Những biện pháp cơ bản gia tăng việc thu hút vốn FDI đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế Việt Nam

phần mở đầu Cùng với lịch sử để lại của từng quốc gia là sự tác động không ngừng của các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, đã tạo cho các quốc gia có những tiềm lực khác nhau trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của mình. Hiện nay, trong quá trình phát triển có rất nhiều nước thừa vốn, thừa tư bản nhưng thiếu tài nguyên thiên nhiên, sức lao động. Ngược lại, nhiều nước thiếu vốn, thiếu tư liệu sản xuất nhưng tài nguyên thiên nhiên, sức lao động lại sử dụng chưa hiệu quả. Chính sự khác nhau

doc42 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1149 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Những biện pháp cơ bản gia tăng việc thu hút vốn FDI đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
này đã tạo cho mỗi quốc gia có những lợi thế so sánh khác nhau trong quá trình hợp tác, quan hệ đối ngoại. Sự khác nhau này cùng với cơ hội tìm kiếm lợi nhuận cao hơn đã dẫn đến quá trình đầu tư ra nước ngoài cũng như quá trình đầu tư nước ngoài vào bên trong mỗi quốc gia. Việt Nam từ hơn 10 năm đổi mới đến nay. Nhất là từ khi luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được quốc hội thông qua ngày 29 tháng 12 năm 1987 và chủ trương nguồn vốn trong nước là chủ yếu, nguồn vốn nước ngoài là quan trọng. Việt Nam đã thu được rất nhiều thành công trong lĩnh vực thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư nước ngoài để phát triển nền kinh tế của mình. Nhưng bên cạnh những thành công bước đầu đó thì vẫn còn nhiều khiếm khuyết cần được dần khắc phục và hoàn thiện. Để tạo cho Việt Nam trở thành một nước có nhiều nguồn vốn được thu hút vào, trong sự giảm sút nguồn vốn đầu tư trên thế giới thì yêu cầu đặt ra với Nhà nước Việt Nam là phải tạo ra được một môi trường thuận lợi hơn để khuyến khích và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đó. Chính vì những lý do trên tôi xin được chọn đề tài “Một số vấn đề về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam thời gian qua”. Nhưng do thời gian cũng như kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế nên bài viết này khó tránh khỏi những khiếm khuyết. Tôi mong muốn và chân thành cảm ơn sự đóng góp và bổ sung của thầy cô và các bạn để hoàn thành tốt hơn trong những chuyên đề sau. Chương i: vai trò của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển kinh tế. I. Khái niệm chung 1. Khái niệm Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một loại hình di chuyển vốn quốc tế, trong đó người chủ sở hữu đồng thời là người trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động sử dụng vốn đầu tư. Quá trình đầu tư trực tiếp yêu cầu với việc xây dựng cơ sở hạ tầng, chi nhánh ở nước ngoài và làm chủ toàn bộ hay từng bộ phận cơ sở đó. Quyền quản lý và điều hành doanh nghiệp phụ thuộc vào mức độ đóng góp của mỗi bên. Nếu doanh nghiệp là 100% vốn đầu tư nước ngoài thì quyền quản lý và điều hành sẽ phụ thuộc hoàn toàn vào chủ đâù tư nước ngoài. Phần phân chia lợi nhuận và rủi ro là tuỳ thuộc vào mức độ đóng góp của mỗi bên. Quá trình đầu tư trực tiếp nước ngoài thường diễn ra quá trình chuyển giao công nghệ, chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao các bản quyền khác. Nó tác động mạnh đến nước tiếp nhận đầu tư trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội của mình. Bên cạnh đó, nó cũng tác động không nhỏ đến nước đầu tư. 2. Những cơ sở hình thành FDI. Trong lịch sử thế giới, đầu tư trực tiếp đã từng xuất hiện ngay từ thời tiền tư bản. Các công ty của Anh, Hà Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha là những công ty đi đầu trong lĩnh vực này dưới hình thức đầu tư vốn vào các nước Châu á để khai thác đồn điền và cùng với ngành khai thác đồn điền là những ngành khai thác khoáng sản nhằm cung cấp nguyên liệu cho các ngành công nghiệp ở