Nhận thức của người dân Hà Nội về quyền trẻ em

Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài. Hiện nay, vấn đề quyền trẻ em đang là mối quan tâm lớn không chỉ của từng quốc gia mà là của toàn xã hội. Tương lai của mỗi quốc gia, dân tộc phụ thuộc nhiều vào việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Tuy nhiên, ở nhiều nơi trên thế giới, tình trạng trẻ em phải tự lao động kiếm sống, bị lừa gạt, bạo lực, bóc lột sức lao động và sa vào các tệ nạn xã hội đang có chiều hướng gia tăng. Bởi vậy, hơn lúc nào hết, vấn đề quyền trẻ em được đặt ra như một nhu cầ

doc95 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1402 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nhận thức của người dân Hà Nội về quyền trẻ em, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u bức bách cần được giải quyết, nhằm giành lại cho các em quyền được sống, quyền được học hành, vui chơi, được chăm sóc và bảo vệ…Những khẩu hiệu “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”, “Hãy dành tất cả những gì tốt đẹp nhất cho trẻ em mà mình có”…đã và đang là khẩu hiệu hành động của các quốc gia. ở Việt Nam, ngay từ khi phê chuẩn Công ước quốc tế về quyền trẻ em (1990), UNICEF đã phối hợp chặt chẽ với chính phủ Việt Nam xây dựng Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em và nỗ lực triển khai thực hiện. UNICEF đã kiên trì thực hiện các hoạt động truyền thông nhằm nâng cao nhận thức của những người có vai trò và ảnh hưởng đối với trẻ em. Bởi vậy, trẻ em Việt Nam đã, đang và sẽ được hưởng những cơ hội tốt đẹp so với trước đây. Mức sống của nhiều gia đình được cải thiện, các bậc cha mẹ có sự lựa chọn dễ dàng hơn trong việc tổ chức cuộc sống và điều này có ảnh hưởng tích cực tới lợi ích của trẻ em. Nhưng để có được sự lựa chọn đi tới quyết định đúng đắn trong việc chăm sóc trẻ em, các gia đình cần được tiếp cận thông tin nhiều hơn nữa. Truyền thông đã và đang tiếp tục mở rộng tầm ảnh hưởng tới quần chúng. Các thông tin xã hội có định hướng, trong đó các vấn đề trẻ em được truyền tải nhiều hơn tới dân chúng cả về chất lượng và số lượng. “Nhận thức toàn dân” về quyền cũng như các vấn đề của trẻ em không ngừng được cải thiện. Mặc dù vậy, vẫn còn một khoảng cách khá lớn giữa nhận thức về Quyền trẻ em và các hành động cụ thể. Hiện nay, việc quán triệt nội dung các Quyền của trẻ em từ lời nói, nhận thức đến hành động vẫn chưa thực sự đồng đều. Nhiều hoạt động truyền thông vẫn chưa thực sự có hiệu quả trong việc tham gia khuyến khích thay đổi hành vi bền vững nhằm mang lại lợi ích tốt nhất cho trẻ em. Đâu đó, vẫn tồn tại những khoảng trống, những thiếu hụt trong nhận thức đến hành động thực tiễn cũng là một quá trình lâu dài. Bởi lẽ, có thể người dân nhận thức được nhưng chưa chắc nhận thức đó sẽ trở thành hành động trong thực tiễn, càng khó hình thành được một khuôn mẫu ứng xử trong xã hội. Tìm hiểu về nhận thức về Quyền trẻ em của người dân cũng như những nhận xét về cách thức, phương pháp truyền thông về quyền trẻ em sẽ góp phần làm cơ sở để các nhà làm công tác truyền thông- vận động về quyền trẻ em, các nhà hoạch định chính sách đưa ra kế hoạch cũng như chiến lược truyền thông nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi về quyền trẻ em cho người dân nói chung và trẻ em nói riêng. Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nói trên, đề tài “Nhận thức của người dân Hà Nội về quyền trẻ em” vừa mang tính cấp thiết vừa có giá trị khoa học. 2. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu. Trẻ em là nhóm xã hội đặc biệt luôn chiếm được sự quan tâm rất lớn của Đảng, Chính phủ và các tổ chức xã hội, do đó có nhiều công trình nghiên cứu về trẻ em. Tuy nhiên những nghiên cứu về nhận thức của người dân về quyền trẻ em dường như còn rất ít. 2.1. Các nghiên cứu ngoài nước. * UNICEF là một trong những tổ chức quốc tế có nhiều đóng góp trong việc hỗ trợ các hoạt động của Chính phủ liên quan tới trẻ em. Các chương trình của UNICEF được hình thành theo định hướng của Công ước quốc tế về Quyền trẻ em (CRC). Trên cơ sở đó, UNICEF đưa ra mục tiêu chung là: vì sự sống còn, phát triển, bảo vệ và tham gia của trẻ em trong khuôn khổ Công ước quốc tế về Quyền trẻ em. Một số nghiên cứu của UNICEF về trẻ em: “UNICEF, tình hình trẻ em thế giới, 2000; SRVN, UNICEF, Vietnam, Summary of the mid - term review of the joint country programme of cooperation”, Hanoi, June 1998. Các nghiên cứu của UNICEF chủ yếu là về các vấn đề sau của trẻ em. + Vệ sinh môi trường và chăm sóc sức khoẻ cho trẻ em. + Dinh dưỡng cho trẻ. + Vấn đề giáo dục. + Trẻ em tàn tật. 2.2. Các nghiên cứu trong nước. Mặc dù công tác BVCS&GDTE đã được Đảng và Nhà nước thực sự quan tâm, phong trào toàn dân chăm lo cho trẻ em luôn luôn được đẩy mạnh tại các địa phương trong cả nước, nhưng trong một thời gian dài, những nghiên cứu, những khảo sát đánh giá về công tác này còn ít ỏi. Điều đáng mừng là, trong những năm những năm gần đây, đã có những công trình nghiên cứu về trẻ em nói chung, về những vấn đề xung quanh qúa trình thi hành Luật BVCS&GDTE, truyền thông – vận động về quyền trẻ em nói riêng được triển khai và đem lại những giá trị, ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Dưới đây là một số công trình cơ bản: - Trong hệ thống các đề tài, chương trình nghiên cứu về trẻ em Việt Nam, một nghiên cứu có quy mô khá lớn là: “Nghiên cứu vị trí, vai trò của gia đình và cộng đồng trong sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em Việt Nam” do UBBV&CSTE Việt Nam chủ trì, GS.TS.Phạm Tất Dong làm chủ nhiệm. Mục đích nghiên cứu của chương trình là: Làm rõ vị trí, vai trò của gia đình và cộng đồng trong việc bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em; đánh giá những tác động của chính sách hiện có với gia đình và cộng đồng; đưa ra những khuyến nghị chính sách và giải pháp chiến lược có hiệu quả nhằm phát huy vai trò của gia đình và cộng đồng với công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em trong thời gian tới. Nghiên cứu này đã đưa ra nhiều phát hiện thú vị về công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, đề xuất hệ thống khuyến nghị gồm 4 điểm qua tổng hợp các kết quả nghiên cứu từ 6 đề tài nhánh. Cho dù, lượng mẫu trong nghiên cứu chưa đủ lớn để có thể suy rộng ra cho toàn bộ khối dân cư, nhiều khía cạnh về trẻ em chưa được phân tích sâu, đầy đủ, nhưng kết quả nghiên cứu đã cung cấp cho giới hữu trách, những người hoạch định chính sách những số liệu và sự đánh giá, khái quát khá mới mẻ và bổ ích. Mặc dù vậy, nghiên cứu cũng chỉ nhấn mạnh đến vai trò của gia đình và cộng đồng trong việc BVCS&GDTE chứ chưa đi sâu vào vấn đề nhận thức về quyền trẻ em. - Với mục đích tổng kết 10 năm thi hành Luật BVCS&GDTE để đánh giá sự chuyển biến nhận thức và tình hình thực hiện Luật của các tầng lớp nhân dân, các tổ chức, các đoàn thể xã hội và đặc biệt là việc thực hiện chủ trương, chính sách cho trẻ em của các cấp chính quyền địa phương, từng bước nâng cao nhận thức và trách nhiệm với công tác bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em, năm 2001, Trung tâm Thông tin – Tư liệu và Nghiên cứu – UBBV&CSTE Việt Nam tiến hành cuộc điều tra: “Một số khó khăn và cản trở qua 10 năm thực hiện Luật BVCS&GDTE (1991-2000)”. Các vấn đề như nhận thức về Luật của các nhóm lãnh đạo, người nuôi dưỡng trẻ trực tiếp, của chính trẻ em; Những khó khăn và cản trở khi thực hiện Luật; Những đề xuất, sửa đổi, bổ sung Luật và các chính sách có liên quan… là những nội dung chính của nghiên cứu. Có thể nói đó là những đánh giá tổng hợp có giá trị cung cấp một cái nhìn khá tổng thể về những thành tựu và hạn chế qua 10 năm thực hiện Luật. Tuy nhiên, nghiên cứu này cũng chưa đề cập nhiều đến vấn đề nhận thức của người dân về quyền trẻ em. - Báo cáo “Hoạt động, tư vấn – xây dựng chương trình truyền thông – vận động quyền trẻ em giai đoạn 2001 – 2005” do Plan International Hà Nội tài trợ, Hà Nội, 2001 – Trịnh Hoà Bình và cộng sự thực hiện đã đánh giá nhận thức của người dân về Luật BVCS&GDTE và một số quyền cơ bản của trẻ em trên 9 tỉnh/ thành phố. Từ đó xây dựng chương trình truyền thông – vận động quyền trẻ em giai đoạn 2001 – 2005. Báo cáo đã đưa ra được những kết quả bước đầu về nhận thức của người dân về quyền trẻ em, tuy nhiên mục đích chính của nghiên cứu này là xây dựng chương trình truyền thông – vận động về quyền trẻ em chứ không phải là nghiên cứu sâu nhận thức về quyền trẻ em. - “Nhận thức và dư luận xã hội qua 10 năm thực hiện Luật BVCS&GDTE”, chuyên luận, Trung tâm Truyền thông – Vận động xã hội, Hà Nội 2001, do Trịnh Hoà Bình, Đặng Nam và cộng sự thực hiện. Với mục đích tổng hợp những kết quả chính về mặt nhận thức và đánh giá của các nhóm đối tượng về Luật BVCS&GDTE (Dư luận xã hội) từ đó đưa ra những khuyến nghị, giải pháp cho chương trình hành động quốc gia vì trẻ em của Việt Nam trong thời gian tới. Đề tài đã đi sâu tìm hiểu nhận thức của xã hội nói chung về Luật BVCS&GDTE, cũng như tác động của Luật BVCS&GDTE tới nhận thức của họ. Nhận diện thực trạng dư luận xã hội hiện nay về thành tựu và hạn chế trong quá trình thực hiện Luật BVCS&GDTE qua các số liệu tiêu biểu thu thập trong 10 năm qua của UBBV&CSTEVN. Từ thực trạng trên, báo cáo đề xuất một số khuyến nghị về giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em. Nhìn chung chuyên luận chủ yếu tập trung tìm hiểu về nhận thức của người dân về Luật BVCS&GDTE. Ngoài ra còn một số nghiên cứu trong nước có sự tham gia của tổ chức nước ngoài như: UNICEF, Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý: “Chuyên đề về Luật Việt Nam và Công ước quốc tế bảo vệ trẻ em trước tệ nạn lạm dụng tình dục”, 1998. Như vậy, đã có rất nhiều nghiên cứu về trẻ em nói chung và quyền trẻ em nói riêng. Tuy nhiên, các nghiên cứu trên lại tập trung đi sâu vào vấn đề truyền thông – vận động về quyền trẻ em hay đánh giá qúa trình thực hiện quyền trẻ em (trong Công ước quốc tế về quyền trẻ em và Luật BVCS&GDTE) mà chưa đi sâu tìm hiểu xem nhận thức của người dân đi đến đâu và họ đã hiểu về quyền trẻ em như thế nào? với nghiên cứu “Nhận thức của người dân Hà Nội về quyền trẻ em” tác giả mong muốn góp phần làm phong phú thêm những nghiên cứu về vấn đề này. Như vậy, đã có rất nhiều nghiên cứu về trẻ em nói chung và Quyền trẻ em nói riêng. Tuy nhiên, các nghiên cứu trên tập trung đi sâu vào vấn đề truyền thông – vận động về quyền trẻ em hay đánh giá quá trình thực hiện Quyền trẻ em (trong “Công ước quốc tế về Quyền trẻ em và Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em” mà chưa tìm hiểu xem truyền thông – vận động về Quyền trẻ em đã thực sự đi sâu vào nhận thức của người dân đến đâu? Và họ đã hiểu về Quyền trẻ em như thế nào? Với nghiên cứu này tác giả mong muốn đóng góp một phần làm phong phú thêm những nghiên cứu về Quyền trẻ em. 2.3. Quy định của Liên hợp quốc về Quyền và bổn phận của trẻ em. Các quyền và bổn phận của trẻ em của trẻ em nói chung đã ghi nhận một cách rõ ràng trong Công ước về Quyền trẻ em của Liên hợp quốc. Công ước này được Đại hội đồng Liên hợp quốc chính chức thông qua ngày 20/11/1989 nhân kỷ niệm 30 năm ngày thông qua “Tuyên ngôn về quyền trẻ em” (1959- 1989) và kỷ niệm 10 năm “Năm quốc tế thiếu nhi” (1979- 1989). Văn bản quốc tế quan trọng này được đại diện 61 nước ký vào ngày 26/1/1990 đến nay đã có 195 nước ký và phê chuẩn. Trong năm thiếu nhi Việt Nam 1989- 1990, Việt Nam đã ký Công ước về Quyền trẻ em ngay trong ngày đầu tiên Công ước được mở cho các nước ký (26/1/1990) và trở thành một nước đầu tiên ở Châu á và là nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước (20/2/1990) mà không bảo lưu. Qua đó Nhà nước ta cam kết với Liên hợp quốc và cộng đồng quốc tế là sẽ thực hiện đầy đủ các điều khoản của Công ước. Các Quyền trẻ em trong Công ước được quy định ở 40 điều khác nhau. Tựu chung các quyền của trẻ em được chia thành 4 nhóm chính. + Nhóm quyền được sống. Trẻ em phải được chăm sóc từ trong bào thai, khi ra đời phải được công nhận, có giấy khai sinh, có quốc tịch, quyền được nhận cha, mẹ đẻ, có gia đình (hoặc gia đình thay thế) được chăm sóc cơm ăn, áo mặc, chữa bệnh khi ốm đau, được cứu chữa khi có chiến tranh… Những quyền này là quyền cơ bản đảm bảo sự sống của trẻ em. ảnh sưu tầm báo Văn hoá - Thông tin số ra ngày 3/3/2005 + Nhóm quyền phát triển. Trẻ em cần có mức sống tốt đảm bảo khoẻ mạnh về thể chất tâm thần, trí tuệ, đạo đức, được tiếp xúc với các nguồn thông tin cần thiết, được học hành theo khả năng, năng khiếu của mình, được nghỉ ngơi, vui chơi giải trí theo đặc điểm lứa tuổi và sở thích cá nhân, được sử dụng tiếng mẹ đẻ và phát triển nhân cách theo bản sắc văn hoá dân tộc. Những quyền này là quyền cơ bản đảm bảo sự phát triển đầy đủ nhất của mỗi trẻ em. ảnh sưu tầm báo Mẹ và Bé, số tháng 4/2006 + Nhóm quyền được bảo vệ. Trẻ em phải được bảo vệ tránh mọi sự phân biệt đối xử, được bảo vệ trước những tệ nạn xã hội, buôn bán trẻ em, xâm hại tình dục, nghiện ma tuý, bạo lực, làm nhục mạ về thể chất và tinh thần… được bảo vệ khỏi bị bóc lột về kinh tế và làm các công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm… Những quyền này là quyền cơ bản bảo đảm trẻ em không bị lôi kéo, xô đẩy vào tệ nạn xã hội, bạo lực và bóc lột. ảnh sưu tầm báo Mẹ và Bé, số tháng 4/2006 + Nhóm quyền được tham gia. Trẻ em được tham gia vào các hoạt động xã hội theo khả năng, sở thích và nguyện vọng của trẻ em, được nêu ý kiến của mình trong các cuộc họp về vấn đề liên quan đến quyền và sự phát triển của trẻ em. Đây là các quyền cơ bản để trẻ em được rèn luyện đưa quyết định trước những vấn đề của cuộc sống. (1): Với chủ đề “Đánh thức ước mơ, ngời sáng tương lai” các em đã được thoả sức vẽ và thể hiện biết bao ước mơ và hình dung của mình về tương lai ngời sáng mai sau. ảnh sưu tầm báo Thế giới phụ nữ , số ra ngày 29/11/2004 (2) Cuộc thi “Em vẽ tương lai” giúp cho trẻ em vẽ ra ước mơ của mình. Cuộc thi mang lại một sân chơi bổ ích cho các em, mặt khác cuộc thi còn dấy lên động thái mới trong xã hội, kêu gọi người lớn quan tâm nhiều hơn nữa đến đời sống tinh thần của trẻ em. ảnh sưu tầm báo Thế giới phụ nữ, số ra ngày 20/12/2004. Như vậy, Công ước quốc tế về quyền trẻ em của Liên hợp quốc đã thể hiện và khẳng định những quyền của trẻ em như quyền của con người nói chung. Đó là các quyền được có họ tên và quốc tịch, được học tập, được hưởng an toàn xã hội, chăm sóc sức khoẻ. Tuy nhiên các quyền trẻ em trong Công ước được xác định là quyền nhằm nâng cao hay bổ sung thêm vào quyền con người nói chung đã được công nhận, có xét đến nhu cầu và đặc thù của trẻ em. Vì vậy nguyên tắc bao trùm Công ước là “Trẻ em có quyền được chăm sóc, bảo vệ và giúp đỡ đặc biệt do còn non nớt về thể chất và trí tuệ”. Các nhóm quyền trên không chỉ được nêu ra trong Công ước quốc tế mà còn được phản ánh đầy đủ trong hệ thống Luật pháp Việt Nam mà trước hết là Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. 2.4. Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề Quyền trẻ em. ở Việt Nam, trẻ em từ 0 đến 16 tuổi chiếm 43,6% dân số, hàng năm có khoảng 1,5 triệu trẻ em được sinh ra. Về mặt văn hoá và truyền thống, trẻ em được coi là niềm hạnh phúc của gia đình và tương lai của đất nước. Trẻ em là lớp công dân đặc biệt mà Nhà nước và xã hội phải chăm sóc, tạo những ưu tiên cho việc tạo môi trường thuận lợi, trong lành để trẻ em được bảo vệ và chăm sóc. Việt Nam đã ký và phê chuẩn Công ước về quyền trẻ em của Liên hợp quốc. Trong những năm qua mặc dù còn có những khó khăn nhưng các điều khoản cơ bản của Công ước về quyền trẻ em đã dần dần được đưa vào chiến lược phát triển và Luật pháp quốc gia. Những bước quan trọng đã được thể hiện để thi hành Công ước nhằm tăng việc bảo vệ quyền trẻ em. Các văn bản pháp Luật quan trọng liên quan đến trẻ em như: Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật phổ cập giáo dục tiểu học, Bộ Luật Lao động và Bộ Luật Dân sự được ban hành trong đó có vận dụng các điều khoản của Công ước về quyền trẻ em. Với tinh thần “Trẻ em hôm nay thế giới ngày mai”, Đảng và Nhà nước luôn mong muốn những điều tốt đẹp cho trẻ em. Điều này được minh chứng bằng những chính sách ưu tiên đối với trẻ em qua: một số chương trình, Quyết định, Chỉ thị, liên quan đến trẻ em: Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em 1999 – 2000, Chỉ thị 38/CT-TW của Ban Bí thư TW Đảng về tăng cường bảo vệ và chăm sóc trẻ em, tiếp đó đến quyết định số 34/1991/QĐ-TTG ngày 27/12/1991 của Thủ tướng chính phủ về trẻ em, tổng kết chương trình quốc gia hành động về trẻ em 1999 – 2000; Xây dựng chương trình hành động quốc gia vì trẻ em 2001 – 2010; Chỉ thị số 55CT/TW ngày 28/6/2000 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng ở cơ sở đối với công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; Quyết định số 23 ngày 25/02/2001 phê duyệt chương trình hành động quốc gia vì trẻ em Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010. Bằng những chính sách, chương trình hoạt động chăm lo đến trẻ em Chính phủ đã quyết tâm thực hiện có hiệu quả Công ước quốc tế về trẻ em, từng bước đưa nội dung cơ bản của Công ước vào các chiến lược kinh tế – xã hội. Các Quyền trẻ em đã được ghi vào trong hiến pháp và các đạo Luật khác nhau như : Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật hôn nhân và gia đình… Ngoài ra, còn có một số văn bản chỉ thị khác nữa thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Chính phủ đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Bên cạnh đó, nhiều cơ quan tổ chức xã hội đã có các hoạt động về BVCS&GDTE như : Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư gắn với công tác bảo vệ và chăm sóc trẻ em (1996). Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em đã ban hành nhiều văn bản để hướng dẫn và tổ chức hoạt động bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, và thực hiện quyền trẻ em, trong đó có những hoạt động rất thiết thực và cụ thể như thành lập: “Quỹ bảo trợ trẻ em”, “Hướng dẫn: Tiêu chuẩn xây dựng xã, phường phù hợp với trẻ em” (01/6/2004); Hội Liên Hiệp (HLH) Thanh Niên Việt Nam cũng đã phát động phong trào vì trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn bằng nhiều hình thức cuộc sống khác nhau. Đặc biệt là xây dựng những đội tuyên truyền thanh niên có kỹ năng nghiệp vụ vận động phòng chống các tệ nạn xã hội… tổ chức vận động truyền thông với nhiều hình thức thay đổi nhận thức và hinh vi của người dân trong công tác bảo vệ chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; Hội Liên Hiệp (HLH) Phụ nữ Việt Nam đã có nhiều chính sách khuyến khích, nỗ lực lồng ghép các hoạt động trong khuôn khổ Hội với vấn đề bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; Hội nông dân Việt Nam có chương trình hành động vì trẻ em nông thôn. Hội đã phối hợp liên ngành, lồng ghép nội dung chương trình đào tạo nguồn lực. Đưa nội dung chương trình vào văn kiện Đại hội, nội dung công tác của hội; Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh với cuộc vận động “ Xã hội tình nguyện vì trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt” với các mục tiêu cụ thể như: bảo vệ trẻ em, ngăn chặn trẻ em phạm tội. Giúp đỡ trẻ em mồ côi lang thang cơ nhỡ. Chăm sóc trẻ em bị hậu quả chất độc màu da cam … Nhiều chương trình, chính sách, mục tiêu ở tầm quốc gia đã được triển khai và có tác động mạnh mẽ đến nhận thức của cả người dân ở cả nông thôn, thành thị cũng như tác động đến việc thực hiện Quyền trẻ em nói riêng. Các chương trình, chính sách đó phần nào làm cho đời sống của nhân dân nói chung và trẻ em nói riêng được nâng lên nhiều. Tuy nhiên, ở một khía cạnh nào đó vẫn có điều cần bàn đến chủ trương, chính sách, chương trình của Nhà nước. Các chủ trương, chương trình, chính sách của Đảng và Nhà nước đề ra với những mục tiêu hết sức tốt cho người dân, nhưng khi triển khai ở tuyến cơ sở thường nảy sinh hoặc thiếu chiều sâu, hoặc hình thức, ít chú ý đến vấn đề trọng tâm, chậm đi vào thực chất. 3. ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn. 3.1. ý nghĩa khoa học. - Góp phần làm sáng tỏ về mặt lý luận vấn đề nhận thức của người dân Hà Nội về quyền trẻ em. Qua đó, bổ sung, làm phong phú thêm cách nhìn nhận, đánh giá vấn đề của người dân về quyền trẻ em. - Đề tài cũng góp phần làm sáng tỏ những khái niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu như: nhận thức, quyền trẻ em, trẻ em, truyền thông. Mặt khác, đề tài cũng góp phần làm phong phú thêm các tiếp cận lý thuyết về vấn đề nghiên cứu. 3.2. ý nghĩa thực tiễn. - Cung cấp bức tranh thực trạng nhận thức của người dân Hà Nội về quyền trẻ em, những yếu tố tác động đến nhận thức của người dân. Trên cơ sở đó, giúp các nhà làm công tác truyền thông – vận động, những người làm công tác trẻ em có cách nhìn nhận chính xác hơn thực trạng nhận thức về quyền trẻ em của người dân, từ đó đề ra những kế hoạch truyền thông – vận động nâng cao nhận thức về quyền trẻ em cho người dân thành phố Hà Nội. - Kết quả đề tài có thể là tài liệu tham khảo có giá trị với các cán bộ quản lý cấp phường, các nhà truyền thông – vận động về quyền trẻ em, những người làm công tác trẻ em ở Hà Nội, cũng như các sinh viên cao đẳng, đại học, những ai quan tâm nghiên cứu vấn đề quyền trẻ em. - Bằng việc chỉ ra thực trạng, những mặt tích cực và hạn chế của công tác truyền thông – vận động về quyền trẻ em ở Hà Nội, những giải pháp mà đề tài đưa ra có thể giúp hoàn thiện các kế hoạch, chương trình truyền thông – vận động nâng cao nhận thức của người dân Hà Nội về quyền trẻ em. 4. Đối tượng, mục đích, khách thể và phạm vi nghiên cứu. 4.1. Đối tượng nghiên cứu. Nhận thức của người dân Hà Nội về Quyền trẻ em. 4.2. Mục đích nghiên cứu. - Tìm hiểu mức độ hiểu biết của trẻ em, các bậc cha mẹ, cộng đồng về quyền trẻ em và việc thực hiện các Quyền trẻ em. - Đánh giá của trẻ em, các bậc cha mẹ và cộng đồng về những thành công và hạn chế của công tác truyền thông – vận động thực hiện Quyền trẻ em. Bước đầu đề xuất một số khuyến nghị nâng cao hiệu quả công tác truyền thông vận động về Quyền trẻ em. 4.3. Khách thể nghiên cứu. Khách thể nghiên cứu của đề tài bao gồm: - Ông (bà), cha/mẹ của trẻ em. - Giáo viên - Trẻ em - Lãnh đạo các tổ chức xã hội cấp phường, quận, thành phố Hà Nội. - Cán bộ làm công tác Dân số, Gia đình, Trẻ em. - Một số cơ quan tổ chức quốc tế có liên quan đến các hoạt động quyền trẻ em (Unicef/Plan/SKUK …) 4.4. Phạm vi nghiên cứu. Đề tài này được thực hiện thông qua việc xử lý và phân tích một phần số liệu của đề tài “Điều tra cơ bản về nhận thức, thái độ, hành vi của cộng đồng phục vụ xây dựng chiến lược truyền thông vận động về quyền trẻ em giai đoạn 2006 – 2010” do TS. Trịnh Hoà Bình – Viện Xã hội làm chủ nhiệm. Cụ thể, đề tài đã phân tích số liệu khảo sát tại địa bàn Hà Nội. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu. 5.1. Phương pháp luận chung. Sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin làm cơ sở khoa học nhằm biện giải cho vấn đề nghiên cứu một cách toàn diện. Xem xét vấn đề nghiên cứu trong sự tương tác và mối quan hệ biện chứng với các vấn đề xã hội khác chứ không tồn tại một cách độc lập, riêng lẻ, các vấn đề liên quan đến vấn đề nghiên cứu được nhìn nhận một cách khách quan trong sự vận động, biến đổi của quá trình hình thành, phát triển. Phương pháp luận chung nói trên cho chúng ta một quan điểm đúng đắn khi tiến hành lập luận phân tích các vấn đề lý luận, thực tiễn trong quá trình nghiên cứu đề tài, đồng thời đây cũng là cơ sở khoa học cho việc lựa chọn sử dụng các phương pháp cụ thể nhằm luận giải cho vấn đề nghiên cứu. 5.2. Phương pháp nghiên cứu. Phương pháp phân tích tài liệu: Sử dụng phương pháp này tác giả tiến hành phân tích các văn kiện, Luật, nghị quyết của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là sử dụng, phân tích nguồn số liệu và báo cáo “Điều tra cơ bản về nhận thức, thái độ, hành vi của cộng đồng phục vụ xây dựng chiến lược truyền thông vận động về quyền trẻ em giai đoạn 2006- 2010” của Phòng Xã hội học sức khoẻ và phát triển- Viện xã hội học. Đồng thời kết hợp và phân tích sách, báo, những thông tin từ Internet, các đề tài nghiên cứu xã hội học, những công trình khoa học có liên quan đến Quyền trẻ em. Việc tiếp cận nhiều nguồn thông tin sẽ giúp tác giả luận văn thu được nhiều thông tin liên quan đến chủ đề nghiên cứu giúp cho sự so sánh, đánh giá vấn đề nghiên cứu được sâu sắc hơn. 6. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết. 6.1. Giả thuyết nghiên cứu. - Nhận thức của nhóm ông, bà/ cha, mẹ và ngay cả một số cán bộ Dân số - Gia đình - Trẻ em về các nhóm quyền ghi trong Công ước quốc tế về Quyền trẻ em vẫn còn nhiều hạn chế, chỉ dừng lại mức độ chung chung hoặc bề nổi, chưa đầy đủ và thực sự sâu sắc. - Nhận thức của trẻ em về quyền của mình còn nhiều hạn chế bởi phương thức truyền thông chưa phù hợp, nội dung truyền thông còn chung chung, thời lượng truyền thông chưa nhiều, tính chất một chiều của truyền thông, những người cung cấp thông tin cho trẻ em (thầy cô giáo, ông bà/cha, mẹ, cán bộ có trách nhiệm) cũng chưa thực sự hiểu sâu về quyền trẻ em. - Giới tính, độ tuổi, trình độ học vấn và nghề nghiệp có ảnh hưởng đến nhận thức của người dân Hà Nội về quyền trẻ em. - Giới tính, cấp học của trẻ em khác nhau thì nhận thức về quyền trẻ em khác biệt nhau. Môi trường kinh tế – xã hội Truyền thông đại chúng Nhận thức của người dân Hà Nội về quyền trẻ em Giới tính Tuổi Trình độ học vấn Nghề nghiệp Công ước quốc tế về quyền trẻ em Bốn nhóm quyền cơ bản của trẻ em 6.2. Khung lý thuyết. + Giải trình khung lý thuyết. - Biến can thiệp gồm có: + Môi trường kinh tế xã hội. Trong đó đề tài nhấn mạnh đến những nhân tố có ảnh hưởng đến nhận thức của người dân Hà Nội về Quyền trẻ em. + Truyền thông đại chúng: Hiện nay truyền thông đại chúng với nhiều hình thức đa dạng và phong phú (Các tổ chức Chính phủ và Phi Chính Phủ) đã và đang tác động rất lớn đến nhiều mặt của đời sống xã hội nói chung và trong vấn đề về Quyền trẻ em nói riêng. Sự tham gia của tổ chức Đảng, chính quyền: Vai trò của tổ chức Đảng và chính quyền các cấp trong công tác truyền thông - vận động Quyền trẻ em là rất lớn trước tiên là ở tính định hướng. Sự tham gia của Đảng uỷ và chính quyền trong công tác Quyền trẻ em thể hiện qua các việc ban hành và triển khai các văn bản, nghị quyết, chỉ thị liên quan xuống cơ sở nhằm tạo môi trường chính trị thuận lợi, sự ủng hộ, đồng tình của dư luận xã hội. Các tổ chức như: UNICEF, PLAN International và một số tổ chức khác như: Liên minh các tổ chức phòng chống buôn bán phụ nữ và trẻ em, Tổ chức cứu trợ nhi đồng Anh (SCUK)… Là những tổ chức Phi Chính Phủ có nhiều hoạt động giúp đỡ trẻ em và cộng đồng nâng cao nhận thức, thực hiện Quyền trẻ em ở Việt Nam với nhiều hoạt động truyền thông vận động. Điều này đã tác động một phần không nhỏ đến nhận thức cũng như thái độ và hành vi của người dân Hà Nội về Quyền trẻ em. - Biến độc lập: Là các đặc điểm cá nhân của người trả lời như: Giới tính, tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp. - Biến phụ thuộc: Là Nhận thức của người dân Hà Nội về Quyền trẻ em. Để tìm hiểu nhận thức của người dân Hà Nội về Quyền trẻ em hiện nay, tác giả xin đưa ra 2 tiêu chí (đề cập đến nhận thức của người dân Hà Nội về 2 nội dung cơ bản) đó là: Nhận thức của người dân Hà Nội về Công ước quốc tế về Quyền trẻ em và nhận thức của người dân Hà Nội về bốn nhóm quyền cơ bản của trẻ em. 7. Những khó khăn khi thực hiện đề tài. Đây là lần đầu tiên tác giả thực hiện một đề tài khoa học độc lập nên ít nhiều gặp những khó khăn về kinh nghiệm, cách thức triển khai… Do nguồn số liệu của đề tài rất lớn. Mặt khác, đề tài không còn lưu số liệu gốc, điều này dẫn đến khó khăn khi phân tích các tương quan trên một địa bàn cụ thể (Hà Nội). Các nghiên cứu về nhận thức, thái độ, hành vi về Quyền trẻ em ở Việt Nam còn rất ít nên tác giả chủ yếu tham khảo báo cáo tổng hợp của đề tài: “Điều tra nhận thức, thái độ và hành vi phục vụ xây dựng chiến lược truyền thông – vận động về Quyền trẻ em giai đoạn 2006 – 2010” do TS. Trịnh Hoà Bình chủ nhiệm. Chương 1: Cơ sở lý luận 1.1. Các lý thuyết liên quan. 1.1.1. Lý thuyết vai trò. Vai trò của cá nhân không chỉ đơn giản liên quan đến những hành vi được xã hội quan sát xem các cá nhân có thực hiện hay không mà trong thực tế còn bao gồm xã hội quan niệm những hành vi đó phải được thực hiện. Những điều mà mỗi cá nhân sẽ phải làm cho đúng với mong muốn của xã hội được gọi là những chuẩn mực và giá trị xã hội đó. Những đòi hỏi quan trọng nhất đối với vai trò cá nhân không chỉ là các thực tế xảy ra mà còn là những cái có liên quan đến sự mong đợi, kỳ vọng, chuẩn mực, quy ước của xã hội đối với những hành vi của mỗi cá nhân. Người làm cha thì phải thực hiện một loạt những hành động theo khuôn mẫu, quy định của xã hội có từ trước, nghĩa là phải yêu thương, chăm sóc, nuôi dưỡng con cái, đảm bảo cho con cái có điều kiện phát triển cả thể chất và trí tuệ. Chỉ khi làm đúng như vậy thì anh ta mới được coi là đã hoàn thành trách nhiệm của người cha đối với con. Thực tế, mỗi cá nhân tham gia nhóm xã hội khác nhau, nên đảm nhiệm những vai trò khác nhau. Ví dụ một đứa trẻ vừa có vai trò là một đứa con, một học sinh… Tuy nhiên, dù có nắm vững, đảm nhận nhiều vai trò trong hoạt động xã hội, thì các cá nhân đều phải hoàn thành tất cả để đáp ứng những qui định, chuẩn mực, giá trị xã hội đã đặt ra. Một đứa trẻ khi ở nhà đảm nhận vai trò làm con thì phải nghe lời ông bà, bố mẹ, yêu thương anh chị em, ngoan ngoãn. Còn khi ở trường, lớp, là một học sinh thì phải lễ phép với thầy cô, hoà nhã với bạn bè, phấn đấu học giỏi … Đôi khi chính các em thể hiện đúng vai trò của mình trong hoạt động xã hội là đã một phần nâng cao quyền của chính mình trong đó. Lý thuyết này áp dụng vào đề tài với mục đích, tìm ra vai trò của cộng đồng, của giáo viên, ông bà, cha mẹ trong việc nâng cao nhận thức về quyền trẻ em cho trẻ em nói chung và con em mình nói riêng. Đặc biệt gia đình có một vai trò hết sức quan trọng trong vấn đề này. Như vậy giúp ta đặt ra một loạt câu hỏi. Cộng đồng đã thể hiện đúng vai trò của mình với trẻ em chưa? Ông bà, cha mẹ đã thể hiện đúng vai trò của mình cho con em mình chưa? (Trong vấn đề nâng cao nhận thức về Quyền trẻ em cho trẻ em). 1.1.2. Lý thuyết truyền thông. - Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ ra rằng: Kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng là một trong những thành phần cơ bản cấu thành hình thái kinh tế xã hội. Trong các hình thái kinh tế xã hội thì kiến trúc thượng tầng bị quy định bởi cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên quy định này không mang tính máy móc, một chiều mà mang tính độc lập tương đối với cơ sở hạ tầng. Kiến trúc thượng tầng có thể tác động, ảnh hưởng trở lại cơ sở hạ tầng, giúp hoàn thiện cơ sở hạ tầng của mỗi xã hội. Mối quan hệ giữa kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng là mối quan hệ biện chứng. Hoạt động của truyền thông đại chúng thuộc về thượng tầng kiến trúc xã hội các phương tiện truyền thông đại chúng có vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận thức và hành vi tích cực cho công chúng. Đồng thời nó là động lực làm ổn định và phát triển. - Một số nhà xã hội học cho rằng người mở đầu cho môn khoa học nghiên cứu tác động của phương tiện truyền thông đại chúng đối với công chúng là MaxWeber. Ông đã luận chứng về mặt phương pháp luận cho sự cần thiết của môn xã hội học báo chí và vạch ra phạm vi các vấn đề nghiên cứu. + Hướng vào các tập đoàn, tầng lớp xã hội khác nhau. + Phân tích yêu cầu xã h._.ội đối với nhà báo. + Coi trọng phương pháp phân tích báo chí. + Phân tích hiệu quả của báo chí đối với việc xây dựng con người. Luận điểm của MaxWeber nói rõ tác động của báo chí trong quá trình hình thành ý thức quần chúng, và vạch ra mối liên hệ của nhân tố báo chí với hoạt động xã hội của cá nhân, các tầng lớp xã hội. Như vậy phương tiện truyền thông đại chúng là một tác nhân quan trọng trong việc xã hội hoá cá nhân và hình thành dư luận xã hội. Các phân tích thực nghiệm và lí luận xã hội học báo chí nói lên rằng công chúng đang ngày càng tỏ ra chủ động hơn trong hoạt động giao tiếp với các phương tiện truyền thông đại chúng cũng như trong việc sử dụng thông tin mà họ tiếp nhận được từ hệ thống ấy vào hoạt động thực tiễn. Công chúng cũng như không phải là những bản đúc của các phương tiện truyền thông đại chúng. Cái gọi là “Xã hội đại chúng” thực sự không đáng lo ngại như có một người ta lầm tưởng. Các chuyển biến này có nhiều nguyên nhân như: Sự trưởng thành về trình độ dân trí, về kinh nghiệm chính trị của người dân, sự phổ biến ngày càng rộng rãi và sự tác động ngày càng lớn mạnh của các phương tiện truyền thông đại chúng. ảnh hưởng của truyền thông đại chúng đối với nhận thức, thái độ và hành vi của công chúng không hề đơn giản. Quá trình truyền thông 2 chiều được xác nhận là có hiệu quả hơn quá trình truyền thông 1 chiều trong việc thay đổi nhận thức, hành vi, kỹ năng với thông tin phản hồi giúp cho chúng ta biết ngay về việc có hiệu quả hay không hiệu quả trong quá trình truyền thông. Lý thuyết truyền thông có thể áp dụng vào đề tài: “Nhận thức của người dân Hà Nội về Quyền trẻ em” như sau: Theo hướng tiếp cận về mặt lý thuyết, con người hiểu biết các vấn đề sự kiện, hiện tượng xã hội thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng. Cụ thể là người dân Hà Nội hiểu biết về Quyền trẻ em thông qua các truyền thông – vận động về Quyền trẻ em. Nhận thức của người dân cũng chính là thước đo mức độ hiệu quả của các phương tiện truyền thông. Từ đó thấy được công tác truyền thông vận động về Quyền trẻ em đã đạt được những ý nghĩa gì? và còn mặt hạn chế nào? Từ đó cũng giúp cho nhà truyền thông biết được người dân hiểu biết đến đâu? Họ biết được những vấn đề gì? Những vấn đề gì còn thiếu? Và cần bổ sung như thế nào? 1.2. Những khái niệm công cụ. 1.2.1. Khái niệm Trẻ em. Trên thực tế khi đưa ra khái niệm về trẻ em nói chung người ta tuỳ theo điều kiện về địa lý, kinh tế – xã hội, trình độ phát triển dân trí hay do phong tục tập quán từng địa phương … Mỗi một quốc gia đều xác định lứa tuổi của trẻ em để phân biệt với người trưởng thành. ở nhiều quốc gia trên thế giới, nhất là các nước phương tây thường lấy mốc dưới 18 tuổi để xác định ranh giới giành cho em. Theo Công ước về Quyền trẻ em của Liên hợp quốc thì “ Trẻ em được xác định là người dưới 18 tuổi, trừ khi Luật pháp quốc gia quy định tuổi thành niên sớm hơn” (Những điều cần biết về Quyền trẻ em – NXB.CTQG Hà Nội 1997 tr.20 – Vũ Ngọc Bình). ở Việt Nam do nhận thức được tầm quan trọng của sự nghiệp chăm sóc và giáo dục trẻ em trong Dân số học thường lấy mốc 15 tuổi để phân biệt trẻ em với tuổi trưởng thành. Theo Điều 1 của Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã được nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 12/8/1991 quy định như sau: “Trẻ em quy định trong Luật này là công dân Việt Nam dưới 18 tuổi”. Với việc xác định rõ ranh giới lứa tuổi giành cho trẻ em ở nước ta đã tạo đà cho việc bảo vệ chăm sóc trẻ em trong các lĩnh vực học tập, vui chơi, giải trí ..Vậy dựa trên tinh thần của Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, khi đề cập đến khái niệm trẻ em trong khoá luận này bao gồm những công dân Việt Nam dưới 18 tuổi. 1.2.2. Khái niệm Quyền trẻ em Quyền trẻ em là một bộ phận hợp thành của Quyền con người. Thực hiện Quyền trẻ em là đảm bảo cho trẻ em được bảo vệ, tham gia, được đóng góp ý kiến… mà pháp Luật cho phép bởi lẽ trẻ em là tầng lớp công dân đặc biệt. Các Quyền trẻ em phải được bảo vệ bằng Nhà nước pháp quyền. “Nhu cầu chăm sóc đặc biệt trẻ em đã được khẳng định trong tuyên ngôn về Quyền trẻ em do Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 20/11/1959 và đã được thừa nhận trong tuyên ngôn thế giới về Quyền con người, trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (đặc biệt trong các điều 23 và 24), trong Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá (đặc biệt trong điều 10), trong những điều lệ và văn kiện có liên quan khác của các cơ quan chuyên môn, các tổ chức quốc tế liên quan đến phúc lợi của trẻ em”1. Công ước của Liên hợp quốc về Quyền trẻ em, NXb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, tr 22. Ngoài ra, nước CHXHCN Việt Nam khoá VIII, kỳ họp thứ 9 thông qua Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ngày 12/8/1991 và ngày 15/6/2004, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 5 đã thông qua Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em thay thế Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 1991; Luật phổ cập giáo dục năm 1991; Nghị định 374/HĐBT ngày 14/11/1991 qui định chi tiết về việc thực hiện Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. 1.2.3. Khái niệm nhận thức. Nhận thức là một trong ba mặt cơ bản của đời sống tâm lý con người (nhận thức, tình cảm và hành động). Nó có quan hệ chặt chẽ với các mặt kia, nhưng không ngang bằng về mặt nguyên tắc. Nó cũng có quan hệ mật thiết với các hiện tượng tâm lý khác của con người. Nhận thức là một quá trình, ở con người quá trình này thường gắn với mục đích nhất định nên nhận thức của con người là hoạt động. Đặc trưng nổi bật nhất của hoạt động nhận thức là phản ánh hiện thực khách quan. Hoạt động này gồm nhiều quá trình khác nhau, thể hiện những mức độ phản ánh hiện thực khác nhau (cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng…) và mang lại những sản phẩn khác nhau về hiện thực khách quan (hình ảnh, hình tượng, biểu tượng, khái niệm). Nguyễn Quang Uốn (chủ biên), Trần Hữu Luyến, Trần Quốc Thành, Tâm Lý Học Đại cương, NXB ĐH QQGHN,1999, Tr71 Nhận thức là quá trình hoặc kết quả phản ánh và tái hiện hiện thực vào trong tư duy; quá trình con người nhận biết, hiểu biết về thế giới khách quan, hoặc kết quả của quá trình đó (Từ điển Tiếng Việt, 1996, Tr 689). Chương 2. Kết quả nghiên cứu 2.1. Thực trạng nhận thức của trẻ em, gia đình và cộng đồng về Quyền trẻ em 2.1.1. Trẻ em với vấn đề Quyền trẻ em. 2.1.1.1. Nhận thức chung của trẻ em về Quyền trẻ em Chuyển biến nhận thức của trẻ về Quyền trẻ em có ý nghĩa rất quan trọng vì “Do còn non nớt về thể chất và trí tuệ”, được dạy dỗ trong nhà trường với triết lý một chiều khiến các em thiếu tự tin, không dám biểu đạt. Hơn nữ, với điều kiện kinh tế – xã hội hiện tại, sự tiếp cận các dịch vụ xã hội của trẻ em là hoàn toàn khác nhau. Tuy nhiên công tác truyền thông – vận động xã hội đã làm được điều đó. Các hoạt động về chăm sóc, giáo dục trẻ em, đặc biệt là các hoạt động về truyền thông vận động đã góp phần nâng cao nhận thức của cộng đồng cũng như nhận thức của chính các em về Quyền của mình. Tỷ lệ các em nhận thức được rằng các em cũng có Quyền là 66,7%. Bảng 2.1. Quan niệm của trẻ em về Quyền trẻ em. Quan niệm Số liệu chung Giới tính SL (em) Tỷ lệ (%) Nam (%) Nữ (%) Là được làm những gì mình muốn mà không ảnh hưởng tới xã hội (1) 50 16,7 44.0 56.0 Là những gì trẻ em cần có để được sống và lớn lên một cách lành mạnh, an toàn (2) 221 73,7 45.3 54.7 Là sự đảm bảo được bảo vệ chăm sóc và tự chủ tham gia vào phát triển (3) 196 65,3 49.0 51.0 Là những gì người lớn quyết định cho trẻ em được thể hiện trong Luật và quy ước xã hội (4) 54 18,0 44.5 55.5 Là bộ phận không thể thiếu của quyền con người (5) 124 41,3 56.4 43.6 Là những gì trẻ em được hưởng từ gia đình, nhà trường, xã hội (6) 194 64,7 51.5 48.5 Là những điều ghi trong Công ước quốc tế hoặc các Luật Việt Nam nhằm chăm sóc bảo vệ trẻ em (7) 235 78,3 46.7 53.3 (Nguồn: “Điều tra cơ bản kiến thức, thái độ và hành vi của cộng đồng phục vụ xây dựng chiến lược truyền thông – vận động về quyền trẻ em giai đoạn 2006 – 2010”. Những bảng số liệu định lượng và định tính trong chương 2 nếu không trích nguồn thì đều trích từ đề tài nêu trên). Kết quả ở bảng số liệu này cho thấy: nhìn chung trẻ em nhận thức về Quyền trẻ em chưa sâu, chưa đồng đều ở tất cả những nội dung mà trẻ em có quyền được hưởng. Trong 7 nhóm nội dung đã nêu, chỉ có 4 nội dung là trẻ em có tỷ lệ nhận thức cao, đó là “Là những điều ghi trong Công ước Quốc tế hoặc các Luật Việt Nam” (73.8%), tiếp đó là “Là những gì trẻ em cần có để được sống và lớn lên một cách lành mạnh, an toàn” (73.7%), “Là sự đảm bảo được bảo vệ, chăm sóc và tự chủ tham gia vào phát triển” (65.3%), “Là những gì trẻ em được hưởng từ gia đình, nhà trường, xã hội” (64.7%), “Là những gì trẻ em được hưởng từ gia đình, nhà trường, xã hội” (64.7%). Ngoài ra với 3 nhóm quyền quan trọng khác trẻ em nhận thức với tỷ lệ thấp. Qua bảng 2.1 ta thấy trẻ em được hỏi có hiểu biết về các quyền của mình. Tuy nhiên, mức độ hiểu biết đó còn chưa sâu. Điều này được thể hiện chỉ có 16.7% các em được hỏi là công nhận về quyền “Là được làm những gì mình muốn mà không ảnh hưởng tới xã hội”. Có thể lý giải nguyên nhân của thực trạng này như sau: Trẻ em không biết là mình được làm những gì chúng muốn mà không ảnh hưởng tới xã hội. Chúng thụ động trong các việc làm của mình hay chịu sự quản lý từ phía gia đình, nhà trường... hoặc có thể chúng rất muốn làm những việc mà chúng nghĩ mà không ảnh hưởng tới ai nhưng chúng lại không có được quyền đó. Phải chăng khi người lớn nghĩ trẻ em còn quá nhỏ (chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng như tinh thần) nên không thể tự làm những gì chúng muốn, do vậy luôn áp đặt, đưa ra quyết định hội chúng nên trẻ em phần nào bị hạn chế trong việc “Tự do làm hoặc quyết định một số việc” ở quyền thứ 5 thì tỷ lệ trẻ em chọn cũng không cao (41.3%). Như vậy ta thấy rằng trẻ em còn chưa thực sự hiểu thế nào là quyền con người. Chúng chỉ biết rằng chúng có một số quyền cơ bản như: Được sống, được lớn lên một cách lành mạnh, an toàn, được hưởng từ gia đình, nhà trường, xã hội... Ngoài ra chúng còn hiểu được rằng quyền trẻ em còn là những điều ghi trong “Công ước quốc tế và các Luật Việt Nam nhằm chăm sóc, bảo vệ trẻ em”. Như vậy chúng biết rằng quyền của mình không chỉ được thừa nhận một cách chung chung mà phải được Luật pháp hoá (ghi trong Công ước hoặc các Luật). Trong 4 nội dung có tỷ lệ trẻ em nhận thức cao thì trẻ em gái luôn chiếm tỷ lệ cao hơn trẻ em nam. (số liệu thể hiện trên bảng 2.1). Sở dĩ có sự chênh lệch nhận thức về quyền trẻ em này chắc chắn có nhiều nguyên nhân, song có thể một trong những nguyên nhân đó là do phương pháp tuyên truyền, giáo dục của đội ngũ giáo viên, và những người làm công tác truyền thông – vận động về Quyền trẻ em còn nhiều hạn chế, những thông tin định tính sau đây sẽ chỉ rõ điều đó: “Em thấy công tác tuyên truyền thì nhiều, nhưng cứ toàn nói chung chung. Em nghĩ các cô các chú phải nói rõ trẻ em có quyền gì chứ”. (PVBCT nam, học sinh, 14 tuổi, phường Quỳnh Mai, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội ) “Theo em cách tuyên truyền phải dễ hiểu cơ, các cô các chú đọc trên loa chung chung, chúng em chẳng chú ý nghe, Nhà trường chưa bao giờ nói về quyền trẻ em. (PVBCT nam, học sinh, 15 tuổi, quận Hoàng Mai, Hà Nội) Như vậy, rõ ràng theo đánh giá của các em thì phương pháp truyền thông về quyền trẻ em còn mang tính chung chung, bề nổi, gây khó hiểu cho các em. Tuy nhiên, hiểu biết của các em về Quyền trẻ em chỉ dừng lại ở những quyền quen thuộc với nội dung rất chung. Phần đông các em biết trẻ em có quyền học tập, quyền vui chơi, giải trí, quyền được sống, quyền được đăng ký khai sinh, quyền được chăm sóc. Ngoài những quyền đó các em chưa hẳn đã ý thức được những vấn đề cụ thể hơn nữa trong quyền trẻ em. “Trẻ em có những quyền như khai sinh, quyền có quốc tịch, quyền được sống chung với cha mẹ, quyền có tài sản, quyền được phát triển năng khiếu, quyền được nuôi dưỡng, quyền được học tập” (TLN trẻ em, 15 tuổi, phường Thanh Nhàn, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội) “Có quyền được chăm sóc, bảo vệ (khi bị xâm hại về thân thể)” (Nguyễn Tuấn Anh, 15 tuổi, Hoàng Mai, Hà Nội ). Và ở nhiều nhóm, các em chỉ biết có Luật Bảo vệ Chăm sóc và Giáo dục trẻ em và Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em chứ không biết trẻ em có quyền gì cụ thể. Như vậy, nhận thức của chính các em về quyền của mình còn hạn chế. Sở dĩ có điều đó vì các em còn e dè, thụ động, thiếu tự tin hoặc do thiếu hụt thông tin. Vả lại, chính những người cung cấp thông tin cho các em như thầy cô giáo, cha mẹ, ông bà … cũng còn chưa thực sự hiểu sâu về Quyền trẻ em. Nhìn chung, nhận thức của các em về quyền trẻ em là khá cao. Sở dĩ có tỷ lệ các em nắm vững những nội dung cơ bản trong quyền trẻ em của các em phải chăng một phần người điều tra nêu các phương án trả lời cho các em nghe thực chất để tự các em nghĩ ra thì sẽ khó khăn hơn. “Tỷ lệ trẻ em từ 9 đến 16 tuổi nghe, biết về Luật chưa cao, chỉ chiếm 70.9% trong tổng số trẻ em ở độ tuổi này … Trẻ em gái quan tâm đến Luật hơn trẻ em nam. Có đến 72.3% trẻ em gái đã nghe/ biết về Luật” (“Đánh giá nhận thức và Dư luận xã hội qua 10 năm thực hiện Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em” (2001) – Trung tâm truyền thông – vận động xã hội. Thực hiện: Trịnh Hoà Bình, Đặng Nam và cộng sự) 2.1.1.2. Nhận thức của trẻ em về Công ước quốc tế về Quyền trẻ em và 4 nhóm quyền cơ bản của trẻ em. Nhận thức của trẻ em về Công ước quốc tế về Quyền trẻ em đặc biệt là 4 nhóm quyền cơ bản được ghi trong Công ước có ý nghĩa rất quan trọng. Qua nghiên cứu định tính (TNL, PVBCT tại Hà Nội) cho ta thấy. “Công ước Quyền trẻ em có 4 quyền cơ bản: quyền sống, quyền tham gia, bảo vệ, được phát triển. Em biết qua các phương tiện truyền thông” (PVBCT, nữ, học sinh lớp 7, phường Thanh Nhàn, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội) “Là văn bản quốc tế đầu tiên đề cập đến Quyền trẻ em theo hướng tiến bộ, bình đẳng và toàn diện, thể hiện sự tôn trọng và quan tâm của cộng đồng quốc tế với trẻ em gồm 4 nhóm quyền, 3 nguyên tắc, và 1 quá trình” (TLN trẻ em phường Thanh Nhàn, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội) “Trẻ em được khai sinh và được nuôi dạy nên người. Em đọc trên báo Thiếu Niên” (Nguyễn Tuấn Anh, 15 tuổi, Hoàng Mai, Hà Nội). “Em biết được Công ước quốc tế về Quyền trẻ em ở trong trường học. Nội dung của Công ước quy định trẻ em có các quyền sau: Quyền được sống con, Quyền được bảo vệ, Quyền được phát triển, Quyền được tham gia” (TLN trẻ em phường Thanh Nhàn, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội). Nhìn chung, hầu hết các em đã nghe và biết đến Công ước quốc tế và một số thông tin về Công ước như: “Là văn bản Luật quốc tế quy định về quyền trẻ em”… Một số các em đã biết được nhóm quyền cơ bản trong Công ước. Song nhận thức của các em chủ yếu mới chỉ dừng lại ở việc nghe biết đến còn nội dung các nhóm quyền để cập những gì thì các em chưa nắm được. Số liệu định tính cho ta một kết quả khá khả quan. Trong các cuộc TLN và PVBCT các em dã tự nói lên những suy nghĩ, hiểu biết của mình về quyền trẻ em. Tuy nhiên để các em hiểu sâu và rộng hơn về quyền trẻ em thì cần sự hỗ trợ, tác động của rất nhiều yếu tố (gia đình, nhà trường, công tác truyền thông – vận động về quyền trẻ em). 