Những mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Mục lục Ký tự viết tắt XHCN: Xã hội chủ nghĩa CNXH: Chủ nghĩa xã hội KTTT: Kinh tế thị trường LLSX: Lực lượng sản xuất QHSX: Quan hệ sản xuất I. Đặt vấn đề Cùng với xu thế của thời đại và thế giới thì việc chuyển sang nền kinh tế thị trường của Việt Nam là tất yếu. Vào cuối những năm của thập kỷ 70 và đầu những năm của thập kỷ 80 khi mà sự khủng hoảng kinh tế ở Việt Nam đã lên đến đỉnh điểm. Trước tình hình này Đảng và Nhà nước ta đã quyết định chuyển đổi nền kinh tế đất nước từ cơ chế

doc28 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1672 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Những mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường, mà điểm mốc là Đại hội Đảng VI năm 1986. Nền kinh tế thị trường tuy là một nền kinh tế phát triển nhất cho đến nay với rất nhiều mặt ưu điểm. Tuy nhiên trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường thì nước ta không thể tránh khỏi được những khó khăn. Theo quan điểm Triết học duy vật biện chứng thì bất cứ một sự vật, hiện tượng nào cũng chứa đựng trong nó những mâu thuẫn của những mặt đối lập. Do vậy, nền kinh tế thị trường Việt Nam cũng phát sinh trong lòng nó những mâu thuẫn. Trước hết đó là mâu thuẫn của sự ra đời có chế mới và sự tồn tại của cơ chế cũ, mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển với kiến trúc thượng tầng về mặt chính trị, pháp lý, quan điểm, tư tưởng. Mâu thuẫn giữa tính tự phát của sự phát triển kinh tế thị trường (theo chủ nghĩa Tư bản) với định hướng xã hội chủ nghĩa. Mâu thuẫn giữa các mặt tích cực và tiêu cực của nền kinh tế thị trường... Những mâu thuẫn này đang từng ngày, từng giờ xảy ra trong nền kinh tế thị trường. Việc nhận thức rõ những mâu thuẫn này và giải quyết chúng có vai trò vô cùng cần thiết để thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển. Đây là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu đối với Đảng và Nhà nước. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, bằng những kiến thức đã tiếp thu được trong học kỳ vừa qua, tôi đã chọn đề tài: Những Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam". Do trình độ, kiến thức còn có nhiều hạn chế chắc chắn bài tiểu luận sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và bạn đọc. II. Nội Dung Phần I. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật về mâu thuẫn 1. Khái niệm các mặt đối lập, mâu thuẫn, sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập Tất cả các sự vật, hiện tượng trên thế giới đều chứa đựng những mặt trái ngược nhau. Trong nguyên tử có điện tử và hạt nhân; trong sinh vật có đồng hoá và dị hoá; trong kinh tế thị trường có cung và cầu... Những mặt trái ngược nhau đó phép biện chứng duy vật gọi là mặt đối lập. Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Sự tồn tại các mặt đối lập là khách quan và là phổ biến trong tất cả các sự vật. Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng. Mâu thuẫn biện chứng tồn tại một cách khách quan và phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Mâu thuẫn biện chứng trong tư duy là phản ánh mâu thuẫn trong hiện thực và là nguồn gốc phát triển của nhận thức. Mâu thuẫn biện chứng không phảI là ngẫu nhiên, chủ quan, cũng không phảI là mâu thuẫn trong lôgích hình thức. Mâu thuẫn trong lôgích hình thức là sai lầm trong tư duy. Các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau lại vừa đấu tranh với nhau. Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, không tách rời nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề. Các mặt đối lập tồn tại không tách rời nhau nên giữa chúng bao giờ cũng có những nhân tố giống nhau. Những nhân tố giống nhau đó gọi là sự “đồng nhất” của các mặt đối lập. Với ý nghĩa đó, “sự thống nhất của các mặt đối lập” còn bao hàm cả sự “đồng nhất” của các mặt đó. Do có sự “đồng nhất” của các mặt đối lập mà trong sự triển khai của mâu thuẫn đến một lúc nào đó, các mặt đối lập có thể chuyển hoá cho nhau. Các mặt đối lập không chỉ thống nhất, mà còn luôn luôn “đấu tranh” với nhau. Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau. Hình thức đấu tranh của các mặt đối lập hết sức phong phú, đa dạng, tuỳ thuộc vào tính chất, vào mối quan hệ qua lại giữa các mặt đối lập và tuỳ điều kiện cụ thể diễn ra cuộc đấu tranh giữa chúng. 2. Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là hai xu hướng tác động khác nhau của các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn. Như vậy mâu thuẫn biện chứng bao hàm cả “sự thống nhất” lẫn “đấu tranh” của các mặt đối lập. Sự thống nhất gắn liền với sự đứng im, với sự ổn định tạm thời của sự vật. Sự đấu tranh gắn liền với tính tuyệt đối của sự vận động và phát triển. Điều đó có nghĩa là : “Sự thống nhất (...) các các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời, thoáng qua, tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối” (sđd, tr.379-380). Trong sự tác động qua lại của các mặt đối lập thì đấu tranh của các mặt đối lập quy định một cách tất yếu sự thay đổi của các mặt đang tác động và làm cho mâu thuẫn phát triển. Lúc đầu mới xuất hiện, mâu thuẫn chỉ là sự khác nhau căn bản, nhưng theo khuynh hướng trái ngược nhau. Sự khác nhau đó ngày càng phát triển và đi đến đối lập. Khi hai mặt đối lập xung đột gay gắt đã đủ điều kiện, chúng sẽ chuyển hoá lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Nhờ đó mà thể thống nhất cũ được thay thế bằng bằng thể thống nhất mới sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời thay thế. V.I.Lênin viết “ Sự phát triển là một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt đối lập” (sđd, tr.379). Tuy nhiên, không có thống nhất của các mặt đối lập thì cũng không có đấu tranh giữa chúng. Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là không thể tách rời nhau trong mâu thuẫn biện chứng. Sự vận động và phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tính ổn định và tính thay đổi. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập quy định tính ổn định và tính thay đổi của sự vật. Do đó, mâu thuẫn chính là nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển. 3. Phân loại mâu thuẫn - Căn cứ vào quan hệ đối với sự vật được xem xét, người ta phân biệt các mâu thuẫn thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài. Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng đối lập của cùng một sự vật. Mâu thuẫn bên ngoài đối với một sự vật nhất định là mâu thuẫn diễn ra trong mối quan hệ giữa sự vật đó với các sự vật khác. Mâu thuẫn bên trong có vai trò quyết định trực tiếp đối với quá trình vận động và phát triển của sự vật. Tuy nhiên, mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài không ngừng tác động qua lại lẫn nhau. Việc giải quyết mâu thuẫn bên trong không thể tách rời việc giải quyết mâu thuẫn bên ngoài; việc giải quyết mâu thuẫn bên ngoài là điều kiện để giải quyết mâu thuẫn bên trong. Thực tiễn cách mạng nước ta cũng cho thấy: việc giải quyết những mâu thuẫn trong nước ta không tách rời việc giải quyết những mâu thuẫn giữa nước ta với các nước khác. - Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật, mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản. Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, quy định sự phát triển ở tất cả các giai đoạn của sự vật, nó tồn tại trong suốt quá trình tồn tại các sự vật. Mâu thuẫn cơ bản được giải quyết thì sự vật sẽ thay đổi căn bản về chất. Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn chỉ đặc trưng cho một phương diện nào đó của sự vật, nó không quy định bản chất của sự vật. Mâu thuẫn đó nẩy sinh hay được giải quyết không làm cho sự vật thay đổi căn bản về chất. - Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật trong một giai đoạn nhất định, các mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu. Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở một giai đoạn phát triển nhất định của sự vật, nó chi phối các mâu thuẫn khác trong giai đoạn đó. Giải quyết được mâu thuẫn chủ yếu trong từng giai đoạn là điều kiện cho sự vật chuyển sang giai đoạn phát triển mới. Mâu thuẫn thứ yếu là mâu thuẫn ra đời và tồn tại trong một giai đoạn phát triển nào đó của sự vật, nhưng nó không đóng vai trò chi phối mà bị mâu thuẫn chủ yếu chi phối. Giải quyết mâu thuẫn thứ yếu là góp phần vào việc từng bước giải quyết mâu thuẫn chủ yếu. - Căn cứ vào tính chất của các quan hệ lợi ích, người ta chia mâu thuẫn trong xã hội thành mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng. Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những tập đoàn người có lợi ích cơ bản đối lập nhau. Mâu thuân không đối kháng là mâu thuẫn giữa những lực lượng xã hội có lợi ích cơ bản thống nhất với nhau, chỉ đối lập về những lợi ích không cơ bản, cục bộ, tạm thời. 4. ý nghĩa phương pháp luận Việc nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Để nhận thức đúng bản chất của sự vật và tìm ra phương hướng và giải pháp đúng cho hoạt động thực tiễn phải đi sâu nghiên cứu phát hiện ra mâu thuẫn của sự vật. Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng mâu thuẫn, xem xét vai trò, vị trí và mối quan hệ lẫn nhau của các mâu thuẫn; phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển và vị trí của từng mặt đối lập, mối quan hệ tác động qua lại giữa chúng, điều kiện chuyển hoá lẫn nhau giữa chúng. Chỉ có như thế mới có thể hiểu đúng mâu thuẫn của sự vật, hiểu đúng xu hướng vận động, phát triển và điều kiện để giải quyết mâu thuẫn. Để thúc đẩy sự vật phát triển phải tìm mọi cách để giải quyết mâu thuẫn, không được điều hoà mâu thuẫn. Việc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn phải phù hợp với trình độ phát triển của mâu thuẫn. Phải tìm ra phương thức, phương tiện và lực lượng để giải quyết mâu thuẫn. Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi điều kiện đã chín muồi. Một mặt, phải chống thái độ chủ quan, nóng vội; mặt khác, phải tích cực thúc đẩy các điều kiện khách quan để làm cho các điều kiện giải quyết mâu thuẫn đi đến chín muồi. Mâu thuẫn khác nhau phải có phương pháp giải quyết khác nhau. Phải tìm ra các hình thức giải quyết mâu thuẫn một cách linh hoạt, vừa phù hợp với từng loại mâu thuẫn, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể. Phần II. mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam 1. Sự cần thiết khách quan phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Kinh tế hàng hóa là một kiểu tổ choc kinh tế - xã hội, mà trong đó sản phẩm sản xuất ra để trao đổi, để bán trên thị trường. Mục đích của sản xuất trong kinh tế hàng hóa là không phải để thỏa mãn nhu cầu trực tiếp của người sản xuất ra sản phẩm mà nhằm để bán, tức là để thỏa mãn nhu cầu của người mua đáp ứng nhu cầu của xã hội. Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hóa, trong đó toàn bộ các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất đều thông qua thị trường. Kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường không đồng nhất với nhau, chúng khác nhau về trình độ phát triển. Về cơ bản chúng có cùng nguồn gốc và cùng bản chất. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) thực chất là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN. Trên cơ sở nhận thức đúng đắn hơn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội (CNXH) và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12 - 1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng CNXH. Đại hội đưa ra những quan niệm mới về con đường, phương pháp xây dựng CNXH, đặc biệt là quan niệm về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ, về cơ cấu kinh tế, thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hóa và thị trường, phê phán triệt để cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, và khẳng định chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh. Đại hội chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với những hình thức kinh doanh phù hợp; coi trọng việc kết hợp lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội; chăm lo toàn diện và phát huy nhân tố con người, có nhận thức mới về chính sách xã hội. Đại hội VI là một cột mốc đánh dấu bước chuyển quan trọng trong nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Đó là kết quả của cả một quá trình tìm tòi, thử nghiệm, suy tư, đấu tranh tư tưởng rất gian khổ, kết tinh trí tuệ và công sức của toàn Đảng, toàn dân trong nhiều năm. Hội nghị T.