽ có thể tác động lớn tới tổng cầu và dẫn tới sự thay đổi trong sản lượng và công ăn việc làm của nền kinh tế. Khi đầu tư tăng lên, có nghĩa là nhu cầu về chi tiêu để mua sắm máy móc thiết bị, phương tiện vận tải...tăng lên. Khi đó, tổng cầu của nền kinh tế tăng lên, tổng chi tiêu của nền kinh tế cũng tăng lên và tổng sản phẩm trong nước cũng tăng lên. Kết quả là các doanh nghiệp sẽ sản xuất nhiều hơn để đáp ứng nhu cầu. Điều này sẽ làm tăng nhu cầu lao động và do đó cơ hội việc làm tăng lên, mức việc làm của nền kinh tế sẽ tăng lên, là điều kiện tạo ra và tăng thu nhập cho người lao động. Theo phân tích của Norton và Alwang (1993), đầu tư là một yếu tố quan trọng vì nó làm tăng số lượng máy móc và công cụ trên một lao động, do đó sẽ làm tăng năng suất lao động hay sản phẩm biên của họ. Từ đó sẽ làm tăng thu nhập của người lao động. Thành tựu của vốn đầu tư là góp phần thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, góp phần đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao giá trị hàng hoá nông sản xuất khẩu và tiếp thu một số công nghệ mới, tạo thêm việc làm mới, nâng cao thu nhập cho dân cư địa phương, cải thiện đời sống kinh tế- xã hội của nhiều vùng nông nghiệp nông thôn Trần Hào Hùng. 2006. Báo cáo “ Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn”. Bộ NN và PTNT . Đầu tư tạo điều kiện để thu nhận kỹ thuật mới, nâng cao trình độ khoa học công nghệ. Đầu tư tạo ra vốn đầu tư là yếu tố quan trọng của quá trình sản xuất. Nó không chỉ làm "tăng năng lực sản xuất của các doanh nghiệp và của nền kinh tế, mà còn là điều kiện để nâng cao trình độ khoa học công nghệ, góp phần đáng kể vào việc đầu tư theo chiều sâu, hiện đại hoá quá trình sản xuất" Vũ Thị Ngọc Quỳnh. 2006. Giáo trình kinh tế phát triển. NXB Lao động xã hội. Trang 236 . Norton cũng cho rằng đầu tư cũng liên quan đến khả năng làm thay đổi công nghệ và kỹ thuật sản xuất. 2.1.1.5 Vai trò của đầu tư trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn Hiện nay và trong tương lai, nông nghiệp vẫn đóng vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống quốc gia và trong kinh tế nông thôn. Nông nghiệp vẫn là ngành cốt lõi của nền kinh tế của Việt Nam trong vài thập niên tới. Trong xã hội hiện đại, vai trò của nông nghiệp không bị coi nhẹ mà có nhiều nét mới, đặc sắc hơn dưới dạng sản xuất công nghiệp với công nghệ cao, tạo ra thu nhập và hiệu quả cao. Nông nghiệp phát triển, tạo yếu tố vật chất cho công nghiệp và dịch vụ nông thôn phát triển, từng bước cải thiện cơ cấu kinh tế, nâng cao đời sống mọi mặt của người dân nông thôn. Do vậy đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn đóng vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu phát triển nông nghiệp đến năm 2010 đó là: - Phát triển một nền nông nghiệp bền vững, có hiệu quả cao, đa dạng và hội nhập. - Đồng thời hướng tới một nền nông nghiệp hàng hoá. - Sản xuất nông nghiệp dựa trên các cơ sở hạ tầng vật chất và kỹ thuật hiện đại. - Tăng cường cơ khí hoá nhằm giảm nhẹ sức lao động ở các khâu công việc nặng nhọc và đạt năng suất lao động cao. - Có khả năng sản xuất các sản phẩm nông nghiệp có năng suất và chất lượng cao, đa dạng theo vùng và phù hợp với công nghiệp chế biến để tăng cường xuất khẩu. - Có đủ sức cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại trong khu vực và thế giới, đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu. 2.1.1.6 Khái niệm môi trường đầu tư Môi trường đầu tư được hiểu là bao gồm tất cả các điều kiện liên quan đến kinh tế, chính trị, hành chính, cơ sở hạ tầng tác động đến hoạt động đầu tư và kết quả hoạt động của doanh nghiệp (Wim P.M. Vijverberg, 2005). Trong nghiên cứu của mình, Vijverberg cho thấy rất nhiều các vấn đề ảnh hưởng tới đầu tư đối với các doanh nghiệp nhất là các vấn đề liên quan đến chính sách như tài chính, tín dụng, chính sách thương mại, chính sách thị trường lao động, các quy định, cơ sở hạ tầng, các vấn đề liên quan đến thu mua và tiêu thụ, chính sách thuế, chính sách phát triển các khu công nghiệp và các vấn đề liên quan đến hỗ trợ kỹ thuật và tài chính khác. Như vậy với khái niệm này, môi trường đầu tư được hiểu khá rộng. Tuy nhiên, môi trường đầu tư nông thôn cũng có thể hiểu được cả sự đầu tư của Nhà nước trong khu nông nghiệp nông thôn. Chính vì thế, một khái niệm hẹp hơn và chủ yếu liên quan chặt chẽ, gắn liền với các hoạt động của doanh nghiệp và các cơ sở kinh doanh đó là “Môi trường kinh doanh”. Môi trường kinh doanh ở nông thôn có thể được hiểu là “toàn bộ các yếu tố tự nhiên, kinh tế, xã hội có tác động trực tiếp hay gián tiếp đến sự hình thành và phát triển kinh doanh ở nông thôn. Có nhiều cách tiếp cận phân tích môi trường kinh doanh như môi trường trong nước và môi trường quốc tế, môi trường tổ chức và môi trường thể chế, chính sách, v.v.. Thuật ngữ “Môi trường kinh doanh ở nông thôn” chỉ giới hạn trong phạm vi nghiên cứu dưới góc độ kinh tế, pháp lý, văn hoá và xã hội… Tổng quan các nghiên cứu về môi trường đầu tư nông thôn Việt Nam. 11/2005. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn - Viện chính sách chiến lược nông nghiệp và phát triển nông thôn. Trang 5 Các nhân tố cơ bản của môi trường đầu tư bao gồm: Ổn định chính trị. Sự ổn định chính trị là nhân tố đầu tiên mà các nhà đầu tư quan tâm khi họ định đầu tư vào bất kỳ một lĩnh vực tại một quốc gia nào đó. Đây là nhân tố đảm bảo cho họ có thể bảo toàn vốn đầu tư của họ. Sự ổn định chính trị thể hiện thông qua yếu tố: hiến pháp, pháp luật tương đối hoàn chỉnh; Chính quyền ít biến động; quyền tự do, quyền sở hữu trí tuệ được đảm bảo... Chính sách kinh tế vĩ mô ổn định Bên cạnh sự ổn định chính trị, ổn định chính sách kinh tế vĩ mô cũng được các nhà đầu tư rất quan tâm. Đó là điều kiện cần thiết để các nhà đầu tư có thể yên tâm đầu tư vốn để thu lợi nhuận. Chính sách vĩ mô cơ bản tác động đến các nhà đầu tư là: (i) chính sách tài khoá bao gồm chính sách thuế các loại (Ví dụ: thuế thu nhập, thuế lợi tức, thuế quan xuất nhập khẩu), chính sách thu hút đầu tư (ví dụ loại bỏ hạn ngạch đầu tư), chính sách quản lý giá nội địa, chính sách tự do thương mại, chính sách thu hút lao động; (ii) chính sách tiền tệ bao gồm chính sách tỷ giá hối