chính quốc. Khi chủ nghĩa tư bản bước sang một giai đoạn mới, đánh dấu bằng sự ra đời của “công xã Pari”, thì hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các nước công nghiệp phát triển ngày càng có quy mô to lớn hơn. Trong thế kỷ XIX, do quá trình tập trung và tích luỹ tư bản tăng lên mạnh mẽ, các nước công nghiệp phát triển lúc bấy giờ đã tích luỹ được những khoản tư bản khổng lồ, đó là tiền đề quan trọng cho việc xuất khẩu tư bản. Theo nhận định của Lê-nin trong tác phẩm “Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản” thì việc xuất khẩu tư bản nói chung đã trở thành đặc trưng cơ bản của sự phát triển “ Đế quốc chủ nghĩa”. II. Vị trí và tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài. 1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có vị trí ngày càng quan trọng. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hoạt động kinh tế đối ngoại ra đời muộn hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác vài ba thập kỉ. Nhưng ngay từ khi xuất hiện, vào khoảng cuối thế kỷ XIX, đầu tư trực tiếp đã có vị trí đáng kể trong các quan hệ kinh tế quốc tế. Cùng với quá trình phát triển mạnh mẽ của các quan hệ kinh tế quốc tế, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài không ngừng được mở rộng và chiếm vị trí ngày càng quan trọng trong quan hệ kinh tế quốc tế. Đến nay, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã trở thành xu thế của thời đại và là nhân tố qui định bản chất các quan hệ kinh tế quốc tế. Đầu năm 1989, tổng vốn đầu tư nước ngoài trên toàn thế giới lên đến 200 tỷ USD, chiếm hơn 13% trong tổng số vốn đầu tư trên toàn thế giới là 1500 tỷ USD. So với những năm của thập kỷ 70, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chỉ chiếm 5% trong tổng vốn trên toàn thế giới. Bước sang thập kỷ 90 này, đã tăng lên nhanh chóng và đang trở thành một nhân tố gây ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển kinh tế của nhiều quốc gia. Sự gia tăng mạnh mẽ đầu tư nước ngoài trong thập kỷ 80 là kết quả trực tiếp của sự tăng cường đầu tư ra nước của các công ty xuyên quốc gia. Hiện nay vốn đầu tư ra nước ngoài của các công ty quốc gia chiếm khoảng 80% trong tổng vốn đầu tư ra nước ngoài trên toàn thế giới. Đây chính sự thay đổi chiến lược trong chiến lược phát triển của các công ty xuyên quốc gia. Trước xu thế quốc tế hoá nền kinh tế thế giới trong thời gian gần đây, các công ty xuyên quốc gia đặc biệt tập trung căm dễ ở nước ngoài nhằm phát triển các mạng lưới khu vực trên quy mô lớn.Gắn liền với chính sách sản xuất quốc tế là chủ đạo, chứ không phải chiến lược phát triển như trước đây, các công ty xuyên quốc gia cũng gia tăng hoạt động trao đổi và hoạt đồng chuyển giao kỹ thuật công nghệ. Sự thay đổi chiến lược phát triển phát triển của các công ty xuyên quốc gia xuất phát từ mục tiêu quan trọng nhất của hoạt động kinh doanh đó là hiệu quả, là lợi nhuận cao. Do các điều kiện kinh tế chính trị xã hội thay đổi, buộc các công ty xuyên quốc gia phải xâm nhập vào nền kinh tế của các quốc gia khác nhau trên thế giới bằng cách xâm đầu tư sản xuất tại chỗ. Đó là phương cách khôn ngoan nhất, vừa cho phép các công ty xuyên quốc gia vượt qua được các hàng rào ngăn cản sự bành trướng kinh tế của họ lại vừa đem lại hiệu quả kinh tế cao. Mặt khác, về phía các nước nhận đầu tư nước ngoài, sự xâm nhập kiểu này của các công ty xuyên quốc gia cũng còn có thể chấp nhận được, nhiều khi còn đặc biệt được coi trọng. 