2.1.1.3. Nhận thức của trẻ em về quyền trẻ em được thể hiện trong luật BVCS&GDTE sửa đổi 2004. Nhận thức của trẻ em về các quyền trẻ em đã được ghi trong Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em (15 loại quyền của trẻ em), bảng số liệu sau đã cho thấy kết quả khá khả quan. Bảng 2.2: Nhận thức của trẻ em về các quyền trẻ em đã được thể hiện trong Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em sửa đổi 2004 Quyền trẻ em Số liệu chung Số lượng (em) Tỷ lệ (%) Q1: Quyền được khai sinh và có quốc tịch. 279 93,0 Q2: Quyền có mức sống đầy đủ và phát triển thể chất và tinh thần 227 75,7 Q3: Quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng 275 91,7 Q4: Quyền được đối xử nhân đạo khi bị giam giữ 143 47,7 Q5: Quyền được sống chung với cha mẹ 258 86,0 Q6: Quyền được hưởng an toàn xã hội 221 73,7 Q7: Quyền được tôn trọng, bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm 250 83,3 Q8: Quyền được chăm sóc sức khoẻ 243 81,0 Q9: Quyền được học tập 279 93,0 Q10: Quyền được tự do (biểu đạt, kết giao, tín ngưỡng …) 186 62,0 Q11: Quyền vui chơi, giải trí, hoạt động văn hoá, nghệ thuật 267 89,0 Q12: Quyền được phát triển năng khiếu 241 80,3 Q13: Trẻ em thiệt thòi, khuyết tật được hưởng sự chăm sóc đặc biệt. 245 81,7 Q14: Quyền có tài sản 55 18,3 Q15: Quyền được tiếp cận thông tin, bày tỏ ý kiến và tham gia hoạt động. 233 77,7 Trong đó, các quyền cơ bản có tỷ lệ trẻ em biết cao như “Quyền được học tập” là 93.0%; “Quyền được khai sinh và có quốc tịch” – 93.0%; “Quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng” - 91.7%; “Quyền vui chơi, giải trí, hoạt động văn hoá, nghệ thuật” – 89%; “Quyền được sống chung với cha mẹ” – 86.0%. Tuy vậy, có những quyền được ghi trong Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em như: “Quyền có tài sản” (Điều 19) chỉ có 18.3% trẻ em nhận biết được vấn đề này. Điều đó chứng tỏ trẻ em mới quen được tuyên truyền, giáo dục về những quyền cơ bản, quen thuộc thường nhật còn những quyền quan trọng khác thì còn ít quan tâm. Hầu hết các quyền đã được nêu ra (13/15 quyền) tỷ lệ lựa chọn đã biết là khá cao. Một điểm cần lưu ý là trong các tiêu chí về quyền trẻ em, học sinh cấp Tiểu học (TH) và Trung học cơ sở (THCS) có tỷ lệ cao hơn rất nhiều so với học sinh cấp Trung học phổ thông (THPT) về sự hiểu biết các quyền đã được thể hiện trong Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em. Điều này được giải thích theo ý kiến của nhiều giáo viên và học sinh là hiện nay là ở cấp TH và THCS đang dạy môn Giáo dục công dân, mà trong môn này có nhiều nội dung liên quan đến vấn đề quyền trẻ em nên các em có thể nắm bắt được những thông tin cơ bản. Còn học sinh THPT phải lo học nhiều môn để chuẩn bị bước vào các kỳ thi tốt nghiệp THPT, thi đại học nên không chú ý nhiều đến những thông tin về Quyền trẻ em. Phải chăng, các bài giảng, bài học trực tiếp về Quyền trẻ em đã không còn nữa vì thế sự quan tâm, hiểu rõ của các em học sinh cũng giảm đi. Bảng 2.3: Trẻ em nhận biết về các quyền được ghi trong Luật BVCS&GDTE sửa đổi 2004 (tương quan theo cấp học) Quyền trẻ em Cấp học TH THCS THPT Q1: Quyền được khai sinh và có quốc tịch. 88.8 92.0 83.2 Q2: Quyền có mức sống đầy đủ và phát triển thể chất và tinh thần 71.5 70.3 58.0 Q3: Quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng 90.8 88.8 76.5 Q4: Quyền được đối xử nhân đạo khi bị giam giữ 50.5 44.7 39.5 Q5: Quyền được sống chung với cha mẹ 88.6 86.8 74.8 Q6: Quyền được hưởng an toàn xã hội 67.3 67.7 61.3 Q7: Quyền được tôn trọng, bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm 81.0 83.3 68.1 Q8: Quyền được chăm sóc sức khoẻ 80.5 81.5 69.7 Q9: Quyền được học tập 89.2 90.0 83.2 Q10: Quyền được tự do (biểu đạt, kết giao, tín ngưỡng …) 48.2 56.8 52.1 Q11: Quyền vui chơi, giải trí, hoạt động văn hoá, nghệ thuật 86.3 87.4 71.4 Q12: Quyền được phát triển năng khiếu 78.1 76.4 64.7 Q13: Trẻ em thiệt thòi, khuyết tật được hưởng sự chăm sóc đặc biệt. 73.4 77.8 57.1 Q14: Quyền có tài sản 44.4 40.0 39.5 Q15: Quyền được tiếp cận thông tin, bày tỏ ý kiến và tham gia hoạt động. 70.8 67.4 52.1 Kết quả cho thấy hầu hết trẻ em được hỏi đã nhận biết được các quyền của mình. Tuy nhiên trong 15 quyền đưa ra thì “Quyền có tài sản” có tỷ lệ thấp (chiếm 18.3%) điều này có thể lý giải: Do quan niệm của người lớn (các bậc cha mẹ, thầy cô…) nghĩ rằng do trẻ còn nhỏ không cần có tiền hoặc có tài sản riêng vì trẻ sống trong gia đình cùng cha mẹ nên các em thấy rằng mình không có quyền đó, vì vậy số lượng các em trả lời chiếm tỷ lệ thấp. Một điểm đáng lưu ý nữa, đó là tỷ lệ các em cho rằng trẻ em có “quyền được đối xử nhân đạo khi bị giam giữ” cũng không cao (47.7%). Nếu trẻ em vi phạm pháp luật bị giam giữ thì trẻ em có quyền được đối xử nhân đạo nhưng số lượng trẻ em lựa chọn quyền này lại thấp. Chứng tỏ trẻ em còn chưa thực sự hiểu sâu về quyền của mình và không nghĩ là trẻ em sẽ được đối xử nhân đạo ngay cả khi bị giam giữ. Bên cạnh những quyền mà trẻ em có, trẻ em có nghĩa vụ thực hiện các bổn phận của mình. Do đó, trẻ em nhận thức về bổn phận của mình là một trong những thang đo quan trọng trong việc thực hiện quyền trẻ em. Kết quả khảo sát cho thấy tỷ lệ trẻ em nhận thức được bổn phận của mình đối với gia đình và xã hội là khá cao. Bảng 2.4: Tương quan giữa giới tính và nhận thức của trẻ em về bổn phận của trẻ em Nội dung bổn phận Số liệu chung Giới tính SL Tỷ lệ (%) Nam (%) Nữ (%) Yêu kính, hiếu thảo với ông bà, cha mẹ, lễ phép với người lớn, yêu thương em nhỏ, đoàn kết với bạn bè, giúp đỡ người già yếu, tàn tật khó khăn. 281 93.6 46.6 53.4 Chăm chỉ học tập, giữ gìn vệ sinh, rèn luyện thân thể thực hiện trật tự công cộng và an toàn giao thông, giữ gìn của công, tôn trọng tài sản của người khác, bảo vệ môi trường. 275 91.6 36.4 63.6 Yêu lao động, giúp đỡ gia đình làm những gì vừa sức mình. 264 88.0 58.4 41.6 Sống khiêm tốn, trung thực có đạo đức, tôn trọng pháp Luật, tuân theo nội quy nhà trường, thực hiện nếp sống văn minh, gia đình văn hoá mới, tôn trọng, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. 267 88.9 52.4 47.6 Yêu quê hương, đất nước, yêu đồng bào, có ý thức xây dựng, bảo vệ tổ quốc Việt Nam và đoàn kết quốc tế 268 89.3 51.1 48.9 Tất cả năm nhóm nội dung bổn phận trẻ em đều trên 88.0% trẻ em nhận thức được đó là bổn phận và trách nhiện của mình, đặc biệt có những nhóm nội dung bổn phận tỷ lệ trẻ em nhận thức rất cao (bổn phận “yêu kính, hiếu thảo với ông bà, cha mẹ, kính trọng thầy cô…” tới 93.6%, bổn phận “chăm chỉ học tập, giữ gìn vệ sinh, rèn luyện thân thể…” tới 91.6%. Trong các nghiên cứu định tính, trẻ em là học sinh đã cho thấy các em nắm vững rất chắc về nội dung các bổn phận của mình. “Hiếu thảo với ông bà, cha mẹ, kính trọng thầy cô, đoàn kết với bạn bè. Là con ngoan, trò giỏi. Làm theo 5 điều Bác Hồ dạy” (Trần Trúc Quỳnh, 14 tuổi, Quỳnh Mai, Hai Bà Trưng, Hà Nội) “Kính trọng người lớn, yêu thương em nhỏ, giúp đỡ bạn bè. Ngoan ngoãn, học giỏi vâng lời cha mẹ” (Lê Thanh Tâm, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, Hoàng Mai Hà Nội) “Yêu quý, kính trọng, biết ơn cha mẹ, ông bà. Nuôi dưỡng cha mẹ, ông bà kho ốm đau. Tham gia đầy đủ các hoạt động của trường lớp, chấp hành các nội quy của trường lớp (Nguyễn Tuấn Anh, 15 tuổi, Hoàng Mai, Hà Nội). 2.1.1.4. Trẻ em được tham gia như thế nào vào quyết định có liên quan tới trẻ em trong gia đình? Mặc dù vậy từ nhận thức đến thực tế là các em đã thực sự được hưởng những quyền đó đến đâu thì vẫn còn một khoảng cách không nhỏ. Bảng 2.3 (với nội dung trên thực tế các em đã được hưởng quyền tham gia của mình như thế nào?). Bảng 2.5: Trẻ em tham gia vào các quyết định có liên quan tới trẻ em trong gia đình (nhóm trẻ em). Các tiêu chí Số liệu chung Số lượng (em) Tỷ lệ (%) Được tự quyết định 80 26,6 Được tham gia bàn bạc cùng cha mẹ 186 62,0 Được cha mẹ hỏi ý kiến 216 72,0 Được cha mẹ thông báo 161 53,6 Không được tham gia 36 12,0 Qua bảng số liệu ta thấy trẻ em được tham gia bàn bạc vào các quyết định có liên quan tới mình chiếm tỷ lệ khá cao (62.0%), các bậc cha mẹ cũng rất tôn trọng ý kiến của con mình trước khi quyết định một việc nào đó liên quan đến chúng (72.0%). Nhưng cha mẹ cũng không cho con mình được quyền tự quyết định việc liên quan đến con trẻ (26.6%), đây cũng là điều dễ hiểu bởi họ nghĩ con mình vẫn còn nhỏ về tuổi và mức độ hiểu biết còn hạn chế nên khó có thể có những quyết định đúng được. Có người cho rằng quyền tham gia của trẻ em đơn thuần chỉ là: Chỉ cần hỏi ý kiến của chúng khi quyết định như: đi chơi, đi về quê… nhưng thực ra nó chưa hẳn là quyền tham gia của trẻ em. Bởi vì, quyền tham gia của trẻ em còn được hiểu rộng ra đó là quyền chúng được tham gia vào những hoạt động xã hội, những chính sách có liên quan đến chúng… Vì vậy trẻ em có suy nghĩ hạn chế về quyền tham gia của mình. Tuy nhiên, có một điều đáng lưu ý là vẫn còn những trẻ em không được tham gia vào các quyết định có liên quan tới chúng. Đây là câu hỏi rất cần câu trả lời bởi nó đã vô tình xâm phạm đến quyền trẻ em. Như vậy, ta thấy nhận thức của trẻ em về quyền trẻ em ở Hà Nội hiện nay là khá khả quan. Tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế sau: + Nhận thức của trẻ em về quyền của mình còn nhiều hạn chế có lẽ bởi một phần phương thức truyền thông chưa phù hợp, nội dung truyền thông còn chung chung. + Nhận thức về 4 nhóm quyền của các em còn ở dạng chung nhất, đại khái, chủ yếu trẻ em mới nghe biết về Công ước Quốc tế về quyền trẻ em và một số nhóm quyền cơ bản. + Phần lớn các em đã biết đến nội dung của các điều Luật thể hiện trong Luật bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em 2004 sửa đổi 2004. Mặc dù vậy, bên cạnh việc nhận thức được các quyền của mình, phần lớn các em đã nhận thức sâu sác về bổn phận của mình. 2.1.2. Gia đình với vấn đề quyền trẻ em. 2.1.2.1. Nhận thức của ông bà, cha mẹ về quyền trẻ em. Để tìm hiểu thực trạng nhận thức về quyền trẻ em của nhóm đối tượng ông bà, cha mẹ trẻ em. Ta quan sát bảng số liệu sau: Bảng 2.6: Thực trạng hiểu biết về quyền trẻ em của nhóm ông bà, cha mẹ. Câu trả lời Số liệu chung Giới tính SL % Nam Nữ Có biết 236 78.4 78.0 78.7 Không biết 22 7.3 6.0 8.0 Không trả lời 43 14.3 16.0 13.3 Bảng số liệu cho thấy, trong số 301 người được khảo sát có 236 (78.4%) người trả lời là đã biết quyền trẻ em. Nếu chỉ so sánh với số người có trả lời câu hỏi (258 người) thì tỷ lệ người đã biết về quyền trẻ em là 91.4%. Như vậy, tỷ lệ ông bà, cha mẹ biết về quyền trẻ em là rất cao. Khi so sánh sự hiểu biết của nhóm ông bà, cha mẹ trẻ em trong tương quan giới thì xem không có sự khác biệt (ở nam là 78.0%, ở nữ là 78.7%). Trong nhóm ông bà, cha mẹ biết về quyền trẻ em nói chung, tỷ lệ biết về những quyền cơ bản của quyền trẻ em tương đối cao. Đơn vị tính: % Biểu: Quan niệm về quyền trẻ em của nhóm ông, bà/ cha, mẹ Ghi chú: S1: Là được làm những gì mình muốn mà không ảnh hưởng đến xã hội S2: Là những gì mà trẻ em