đoái, chính sách cung tiền, chính sách lãi suất. Khung pháp lý cho đầu tư tư nhân. Các luật, chính sách, các quy định, nghị định sẽ hoặc là tạo điều kiện hoặc cản trở các nhà đầu tư bỏ vốn vào sản xuất kinh doanh. Hiện nay, Việt Nam đã ban hành luật đầu tư trong đó quy định những vấn đề từ cơ bản cho đến cụ thể như bảo đảm đầu tư, quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư, hình thức đầu tư, các lĩnh vực và địa bàn đầu tư, ưu đãi và hỗ trợ đầu tư, thủ tục đầu tư, triển khai dự án đầu tư, quản lý Nhà nước về đầu tư. Đây được coi là khung pháp lý cơ bản cho hoạt động đầu tư cho các nhà đầu tư. Các hoạt động bảo đảm, bảo vệ đầu tư Các quy định bảo đảm về vốn và tài sản hợp pháp của nhà đầu tư (không bị quốc hữu hóa, không bị tịch thu bằng biện pháp hành chính); Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong hoạt động đầu tư; bảo đảm lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư trong việc chuyển giao công nghệ; bảo đảm được chuyển vốn, tài sản ra nước ngoài của các nhà đầu tư nước ngoài sau khi thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước Việt Nam (bao gồm: thu nhập hợp pháp; Lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh; Những khoản tiền trả cho việc cung cấp kỹ thuật, dịch vụ, sở hữu trí tuệ; Tiền gốc và lãi các khoản vay nước ngoài; Vốn đầu tư, các khoản thanh lý đầu tư; Các khoản tiền và tài sản khác thuộc sở hữu hợp pháp của nhà đầu tư). Quản lý Nhà nước minh bạch, rõ ràng và đảm bảo. Một cơ chế quản lý rõ ràng, minh bạch và đảm bảo sẽ khuyến khích các nhà đầu tư tham gia hoạt động đầu tư nhiều hơn vào nền kinh tế. Ngược lại, nếu các nhà quản lý tham nhũng, sách nhiễu, thủ tục đầu tư và tổ chức rườm rà, mất thời gian, hiện tượng tội phạm, trộm cướp xảy ra nhiều thì các nhà đầu tư sẽ dè chừng khi quyết định tham gia thị trường. Thị trường Một thị trường rộng mở, dân số đông, tiềm năng chi tiêu lớn ( thường đo bằng thu nhập bình quân đầu người) là một trong những yếu tố mang tính quyết định đối với việc thu hút vốn đầu tư vào một nền kinh tế hoặc một khu vực. Việc tiếp cận thị trường dễ dàng sẽ cho phép nền kinh tế thu hút được nhiều vốn đầu tư. Sức hút vốn của thị trường một quốc gia có mối quan hệ mật thiết với thị trường khu vực. Việt Nam là một thị trường rộng lớn với 86 triệu dân và tổng thu nhập quốc nội đạt 70 tỷ đô la Mỹ, tốc độ tăng GDP hằng năm khoảng 7-8%, nằm trong khu vực Châu Á- Thái Bình Dương năng động bậc nhất thế giới là một điều kiện rất tốt cho việc thu hút vốn đầu tư. Kỹ năng và trình độ của người lao động Một nền kinh tế có đội ngũ lao động trẻ, dồi dào, có khả năng với chi phí lao động thấp cũng là một yếu tố thu hút các nhà đầu tư để khai thác lợi thế về lao động. Nghiên cứu môi trường đầu tư trong nông nghiệp là một nội dung rất quan trọng. Môi trường đầu tư trong nông nghiệp có thể hiểu là các điều kiện kinh tế, xã hội ảnh hưởng đến việc mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo việc làm và nâng cao hiệu quả hoạt động của các cá nhân, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư trong nông nghiệp được mô tả qua hình 1. Hình 1: Các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư nông nghiệp. Thu nhập nông thôn phi nông nghiệp Di cư Kinh tế vĩ mô Gửi tiền về Sản xuất nội địa phi nông nghiệp Nhu cầu địa phương Nhu cầu sản phẩm đầu ra của các doanh nghiệp nông thôn Nhu cầu bên ngoài Thu nhập từ nông nghiệp Nhu cầu từ nước ngoài Tỷ giá hối đoái Cấp vốn: Vị trí và khoảng cách Các nguồn lực sẳn có của địa phương Lao động sẵn có và tiền công (kỹ năng và văn hoá). DOANH NGHIỆP NÔNG NGHIỆP Khả năng: Doanh nghiệp và kỹ năng quản lý. Kiến thức về cơ hội thị trường Tiếp cận công nghệ Cạnh tranh Sẵn sàng về vốn và chi phí Chứng khoán Ổn định sở hữu đất Cơ sở hạ tầng Thuế Quy định và cấp phép (Nguồn: Dựa trên tài liệu của Timmer P., and McCulloch (2005)) Theo một điều tra của ngân hàng Thế giới (World Bank) về môi trường đầu tư năm 2006 của Việt Nam, phần lớn các doanh nghiệp được phỏng vấn cho rằng trở ngại lớn hoặc nghiêm trọng đối với tăng trưởng kinh doanh là việc tiếp cận tín dụng với trên 37% số người trả lời xác định; trở ngại quan trọng thứ hai là tiếp cận đất đai với tỷ lệ trả lời là 26%; thiếu kỹ năng và trình độ giáo dục thấp của lực lượng lao động là trở ngại đứng hàng thứ ba; và yếu tố thứ tư là hạ tầng cơ sở giao thông kém World Bank. 2007. World bank’s World Development Report. Trang 45 . Cũng theo nghiên cứu trên, mức độ nghiêm trọng của các hạn chế này ở Việt Nam cao hơn một cách đáng kể so với các nước còn lại trong khu vực Đông Nam Á và các nước khác trên thế giới. Nghiên cứu này cho rằng khắc phục được những trở ngại cơ bản này sẽ là một bước lớn hướng tới phát triển doanh nghiệp. Điểm đáng mừng trong môi trường đầu tư Việt Nam mà tài liệu này chỉ ra là Việt Nam có nền kinh tế vĩ mô ổn định; tỷ lệ tội phạm thấp; các chính sách của Chính phủ có thể dự báo được; tiến bộ trong việc tăng cường khả năng tiếp cận với các dịch vụ điện và viễn thông. Về hệ thống pháp lý, cấp phép, giấy phép và tham nhũng thì nghiên cứu chỉ ra đây là yếu tố hạn chế có tầm quan trọng thấp, tỷ lệ trả lời chỉ có 5%, khác với cách suy xét thông thường World Bank. 2007. World bank’s World Development Report. Trang 47 . Điều này rất có ý nghĩa, cho thấy sức hút của Việt Nam đối với các nhà đầu tư là rất lớn. 2.1.1.7 Khái niệm doanh nghiệp 2.1.1.7.1 Khái niệm Thế nào là một doanh nghiệp ? Từ này bắt nguồn từ tiếng Pháp “entreprendre” có nghĩa là “đảm nhận” hay ”hoạt động “. Do đó một nhà doanh nghiệp thường được dùng để chỉ những người chấp nhận rủi ro để khởi đầu một công việc kinh doanh nhỏ. Tuy nhiên khi cân nhắc việc trước đây (khoảng vài thế kỉ trước), các doanh nghiệp tập thể bao giờ cũng có nhiều ảnh hưởng hơn bất kì một Chính phủ quốc gia nào và được dễ dàng coi như là “những nhà sáng tạo ra thế giới hiện đại” thì định nghĩa này vẫn chưa đầy đủ. Một trong những định nghĩa đầy đủ về nhà doanh nghiệp bao gồm các yếu tố sau : - Phối hợp những lợi thế đang có theo một cách mới và hiệu quả hơn. - Tạo ra nhiều giá trị hơn từ những nguyên thiệu thô và nhân lực và trước đây bị coi là vô ích. - Cải thiện những gì đã xuất hiện với việc sử dụng