2. Tác động kinh tế của FDI. 2.1. Với các nước xuất khẩu vốn đầu tư: Với nước xuất khẩu vốn thì có thể do sự sử dụng vốn không hiệu quả ở trong nước, do sự hạn chế về nguồn nguyên liệu đầu vào, do giá cả của sức lao động cao cho nên không thể đạt được mức tỉ suất lợi nhuận cao. Chính vì vậy, đầu tư ra nước ngoài là nhằm nâng cao hiệu quả đồng vốn, tận dụng được nguồn nhân lực với giá rẻ, nguồn tài nguyên của nước nhận đầu tư. Bên cạnh đó nước xuất khẩu vốn có thể nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường quốc tế thông qua giảm chi phí sản xuất. Ngày nay, với việc sử dụng các hàng rào thuế quan và phi thuế quan nhằm mục đích bảo vệ thị trường trong nước thì đầu tư trực tiếp là một biện pháp hữu hiệu để nước xuất khẩu đầu tư có thể thâm nhập vào thị trường nước nhận đầu tư mà các biện pháp khác không thể làm được. Việc đầu tư trực tiếp luôn đi kèm với quá trình chuyển giao công nghệ, sẽ giúp cho nước xuất khẩu đầu tư có thể chuyển cho nước nhận những công nghệ đã “lỗi thời” để kéo dài vòng đời của công nghệ đó. Bên cạnh những tác động tích cực của FDI đối với nước xuất khẩu vốn, nó có thể đem lại một số ảnh hưởng tiêu cực như sau: Thứ nhất, do có sự di chuyển vốn ra khỏi biên giới để thực hiện tỉ suất lợi nhuận cao hơn ở trong nước đã làm cho các nhà đầu tư “quên” đi nghĩa vụ là phải đầu tư trong nước để phát triển nguồn vốn và phát triển kinh tế. Thứ hai, việc “chảy máu chất xám” cũng dễ bị xảy ra, do việc đầu tư ở nước ngoài có lợi hơn cho nên một số các công trình nghiên cứu triển khai sẽ không được thực hiện lần đầu ở trong nước mà trực tiếp thực hiện ở nước nhận đầu tư. Thứ ba, bên cạnh việc thu lợi nhuận cao do đầu tư trực tiếp ở nước ngoài thì mức độ rủi ro cũng không phải là thấp. Chính vì thế, nước xuất khẩu đầu tư có thể bị mất hoàn toàn vốn, nếu như tình hình chính trị của nước sở tại không ổn định như lật đổ chính trị, thay đổi cơ chế chính sách... sẽ tác động mạnh đến nước xuất khẩu đầu tư. Đó là những cái được và cái mất của nước xuất khẩu vốn còn nước nhận đầu tư thì họ được cái gì và mất gì ? 2.2. Với các nước nhận vốn: 2.2.1. Tạo nguồn vốn bổ sung quan trọng Vốn cho đầu tư phát triển kinh tế bao gồm vốn trong nước và vốn ngoài nước. Đối với các nước lạc hậu, sản xuất còn ở trình độ thấp, nguồn vốn tích luỹ trong nước còn hạn hẹp thì vốn đầu tư trong nước có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với quá trình phát triển . ở các nước này , có nhiều tiềm năng về lao động, tài nguyên thiên nhiên nhưng do trình độ sản xuất thấp kém, cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn, lạc hậu nên chưa có điều kiện để khai thác các tiềm năng ấy. ở nhiều nước đang phát triển, vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ lệ đáng kể trong tổng vốn đầu tư của toàn bộ nền kinh tế, trong đó có một số nước dựa vào hoàn toàn vốn đầu tư nước ngoài , đặc biệt là giai đoạn đầu của sự phát triển kinh tế. 2.2.2. Chuyển giao công nghệ Khi đầu tư vào một nước nào đó, chủ đầu tư không chỉ chuyển vào đó vốn bằng tiền mà chuyển cả vốn bằng hiện vật như máy máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu...(hay còn gọi là công nghệ cứng) và vốn vô hình như chuyên gia kỹ thuật – công nghệ, tri thức khoa học , bí quyết quản lý, năng lực tiếp cận thị trường ...(hay còn gọi là công nghệ mềm). Thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, quá trình chuyển giao công nghệ được thực hiện tương đối nhanh chóng và thuận tiện cho cả hai bên đầu tư cũng như bên nhận đầu tư. 2.2.3. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Tranh thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoài, các nước đang phát triển muốn sử dụng nó để thực hiện mục tiêu quan trọng hàng đầu là đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế. Đây cũng là thời điểm nút để các nước đang phát triển thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói. Thực tiễn và kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, quốc gia nào thực hiện chiến lược kinh tế mở cửa với bên ngoài, biết tranh thủ và phát huy tác dụng của các nhân tố bên ngoài, biến nó thành các nhân tố bên trong thì quốc gia đó tạo ra được tăng trưởng kinh tế cao. Xem xét tình hình tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển trên thế giới có thể rút ra một số nhận xét sau: 1, có mối quan hệ tỉ lệ thuận giữa mức tăng trưởng kinh tế với khối lượng vốn đầu tư nước