cần được sống và lớn lên một cách lành mạnh, an toàn. S3: Là sự đảm bảo được bảo vệ, chăm sóc và tự chủ tham gia vào quá trình phát triển. S4: Là những gì người lớn quy định cho trẻ em được thể hiện trong các và quy ước xã hội. S5: Là bộ phận không thể thiếu của quyền con người. S6: Là những gì mà trẻ em được hưởng từ gia đình, nhà trường và toàn xã hội. S7: Là những điều ghi trong Công ước Quốc tế hoặc các Luật cua Việt Nam nhằm bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Những chỉ số khá cao này có thể cho thấy, truyền thông trên diện rộng đã tác động đến nhận thức của người dân. Người dân đã biết được những vấn đề then chốt, cơ bản, liên quan đến quyền trẻ em ở Việt Nam. Tuy nhiên, nếu số lượng định lượng cho ta thấy một kết quả khá khả quan về nhận thức của cộng đồng về quyền trẻ em thì những thông tin định tính thu được lại chưa có được sự khả quan như thế. Các thảo luận nhóm tại cộng đồng cho thấy, phần đông những người biết về quyền trẻ em, nhưng chỉ tập trung ở một vài quyền cơ bản như quyền học tập, quyền được vui chơi, giải trí và đặc biệt tỷ lệ cao nhất là biết về quyền được khai sinh và có quốc tịch của trẻ em. “Trẻ em có nhiều quyền lắm, nhưng tôi chỉ biết đến những quyền cơ bản như quyền được khai sinh, quyền được học hành, vui chơi, giải trí, bình đẳng, có quyền đề đạt với các cấp, được bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ” (TLN cộng đồng, nữ, 42 tuổi, xã Liên Ninh, Hà Nội). “Nhìn chung, người dân nhận thức đến các vấn đề liên quan đến trẻ em nhiều hơn còn vấn đề quyền trẻ em thì rất ít người biết đến” (TLN cộng đồng, nữ, 33 tuổi, phường Quỳnh Mai, Hà Nội) Nhận thức của cha mẹ về quyền trẻ em còn chịu ảnh hưởng bởi nghề nghiệp mà họ đang làm. Điều này cũng không có gì khó hiểu bởi khi cha mẹ trẻ em làm trong khu vực Nhà nước thì nhận thức về quyền trẻ em cũng cao hơn so với các bậc cha mẹ trẻ em làm trong khu vực tư nhân hoặc buôn bán. Số liệu định tính sau sẽ cho ta thấy điều đó. “Về quyền trẻ em thì tôi cũng không rõ lắm, tôi bận làm ăn suốt nên cũng chẳng để ý” (TLN cộng đồng, Bùi Thị Thuỷ, 30 tuổi, bán thuốc thú y, phường Vĩnh Hưng, Hà Nội). “Nói thực với chị là như thế này, địa phương giả sử có tuyên truyền thì cứ thông báo lên loa, ai mà đi nghe được. Sáng ngày ra tôi còn bận đi làm, các cháu thì đi học cho nên cũng chẳng ai nghe được”. (TLN cộng đồng, Trần Thị Thêm, 45 tuổi, buôn bán, tổ 6, phường Vĩnh Hưng, Hà Nội). “Tôi cũng nghe nói về quyền trẻ em và một số quyền cơ bản như: quyền được khai sinh, quyền được học tập, quyền được vui chơi, giải trí, quyền được tham gia… nhưng để hiểu sâu sắc về nó thì tôi chưa chắc lắm” (TLN cộng đồng, Nguyễn Văn Sơn, Sở Điện lực, phường Vĩnh Hưng, Hà Nội”. Tóm lại nhận thức của nhóm ông bà, cha mẹ về quyền trẻ em vẫn còn nhiều hạn chế. Họ chỉ nắm được thông tin mang tính bề nổi, có nghe, nói, và biết đến một số quyền quen thuộc biểu hiện trong cuộc sống. Họ chưa được đi sâu tìm hiểu nên nhận thức chỉ dừng lại ở mức chung chung. 2.1.2.2. Nhận thức của ông bà, cha mẹ về các nhóm quyền trẻ em được ghi trong Công ước quốc tế. Để đánh giá nhận thức của nhóm ông bà/ cha mẹ về quyền trẻ em được quy định trong Công ước Liên hợp quốc ta quan sát bảng số liệu sau: Bảng 2.7: Nhận biết của ông bà/ cha mẹ về những nhóm quyền đã được quy định trong Công ước Quốc tế về Quyền Trẻ em Các nhóm quyền Số liệu chung Số lượng Tỷ lệ Quyền được sống còn 228 75.7 Quyền được phát triển 234 77.7 Quyền được bảo vệ 252 83.7 Quyền được tham gia 184 61.1 ý kiến khác 15 4.9 Không trả lời 27 8.9 Trong 4 nhóm quyền được nêu trên, tỷ lệ ông bà/ cha mẹ cho rằng các nhóm quyền này nằm trong Công ước quốc tế về quyền trẻ em rất cao. Trong đó, “Quyền được bảo vệ” có tỷ lệ cao nhất, tiếp đến “Quyền được phát triển”, thứ ba là “Quyền được sống còn”, quyền có tỷ lệ lựa chọn thấp nhất là “Quyền được tham gia”. Điều này có thể thấy rằng trong đặc trưng của giáo dục gia đình truyền thống, với sự tồn tại có tính bền vững của chế độ gia trưởng cũng như những đặc trưng riêng của nền văn hoá chịu ảnh hưởng của Nho giáo Việt Nam mà quyền tham gia của trẻ em được người dân thừa nhận bằng sự dè dặt. Khảo sát ở khu vực Hà Nội có thể có kết quả khả quan hơn những khu vực khá._.ành động quốc gia vì trẻ em Việt Nam, triển khai thi hành Luật BVCS&GDTE (1991 – 2005) và 5 năm thực hiện kế hoạch truyền thông – vận động xã hội về quyền trẻ em (2001-2005) trên bình diện toàn quốc đã đạt được những thành công đáng ghi nhận. Nhận thức của cộng đồng xã hội về quyền trẻ em đã được nâng lên ở mức đáng kể, nhưng vẫn có thể nói là chưa thực sự sâu sắc, vững chắc và đầy đủ giữa các nhóm xã hội trong cộng đồng về mức độ hiểu biết khác nhau về quyền trẻ em. Rõ ràng trong lĩnh vực này còn không ít những bất cập và hạn chế. Đây là điểm cần lưu ý khi xây dựng các chương trình truyền thông vận động về quyền trẻ em trong giai đoạn tiếp theo. * Truyền thông vận động về quyền trẻ em đã có tác động tích cực đến nhận thức của người dân, cán bộ, gia đình và trẻ em tại cộng đồng. Tuy nhiên, việc thực hiện tốt mới chỉ dừng lại ở một số nội dung đã thành truyền thống có tính đạo lý như quyền được giáo dục, chăm sóc sức khoẻ, bảo vệ khỏi bị xâm hại v.v… Một số nhóm quyền như quyền tham gia ý kiến, quyền vui chơi giải trí, quyền có tài sản riêng… có tỷ lệ người nhận thức và thực hiện chưa cao. Nhận thức và hiểu biết về quyền trẻ em, Luật BVCS&GDTE đã khá rộng rãi, tuy nhiên chẳng những kém sâu sắc mà còn chưa toàn diện. * Nhận thức về quyền trẻ em cũng như Luật BVCS&GDTE của một số cán bộ lãnh đạo, thậm chí cán bộ DSGĐTE, cán bộ chuyên trách DSGĐTE còn nhiều bất cập, một số còn hiểu lơ mơ, hoặc còn chung chung theo kiểu sáo ngữ, khẩu hiệu hành động và chưa sâu sắc, thiếu tính bền vững. * Gia đình và cộng đồng đánh giá khá cao hiệu quả của việc truyền thông, vận động về quyền trẻ em. Trong đó chăm sóc sức khoẻ và giáo dục là 2 lĩnh vực được quan tâm và thực hiện tốt nhất. Tuy nhiên, vẫn còn một số khía cạnh thực hiện chưa tốt như quyền tham gia ý kiến, quyền có tài sản riêng, quyền vui chơi giải trí, tự do… * Người dân trong cộng đồng rất ủng hộ các hoạt động truyền thông – vận động xã hội về quyền trẻ em. Sự ủng hộ đó đã được thể hiện bằng những hành động rất tích cực, tham gia vào các hoạt động truyền thông về quyền trẻ em, cũng như tạo điều kiện tốt nhất chăm sóc, bảo vệ trẻ em trong gia đình. 1.2. Vai trò của truyền thông trong công tác quyền trẻ em. * Truyền thông, đặc biệt là truyền hình, đài phát thanh, báo chí… có vai trò tích cực trong phổ biến quyền trẻ em. Trong những năm qua, hầu hết các kênh truyền thông đã được huy động để phục vụ cho công tác truyền thông – vận động về quyền trẻ em. Tuy vậy, nội dung thông tin và phương thức chưa thực sự có ấn tượng và hiệu quả cao, do đó sức lan toả chưa mạnh, chưa cạnh tranh được với những thông tin kinh tế – xã hội và các chương trình thể thao – giải trí khác. Bên cạnh đó, các kênh truyền thông trực tiếp được cộng đồng kỳ vọng và đánh giá cao, có hiệu quả như: gia đình, các cán bộ chuyên trách DSGĐTE, nhà trường chưa phát huy hiệu quả cao được như tiềm năng sẵn có. Nhưng hoàn toàn có thể nói rằng công tác truyền thông đã thành công ở mức độ thức tỉnh của cộng đồng về sự cần thiết thực hiện quyền trẻ em và Luật BVCS&GDTE. * Một số hình thức truyền thông được người dân trong cộng đồng đánh giá cao như: Truyền hình, đài (rađio), tuyên truyền trực tiếp đến các gia đình hoặc qua các lớp tập huấn tại địa phương. * Nhìn chung, trong thời gian qua, các hoạt động truyền thông – vận động xã hội vì trẻ em đã được quan tâm thực hiện, song chủ yếu là lồng ghép với các hoạt động, chương trình khác. Nội dung truyền thông còn chung chung, đại khái, chưa sâu sát với thực tế. Hoạt động truyền thông ngoài những “chiến dịch” lớn theo mùa vụ, số còn lại được thực hiện lẻ tẻ thiếu tính thường xuyên. Đây chính là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những bất cập trong công tác truyền thông về quyền trẻ em trong thời gian vừa qua. 2. Kiến nghị . 2.1. Về truyền thông. - Các hoạt động thông tin – giáo dục – tuyên truyền cần được tiến hành liên tục, thường xuyên, tránh tình trạn chạy theo phong trào, chỉ mang tính bề nổi, theo đơn đặt hàng. Xu hướng tuyên truyền thành chiến dịch, bên cạnh mặt tích cực là tập trung, tác động mạnh cũng cần chú ý tránh tính hình thức mà yếu thực chất. Phải chủ động triển khai để truyền thông giáo dục trở thành nhiều đợt sóng liên tục dẫn đến tác động thay đổi hành vi cho cộng đồng. - Tiếp tục chủ trương duy trì hình thức truyền thông theo diện rộng kết hợp với các truyền thông chuyên biệt (như tuyên truyền đến tận hộ gia đình hoặc mở các lớp tập huấn về quyền trẻ em cho đối tượng cán bộ, giáo viên và cả người dân cộng đồng, thích hợp từng đối tượng) nhằm nâng cao nhận thức, kỹ năng sống, thay đổi hành vi của cộng đồng. - Cần có và chủ động có các hình thức tuyên truyền phong phú, thích hợp với từng khu vực, vùng miền, nhóm xã hội không chỉ nhằm nâng cao nhận thức thay đổi hành vi mà còn nâng cao kỹ năng sống cho chính trẻ em và cộng đồng. - Cần duy trì, tăng cường thời lượng phát và nâng cao chất lượng của các phương thức truyền thông được người dân đánh giá cao như truyền hình, đài truyền thanh (rađio), tuyên truyền trực tiếp. - Đẩy mạnh đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực làm công tác truyền thông, cập nhật thông tin, phương pháp và kỹ năng truyền thông – vận động Quyền trẻ em cho đông đảo đội ngũ cán bộ và những tình nguyện viên làm công tác truyền thông về quyền trẻ em. 2.2. Với nhóm lãnh đạo và cán bộ GDGĐ&TE. - Cần mở các khoá đào tạo và bồi dưỡng các kiến thức và kỹ năng liên quan đến việc chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em cho các nhóm cán bộ hoạt động trong lĩnh vực GDGĐ&TE. Thứ nhất, nhằm nâng cao hiểu biết pháp Luật của cán bộ. Thứ hai, cung cấp cho họ những kỹ năng và kinh nghiệm cần thiết để cho các hoạt động truyền thông – vận động về quyền trẻ em cũng như công tác BVCS&GDTE. - Thực hiện phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan Đảng, Chính quyền, Đoàn thể, tổ chức, các cơ quan chức năng, nhiệm vụ trong chương trình hành động vì trẻ em. - Tăng cường hoạt động phổ biến, tuyên truyền số liệu, kết quả nghiên cứu… thu được trong hoạt động vì trẻ em nhằm giúp cơ quan nghiên cứu và hoạt động thực tiễn có cơ sở để triển khai các chiến lược, hành động vì trẻ em có hiệu quả cũng như góp phần xây dựng những chính sách cho trẻ em. 2.3. Với cộng đồng nói chung. - Mở thêm nhiều hoạt động truyền thông – vận động về quyền trẻ em với các hình thức đa dạng, phong phú, thu hút cộng đồng tham gia, tạo nhân tố tích cực đẩy mạnh hoạt động vì trẻ em. - Tổ chức các hoạt động bề nổi hội diễn văn nghệ, các cuộc thi hiểu biết về Luật BVCS&GDTE, quyền trẻ em cho trẻ em vào các ngày lễ, ngày nghỉ, trong đó các em sẽ trực tiếp tham gia tổ chức thực hiện các hoạt động đó, người lớn chỉ có vai trò hướng dẫn. 2.4. Với gia đình. - Gia đình cần tạo điều kiện cho trẻ em được tham gia vào các quyết định liên quan đến trẻ em. Qua đó cũng tạo cho các em tính tự lập, sống có trách nhiệm với bản thân và với cộng đồng. - Nhân rộng các mô hình gia đình văn hoá tiên tiến, tạo thành những mô hình gia đình khuôn mẫu cho cộng đồng noi theo. - Có các chương trình giáo dục tuyên truyền cho các bậc ông, bà, cha, mẹ nhằm cung cấp kiến thức cơ bản về quyền trẻ em và những phương pháp giáo dục tốt nhất cho trẻ em. Tài liệu tham khảo Một số văn kiện của Đảng và Nhà nước về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, NXB Chính trị Quốc