Ư 6 (tháng 3-1989) khóa VI, phát triển thêm một bước, đưa ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên CNXH, coi "chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên CNXH". Đến Đại hội VII (tháng 6-1991), Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục nói rõ hơn chủ trương này và khẳng định đây là chủ trương chiến lược, là con đường đi lên CNXH của Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH của Đảng khẳng định: "Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước". Đại hội VIII của Đảng (tháng 6-1996) đưa ra một kết luận mới rất quan trọng: "Sản xuất hàng hóa không đối lập với CNXH mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đã được xây dựng". Nhưng lúc đó cũng mới nói nền kinh tế hàng hóa, cơ chế thị trường, chưa dùng khái niệm "kinh tế thị trường". Phải đến Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) mới chính thức đưa ra khái niệm "kinh tế thị trường định hướng XHCN". Đại hội khẳng định: phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam. Đây là kết quả sau nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi, tổng kết thực tiễn; và là bước phát triển mới về tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự phát triển KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam là tất yếu khách quan, và do lợi ích sống còn của chế độ XHCN quy định, phù hợp với tình hình đất nước. 2. Những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng XHCN ở Việt Nam Thứ nhất, về mục tiêu phát triền KTTT: Trong nhiều đặc tính có thể dùng làm tiêu thức để phân biệt nền KTTT ở nước ta so với nền KTTT khác, phải nói đến mục đích chính trị, mục tiêu kinh tế - xã hội mà Nhà nước và nhân dân ta đã lựa chọn làm định hướng chi phối sự vận động phát triển của nền kinh tế. Mục tiêu đó là giải phóng LLSX, động viên mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH - HĐH), xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội, cải thiện từng bước đời sống nhân dân. Thứ hai, về thành phần kinh tế: Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng nền KTTT gồm nhiều thành phần, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), dẫn đến hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản Nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền KTTT định hướng XHCN, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế. Thứ ba, về hình thức phân phối: Trong nền KTTT định hướng XHCN thực hiện nhiều hình thức phân phối, trong đó lấy phân phối theo lao động là chủ yếu. Phù hợp với trình độ phát triển của LLXS trong thời kỳ quá độ lên CNXH, nhiều chế độ sở hữu cùng tồn tại. Mỗi chế độ sở hữu có nguyên tắc phân phối tương ứng với nó, vì thế trong thời kỳ quá độ tồn tại cơ cấu đa dạng về hình thức phân phối thu nhập. Trong nền KTTT ở nước ta, tồn tại các hình thức phân phối thu nhập sau: phân phối theo lao động, phân phối theo vốn, phân phối theo giá trị sức lao động (nó được thực hiện trong các doanh nghiệp tư bản tư nhân và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài), phân phối thông qua các quỹ phúc lợi tập thể và xã hội. Trong đó, phân phối theo lao động là đặc trưng bản chất của KTTT định hướng XHCN, nó là hình thức thực hiện về mặt kinh tế của chế độ công hữu. Vì thế phân phối theo lao động được xác định là hình thức phân phối chủ yếu trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Thứ tư, về cơ chế vận hanhh nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước XHCN. Nền KTTT định hướng XHCN cũng vận động theo yêu cầu của những quy luật vốn có của kinh tế thị trường như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, cạnh tranh,…; giá cả do thị trường quyết định; thị trường có vai trò quyết định trong việc phân phối các nguồn lực kinh tế vào các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Trong điều kiện ngày nay, hầu như tất cả các nền kinh tế của các nước đều có sự quản lý của Nhà nước để sửa chữa một mức độ nào đó những thát bại của thị trường. Vai trò quản lý của Nhà nước XHCN là hết sức quan trọng. Nó đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định, đạt hiệu quả cao, đặc biệt là giảm bớt được sự chênh lệch giữa giàu và nghèo, giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng của đất nước trong điều kiện kinh tế thị trường. Nhà nước quản lý nền KTTT định