ngoài được huy động và sử dụng. 2, sự tăng trưởng kinh tế gắn liền với mức tăng trưởng xuất khẩu. Thực tế tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển, nhất là NICs, đã chứng minh thêm cho nhận định trên đây. Rõ ràng là hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần tích cực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển. Nó là tiền đề, là chỗ dựa để khai thác những tiềm năng to lớn ở trong nước nhằm phát triển nền kinh tế. 2.2.4. Thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế Để hội nhập vào nền kinh tế thế giới và tham gia tích cực vào quá trình liên kết kinh tế giữa các nước trên thế giới, đòi hỏi các quốc gia phải thay đổi cơ cấu kinh tế trong nước cho phù hợp sự phân công lao động quốc tế. Sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia phù hợp với trình độ phát triển chung trên thế giới sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Ngược lại thì chính đầu tư trực tiếp nước ngoài lại góp phần thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Bởi vì: 1, Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài đã làm xuất hiện nhiều lĩnh vực và ngành kinh tế mới ở nước nhận đầu tư. 2, Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp vào sự phát triển nhanh chóng trình độ kỹ thuật công nghệ ở nhiều ngành kinh tế, góp phần tăng năng suất lao động của các ngành này và làm tăng tỷ phần của nó trong nền kinh tế. 3, Một số ngành được kích thích phát triển bởi đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhưng cũng sẽ nhiều ngành bị mai một đi rồi đi đến chỗ bị xoá sổ. Ngoài những tác động trên đây, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn có một số tác động khác như sau: Đóng góp phần đáng kể vào nguồn thu của ngân sách nhà nước thông qua việc nộp thuế của các đơn vị đầu tư nước ngoài và tiền thu từ việc cho thuế đất đai.., Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế cho nước nhận đầu tư. Bởi vì hầu hết các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài là sản xuất ra các sản phẩm “hướng vào xuất khẩu”. Phần đóng góp của tư bản nước ngoài vào việc phát triển xuất khẩu là khá lớn trong nhiều nước đang phát triển. III. Những xu hướng vận động FDI hiện nay trên thế giới Đầu tư trực tiếp nước ngoài được phản ảnh bởi một số xu hướng chủ yếu sau: Xu hướng thứ nhất: Từ thập kỷ 60 đến nay xu hướng đầu tư trực tiếp có nhiều thay đổi. Nó thể hiện ở những khu vực có tương đối nhiều vốn như: Mỹ, Nhật, Canada... là những nước vừa đi đầu tư lớn đồng thời cũng là nước thu hút vốn lớn. Đây phải chăng là một nghịch lý mà các nước đang phát triển thiếu vốn phải đương đầu. Bởi vốn lại không “chảy” từ các nước thừa đến các nước thiếu mà lại chảy trong nội bộ các nước có tương đối lớn về vốn. Xu hướng này có thể là một nghịch lý nhưng nó lại là một yêu cầu khách quan với chủ đầu tư. Bởi hoạt động đầu tư nhằm mục đích là thu lợi nhuận cao. Chính vì vậy, nơi nào có thể sử dụng hiệu quả vốn, ít rủi ro và có lời cao thì họ sẽ đầu tư. Do vậy mà các nước có nhiều vốn lại là các nước thu hút được nhiều . Xu hướng thứ hai: là phải kể đến sự vận động đồng vốn chủ yếu được thực hiện trong nội bộ khu vực. Bởi sự tương đồng về các điều kiện văn hoá, xã hội , chi phí được giảm bớt do có sự thu hẹp khoảng cách địa lý. Như hiện nay, khu vực Châu á - Thái Bình Dương chủ yếu là vùng Đông Nam á thì chủ yếu do các nước như Nhật Bản và các nước Nics đầu tư. Xu hướng thứ ba: nếu trước đây các nước lớn như: Mỹ, Tây Âu, Nhật... là các nước dẫn đầu thế giới về đầu tư thì hiện nay một số nước như Nics Châu á, một số nước ở Châu Mỹ la tinh đã vươn lên chiếm lấy vị trí mạnh trong lĩnh vực đầu tư đi các nước, đặc biệt chính các nước này lại xâm nhập vốn đầu tư vào chính các nước mà trước đây đã đầu tư vào họ. Như các nước Nics đầu tư vào Mỹ, Nhật... Xu hướng thứ tư: sự thay đổi trong lĩnh vực đầu tư. Trước đây, các chủ đầu tư thực hiện các dự án chủ yếu vào các lĩnh vực