gia, 1996. “Chúng ta hãy cùng nhau bảo vệ Quyền trẻ em” – Uỷ ban Bảo vệ và Chăm sóc Trẻ em Việt Nam – Radda Barnen. “Công ước Quốc tế của Liên Hợp Quốc về Quyền trẻ em”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997. “Điều tra kiến thức, thái độ và hành vi phục vụ xây dựng chiến lược truyền thông - vận động về Quyền trẻ em giai đoạn 2006 - 2010”, Trịnh Hoà Bình và cộng sự, Báo cáo khảo sát Xã hội học, 2005. “Hoạt động tư vấn – xây dựng chương trình truyền thông – vận động Quyền trẻ em giai đoạn 2001 - 2005”, Trịnh Hoà Bình và cộng sự, Plan Hà Nội tài trợ, Hà Nội, 2001. “Lạm dụng trẻ em ở Việt Nam – Vấn đề đặt ra trong xã hội hiện đại”, Thân Trung Dũng, Tạp chí Gia đình và Trẻ em, kỳ I tháng 8/2005. “Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục Trẻ em”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005. “Nhận thức của Trẻ em về Quyền trẻ em”, Trịnh Hoà Bình – Thân Trung Dũng, Tạp chí Gia đình và Trẻ em, kỳ I tháng 4/2006. “Nhận thức và dư luận xã hội qua 10 năm thực hiện Luật Bảo vệ Chăm sóc và Giáo dục Trẻ em”, Trịnh Hoà Bình, Đặng Nam và cộng sự – Chuyên luận, Trung tâm truyền thông – vận động - xã hội, Hà Nội, 2001. “Những điều cha mẹ cần biết về Quyền trẻ em”, UNICEF – Uỷ Ban Bảo vệ và Chăm sóc Trẻ em Việt Nam. “Những mục tiêu chương trình hành động quốc gia vì trẻ em”, Uỷ Ban Bảo vệ và Chăm sóc Trẻ em Việt Nam. “Phương pháp nghiên cứu xã hội học”, Phạm Văn Quyết, Nguyễn Quý Thanh, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001. “Quyền phụ nữ và trẻ em: kết quả và thể hiện qua các chương trình UNICEF”, Công ty Tư vấn Nghiên cứu Dân số (POPCON), Hà Nội, 4/2000. “Quyền trẻ em trong pháp Luật quốc gia và quốc tế”, (tuyển chọn), Vũ Ngọc Bình, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995. “Tăng cường lãnh đạo công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em”, Uỷ Ban Bảo vệ và Chăm sóc Trẻ em Việt Nam. Mục lục Tài liệu tham khảo Phụ lục Lời cảm ơn Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới tất cả các thầy cô giáo trong và ngoài khoa Xã hội học đã nhiệt tình giảng dạy, hướng dẫn, giải đáp và trang bị cho em những kiến thức quý báu trong suốt 4 năm học vừa qua. Trước hết em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới ThS. Lê Thái Thị Băng Tâm, người đã nhiệt tình chỉ bảo, hướng dẫn em trong suốt thời gian làm khoá luận. Em xin chân thành cảm ơn TS. Trịnh Hoà Bình - Viện Xã hội học - Viện Khoa học Xã hội Việt Nam đã cho sử dụng nguồn số liệu và tận tình góp ý kiến cho khoá luận. Qua đây, em muốn gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè, các anh chị khoá trên và tất cả những người đã nhiệt tình, động viên giúp đỡ em trong quá trình làm khoá luận. Song do hạn chế về trình độ và thời gian nên khó tránh khỏi những sai sót trong quá trình thực hiện đề tài. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy, cô giáo và các bạn, những người quan tâm đến đề tài. Em xin trân trọng cảm ơn những đóng góp quý báu đó! Hà Nội, tháng 5 năm 2006 Sinh viên Đào Thị Lê Na Quy ước về cụm từ viết tắt DSGĐ&TE Dân số, Gia đình và Trẻ em BVCS&GDTE Bảo vệ , Chăm sóc và Giáo dục Trẻ em Luật BVCS&GDTE Luật Bảo vệ Chăm sóc và Giáo dục Trẻ em PVBCT Phỏng vấn bán cấu trúc PVS Phỏng vấn sâu SL Số lượng TLN Thảo luận nhóm UBDSGĐ&TE Uỷ ban dân số gia đình và trẻ em UNICEF Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc Phụ lục 1 Giới thiệu chung về đề tài: "Điều tra cơ bản kiến thức, thái độ và hành vi của cộng đồng phục vụ xây dựng chiến lược truyền thông - vận động về quyền trẻ em giai đoạn 2006-2010" "Điều tra cơ bản kiến thức, thái độ và hành vi của cộng đồng phục vụ xây dựng chiến lược truyền thông - vận động về quyền trẻ em giai đoạn 2006-2010" được thực hiện bởi Viện xã hội học do tiến sĩ Trịnh Hoà Bình làm chủ nhiệm, Vụ Truyền thông - Uỷ ban Dân số Gia đình & Trẻ em chủ trì, dưới sự tài trợ của Unicef. Dưới đây là những thông tin cơ bản về đề tài. 1. Mục tiêu của đề tài. 1.1. Tìm hiểu mức độ hiểu biết, thái độ, hành vi và những mong muốn chủ yếu của gia đình, trẻ em và cộng đồng về việc thực hiện các quyền trẻ em. 1.2. Đánh giá thực trạng nguồn lực và sử dụng nguồn lực trong hoạt động quyền trẻ em (Chính phủ/địa phương, các tổ chức quốc tế). Sự tham gia của các lực lượng xã hội vào các hoạt động truyền thông vận động về quyền trẻ em trong thời gian gần đây. 1.3. Đánh giá cơ bản tác động của một số chính sách với việc thực hiện quyền trẻ em tại cộng đồng, nhất là với các trẻ đối tượng đặc biệt khó khăn. 1.4. Đánh giá những thành công và hạn chế trong công tác truyền thông vận động thực hiện quyền trẻ em; Rút ra các bài học kinh nghiệm trong việc triển khai công tác này ở các địa phương. 1.5. Đề xuất một số giải pháp và khung chiến lược cho chiến lược truyền thông vận động về quyền trẻ em giai đoạn 2006-2010. 2. Nội dung nghiên cứu. 2.1. Sự hiểu biết, thái độ của gia đình, trẻ em và cộng đồng về nội dung chủ yếu của quyền trẻ em; một số hành vi/thói quen liên quan đến thực hiện quyền trẻ em của gia đình, trẻ em và cộng đồng; 2.2. Nhu cầu/ mong muốn chủ yếu của gia đình, trẻ em và cộng đồng về sự hiểu biết, kiến thức và kỹ năng thực hiện quyền trẻ em trong thời gian tới. 2.3. Các nguồn lực (chính phủ, địa phương, các dự án, cộng đồng) và việc sử dụng các nguồn lực vào các hoạt động truyền thông vận động về quyền trẻ em trong thời gian gần đây; 2.4. Các chính sách và tác động của các hoạt động truyền thông tới việc thực hiện quyền trẻ em; 2.5. Kết quả và hạn chế trong công tác truyền thông vận động về thực hiện quyền trẻ em; nguyên nhân của kết quả và hạn chế. 2.6. Đề xuất khung cho chiến lược truyền thông vận động về quyền trẻ em giai đoạn 2006-2010. 3. Đối tượng và phạm vi điều tra 3.1. Đối tượng Các hộ gia đình có trẻ em (ông/bà, bố/mẹ và trẻ em) và một số giáo viên bậc cơ sở sẽ được lựa chọn làm đơn vị khảo sát chính; Lãnh đạo Đảng, chính quyền cấp tỉnh /thành phố, huyện/quận và xã/phường; (dưới đây xin gọi chung là: tỉnh, huyện, xã) Lãnh đạo các tổ chức xã hội cấp tỉnh, huyện và xã; Cán bộ làm công tác DS-GĐ-TE tại các tỉnh, huyện và xã; Cộng tác viên DSGĐTE ở cơ sở; Một số cơ quan thông tấn báo chí, phát thanh (truyền hình/báo/tạp chí); Một số tổ chức quốc tế có liên quan đến các hoạt động quyền trẻ em (UNICEF/Plan/SCUS/SCUK). 3.2. Phạm vi. Nhằm đảm bảo yêu cầu và tính chất quốc gia, nghiên cứu này sẽ chú ý đầy đủ đến tiêu chí vùng, miền cũng như các tiêu chí đại diện khác. Yêu cầu này liên quan chặt chẽ đến phương pháp, kỹ thuật và loại hình triển khai nghiên cứu. Xuất phát từ yêu cầu đó, trong khuôn khổ những hạn chế về nguồn lực và thời gian cuộc nghiên cứu - khảo sát đã được thực hiện trên phạm vi 8 tỉnh đại diện cho 8 vùng sinh thái. Sự lựa chọn này vừa khả thi vừa bảo đảm tính khoa học. Trên thực tế, nhóm đề tài đã triển khai mọi công đoạn của cuộc khảo sát theo đúng phương án, tiến độ cũng như huy động nhân lực khoa học. 1 - Tây Bắc: Hòa Bình; 2 - Đông Bắc: Lao Cai (địa phương có dự án Truyền thông của UNICEF); 3 - Đồng bằng Sông Hồng: Hưng Yên; 4 - Bắc Trung Bộ: Thanh Hóa; 5 - Duyên hải Nam Trung Bộ: Quảng Ngãi; 6 - Tây Nguyên: Kon Tum (địa phương có dự án Truyền thông của UNICEF); 7 - Đông Nam Bộ: Bình Thuận; 8 - Tây Nam bộ: Đồng Tháp (địa phương có dự án Truyền thông của UNICEF). * Tại mỗi tỉnh chọn 02 huyện và 01 quận/thị xã; mỗi huyện chọn 2 xã; mỗi quận/thị xã chọn 2 phường. Bên cạnh 8 tỉnh đại diện cho các khu vực trên, Hà Nội (địa phương có dự án Truyền thông của UNICEF) và thành phố Hồ Chí Minh cũng là những địa bàn được khảo sát bởi tính chất trọng yếu cũng như những kết quả đã đạt được của hoạt động truyền thông – vận động quyền trẻ em từ trước đến nay. (Tại mỗi thành phố đã chọn 02 quận và 01 huyện). Các huyện/thị xã/quận và xã/phường được chọn đáp ứng tính đại diện cho tỉnh/thành, nghĩa là ở mức trung bình/trung bình tiên tiến của tỉnh/thành. Như vậy, trên phạm vi cả nước, đã điều tra: - 18 huyện và 12 quận/thị xã; Tổng cộng: 30 quận/huyện - 36 xã và 24 phường. Tổng cộng: 60 xã/phường 4. Phương pháp chọn mẫu và quy mô mẫu điều tra 4.1. Phương pháp chọn mẫu - Chọn tỉnh: theo chủ định của nhóm nghiên cứu - Chọn huyện/quận: ngẫu nhiên theo danh sách, có lưu ý đến khoảng cách. 4.2. Quy mô mẫu điều tra a. Phỏng vấn qua bảng hỏi soạn sẵn: Cỡ mẫu đã được thực hiện là (tính chung): - Ông bà\ cha mẹ của trẻ: 3003 mẫu - Trẻ em: 3005 mẫu - Giáo viên: 1022 mẫu Tổng số mẫu định lượng: 7.030 mẫu (Các thống kê, phân tích định lượng trong báo cáo đều dựa trên cơ sở cỡ mẫu này) b. Thực hiện các phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm trọng tâm. Đây là một phần việc đòi hỏi có sự giúp đỡ của các cán bộ có nhiều kinh nghiệm nên nhóm đề tài trong quá trình thực hiện hoạt động đã đặc biệt chú ý đến khâu đào tạo, tập huấn và thống nhất bộ công cụ. Kết quả công việc cụ thể này tại địa bàn khảo sát như sau: - Phỏng vấn sâu/ bán cấu trúc:Mỗi tỉnh 10 mẫu + Chủ nhiệm UBDSGDTE tỉnh và 3 huyện/quận (4) + Đại diện UBND (1) + 2 Trẻ em đang đi học và 1 trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn (3) + 1 cán bộ chuyên trách huyện (1) + 1 cộng tác viên tuyến cơ sở (1) Tổng số phỏng vấn bán cấu trúc: 10 mẫu x 10 tỉnh/thành = 100 mẫu - Thảo luận nhóm trọng tâm: Mỗi quận/huyện chọn 1 xã đại diện (mỗi nhóm 10 người); Tại xã/phường đại diện này đã thực hiện 5 thảo luận nhóm, bao gồm: + Nhóm lãnh đạo chính quyền, đoàn thể + Nhóm giáo viên Tiểu học và THCS + Nhóm đoàn thanh niên + Nhóm hộ gia đình và cộng đồng(cha mẹ trẻ) + Nhóm trẻ em (gồm cả trẻ khó khăn) đ Tổng số có 150 thảo luận nhóm. (30 xã/phường x 5 nhóm) Và số người được huy động tham dự là 150 nhómx10 người=1.500 người c. Thực hiện các phỏng vấn chuyên gia, tìm hiểu quan điểm và đánh giá của các tổ chức quốc gia, quốc tế và một số cơ quan truyền thông * Phỏng vấn sâu các chuyên gia am hiểu vấn đề mà đề tài quan tâm. Các chuyên gia này hoặc là nhà nghiên cứu, hoạt động xã hội hoặc công tác ở một số lĩnh vực, bộ, ngành: UBDSGDTE; Bộ Y tế; HLHPN; ĐTNCS HCM, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Lao động Thương binh và xã hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tư pháp, Toà an, Viện Kiểm sát nhân dân, Hội Bảo trợ trẻ em v.v… * Tìm hiểu quan điểm và đánh giá của một số tổ chức quốc tế về vấn đề quan tâm của đề tài (cán bộ chương trình của UNICEF/Plan/SCUK/Wolrd Vision, RaddaBarnen, Teer des homes…). * Tìm hiểu quan điểm và đánh giá của một số cơ quan truyền thông (báo/truyền hình/phát thanh) về vấn đề đề tài quan tâm: Báo Nhân dân, Thông tấn xã Việt Nam, trang Web Đảng cộng sản, báo Gia đình và Xã hội, báo Tiền phong, báo Thiếu niên tiền phong, báo Nhi đồng, báo Hoa học trò, Tạp chí Gia đình và Trẻ em, Truyền hình Vì Trẻ em, Phát thanh thiếu nhi (Đài TNVN) … Tổng cộng: 30 ca phỏng vấn chuyên gia 5. Phương pháp thu thập thông tin và xử lý thông tin 5.1. Thu thập thông tin. Bên cạnh việc thu thập các báo cáo, thông tin - số liệu và phân tích các tài liệu có sẵn về tình hình thực hiện công tác Dân số, Gia đình và Trẻ em ở cộng đồng do các địa phương và cơ quan trong vùng cung cấp, chúng tôi sẽ sử dụng các phương pháp lấy thông tin qua phỏng vấn Xã hội học kết hợp cả hai phương pháp định tính và định lượng trong việc thu thập và phân tích số liệu. Hai kỹ thuật cơ bản được sử dụng là phỏng vấn sâu (Semi-structured indepth interview) và phỏng vấn bằng bảng hỏi (Structured interview) nhằm mục đích vừa đo được mối tương quan và tác động giữa các biến số trong mô hình thống kê, vừa thu được các thông tin chiều sâu để giải thích tốt hơn các kết quả thu thập được. Phương pháp thu thập thông tin hồi cố về các sự kiện, biến cố về truyền thông, vận động, tiếp nhận thông tin đã xảy ra trong quá khứ (Retrospective) đòi hỏi các điều tra viên phải được huấn luyện kỹ lưỡng, tuân thủ nghiêm ngặt quá trình khảo sát, cũng như được trang bị các kiến thức về tâm lý, xã hội học cần thiết cho việc tiếp xúc đối tượng. 