hướng XHCN theo nguyên tắc kết hợp kế hoạch với thị trường. Thị trường là bộ phận cấu thành của nền kinh tế, nó tồn tại khách quan, tự vận động theo những quy luật vốn có của nó. Còn kế hoạch hóa là hình thức thực hiện của tính kế hoạch, nó là sản phẩm chủ quan của chủ thể quản lý. Thứ năm, nền KTTT định hướng XHCN cũng là nền kinh tế mở, hội nhập. Đặc điểm này phản ánh sự khác biệt giữa nền KTTT định hướng XHCN mà chúng ta đang xây dựng với nền kinh tế dóng, khép kín trước đổi mới, đồng thời phản ánh xu hướng hội nhập của nền kinh tế nước ta trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế. Việc mở cửa kinh tế, hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới là tất yếu đối với nước ta. Vì chỉ có như vậy mới thu hút được vốn, kỹ thuật công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước để khai thác tiềm năng và thế mạnh của nước, thực hiện phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực để xây dựng và phát triển kinh tế thị trường hiện đại theo kiểu rút ngắn. 3. Những mâu thuẫn chủ yếu trong quá trình xây dựng nền KTTT định hướng XHCN 3.1 Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất (LLSX) và quan hệ sản xuất (QHSX) và các biểu hiện của nó Quan hệ sở hữu xã hội chủ nghĩa, cũng như quan hệ sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề luôn thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu lý luận, song ở đây, vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau. Muốn có câu trả lời đúng cho vấn đề này, trước hết phải có phương pháp tiếp cận đúng. Chúng ta không thể lấy ý muốn chủ quan thay thế các quy luật khách quan. Theo quy luật thì QHSX phải phù hợp với trình độ phát triển cửa LLSX. Trong lịch sử, sự phát triển của LLSX là quá trình không ngừng đổi mới và hoàn thiện công cụ lao động, đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ người lao động, là quá trình hình thành, phát triển phân công lao động xã hội, chuyểền từ LLSX có tính chất cá nhân lên LLSX có tính chất xã hội. Đặc biệt, trong thời đại ngày nay, khi khoa học đang trở thành LLSX trực tiếp, lao động trí tuệ ngày càng đóng vai trò to lớn, LLSX đã mang tính quốc tế, quá trình chuyển biến đó ngày một rõ ràng hơn. Cùng với quá trình phát triển của LLSX, các chế độ sở hữu cũng như các hình thức sở hữu cũng thay đổi. Trong lịch sử phát triền của nhân loại, các chế độ sở hữu đã lần lượt thay thế nhau: từ chế độ công hữu nguyên thuỷ đến chế độ chiếm hưu nô lệ, phong kiến, chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa. Lịch sử phát triển của nhân loại cũng cho thấy, không có một chế độ sở hữu nào là thuần nhất một hình thức sở hữu, mà nó là sự đan xen nhiều loại hình, nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Tuy nhiên, trong đó có một loại hình sở hữu đóng vai trò chi phối, quy định bản chất của chế độ sở hữu trong từng giai đoạn lịch sử. Xu hướng phát triển của nhân loại không phải đi đến chỗ đơn nhất hoá mà ngược lại, ngày càng đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Nếu như trong xã hội nguyên thuỷ chỉ mới có công hữu nguyên thuỷ thì ngày nay, trong các nước đều đan xen rất nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Xu hướng phát triển đó là tất yếu, phù hợp với quá trình xã hôi hoá của LLSX. LLSX có tính xã hội đòi hỏi QHSXcung phải có tính xã hội. Tính xã hội ở đây thể hiện trong tính đa dạng của nó, chính tính đa dạng đó mới tạo ra sự kết hợp tối ưu các yếu tố của LLSX. Trước đây, nói đến chế độ công hữu là nói đến quá trình biến tư liệu sản xuất thành sở hữu toàn dân và tập thể, và cuối cùng, đi đến một hình thức sở hưu duy nhất là sở hưu toàn dân. Từ đó dẫn đến công hữu hoá ồ ạt, càng nhanh càng tốt. Song thực tiễn đã cho thấy, đó là quan điểm sai lầm. Chế độ công hưu xã hôi chủ nghĩa không hề gạtạt bỏ tính đa dạng các hình thức sở hữu mà ngược lại, chúng thống nhất với nhau. Trong tính đa dạng các hính thức sở hữu, công hữu phải giữ vai trò chi phối. Điều đó cho phép phát triển mạnh mẽ LLSX, đồng thời giữ vững được bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đòi hỏi "phải trải qua một thòi kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế xã hội có tính chất