các kĩ thuật mới. - Di chuyển tài nguyên kinh tế ra khỏi khu vực năng xuất thấp tới khu vực sản xuất hiệu quả và lớn hơn. - Có phương pháp tìm kiếm và hưởng ứng lại những nhu cầu chưa được thoả mãn và các đòi hỏi của khách hàng. Sau đây là các quan điểm về doanh nghiệp Quan điểm nhà tổ chức: doanh nghiệp là một tổng thể các phương tiện, máy  móc thiết bị và con người được tổ chức lại nhằm đạt một mục đích. Quan điểm lợi nhuận: doanh nghiệp là một tổ chức sản xuất, thông qua đó, trong khuôn khổ một tài sản nhất định, người ta kết hợp nhiều yếu tố sản xuất khác nhau, nhằm tạo ra những sản phẩm và dịch vụ để bán trên thị trường và thu khoản chênh lệch giữa giá thành và giá bán sản phẩm. Quan điểm chức năng: doanh nghiệp là một đơn vị sản xuất kinh doanh nhằm thực hiện một, một số, hoặc tất cả các công đoạn trong quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện các dịch vụ nhằm mục đích sinh lợi. Quan điểm lý thuyết hệ thống: doanh nghiệp là một bộ phận hợp thành trong hệ thống kinh tế, mỗi đơn vị trong hệ thống đó phải chịu sự tác động tương hỗ lẫn nhau, phải tuân thủ những điều kiện hoạt động mà Nhà nước đặt ra cho hệ thống kinh tế đó nhằm phục vụ cho mục đích tiêu dùng của xã hội. Từ đó rút ra “Doanh nghiệp là một đơn vị sản xuất kinh doanh được tổ chức, nhằm tạo ra sản phẩm và dịch vụ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trên thị trường, thông qua đó để tối đa hóa lợi nhuận trên cơ sở tôn trọng luật pháp của Nhà nước và quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng”. Hay theo giáo trình Quản trị doanh nghiệp. NXB Đại học Sư phạm 2006. Trang 10. Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. 2.1.1.7.2 Những đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp nói chung Mang chức năng sản xuất kinh doanh. Tối đa hóa lợi nhuận là mục têu kinh tế cơ bản, bên cạnh các mục tiêu xã hội. Phải chấp nhận sự cạnh tranh để tồn tại và phát triển. 2.1.1.7.3 Các loại hình doanh nghiệp Doanh nghiệp Nhà nước Doanh nghiệp Nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội do Nhà nước giao. Doanh nghiệp tư nhân Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp mà trong đó, tài sản của nó là thuộc sở hữu một cá nhân duy nhất. Doanh nghiệp chung vốn hay Công ty Đây là loại hình doanh nghiệp mà các thành viên sẽ cùng góp vốn, cùng chia lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với phần vốn đã góp và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi phần vốn của mình góp vào công ty. Có 02 hình thức công ty chính là công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần. Ngoài ra còn có một hình thức công ty khác là công ty dự phần. Công ty loại này không có tài sản riêng, không có trụ sở riêng và thông thường hoạt động của nó dựa và tư cách pháp nhân của một trong các thành viên. Hợp tác xã Hợp tác xã là 01 tổ chức kinh tế tự chủ do người lao động có nhu cầu và lợi ích chung tự nguyện cùng góp vốn đầu tư, góp sức lập ra theo qui định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên, nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất kinh doanh. 2.1.1.8 Khái niệm doanh nghiệp nông nghiệp(DNNN) 2.1.1.8.1 Khái niệm Trong nền kinh tế thị trường, DNNN là đơn vị sản xuất kinh doanh cơ sở trong nông nghiệp, bao gồm một tập thể người lao động có sự phân công và hiệp tác lao động để khai thác và sử dụng có hiệu quả các yếu tố, các điều kiện tự nhiên của sản xuất nông nghiệp (như đất đai, vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật và các điều kiện tự nhiên, kinh tế khác…) nhằm sản xuất ra nông sản hàng hoá và thực hiện dịch vụ theo yêu cầu của xã hội đảm bảo có lãi và lấy đó làm hoạt động chính. Giáo trình Quản trị doanh nghiệp nông nghiệp. Nhà xuất bản nông nghiệp. 2006. Trang 6 2.1.1.8.2 Đặc trưng của DNNN DNNN cũng như các doanh nghiệp khác có chung các đặc điểm như là chủ thể của kinh tế thị trường, là tổ chức kinh tế tự chủ sản xuất kinh doanh, có tư cách pháp nhân kể tư ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, bình đẳng trước pháp luật. DNNN còn có các đặc trưng sau: - Sản xuất ra các nông sản phẩm hoặc tiến hành các hoạt động dịch vụ có liên quan đến nông nghiệp. - Đối tượng kinh doanh là cây trồng, vật nuôi. - Ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu và đặc biệt. - Sản xuất của doanh nghiệp chịu sự tác động trực tiếp và bị ảnh hưởng nhiều của điều kiện tự nhiên. - Sản xuất của doanh nghiệp còn mang nặng tính chất sản xuất nhỏ, manh mún, phân tán nên tỷ trọng hàng hoá thấp. Ngoài ra DNNN còn có một số đặc trưng khác như: - DNNN trực tiếp đáp ứng nhu cầu nông sản phẩm và dịch vụ của xã hội theo cơ chế thị trường, góp phần phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. - DNNN là đơn vị phân phối trực tiếp các khoản: tiền lương của người lao động, chi phí tư liệu sản xuất, tiền lãi và lợi tức, thuế và các khoản đóng góp cho xã hội. - DNNN là tổ chức kinh tế có quá trình hình thành, tồn tại, phát triển và tiêu vong. Ở điểm này doanh nghiệp được coi như một cơ thể sống. - Doanh nghiệp là hệ thống mở, có liên quan và quan hệ chặt chẽ với môi trường bên ngoài như môi trường kinh tế, tự nhiên, chính trị, văn hoá, xã hội, đầu tư, quốc tế… Giáo trình Quản trị doanh nghiệp nông nghiệp. NXB nông nghiệp 2006. Trang 6 – trang 7 2.1.1.9 Vai trò của môi trường đầu tư trong quá trình thu hút đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn Nông nghiệp Việt Nam muốn phát triển toàn diện và hiện đại, bền vững thì cần phải có các doanh nghiệp hoạt động trên nhiều lĩnh vực, từ trồng trọt, chăn nuôi, chế biến đến tiêu thụ sản phẩm… Thế nhưng, hiện nay số doanh nghiệp nông thôn còn quá ít so với tổng số doanh nghiệp của cả nước. Thực tế cho thấy, nông nghiệp hiện vẫn là một lĩnh vực chịu nhiều tác động rủi ro của thời tiết, khí hậu, thiên tai, chất lượng giống cây trồng, vật nuôi, thị trường... Thêm vào đó, hoạt động nông nghiệp đòi hỏi phải sử dụng nhiều diện tích đất đai, trong khi đất đai tại các địa phương đã được giao cho các hộ dân sử dụng ổn định lâu dài, nên doanh nghiệp không có đủ điều kiện để phát triển và mở rộng quy mô sản xuất. Bên cạnh đó, kết cấu hạ tầng yếu kém, giao thông khó khăn, điện thiếu ổn