5.2. Xử lý thông tin - Xử lý các thông tin định lượng từ các bảng hỏi dựa trên phần mềm SPSS 11.5. - Tính toán định lượng theo tần suất và tương quan đa chiều; - Xử lý các thông tin định tính theo phương pháp phần mềm Haperresearch. - Dùng phương pháp so sánh cùng hạng. - Dùng phương pháp so sánh khác nhóm với cùng một tiêu chí so sánh. Phụ lục 2 Công ước của Liên hợp quốc về Quyền trẻ em Điều 1: Định nghĩa trẻ em: Trẻ em được xác định là người dưới 18 tuổi, trừ khi Luật pháp quốc gia công nhận tuổi thành niên sớm hơn. Điều 2: Không phân biệt đối xử: Tất cả các quyền đều áp dụng cho tất cả trẻ em mà không có ngoại lệ. Chính Nhà nước có nghĩa vụ bảo vệ trẻ em chống lại bất kỳ hình thức phân biệt đối xử nào và có nhữngbiện pháp tích cực để đẩy mạnh quyền trẻ em. Điều 3: Lợi ích tốt nhất của trẻ em: Tất cả các hành động có liên quan đến trẻ em cần tính đến đầy đủ lợi ích tốt nhất của trẻ em. Nhà nước phải đem lại cho trẻ em sự chăm sóc đầy đủ trong trường hợp cha mẹ hoặc những người khác có trách nhiệm không làm được việc ấy. Điều 4: Thực hiện các quyền: Nhà nước phải làm hết sức mình để thực hiện các quyền được nêu ra trong công ước. Điều 5: Hướng dẫn của cha mẹ và phát triển các năng lực của trẻ em: Nhà nước phải tôn trọng các quyền và trách nhiệm của cha mẹ và các thành viên trong gia đình mở rộng, để hướng dẫn trẻ em một cách phù hợp với sự phát triển năng lực của các em. Điều 6: Sống còn và phát triển: Mọi trẻ em có quyền cố hữu được sống và Nhà nước có nghĩa vụ bảo đảm sự tồn tại và phát triển của trẻ em. Điều 7: Họ tên và quốc tịch: Trẻ em có quyền được có họ tên khi ra đời. Trẻ em cũng có quyền mang một quốc tịch và trong chừng mực có thể, được biết cha mẹ mình và được cha mẹ chăm sóc. Điều 8: Duy trì bản sắc: Nhà nước có nghĩa vụ bảo vệ, và nếu cần thiết phục hồi những nét cơ bản trong bản sắc của trẻ em. Điều này bao gồm họ tên, quốc tịch và quan hệ gia đình. Điều 9: Cách ly với cha mẹ: Trẻ em có quyền sống với cha mẹ, trừ khi việc này không thích hợp với lợi ích tốt nhất của các em. Trẻ em cũng có quyền duy trì tiếp xúc với cả cha mẹ và nếu sống xa một người hay cả hai người. Điều 10: Đoàn tụ gia đình: Trẻ em và cha mẹ có quyền rời khỏi bất kỳ nước nào cũng như trở về đất nước của mình nhằm đoàn tụ gia đình hoặc duy trì quan hệ giữa con cái với cha mẹ. Điều 11: Đưa đi bất hợp pháp và không mang trở về: Nhà nước có nghĩa vụ phòng ngừa và giải cứu việc bắt cóc hay giữ lại trẻ em ở nước ngoài bởi cha hoặc mẹ hay một bên thứ ba. Điều 12: ý kiến của trẻ em: Trẻ em có quyền tự do bày tỏ ý kiến của mình và ý kiến của trẻ em phải được xem xét trong mọi vấn đề hoặc thủ tục ảnh hưởng đến trẻ em. Điều 13: Tự do ngôn luận: Trẻ em có quyền bày tỏ các quan điểm của mình, thu nhận thông tin và làm cho người khác biết đến các ý kiến và thông tin, bất kể sự cách biệt giữa các nước. Điều 14: Tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo: Nhà nước phải tôn trọng quyền của trẻ em được tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo theo sự hướng dẫn thích hợp của cha mẹ. Điều 15: Tự do kết giao: Trẻ em có quyền gặp gỡ những trẻ em khác, gia nhập hoặc lập hội. Điều 16: Bảo vệ sự riêng tư: Trẻ em có quyền được bảo vệ chống lại sự can thiệp vào đời tư, vào gia đình, nơi ở và thư tín của các em, chống lại những điều nói xấu và vu cáo. Điều 17: Được tiếp xúc với thông tin thích hợp: Nhà nước phải đảm bảo cho trẻ em được tiếp xúc với những thông tin và tài liệu có xuất xứ từ các nguồn khác nhau, phải khuyến khích các phương tiện thông tin đại chúng truyền bá những thông tin có lợi ích về xã hội và văn hoá đối với trẻ em, Nhà nước phải có những biện pháp bảo vệ trẻ em chống lại những tài liệu nguy hại. Điều 18: Trách nhiệm của cha mẹ: Cha mẹ có trách nhiệm hàng đầu trong việc nuôi dạy con cái và Nhà nước phải giúp họ thực hiện trách nhiệm ấy. Nhà nước phải giúp đỡ một cách thích hợp cha mẹ trong việc nuôi dạy con cái. Điều 19: Bảo vệ chống lại sự lạm dụng và sao nhãng: Nhà nước phải bảo vệ trẻ em chống lại tất cả các hình thức ngược đãi của cha mẹ hay của những người khác chịu trách nhiệm chăm sóc trẻ em và phải lập ra những chương trình xã hội thích hợp để ngăn ngừa sự lạm dụng và điều trị cho nạn nhân. Điều 20: Bảo vệ trẻ em không gia đình: Nhà nước có nghĩa vụ bảo vệ đặc biệt trẻ em bị tước đoạt môi trường gia đình và bảo đảm cho trẻ em được hưởng một sự chăm sóc thích hợp, thay thế cho sự chăm sóc của gia đình, hoặc có những cơ sở nuôi dạy trong các trường hợp này. Các cố gắng liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ này phải quan tâm thích đáng đến hoàn cảnh văn hoá của trẻ em. Điều 21: Cho nhận con nuôi: Tại những nước được phép cho nhận con nuôi, việc này chỉ được thực hiện vì lợi ích tốt nhất của trẻ em và chỉ với sự cho phép của nhà chức trách có thẩm quyền với các đảm bảo cần thiết cho trẻ em. Điều 22: Trẻ em tị nạn: Phải bảo vệ đặc biệt trẻ em tị nạn hoặc những trẻ em tìm kiếm quy chế tị nạn. Chính Nhà nước có nghĩa vụ cộng tác với các tổ chức cơ quyền thực hiện việc bảo vệ và giúp đỡ đó. Điều 23: Trẻ em tàn tật: Trẻ em tàn tật có quyền được chăm sóc, giáo dục và đào tạo đặc biệt để giúp các em có cuộc sống trọn vẹn, đầy đủ trong phẩm giá nhằm đạt được một mức độ tự lập và hoà nhập vào xã hội ở mức lớn nhất có thể. Điều 24: Sức khoẻ vàơẻ sở chăm sóc sức khoẻ: Trẻ em có quyền được hưởng tình trạng sức khoẻ cao nhất có thể có và được chăm sóc về y tế. Nhà nước phải đặc biệt chú trọng đến việc chăm sóc sức khoẻ ban đầu và phòng bệnh, đến giáo dục sức khoẻ và hạ thấp tỷ lệ tử vong ở trẻ em. Nhà nước phải khuyến khích hợp tác quốc tế về mặt này và cố gắng đảm bảo không một trẻ em nào bị tước đoạt quyền được hưởng những dịch vụ hiệu quả về chăm sóc sức khoẻ. Điều 25: Định kỳ xem xét nơi gửi trẻ: Trẻ em được Nhà nước sắp xếp đến ở một nơi nào đó vì lý do chăm sóc, bảo vệ hay chữa trị thì có quyền được xem xét lại việc gửi này theo định kỳ. Điều 26: An toàn xã hội: Trẻ em có quyền được hưởng an toàn xã hội, trong đó có bảo hiểm xã hội. Điều 27: Mức sống: Mọi trẻ em có quyền được có mức sống thích hợp cho sự phát triển thể chất, trí tuệ, tinh thần, đạo đức và xã hội của mình. Cha mẹ có trách nhiệm hàng đầu trong việc bảo đảm cho trẻ em được hưởng mức sống ấy. Nhà nước có nhiệm vụ này được thực hiện. Trách nhiệm của Nhà nước có thể bao gồm giúp đỡ vật chất cho cha mẹ và con cái. Điều 28: Giáo dục: Trẻ em có quyền được học tập và Nhà nước có nghĩa vụ bảo đảm rằng giáo dục tiểu học là bắt buộc và miễn phí, khuyến khích tổ chức những hình thức khác nhau của giáo dục trung học đến được với mọi trẻ em và làm cho giáo dục đại học có được với mọi người trên cơ sở khả năng. Kỷ luật nhà trường phải tôn trọng các quyền và nhân phẩm của trẻ em. Nhà nước phải tham gia hợp tác quốc tế để thực hiện quyền này. Điều 29: Mục tiêu giáo dục: Giáo dục phải nhằm phát triển nhân cách, tài năng, các khả năng tinh thần và thể chất của trẻ em đến mức cao nhất. Giáo dục phải chuẩn bị cho trẻ em một cuộc sống tích cực ở tuổi người lớn trong một xã hội tự do và khuyến khích trẻ em lòng kính trọng cha mẹ, bản sắc, văn hoá, ngôn ngữ và các giá trị của mình cũng như nguồn gốc văn hoá và các giá trị của người khác. Điều 30: Trẻ em các dân tộc thiểu số hay bản địa: Trẻ em thuộc những cộng đồng thiểu số hoặc những nhóm dân số hoặc những nhóm dân cư bản địa có quyền được hưởng đời sống văn hoá của riêng mình, theo tôn giáo của mình và sử dụng ngôn ngữ riêng của mình. Điều 31: Vui chơi, giải trí và các hoạt động văn hoá: Trẻ em có quyền vui chơi, giải trí và tham gia các hoạt động văn hoá nghệ thuật. Điều 32: Lao động trẻ em: Trẻ em có quyền được bảo vệ không phải làm những công việc gây tổn hại đến sức khoẻ, giáo dục và sự phát triển của các em. Nhà nước phải ấn định tối thiểu cho việc tuyển bộ lao động và qui định những điều kiện lao động. Điều 33: Lạm dụng ma tuý: Trẻ em có quyền bảo vệ chống lại việc sử dụng các chất hướng thần và ma tuý, và chống lại việc huy động tham gia vào việc sản xuất và phân phát chất này. Điều 36 Những hình thức bóc lột khác: Trẻ em có quyền được bảo vệ chống lại tất cả các hình thức bóc lột gây nguy hại đến bất kỳ phương diện nào của phúc lợi trẻ em dù không được nói đến trong các điều 32, 33, 34 và 35. Điều 34: Bóc lột tình dục: Nhà nước phải bảo vệ trẻ em chống lại sự lạm dụng và bóc lột tình dục, kể cả mại dâm và việc trẻ em liên quan đến văn hoá phẩm khiêu dâm. Điều 35: Chống buôn bán và bắt cóc: Trách nhiệm của Nhà nước là phải làm hết sức mình để ngăn ngừa việc buôn bán và bắt cóc trẻ em. Điều 37: Không một trẻ em nào bị tra tấn, trừng phạt và đối xử tàn bạo, bắt bớ và giam giữ không hợp pháp: Cấm áp dụng án tử hình và tù chung thân cho những tội không có cơ hội phóng thích do những người dưới 18 tuổi phạm phải. Bất kỳ trẻ em nào bị tước đoạt tự do đều phải được giam giữ tách riêng với người lớn trừ phi không nên làm như vậy vì lợi ích tốt nhất của trẻ em. Trẻ em bị giam giữ có quyền được hưởng sự giúp đỡ về pháp lý và các sự giúp đỡ thích hợp khác cũng như duy trì quan hệ với gia đình. Điều 37: Tra tấn và tước đoạt sự tự do: Không một trẻ em nào bị tra tấn, trừng phạt và đối xử tàn bạo, bắt bớ và giam giữ không hợp pháp. Cấm áp dụng án tử hình và tù chung thân cho những tội không có cơ hội phóng thích do những người dưới 18 tuổi phạm phải. Bất kỳ trẻ em nào bị tước đoạt tự do đều phải được giam giữ tách riêng với người lớn trừ phi không nên làm như vậy vì lợi ích tốt nhất của trẻ em. Trẻ em bị giam giữ có quyền được hưởng sự giúp đỡ về pháp lý và các sự giúp đỡ thích hợp khác cũng như duy trì quan hệ với gia đình. Điều 38: Xung đột vũ trang: Các quốc gia thành viên phải áp dụng tất cả các biện pháp có thể để đảm bảo cho trẻ em dưới 15 tuổi không tham gia trực tiếp vào chiến sự. Không tuyển trẻ em dưới 15 tuổi vào quân đội. Các nước cũng đảm bảo việc bảo vệ và chăm sóc những trẻ em bị ảnh hưởng bởi xung đột vũ trang như ghi trong luật pháp quốc tế có liên quan. Điều 39: Chăm sóc phục hồi: Nhà nước có nghĩa vụ bảo đảm rằng những trẻ em là nạn nhân của các xung đột vũ trang, tra tấn, sao nhãng, bóc lột hay ngược đãi, được điều trị thích đáng để phục hội và hội nhập trở lại xã hội. Điều 40: áp dụng tư pháp với người chưa thành niên: Trẻ em làm trái pháp luật có quyền được đối xử nhằm nâng cao ý thức của các em về nhân phẩm và giá trị cá nhân, có xem xét đến tuổi của các em và nhằm hội nhập các em trở lại xã hội. Trẻ em có quyền được hưởng những đảm bảo cơ bản cũng như sự trợ giúp về pháp lý hoặc các sự trợ giúp khác cho việc bảo vệ mình. Phải tránh sử dụng nếu có thể được những biện pháp tư pháp và đưa trẻ em vào những cơ sở, trung tâm giam giữ. Điều 41 Tôn trọng những tiêu chuẩn cao hơn: ở đâu có các tiêu chuẩn cao hơn so với các tiêu chuẩn nêu ra trong Công ước được áp dụng trong luật pháp quốc gia và quốc tế liên quan đến quyền trẻ em thì phải tôn trọng những tiêu chuẩn cao hơn. Điều 41: Tôn trọng những tiêu chuẩn cao hơn: ở đâu có các tiêu chuẩn cao hơn so với các tiêu chuẩn nêu ra trong Công ước được áp dụng trong Luật pháp quốc gia và quốc tế liên quan đến quyền trẻ em thì phải áp dụng những tiêu chuẩn cao hơn đó. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4953.doc
Tài liệu liên quan