quá độ và trong thời kỳ quá độ ấy có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế". Trong đường lối kinh tế, Đảng ta đề ra: "Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp ưu tiên phát triển LLSX, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuân phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa. QHSXtheo định hướng xã hội chủ nghĩa hay QHSXtrong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề rất mới mẻ về lý luận và thực tiễn. Phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa là chúng ta chưa thể có ngay chủ nghĩa xã hội theo đúng nghĩa của nó, mà đó là một quá trình, là mục tiêu mà chúng ta phải đạt tới. Trong quá trình đó, phải từng bước xác lập chủ nghĩa xã hội, phải tạo ra những điều kiện, những tiền đề để phát triển theo đúng quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội, tránh nguy cơ chệch hướng. Trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải kết hợp mục tiêu tăng trưởng kinh tế với mục tiêu xã hội và mục tiêu bảo vệ môi trường nhằm thực hiện "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Để phát triển mạnh mẽ LLSX, Đảng ta chủ trương đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Và "từ các hình thức sở hữu cơ bản: sớ hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân hình thành nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp". Để đạt được điều đó, đòi hỏi chúng ta phải thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu đài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân". Theo đó, có thể nói, quan hệ sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải kết hợp chặt chẽ giữa hai mặt: một mặt, phải đa dạng hoá các hình thức sớ hữu và coi đó là một trong những điều kiện tất yếu của kinh tế thị trường, mặt khác, phải không ngừng củng cố và hoàn thiện sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Đó là yếu tố quyết định đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa về mặt kinh tế. Việc kết hợp hai mặt đó là nét đặc thù của quan hệ sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn đề có tính chiến lược nhằm phát huy sức mạnh của toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. 3.2 . Mâu thuẫn giữa ổn định chính trị và đổi mới chính trị trong đổi mới kinh tế Việt Nam Có thể nói từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986) của Đảng Cộng Sản Việt Nam, đất nước ta chuyển sang một giai đoạn mới - giai đoạn thực hiện công cuộc đổi mới, đến nay công cuộc đổi mới đã được hơn 20 năm. Trong hơn 20 năm qua việc nhận thức về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị càng ngày càng chính xác hơn. Khi bước vào công cuộc đổi mới Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh đổi mới tư duy nhất là đối với cán bộ lãnh đạo, coi đó là tiền đề đổi mới hiện thực, nó hết sức cần thiết đối với thực tiễn nước ta để vượt ra khỏi thói quen tư duy cũ. Nói như vậy không có nghĩa là đổi mới tư duy có thể tách rời đổi mới trong thực tiễn. Đổi mới tư duy là phản ánh yêu cầu đổi mới trong thực tiễn mà gắn liền với thực tiễn của công cuộc đổi mới. Vì vậy tổng kết thực tiễn công cuộc đổi mới ở nước ta là cơ sở chủ yếu nhất để không ngừng đổi mới và phát triển tư duy. Vào những năm đầu của công cuộc đổi mới ở nước ta, khi mà Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu vấp phải những thất bại nặng nền, khi mà chúng ta giành được những thắng lợi bước đầu, ở nước ta đã có quan điểm cho rằng nguyên nhân thất bại của Liên Xô và Đông Âu là do các nước này đổi mới chính trị trước, đổi mới kinh tế sau. Còn nguyên nhân thành công của công cuộc đổi mới ở nước ta là đổi mới kinh tế trước, đổi mới chính trị sau. Quan điểm này mới xem tưởng như chính xác, nhưng đi vào phân tích sẽ thấy rằng nó không phù hợp với lý luận và thực tiễn. Theo quan điểm đã trình bày ở trên, mỗi khi chính trị không phù hợp với kinh tế thì thay đổi về chính trị là điều kiện tiên quyết để thay đổi về kinh tế, thúc đẩy kinh tế phát triển. Cho nên không thể quy nguyên nhân thất bại trong đổi mới ở Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu là đổi mới chính trị trước, đổi mới kinh tế sau. Nguyên nhân dẫn đến sự xụp đổ của Liên Xô