định... khiến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chưa thật thuận lợi. Thực sự, khu vực nông nghiệp, nông thôn của Việt Nam đang "thèm" các nguồn vốn đầu tư. Đồng thời là lĩnh vực sinh lời thấp, chi phí cao và nhiều rủi ro. Mặc dù thời gian qua, Đảng, Nhà nước và Chính phủ đã có nhiều chủ trương, chính sách tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển nhưng vẫn còn nhiều bất cập. Trong đó._.hỏ tới chiến lược phát triển của doanh nghiệp. Trong các doanh nghiệp được khảo sát thì hầu như đều cho biết họ thiếu mặt bằng sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, để có thể mở rộng mặt bằng sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cũng gặp rất nhiều khó khăn. Chủ yếu là khó khăn về các khâu như thủ tục phiền hà, không có đất do quy hoạch đất nông nghiệp làm khu công nghiệp hay phát triển các khu đô thị mới. Nguồn vốn kinh doanh Nhìn chung các doanh nghiệp nông nghiệp ở Hà Nội đều là những doanh nghiệp vừa và nhỏ nên quy mô hạn chế, nguồn vốn khiêm tốn không đủ mạnh nên yếu tố tiếp cận tài chính là một trong những cản trở đối với các doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần cũng chỉ có vốn từ 2 đến 6 tỷ đồng. Việc vay vốn của các doanh nghiệp tuy đã có sự thuận tiện hơn nhưng trên thực tế thủ tục vay vốn còn quá phức tạp, lãi suất cao là những khó khăn chính đối với doanh nghiệp. Việc thiếu tài sản thế chấp các doanh nghiệp cũng trong tình trạng này. Hầu hết các doanh nghiệp đều không có nhiều tài sản đảm bảo, trong khi đó có doanh nghiệp vẫn hoạt động nhờ những máy móc đã lạc hậu còn tồn tại từ những năm 80 của thế kỷ trước. Và thường thì các chủ doanh nghiệp không sẵn sàng đem thế chấp ngôi nhà của mình để đảm bảo vay vốn. Trường hợp nếu có thể đảm bảo để được vay vốn thì ngân hàng lại chỉ cho vay với quy mô nhỏ, không đủ trang trải các nhu cầu kinh doanh, đầu tư của các doanh nghiệp. Bên cạnh đó yếu tố lãi suất cao còn làm giảm khả năng chịu đựng rủi ro của doanh nghiệp. Và một câu hỏi đặt ra là tại sao phải “liều lĩnh” trong khi chỉ vay được một khoản nhỏ với mức lãi suất cao? Đây quả là gánh nặng đối với các doanh nghiệp. Hầu hết các doanh nghiệp đều đánh giá không cao về thủ tục vay vốn tín dụng, nó được xếp vào yếu tố điểm tương đối thấp. Việc vay vốn lúc đầu khi các doanh nghiệp mới được thành lập cũng khá khó khăn vì chưa có chỗ đứng trên thị trường. Không như các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân không được dựa trên tín chấp để vay vốn, mà phải thế chấp. Việc vay vốn khó khăn sẽ ảnh hưởng nhiều nhất đến các doanh nghiệp còn non yếu, sẽ gây cản trở cho việc đầu tư vào nông nghiệp. Việt Nam vẫn là một nước nghèo, nên việc đối tác Việt Nam cung cấp được vốn để mở rộng kinh doanh là khá hiếm. Cơ sở hạ tầng Một rào cản nữa đối với việc đầu tư của các doanh nghiệp vào sản xuất kinh doanh đấy là cơ sở hạ tầng. Hiện nay cơ sở hạ tầng còn yếu. Cơ sở hạ tầng cho ngành nông nghiệp chế biến vẫn còn quá thấp. Vì vậy, việc xuất khẩu vẫn còn khó khăn. Đây là vấn đề quan trọng không kém vấn đề về đầu ra. Các yếu tố như hệ thống giao thông, hệ thống cung cấp điện, hệ thống thuỷ lợi… đều được các doanh nghiệp đánh giá cao, điều đó cũng dễ hiểu vì các doanh nghiệp đều hoạt động trên địa bàn Hà Nội có sự đầu tư của nhà nước đầy đủ hơn so với các địa phương khác mặc dù còn gặp khó khăn trong việc đi lại trong những lúc cao điểm hoặc những tuyến đường không cho phép xe chở hàng đi qua. Nhưng điều thuận lợi đối với các doanh nghiệp hầu hết nằm ở ngoại thành Hà Nội nên điều đó không mấy ảnh hưởng tới việc đi lại của các phương tiện của doanh nghiệp. Điểm yếu của các doanh nghiệp trong lĩnh vực này đó chính là cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất của chính các doanh nghiệp. Đa số còn hoạt động trong không gian hẹp thiếu trang thiết bị sản xuất, nhà xưởng cũ lạc hậu không phù hợp với tình hình sản xuất hiện nay. Khoa học công nghệ của các doanh nghiệp Khó khăn tiếp theo của các doanh nghiệp địa phương chính là khả năng trang bị và đầu tư công nghệ kém dẫn đến năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm không cao. Kết quả là đa phần các doanh nghiệp chỉ đảm nhận các hoạt động như thu gom, đóng gói, vận chuyển, sơ chế những công việc khá là đơn giản không đòi hỏi công nghệ cao, giá trị gia tăng thấp. Bên cạnh đó các chủ doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong công tác quản lí và đặc biệt là các áp lực về pháp lí do không được đào tạo về quản lí doanh nghiệp cũng như tư vấn pháp lí thường xuyên. Các quy định về thủ tục quản lí doanh nghiệp (chế độ theo dõi, báo cáo và quản lí sổ sách) và thủ tục về thuế lại luôn thay đổi, gây áp lực đáng kể cho người quản lí, đứng đầu doanh nghiệp. Các doanh nghiệp địa phương tuy đăng kí đầy đủ thủ tục nhưng lại không xây dựng hệ thống sổ sách theo quy định mà chỉ thực hiện thu chi báo sổ giống như một hộ kinh doanh. Về hệ thống luật Đối với các khó khăn liên quan đến luật và các quy định có ảnh hưởng rất nhiều tới hoạt động của doanh nghiệp. Hiện có rất nhiều luật tác động đến hoạt động của doanh nghiệp như Luật Doanh nghiệp, Luật Lao động, Luật Đất đai, Luật Thuế giá trị gia tăng, Luật khuyến khích đầu tư, Luật hợp tác xã. Tuy nhiên chỉ có luật doanh nghiệp, luật thuế giá trị gia tăng là có ảnh hưởng mạnh mẽ, thúc đẩy hoạt động của doanh nghiệp. Mỗi lần luật doanh nghiệp được chỉnh sửa, doanh nghiệp đều được tham dự các cuộc họp để phổ biến các thay đổi này. Tuy nhiên, phổ biến không chi tiết, và thời gian không đủ để doanh nghiệp hiểu đầy đủ. Mỗi lần sửa đổi luật đều ảnh hưởng đến doanh nghiệp rất nhiều. Các thủ tục hành chính còn rất rườm rà. Ví dụ như thủ tục xuất khẩu. Công ty thương mại chế biến thực phẩm Thông Tấn cho biết thường mất 2 ngày sau khi đã đóng hoa quả xong xuôi. Một ngày cho hải quan, còn một ngày cho kiểm dịch. Công ty cũng phải mất các chi phí phụ mỗi khi xuất khẩu. Trong khi đó, bên Trung Quốc, các kê khai hải quan đều được làm qua mạng rất nhanh gọn. Về kiểm dịch thì nhân viên kiểm dịch phải đến tận doanh nghiệp để kiểm tra sản phẩm, không có tình trạng doanh nghiệp phải mang hàng đến kiểm dịch như ở Việt Nam. Điều này sẽ đặc biệt ảnh hưởng đến các mặt hàng tươi