truyền thống như khai thác tài nguyên thiên nhiên, chế biến, may mặc... cần nhiều lao động thì ngày nay lại chủ yếu đầu tư vào các ngành như thương mại dịch vụ, các ngành có hàm lượng công nghệ cao... Vì lúc đầu các nhà đầu tư chủ yếu muốn khai thác nguồn nhân công rẻ, sự dồi dào về TNTN của nước nhận đầu tư, nhưng ngày nay do sự phát triển của khoa học kỹ thuật nên những ngành này không còn là ưu thế mà chuyển sang các ngành khác như kể trên. Xu hướng thứ năm: sự chuyển dịch khu vực đầu tư. Nếu trước đây, Mỹ, Canada và Tây Âu là những khu vực năng động trong việc thu hút và sử dụng vốn thì ngày nay (trước khủng hoảng kinh tế khu vực) thì Châu á là nơi hấp dẫn đầu tư nhất thế giới, bởi khu vực này có những ưu thế: nhân công rẻ, môi trường đầu tư được cải thiện... với sự tác động mạnh của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực Châu á mức tăng trưởng thương mại thế giới năm 1998 chỉ có 3,7% so với 9,4% năm 1997 và 6,3% năm 1996. Song đầu tư nước ngoài trên thế giới vẫn gia tăng và đạt mức cao, bất chấp cả tình trạng suy giảm kinh tế trên thế giới. Theo tổ chức thương mại và phát triển của liên hợp quốc cho rằng sự tác động của khủng hoảng kinh tế khu vực Châu á - Thái Bình Dương chỉ làm giảm đầu tư ngắn hạn vào các thị trường chứng khoán, còn đối với đầu tư dài hạn vẫn tương đối ổn định và có chiều hướng gia tăng. Cũng theo tổ chức này thì tổng mức đầu tư năm 1998 trên thế giới đạt khoảng 4000 tỷ USD tăng khoảng 10% so với năm 1997 trong số 4000 tỷ USD này thì đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt khoảng 440 tỷ USD cũng tăng khoảng 10% so với năm 1997. Sở dĩ, có sự gia tăng của đầu tư trực tiếp nước ngoài là sự sáp nhập và liên kết giữa các công ty, doanh nghiệp lớn với nhau gọi là “Đám cưới của những chú voi”. Nó đã tạo ra các tập đoàn, các công ty siêu lớn về quy mô, siêu mạnh về vốn. Năm 1996 có khoảng 22.729 vụ sáp nhập thì năm 1998 có khoảng 30.000 vụ. Sự sáp nhập này đụng trạm đến nhiều ngành, đặc biệt là những ngành công nghệ cao, ngành truyền thống, ngành chế tạo và cả dịch vụ. Trên đây là một số xu hướng vận động chính của đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới trong những năm vừa qua, chính các xu hướng này đã tạo ra cho các nước đang phát triển thiếu vốn nói chung và Việt Nam nói riêng phải có những biện pháp để thu hút có hiệu quả các luồng vốn cũng như việc sử dụng đồng vốn sao cho lợi nhất. IV- Một số hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam được quốc hội thông qua ngày 20 - 12 - 1987 và sau nhiều lần sửa đổi bổ sung cùng với một số lớn các văn bản hướng dẫn thi hành đã quy định: Các tổ chức, cá nhân nước ngoài được đầu tư trực tiếp vào Việt Nam dưới các hình thức sau: + Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh. + Doanh nghiệp liên doanh + Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, còn có một số hình thức khác như: xây dựng khu chế xuất, khu công nghiệp... 1. Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh là hình thức đầu tư trong đó các bên quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư kinh doanh ở Việt Nam mà không thành lập một pháp nhân mới. Nội dung chính của hợp đồng, hợp tác kinh doanh là: - Quốc tịch, địa chỉ, đại diện có thẩm quyền của các bên hợp doanh. - Mục tiêu và phạm vi kinh doanh. - Đóng góp của các bên hợp doanh, việc phân chia kết quả kinh doanh, tiến độ thực hiện hợp đồng. - Sản phẩm chủ yếu, tỷ lệ xuất khẩu và tiêu thụ trong nước. - Thời hạn thực hiện của hợp đồng. - Quyền và nghĩa vụ của các bên hợp doanh. - Sửa đổi và chấm dứt hợp đồng, điều kiện chuyển nhượng. - Giải quyết tranh chấp. Hợp đồng này có hiệu lực ngay từ khi được Chính phủ Việt Nam cấp giấy phép, trong quá trình kinh doanh các bên hợp doanh được thoả thuận thành lập ban điều phối để theo dõi giám sát việc thực hiện hợp đồng. Nhưng ban này không phải là đại diện pháp lý cho các bên hợp doanh. Mỗi bên hợp doanh phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình trước pháp luật, các nghĩa vụ như nghĩa vụ thuế và nghĩa vụ tài chính khác của các bên là không giống nhau. Cụ thể là bên nước ngoài chịu sự điều chỉnh của luật đầu tư nước ngoài, còn bên Việt Nam chịu sự điều chỉnh của luật doanh nghiệp Việt Nam. Trong quá trình hợp đồng các bên hợp doanh có quyền chuyển nhượng vốn nhưng phải ưu tiên cho bên đối tác đang hợp tác. 2. Doanh nghiệp liên doanh Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp được thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh ký kết giữa bên ( hoặc các bên) Việt Nam với bên (hoặc các bên) nước ngoài để đầu tư kinh doanh tại Việt Nam. Như vậy, doanh nghiệp liên doanh là một pháp nhân theo pháp luật Việt Nam được thành lập bởi hai bên hoặc nhiều bên hoặc là bởi sự ký kết giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ nước ngoài. Doanh nghiệp liên doanh hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính, trên cơ sở hợp đồng liên doanh và được thành lập với tư cách như là một công ty trách nhiệm hữu hạn, vốn pháp định và vốn hợp đồng được đóng góp dựa trên sự thoả thuận giữa các bên. Như vậy, quyền lợi và trách nhiệm của các bên sẽ phân chia dựa trên phần vốn góp của mình. Theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thì bên liên doanh nước ngoài phải có mức đóng góp tối thiểu là 30% tổng vốn hợp đồng của doanh nghiệp. Về phần vốn góp, thì bên Việt Nam có thể góp bằng quyền sử dụng đất, mặt nước, mặt biển, có thể góp bằng tài nguyên hoặc cũng có thể góp bằng tiền Việt Nam hoặc ngoại tệ, thiết bị máy móc, nhà xưởng... Bên liên doanh, có thể góp bằng tiền, máy móc thiết bị, công nghệ chuyển giao... Về pháp lý thì Hội đồng quản trị là cơ quan cao nhất của doanh nghiệp liên doanh có quyền quyết định những nguyên tắc, kế hoạch hoạt động của doanh nghiệp, nó đóng vai trò như một cơ quan luật pháp ban hành các định hướng. Dưới hội đồng quản trị là ban điều hành nó đóng vai trò như cơ quan hành pháp thực thi tất cả các điều lệ, kế hoạch mà hội đồng quản trị đưa ra. Ban giám đốc chịu tất cả trách nhiệm và nghĩa vụ trước hội đồng quản trị và pháp luật nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 3. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại Việt Nam, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo hình thức một công ty trách nhiệm hữu hạn, mà theo đó phần vốn góp có thể của một chủ đầu tư nước ngoài, hoặc nhiều chủ đầu tư nước ngoài nhưng không có sự hợp tác của bên Việt Nam. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo pháp luật Việt Nam là một pháp nhân thuộc quyền quản lý của pháp luật nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo quy định của luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thì doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài phải ưu tiên sử dụng lao động Việt Nam, ưu tiên sử dụng nguyên, nhiên vật liệu trong nước. Và nếu trong nước không đáp ứng được nhu cầu đó thì phải có kế hoạch để đào tạo bổ sung trong tương lai. Trên đây là ba hình thức chủ yếu của hợp đồng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Ngoài ra, còn có các loại hình khác như BOT, BTO, BT... chúng đã đóng góp rất lớn cho sự tăng trưởng của Việt Nam trong những năm đổi mới vừa qua. Chương II: Thực trạng đầu tư nước ngoài tại việt nam i. Tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian qua. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam đã có những đóng góp tích cực trong phát triển kinh tế xã hội và dựa vào kết quả SXKD đã khẳng định rõ nét vai trò của FDI trong nền kinh tế Việt Nam. Thật vậy, FDI với những thế mạnh về vốn, công nghệ đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta, phát triển nhiều ngành nghề. Đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng đã góp phần mở rộng, đa dạng hoá đa phương hoá các hoạt động kinh tế đối ngoại, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế nước ta sớm hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực. Kể từ khi ban hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đến tháng 6-2001 cả nước đã thu hút được 3355 dự án FDI với tổng vốn đăng ký 40 tỷ USD, vốn thực hiện 18,823 tỷ USD (xem bảng 1) Bảng 1 : Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam Chỉ tiêu Năm Số dự án (dự án) Số vốn đăng ký(triệu USD) Số dự án tăng vốn (dự án) Số dự án Còn hiệu lực (dự án) Số vốn đăng ký còn hiệu lực(triệu USD) Số vốn thực hiện (triệu usd) 88-93 830 8180.6 68 6971 2117 1994 343 3765.6 73 10941 2213 1995 370 6530.8 122 18331 2761 1996 325 8497.3 134 26442 2837 1997 345 4649.1 143 31668 3032 1998 275 3897 133 33993 2189 1999 312 1568.3 135 35636 1933 2000 332 1926 122 2619 36400 1221 6/2001 223 1054 76 2736 36596 900 Tổng 3355 40066.6 1006 5355 36596 17803 Nguồn : Bộ kế hoạch đầu tư - Tổng cục thống kê Bảng 2: Đầu tư trực tiếp nước ngoài phân theo hình thức đầu tư (88- 6/2001) Hình thức đầu tư Số dự án còn hiệu lực Vốn đầu tư đăng đăng ký Vốn đầu tư thực hiện Tỷ trọng% Liên doanh 1042 21192 9942 57.91 100%vốn nước ngoài 1560 11193 5176 30.58 Hợp dồng hợp tác kinh doanh 130 3796 2648 10.37 BOT 4 415 37 1.14 Tổng (triệu USD) 2736 36596 17803 100% Nguồn : Bộ kế hoạch và đầu tư Qua các số liệu thực tế về hoạt động FDI cho thấy dòng vốn đầu tư vào Việt Nam trong những năm qua chủ yếu tập trung vào những ngành dễ thu lợi nhuận , thời gian thu hồi vốn nhanh, có thị trường tiêu thụ trong nước lớn và những ngành trong nước có tiềm năng như ngành sản xuất chất tẩy rửa, ngành dệt da, may mặc, ngành lắp ráp ôtô xe máy, thiết bị điện tử viễn thông, sắt thép , xi măng, khách sạn , văn phòng cho thuê. Đến nay, có thể đánh giá là khu vực đầu tư nước ngoài đã tăng lên đáng kể vào tăng trưởng kinh tế của nước ta. Tỷ lệ đóng góp của khu vực có vốn FDI vào GDP tăng nhanh qua các năm từ 2% năm 1992 lên 6,3% năm 1995 và 12,7% năm 2000 .Giá trị sản xuất của khu vực FDI trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp chiếm trên 96% năm 1990, lên 25,1% năm 1995 và 35,3% năm 2000. Về kết quả xuất khẩu đạt được trong 10 năm qua phải kể đến sự đóng góp có hiệu quả của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài . Khu vực này không những đã góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp trong mc phát triển về công nghệ, chất lượng , qủn lý sản xuất , cạnh tranh trong kinh doanh , mà còn đóng góp tích cực vào tăng trưởng kim ngạch xuất khảu chiếm 2,5% năm 1991 lên 6,10% năm 1995 và 23,2% năm 2000. Khu vực đầu tư nước ngoài cũng đang tạo việc làm cho 349.000 lao động gấp 37 lần so với năm 1990 trong đó gồm khoảng 6000 cán bộ quản lý, trên 25000 cán bộ kỹ thuật và số lượng khá đáng kể là công nhân lành nghề, góp phần thúc đẩy sự nghiệp đào tạo, nâng cao năng lực quản lý, trình độ khoa học công nghệ cho người lao động, đồng thười tăng sức mua cho thị trường tiêu dùng trong nước . II. Cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam 1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài phân theo nguồn đầu tư: Với chính sách mở cửa và khẩu hiệu Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới. Đến nay chúng ta đã đặt quan hệ ngoại giao với hầu hết các nước trên cả năm châu lục. Chính sách mở cửa thu hút vốn đầu tư nước ngoài đến nay đã thu hút được 2.237 dự án đang hoạt động của 62 nước lớn nhỏ trên thế giới đang đầu tư và hoạt động tại Việt Nam. Trong số những nước có vốn đầu tư trực tiếp tại Việt Nam thì phải đặc biệt kể đến những nước thuộc khu vực Châu á nói chung như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông... và các nước trong khối ASEAN nói riêng như Singapore, Thailand, Malaysia... là những nước có tỷ trọng đầu tư lớn vào Việt Nam. Bởi Việt Nam nằm trong khu vực Châu á - Thái Bình Dương thì với lợi thế về điều kiện địa lý, tương đồng về văn hoá - xã hội là môt điều kiện tốt để thu hút vốn của các nước thuộc khu vực