sống. Thủ tục hành chính ở khâu nhập giống qua cục bảo vệ thực vật. Hàng năm, các công ty nhập giống vài lần, nếu nhập với số lượng ít thì không đủ để trồng. Còn nhập nhiều thì gặp phải nhiều khó khăn về thủ tục, thời gian nhập vào. Hơn nữa, giống nhập về bị tắc ở cửa khẩu phải trữ lại ở kho lạnh do công ty tự bỏ tiền ra thuê. Chính sách đầu tư của Việt Nam là khá hấp dẫn. Vấn đề duy nhất là các chính sách chưa đồng bộ nên còn gây cho các doanh nghiệp lúng túng khi quyết định đầu tư. Ngoài các khó khăn trên, những đợt xảy ra dịch bệnh cũng gây ảnh hưởng đến các công ty rất nhiều. Nguyên liệu đầu vào Về vấn đề nguyên liệu các công ty hiện nay phải mua nguyên liệu từ nông dân để chế biến. Tuy nhiên, nông nghiệp là ngành có nhiều rủi ro nhất, mà mỗi rủi ro này lại gây ảnh hưởng rất lớn đến kết quả kinh doanh. Ở Việt Nam, một trong những rủi ro lớn nhất là tình hình cung cấp nguyên liệu từ nông dân. Vì chưa có các vùng chuyên canh, nông dân vẫn chạy theo lợi nhuận và đổi cây trồng tuỳ theo thời vụ chứ không phải theo hợp đồng lâu dài với các doanh nghiệp và sau khi nhà nước khoán đất cho dân, người dân được tự do sản xuất các mặt hàng mình muốn thì lại ảnh hưởng xấu đến các doanh nghiệp. Người dân được khoán đất thường chạy theo thị trường, sản xuất hoặc ngừng sản xuất các mặt hàng ồ ạt. Các doanh nghiệp muốn tìm nguồn nguyên liệu ổn định rất khó. Các công ty cũng mong muốn được bảo trợ giá cho các sản phẩm nông sản xuất khẩu để có điều kiện cạnh tranh với các nước khác. Lý do nông dân không ổn định với một cây trồng là vì chưa có động lực đủ mạnh để bù lại được khoản lợi nhuận họ có thể có được nếu chuyển sang giống mới. Ngoài ra, họ cũng không có đủ thông tin thị trường để quyết định trồng cây gì có lợi lâu dài hơn. Rất nhiều công ty đang chịu hậu quả của việc nhập nguyên liệu manh mún này. Một giải pháp có thể có hiệu quả để làm giảm rủi ro về đầu vào này là khoanh vùng chuyên canh. Tuy nhiên, nông dân sẽ chịu rủi ro. Mỗi khi thiên tai mất mùa hay giá cả biến động, nông dân có thể trắng tay. Vì vậy, việc chọn vùng chuyên canh có điều kiện thời tiết phù hợp và ít thiên tai là rất quan trọng. Ngoài ra, cũng nên có những biện pháp bảo đảm đầu ra cho người dân. Thị trường tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp Bất kỳ ngành sản xuất nào thì việc tìm kiếm thị trường hay giải quyết khâu tiêu thụ cũng đóng vai trò hết sức quan trọng. Nó quyết định sự thành bại của doanh nghiệp hay bất kỳ một ngành nghề sản xuất, kinh doanh nào. Để tồn tại và phát triển được trong cơ chế thị trường hiện nay đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải luôn hướng vào một nhân tố quan trọng đó là nhân tố thị trường. Tầm quan trọng của thị trường là như vậy nhưng nông nghiệp là ngành sản xuất có nhiều đặc điểm riêng biệt khác với các ngành khác nên thị trường của lĩnh vực này cũng có những điểm khác biệt rõ rệt. Như chúng ta đều biết thị trường của các doanh nghiệp nông nghiệp đấy là các vùng có diễn ra hoạt động sản xuất nông nghiệp. Mặc dù chỉ tiêu thụ trong nước nhưng hầu hết các doanh nghiệp cũng gặp rất nhiều khó khăn. Đối với thị trường Hà Nội càng khó khăn hơn cho việc tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp. Số sản phẩm tiêu thụ trong thị trường Hà Nội hầu hết là cung cấp cho các đơn vị nông nghiệp hoạt động trên địa bàn hoạt động có quy mô nhỏ hơn mình. Hầu hết các doanh nghiệp đều có thị trường tiêu thụ khá rộng ở các tình ven Hà Nội. Thị trường tiêu thụ chủ yếu tại Hà Tây, Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Hoà Bình nhưng cũng chưa thể vươn xa hơn trong cả nước. 4.3.5 Cho điểm các yếu tố ảnh hưởng đến đầu tư của các doanh nghiệp Sau khi các chỉ số cấu thành được tính trọng số thể hiện mức độ quan trọng tương đối và được chuẩn hoá về thang điểm 10. Dưới đây là điểm đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp. Bảng 4.11 Bảng điểm yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động đầu tư của các DN Chỉ tiêu Thị trường Đất đai Kinh tế-tài chính Lao động Chính sách Dịch bệnh CSHT Thủ tục HC Điểm 8,6 8,3 7,7 7,6 7,5 7,5 7,4 6,75 Qua bảng 4.11 chúng ta thấy mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố đến hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp. Yếu tố thị trường được đánh giá cao nhất. Nguyên nhân là thị trường của các doanh nghiệp nông nghiệp trên địa bàn rộng lớn là những tỉnh ven Hà Nội, tuy nhiên cũng cần phải nói thêm là khả năng xâm nhập thị trường Hà Nội còn kém bởi nhu cầu về số lượng và đặc biệt là yêu cầu chất lượng sản phẩm tại Hà Nội là rất cao đồng thời sản phẩm của các công ty không thể cạnh tranh với sản phẩm nhập ngoại tại thị trường tiềm năng này nếu không có sự thay đổi trong phương thức sản xuất. Xếp thứ hai là yếu tố đất đai, tuy doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc thuê địa điểm sản xuất kinh doanh, bên cạnh đó các doanh nghiệp còn gặp khó khăn vì tình trạng đất thuê của các hộ nông dân thường nhỏ lẻ, manh mún, không tập trung nhưng việc thuê đất tại đây không phải là vấn đề được các doanh nghiệp cảm thấy khó khăn. Yếu tố lao động, chính sách, dịch bệnh, cơ sở hạ tầng được xếp ở mức độ như nhau. Nổi bật lên là yếu tố thủ tục hành chính bị xếp cuối cùng vì điểm số đánh giá của các công ty là trung bình cho yếu tố này. Như đã phân tích ở phần trên các thủ tục hành chính còn rườm rà gây cản trở cho hoạt động của các doanh nghiệp. CÂY VẤN ĐỂ KHÓ KHĂN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP KHI ĐẦU TƯ VÀO LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN. Đầu ra Lãi suất cao Môi trường đầu tư khó khăn Cơ sở vật chất Thiếu vốn Tiếp cận tài chính Mặt bằng sản xuất Chính sách Quy mô vốn vay nhỏ Thủ tục vay phức tạp Giải phóng mặt bằng Đất đai manh mún Thủ tục rườm rà Khó khăn từ hệ thống Luật Luật doanh nghiệp Máy móc lạc hậu Cơ sở hạ tầng kém Không có đất do ĐTH- KCN Luật thuế GTGT Khoản vay nhỏ Không có tài sản thế chấp Thị trường Công nghệ kém Đầu vào 4.3.6 Phân tích điểm mạnh điểm yếu của các công ty Phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức của các doanh nghiệp cho ta thấy tình hình hoạt động của các doanh nghiệp, những cơ hội – thách thức các doanh nghiệp phải đương đầu. Tận dụng cơ hội - thế mạnh để các doanh nghiệp phát huy năng lực của mình, doanh nghiệp còn phải thường xuyên tìm cách khắc phục điểm yếu và tránh những thách thức. Phân tích ma trận SWOT là một công cụ hữu ích kịp thời đưa ra những giải pháp và chiến lược một cách khoa học - hợp lý - hiệu quả. * Điểm mạnh 1) Các doanh nghiệp có kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Hầu hết các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp đều là những doanh nghiệp được thành lập từ lâu hoặc được chuyển đổi từ những đơn vị hoạt động trước đó nên rất có kinh nghiệm trong việc xây dựng các dự án đầu tư phù hợp với từng vùng, miền. 2) Đội ngũ công nhân viên có trình độ chuyên môn và kinh nghiệm, thường xuyên đi tham quan, đào tạo nước ngoài nên tay nghề chuyên sâu. Điều này góp phần tạo ra sản phẩm có chất lượng – uy tín. Hầu hết các doanh nghiệp đều có số lượng lao động có trình độ tăng dần. Do chất lượng các hoạt động đầu tư cũng được nâng lên cả về chất lượng và số lượng mặc dù số lượng dự án tăng lên không đáng kể. 3) Một số loại sản phẩm có uy tín và sức cạnh tranh lớn trên thị trường. Các doanh nghiệp đã cố gắng nâng cao chất lượng các sản phẩm của mình nhưng vẫn chú trọng vào những sản phẩm chủ đạo để nâng cao vị thế của doanh nghiệp mình trên thị trường trong thời kỳ hiện nay có nhiều đối thủ cạnh tranh trong nước cũng như nước ngoài. 4) Giá cả sản phẩm hấp dẫn các đại lý và người nông dân. Chất lượng tốt mà giá cả phải chăng, công ty thực hiện chế độ chiết khấu, thưởng và hỗ trợ các đại lý và người chăn nuôi khá tốt nên sản phẩm chiếm được nhiều cảm tình từ phía khách hàng, ngay cả tiêu thụ ở những thị trường khó tính. *Điểm yếu 1) Quy mô vốn nhỏ nên bị hạn chế trong kinh doanh. Phục vụ sản xuất cần phải có vốn để mua sắm nguyên liệu, đầu tư kĩ thuật... Đặc biệt hiện nay giá cả nguyên liệu đầu vào đang tăng vọt khiến cho sản xuất của các doanh nghiệp gặp khó khăn. 2) Công ty cũng thiếu nhiều cán bộ kĩ thuật ở nhiều thị trường. Do vậy công tác chăm sóc khách hàng vẫn chưa được đồng bộ. Chưa nắm bắt được tình hình của các vùng khác để có phương hướng đầu tư phù hợp. 3) Theo đánh giá của người nông dân thì các dịch vụ chăm sóc khách hàng như: mở hội thảo, hội nghị khách hàng, tư vấn kĩ thuật của các doanh nghiệp còn thưa thớt và chưa hiệu quả sau khi thực hiện các dự án của mình. *Cơ hội 1) Ngành chế biến và dịch vụ từ nông nghiệp đang rất có tiềm năng phát triển: Nhu cầu sản phẩm đã qua chế biến tiếp tục tăng mạnh. Trong khi ngành chế biến trong nước mới cung cấp được một phần nhỏ, đa số sản phẩm từ ngành chế biến vẫn phải nhập khẩu từ nước ngoài. Ngành chế biến đang được Nhà nước khuyến khích phát triển theo điều này tạo cơ hội cho các doanh nghiệp. 2) Quá trình hội nhập, có nhiều nguyên liệu phục vụ sản xuất nhập về chất lượng tốt, nên càng có điều kiện phát triển. Xu thế xây dựng mô hình liên kết giữa các doanh nghiệp với các hộ nông dân đang tạo đà cho cả hai bên cùng phát triển tốt – an toàn. 3) Tiến trình liên doanh, liên kết đang được xúc tiến nhanh tạo điều kiện cho việc thu hút vốn sản xuất, phát huy tinh thần làm chủ của doanh nghiệp, nâng cao tinh thần trách nhiệm của các thành viên trong công ty. 4) Nhà nước luôn có chính sách khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp cũng như khu vực nông thôn. *Thách thức 1) Ngày càng có nhiều doanh nghiệp tham gia hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp đặc biệt là các đối thủ nước ngoài có công nghệ hiện đại, chất lượng sản phẩm tốt trên thị trường. Có rất nhiều các công ty liên doanh và công ty nước ngoài, có tiềm lực về tài chính. Đây là một thách thức lớn đối với các công ty trong nước. 2) Dịch bệnh tiếp tục gia tăng và lây lan trên diện rộng, khó kiểm soát nên gây nhiều thiệt hại cho ngành nông nghiệp nói chung và các công ty nói riêng. 3) Nguyên liệu đầu vào trong nước chất lượng thấp, không đủ cung cấp cho sản xuất, giá cả nguyên liệu đầu vào gia tăng khiến khó khăn chồng lên khó khăn. Hiện nay một số nguyên liệu sản xuất phải nhập khẩu từ nước ngoài giá cả bấp bênh, biến động theo xu hướng tăng. 4) Yêu cầu về chất lượng sản phẩm và dịch vụ chăm sóc khách hàng ngày càng tăng, điều này sẽ khiến cho nhiều công ty nhỏ trong nước khó lòng cạnh tranh được trong tương lai. 5) Cơ chế chính sách, hệ thống luật vẫn còn gây khó khăn cho các doanh nghiệp. Thủ tục hành chính rườm rà cản trở nhiều đối với quá trình đầu tư của các doanh nghiệp. Thông qua việc phân tích những điểm trên chúng tôi tiến hành tổng hợp và đưa ra những giải pháp thông qua bảng phân tích ma trận SWOT : Bảng 4.12 Ma trận SWOT Yếu tố bên trong Yếu tố bên ngoài Điểm mạnh (S) Các DN có kinh nghiệm. Công nhân viên có trình độ và kinh nghiệm. Sản phẩm có uy tín và có sức cạnh tranh lớn trên thị trường. Giá bán và chế độ bán hàng phù hợp. Điểm yếu (W) Quy mô vốn nhỏ. Nhân viên thị trường và cán bộ kĩ thuật thiếu. Thiếu nhiều cán bộ kĩ thuật. Dịch vụ chăm sóc khách hàng còn thưa thớt, chưa hiệu quả. Cơ hội (O) Ngành chế biến và dịch vụ đang rất có tiềm năng phát triển. Quá trình hội nhập, có nhiều nguyên liệu phục vụ sản xuất nhập về chất lượng tốt. Xu hướng mô hình liên kết bền vững. Nhà nước có chính sách khuyến khích đầu tư. Kết hợp (OS) Phát triển ngành dịch vụ và chế biến, mô hình liên kết các doanh nghiệp và người nông dân. Đẩy mạnh tiêu thụ các sản phẩm chủ lực. Xây dựng nền văn hoá doanh nghiệp. Tranh thủ sự khuyến khích của nhà nước. Kết hợp (OW) Thu hút vốn để chủ động trong kinh doanh. Tuyển dụng thêm nhân viên thị trường, cán bộ kĩ thuật có đủ năng lực, nhiệt tình. Hỗ trợ bán hàng, tăng sản lượng cho các đại lý. Thách thức (T) Có nhiều đối thủ cạnh tranh. Dịch bệnh tái phát, gia tăng. Nguyên liệu giá cao, chất lượng kém, không ổn định. Yêu cầu chất lượng sản phẩm, dịch vụ chăm sóc khách hàng tăng. Cơ chế chính sách, hệ thống luật, thủ tục hành chính rườm rà. Kết hợp (TS) Nâng cao uy tín và hình ảnh công ty trên thương trường. Tăng sức cạnh tranh của sản phẩm chủ đạo. Xây dựng các mô hình sản xuất phù hợp. Có chế độ bán hàng hấp dẫn. Có kế hoạch hoạt động phù hợp với điều kiện từng địa bàn. Kết hợp (TW) 1) Nâng cao chất lượng sản phẩm và chất lượng dịch vụ. Hạn