Châu á. Số lượng vốn thực hiện cũng như số lượng vốn cam kết được thực hiện qua bảng sau: Bảng 3 - Việt Nam đầu tư trực tiếp nước ngoài phân theo nước 1988 - 1998 Đơn vị: Triệu USD TT Chỉ tiêu Quốc gia Vốn cam kết Vốn thực hiện Giải ngân của vốn pháp định Nợ nước ngoài Vốn cam kết chưa được giải ngân 1 2 3 4 = 2 - 3 5 = 1 - 2 1 Singapore 5.857 998 564 434 4.859 2 Taiwan 4.028 1.375 913 462 2.653 3 Japan 3.266 1.197 683 514 2.069 4 Korea 2.903 941 491 450 1.962 5 British virginIslans 2.772 352 241 110 2.420 6 Hồng Kông 2.671 982 583 400 1.689 7 France 1.489 328 190 138 1.161 8 Malaysia 1.182 763 308 455 418 9 USA 1.052 270 171 99 789 10 Australia 873 398 286 112 474 11 UK 693 586 260 327 107 12 Sweden 653 303 127 176 305 13 Other Country 4.102 1.436 836 573 2.666 14 Total 32.542 10.265 5.843 4.422 22.277 Nguồn: Theo Bộ KH và Đầu tư, ngân hàng Nhà nước và theo ước tính của cán bộ quỹ IMF Như vậy, trong tổng số 13 nước có khối lượng vốn lớn đầu tư vào Việt Nam thì có 7 nước thuộc khu vực Châu á chiếm 20.901 triệu USD trên tổng số 32.542 triệu USD ước khoảng 64,3% trong tổng số. Các nước lớn: Pháp chỉ có 1.489 triệu USD chiếm 4,6% trong tổng số vốn cam kết. Mỹ chỉ có 1.052 triệu USD chiếm 3,3% trong tổng số vốn cam kết. Bên cạnh tổng số 32.542 triệu USD vốn cam kết thì có 10.265 triệu là vốn thực hiện chiếm có 31,54% trong tổng số còn lại là 68,46% vẫn cam kết nhưng chưa được giải ngân. 2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tính theo ngành phân bổ. Đảng và Nhà nước ta trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã xác định phát triển lấy công nghiệp là ngành phát triển mũi nhọn, nông nghiệp là chủ yếu, thương mại dịch vụ là quan trọng. Chính vì thế, hơn 10 năm qua các ngành công nghiệp đã chiếm được một vị trí xứng đáng trong hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài với lượng vốn chiếm 62,2% tổng vốn đầu tư của hơn 37,6 tỷ USD đăng ký ở Việt Nam. Nếu tính về số dự án thì lĩnh vực công nghiệp cũng chiếm đến 63,6% tổng số dự án đã được cấp giấy phép. Ngành nông lâm ngư nghiệp và dịch vụ chưa phát triển tương xứng với khả năng có được ở Việt Nam ta. Cụ thể được thể hiện ở bảng sau: Bảng 4 - Vốn cam kết và vốn thực hiện đầu tư nước ngoài cộng dồn phân theo ngành 1994 - 1998 Đơn vị: Triệu USD STT Chỉ tiêu Ngành 1994 1995 1996 1997 1998 Trung bình 1994 - 1998 Vốn cam kết (Ck) Vốn thực hiện (T/h) Vốn cam kết (Ck) Vốn thực hiện (T/h) Vốn cam kết (Ck) Vốn thực hiện (T/h) Vốn cam kết (Ck) Vốn thực hiện (T/h) Vốn cam kết (Ck) Vốn thực hiện (T/h) Vốn cam kết (Ck) Vốn thực hiện (T/h) 1 Công nghiệp 4.142 934 6.609 1.671 9.344 2.514 11.002 3.484 12.187 3.814 - - + CN nặng 1.464 417 2.943 713 4.226 1.044 5.211 1.466 5.683 1.568 - - + Khu chế xuất 366 15 612 55 612 177 830 252 892 277 - - + CN nhẹ 1.305 214 1.815 446 2.677 770 2.995 1.135 3.642 1.258 - - + CN thực phẩm 1.007 288 1.239 459 1.829 523 1.966 631 1.970 711 - - 2 Dầu khí 1.213 1.133 1.213 1.715 1.265 2.016 1.316 2.018 2.588 2.068 - - 3 Xây dựng 919 89 1.605 202 2.235 475 2.946 627 3.013 877 - - 4 Giao thông và BC viễn thông 799 124 1.238 283 1.926 364 2.710 441 3.108 465 - - 5 Bất động sản 3.903 474 6.601 907 9.901 1.273 10.239 1.696 8.841 1.808 - - + KS và du lịch 2.701 354 3.511 607 3.446 827 3.558 1.124 4.320 1.197 - - + VP và căn hộ 1.202 120 3.090 299 6.456 446 6.681 572 4.520 612 - - 6 Nông lâm ngư nghiệp 573 95 891 216 1.004 292 1.593 576 2.014 617 - - 7 Dịch vụ 375 193 489 308 673 331 997 498 792 500 - - Tổng 11.924 3.042 18.646 5.302 26.348 7.265 30.804 9.339 32.542 10.140 - - % so với tổng số 1 Công nghiệp 34,7 30,7 35,4 31,5 35,5 34,6 35,7 37,3 37,4 37,6 35,8 34,4 + CN nặng 12,3 13,7 15,8 13,4 16,0 14,4 16,9 15,7 17,5 15,5 15,7 14,5 + Khu chế xuất 3,1 0,5 3,3 1,0 2,3 2,4 2,7 2,7 2,7 2,7 2,8 1,9 + CN nhẹ 10,9 7,0 9,7 8,4 10,2 10,6 9,7 12,1 11,2 12._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35141.doc
Tài liệu liên quan