chế tối đa sự cạnh tranh trực tiếp của các đối thủ. 4.4 Phương hướng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Trong thời gian tới, Hà Nội sẽ chú trọng phát triển nông nghiệp sinh thái, ven đô, hình thành các vùng sản xuất hàng hóa quanh các đô thị, các vành đai rau an toàn, hoa, cây ăn quả sạch, phát triển rừng và cây xanh phục vụ cho các đô thị, khu công nghiệp, đảm bảo môi trường sinh thái của thủ đô. Dự kiến năm 2010, Hà Nội sẽ hoàn thiện đồng bộ Trung tâm Nông nghiệp công nghệ cao Từ Liêm (SX rau, hoa, quả). Do đó các công ty đã có kế hoạch để thực hiện các chương trình này, các đơn vị đã phải huy động nhiều nguồn vốn đầu tư, trong đó có cả việc liên doanh liên kết với các đối tác trong và ngoài nước nhằm tạo ra hiệu quả kinh tế tốt nhất từ sử dụng đất. Để có một nền NNĐT phát triển thì vai trò của lực lượng khuyến nông là vô cùng quan trọng, bởi nó là cầu nối giữa nhà khoa học, nhà quản lý và nhà nông, giúp nông dân tiếp cận tiến bộ kỹ thuật. Được biết, hiện công tác khuyến nông của Thủ đô Hà Nội đang tập trung đẩy mạnh các hoạt động chuyển giao kỹ thuật, công nghệ mới, xây dựng các mô hình khuyến nông tiêu biểu, đạt giá trị 100 – 200 triệu đồng/ha/năm. Các doanh nghiệp ngoài việc dựa vào khả năng của mình còn liên kết, hợp tác với các cơ sở khuyến nông trên địa bàn. Ông Nguyễn Bá Sướng, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Hà Nội cho biết, trong chương trình phát triển NNĐT đến năm 2012, khuyến nông Hà Nội xác định 4 chương trình trọng điểm, đó là rau an toàn, lợn nạc, vùng hoa và vùng cây cảnh. Phát triển nền nông nghiệp phải phù hợp với chủ trương, quan điểm về phát triển của Đảng và Nhà nước, chiến lược phát triển của Việt Nam trong giai đoạn mới; chính sách phát triển của doanh nghiệp cũng như quy hoạch tổng thể phát triển nông nghiệp giai đoạn 2005-2010. Phát triển phải đảm bảo tính bền vững, những lợi ích về kinh tế cũng như lợi ích về xã hội, môi trường luôn được chú trọng. Giải quyết mối quan hệ lợi ích hài hoà giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Phát triển nông nghiệp phải đóng góp vào sự phát triển của các ngành kinh tế như ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, góp phần vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn. Tổ chức quản lý sử dụng hợp lý các điều kiện phục vụ sản xuất, đồng thời tổ chức sản xuất và cung cấp các sản phẩm địa phương phục vụ nhu cầu như trồng các loại cây cảnh, thiết kế vườn cây ăn quả, cây bóng mát… Ngoài ra còn đầu tư mở rộng nhà xưởng, địa điểm sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm. Thu hút đầu tư của các tổ chức, cá nhân, đơn vị trong nước và nước ngoài vào lĩnh vực, ngành nghề sản xuất. 4.5 Giải pháp Để cải thiện môi trường đầu tư vào nông nghiệp, thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế đặc biệt là các doanh nghiệp cần phải có các chính sách phù hợp, chú ý vào cải thiện về quản lý đầu tư, môi trường hỗ trợ đầu tư, trong đó: Cần thành lập cơ quan chuyên trách về việc quản lý các dự án đầu tư, làm cầu nối giữa các nhà đầu tư và các nhà lập sách đầu tư. Mục tiêu của cơ quan này là hỗ trợ các nhà đầu tư trong giai đoạn hình thành dự án đầu tư, giai đoạn chuẩn bị đầu tư, giai đoạn chuẩn bị đầu tư. Ngoài ra, cơ quan cũng có nhiệm vụ hỗ trợ cho các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc lập chính sách đầu tư. Để phần nào giải quyết vấn đề thủ tục rườm rà, ngoài việc điều chỉnh chính sách chúng ta cũng cần nâng cao nhận thức và hiểu biết của cán bộ lãnh đạo, quản lý các ngành, địa phương về tinh thần của Luật doanh nghiệp, chính sách của Đảng và Nhà nước về kinh tế tư nhân. Việc giáo dục đạo đức đối với cán bộ cũng nên chú trọng không kém để giảm tình trạng tiêu cực vẫn xảy ra ở một số nơi. Việc hoàn thiện Luật doanh nghiệp chung và luật đầu tư chung cũng hết sức cần thiết hiện nay còn nhiều điểm gây nhầm lẫn cho các doanh nghiệp. Việc luật không rõ cũng tạo ra cơ hội lách luật, gây phiền hà cho nhiều doanh nghiệp. Mặc dù bộ luật này vẫn đang liên tục được hoàn thiện, nhưng các luật này cũng cần chỉnh sửa lại để tạo sự bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp: doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nước ngoài. Những chính sách khác nhằm cải thiện môi trường đầu tư là: tăng cường phát triển cơ sở hạ tầng, nhất là ở khu vực nông thôn; đào tạo cho đội ngũ lao động nông thôn; hoàn thiện thị trường các nhân tố sản xuất, như thị trường lao động, thị trường bất động sản, sao cho khả năng tiếp cận các thị trường này là dễ dàng, linh hoạt về giá cả, không gian, thời gian. Nhằm khắc phục tình trạng nguyên liệu manh mún, sản xuất không hiệu quả, ta cần hình thành danh mục ưu tiên để tập trung vào một số ngành mong muốn, không đầu tư thiếu chiến lược như hiện nay. Để đạt được điều này, ta cần tìm hiểu thế mạnh hiện có và tập trung tăng cường các thế mạnh này. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh hội nhập hiện nay. Bên cạnh đó, theo định hướng của Bộ NN & PTNT thôn cần nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển nông nghiệp, sử dụng tài nguyên bền vững, ngành nông nghiệp sẽ tập trung vào những giải pháp vốn đầu tư quan trọng sau: Điều chỉnh lại cơ cấu vốn đầu tư phát triển vào các lĩnh vực nông nghiệp hướng tới hiệu quả hơn; Đổi mới xây dựng kế hoạch và phân bổ nguồn lực phát triển, gắn xây dựng kế hoạch với ngân sách chặt chẽ hơn; Đa dạng hoá huy động vốn đầu tư, tạo điều kiện để tăng nguồn vốn huy động đầu tư vào phát triển cả trong lĩnh vực hạ tầng, dịch vụ nông nghiệp, nông thôn; Tăng cường hệ thống thông tin, công khai, minh bạch các định hướng phát triển, quy hoạch và kế hoạch để nhiều chủ thể được tham gia, thực hiện và giám sát thực hiện. Phần thứ năm KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 5.1 Kết luận Môi trường đầu tư đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của các ngành trong cả nước nói chung và của ngành nông nghiệp thủ đô nói riêng. Mặc dù môi trường đầu tư của các doanh nghiệp đã được cải thiện đáng kể trong những năm gần đây nhưng trên thực tế hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp còn gặp rất nhiều khó khăn. Có những khó khăn mà hầu như doanh nghiệp nào cũng gặp phải nhưng cũng có những vấn đề chỉ có từng loại doanh nghiệp phải đối mặt. Thủ đô Hà Nội đang trong quá trình đô thị hoá mạnh nên ngành nông nghiệp đang dần chuyển đổi cho phù hợp với điều kiện thực tế hiện nay. Mặc dù mục tiêu là vậy nhưng theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế Hà Nội là địa phương có môi trường đầu tư kém thân thiện nhất, tuy đã có những biện pháp khắc phục nhưng thực trạng đầu tư của các doanh nghiệp vào lĩnh vực nông nghiệp tại Hà Nội còn nổi lên một số vấn đề như: Về thực trạng đầu tư phân theo loại hình doanh nghiệp: Các doanh nghiệp tham gia đầu tư đều là các doanh nghiệp trong nước. Số lượng doanh nghiệp đầu tư có tăng nhưng không đáng kể. Loại hình doanh nghiệp tham gia đầu tư có số lượng nhiều nhất là công ty cổ phần. Thực trạng đầu tư phân theo lĩnh vực đầu tư: Số lượng doanh nghiệp tham gia đầu tư theo từng lĩnh vực có sự thay đổi so với những năm trước đây. Số doanh nghiệp đầu tư vào ngành trồng trọt và chăn nuôi giảm dần, số doanh nghiệp đầu tư vào các ngành như chế biến, dịch vụ nông nghiệp và tổng hợp tăng lên đáng kể so với những năm trước đây. Thực trạng đầu tư phân theo quy mô vốn đầu tư: Qua việc xem xét tình hình vốn của các doanh nghiệp chúng ta thấy lượng vốn đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp còn tương đối ít. Số lượng doanh nghiệp có quy mô vốn đầu tư trên 15 tỷ đồng còn khá ít. Hầu hết các dự án đầu tư của các doanh nghiệp đều đem lại hiệu quả cho các doanh nghiệp mặc dù kết quả đầu tư chưa cao. Tuy qua phân tích chúng ta thấy được những con số thể hiện sự chênh lệch giữa từng loại hình đầu tư nhưng mỗi loại hình lại có tính chất khác nhau, mức độ đầu tư khác nhau… hay nói cách khác mức độ ảnh hưởng của môi trường đầu tư nói chung đến các lĩnh vực đầu tư của các doanh nghiệp không giống nhau nên việc đưa ra nhận xét cụ thể còn gặp khó khăn. Từ việc tìm ra những yếu tố tác động đến hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp chúng ta đánh giá được yếu tố về thủ tục hành chính gây cho các doanh nghiệp đầu tư khó khăn nhất. Các doanh nghiệp nắm được tình hình hoạt động của doanh nghiệp mình và các yếu tố bên ngoài để tìm phương hướng hoạt động trong thời gian tới. Đồng thời đưa ra các giải pháp để giải quyết được các khó khăn mà các doanh nghiệp vẫn đang phải đối mặt. 5.2 Khuyến nghị 5.2.1 Đối với Nhà nước và các cơ quan có thẩm quyền Nhà nước và các cơ quan có thẩm quyền cần có những quy hoạch rõ ràng về phát triển kinh tế, phát triển nông nghiệp cả nước nói chung và của nền nông nghiệp thủ đô nói riêng. Hạn chế tới mức thấp nhất việc sử dụng đất canh tác của các hộ nông dân để làm đất phi nông nghiệp. Cần khai thức quỹ đất hoang hoá hoặc sử dụng không hiệu quả để phục vụ việc mở rộng diện tích đất nông nghiệp cho các doanh nghiệp có dự án cần mặc bằng để đầu tư. Hướng dẫn cụ thể việc thi hành luật đầu tư và các văn bản dưới luật cũng như chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp để các dự án đầu tư đạt hiệu quả. Khuyến khích và thu hút các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn theo nguyên tắc: tiết kiệm, có hiệu quả, bảo vệ tài nguyên đất và môi trường sinh thái. Cần hỗ trợ các doanh nghiệp mở rộng quy mô vốn đầu tư bằng cách hỗ trợ các doanh nghiệp vốn, khoa học kỹ thuật cho các doanh nghiệp. 5.2.2 Đối với các doanh nghiệp Cần chủ động trong việc tìm kiếm, chuyển đổi lĩnh vực đầu tư cho phù hợp với sự phát triển của chung của đất nước cũng như trên thế giới để đưa nền nông nghiệp theo hướng nền nông nghiệp đô thị. Phát huy tiềm lực của doanh nghiệp mình nhằm tạo ra nhiều sản phẩm tốt, có công việc ổn định, tăng thu nhập cho các cán bộ, công nhân viên trong doanh nghiệp mình. Thay đổi tác phong làm việc của một số bộ phận người lao động trong doanh nghiệp. Tích cực chuyển đổi cơ cấu ngành nghề đầu tư, nâng cao kết quả đầu tư, phát triển đa dạng mô hình sản xuất kinh doanh và nhạy bén với thị trường. Tích cực học hỏi kinh nghiệm của các doanh nghiệp hoạt động tốt trên địa bàn và trong nước. Tìm kiếm các đối tác có khả năng tham gia góp vốn cùng doanh nghiệp mình để quy mô đầu tư rộng hơn. Cần đặt ra mục tiêu hàng năm để các doanh nghiệp có thể nắm được trong năm doanh nghiệp đã làm được những gì. Đánh giá các hoạt động đó đã đạt kết quả tốt hay chưa để khắc phục cho những năm sau. Chú trọng việc đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao cơ cấu người lao động có trình độ để hoạt động của doanh nghiệp đạt kết quả cao. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. Nghiep/Mot_s0_khai_niem_ve_doanh_nghiep/ 8. 9. ính%20sách%20đầu%20tư/577/7875 10. 20%C4%91%E1%BA%A7u%20t%C6%B0/577/3218 11. 12. -day-manh-dau-tu-vao-nong-nghiep/1671373.epi 13. Giáo trình Quản trị doanh nghiệp nông nghiệp. NXB nông nghiệp 2006. Trang 6 – trang 7 14. GS. TSKH Nguyễn Văn Chọn. Kinh tế đầu tư tập 1. NXB Thống kê 11/2005. Trang 13 15. Vũ Thị Ngọc Quỳnh. 2006. Giáo trình kinh tế phát triển. NXB Lao động xã hội. Trang 233 16. Vũ Thị Ngọc Quỳnh. 2006. Giáo trình kinh tế phát triển. NXB Lao động xã hội. Trang 236 17. Vũ Thị Ngọc Quỳnh. 2006. Giáo trình kinh tế phát triển. NXB Lao động xã hội. Trang 239 18. Theo mục 4 - điều 3 - Chương I - Luật đầu tư số 59/2005/QH11 ngày 29-11-2005 của Quốc hội (có hiệu lực từ ngày 01-07-2006) 19. Theo điều 13 đến điều 19 - chương III - Luật đầu tư số 59/2005/QH11 ngày 29-11-2005 của Quốc hội (có hiệu lực từ ngày 01-07-2006) 20. Tổng quan các nghiên cứu về môi trường đầu tư nông thôn Việt Nam. 11/2005. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn - Viện chính sách chiến lược nông nghiệp và phát triển nông thôn. Trang 5 21. Nguyễn Lê Hà. Luận văn tốt nghiệp đại học năm 2008. Đại học Nông nghiệp Hà Nội 22. Trần Hào Hùng. 2006. Báo cáo “ Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn”. Bộ NN và PTNT 23. Mundlax, Larson, Butzer. 1998. Các nhân tố quyết định trong sản xuất nông nghiệp: Phân tích số liệu chéo giữa các quốc gia. Trang 3. 24. World Bank. 2007. World bank’s World Development Report. Trang 45 25. World Bank. 2007. World bank’s World Development Report. Trang 47 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28. BC lan cuoi.doc
Tài liệu liên quan