và Đông Âu là do mâu thuẫn giữa kinh tế và chính trị không được phát hiện và khắc phục. Do đó đã dẫn đến khủng hoảng nghiêm trọng về chính trị làm mất vai trò của Đảng Cộng sản. Khẳng định rằng ở nước ta đổi mới kinh tế trước, đổi mới chính trị sau cũng không được phù hợp với thực tiễn. Sự thực là phải có đường lối mới do Đảng ta đề ra, trên cơ sở đó hình thành chính sách mới, luật pháp mới thì mới có thể đổi mới kinh tế. Vấn đề ở chỗ : Lĩnh vực chính trị là lĩnh vực hết sức phức tạp, liên quan đến quyền thống trị của giai cấp, nó quyết định thành bại của công cuộc đổi mới nên phải tiến hành từng bước vàg hết sức thận trọng. Đổi mới chính trị trên cơ sở đổi mới kinh tế và đáp ứng yêu cầu của đổi mới kinh tế. ổn định chính trị, nói một cách khái quát là giai cấp cầm quyền phải tăng cường quyền lực chính trị của mình, Nhà nước giai cấp đó phải mạnh, luật pháp phải nghiêm minh. Chế độ xã hội đã xác lập phải được giữ vững. Đối với nước ta hiện nay, ổn định là thực chất giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, tăng cường vai trò của nhà nước XHCN, bảo vệ và xây dựng thành công XHCN. Thực tiễn trên thế giới cho thấy ổn định xã hội là điều hết sức cơ bản để phát triển kinh tế. Nó tạo ra môi trường để thu hút nguồn đầu tư trong nước và ngoài nước, tạo điều kiện cho phát triển kinh doanh. Những thành tựu đó không thể tách rời việc chúng ta giữ được ổn định về chính trị. ổn định chính trị không thể tách rời đổi mới chính trị, không phải là đổi mới về nguyên tắc, mà đổi mới để giữ vững ổn định chính trị , tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, tổ chức quản lý nhà nước CNXH. Đổi mới chính trị phải gắn bó với đổi mới kinh tế, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế, và nhờ đó giữ vững được ổn định về chính trị. Song, đổi mới kinh tế không phải là đổi mới tuỳ tiện, mà theo nguyên tắc, theo một định hướng chính trị nhất định. Tóm lại ổn định và đổi mới về chính trị là hai mặt đối lập nhưng thống nhất biện chứng với nhau. Có ổn định thì mới có đổi mới và đổi mới là điều kiện để ổn định. Hai mặt đó tác động qua lại với nhau và gắn bó chặt chẽ với đổi mới kinh tế, trên nền tảng đổi mới kinh tế. Như vậy trong quá trình đổi mới ở nước ta, đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị luôn gắn bó chặt chẽ với nhau, thống nhất với nhau. Trong đó đổi mới kinh tế là trọng tâm, đổi mới chính trị phải tiến hành từng bước phù hợp với đổi mới kinh tế, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế. Điều khẳng định đó là sự khái quát kinh nghiệm 20 đổi mới, là kết quả vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lê Nin vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam. Khái quát đó hoàn toàn khoa học và nó có giá trị định hướng cho giai đoạn phát triển tiếp theo-giai đoạn đẩy mạnh quá trình "Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá" đất nước. 3.3 Mâu thuẫn giữa tính ưu việt của nền kinh tế thị trường đinh hướng XHCN với những hạn chế trong việc tìm ra quyết sách khắc phục mặt trái của kinh tế thị trường Tính ưu việt của quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải được thể hiện ngày càng đậm nét trước hết và chủ yếu ở khả năng bảo đảm sự kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, trong khi đó, chúng ta chưa tìm được những giải pháp hữu hiệu để giải quyết những hậu quả xã hội do tác động tiêu cực của những mặt trái thuộc kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế gây ra. Nhiều vấn đề xã hội có xu hướng ngày càng gay gắt. Đặc biệt, điều làm cho nhân dân hết sức bất bình, lo lắng là tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, nhũng nhiễu dân, suy thoái về tư tưởng chính trị và phẩm chất đạo đức, lối sống của .một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên rất nghiêm trọng. Văn hoá lai căng có xu hướng phát triển. Hiện tượng ma chay, cưới xin, hội hè với nhiều hủ tục được khôi phục ở nhiều nơi. Đạo lý xã hội, gia đình xuống cấp. Tình huống mất ổn định cục bộ có khả năng xảy ra nhiều hơn, mức độ phức tạp của tình hình gia tăng hơn... Chúng ta chưa tìm được những phương hướng ngăn chặn có hiệu quả tình trạng đó. 3.4 Mâu thuẫn giữa yêu cầu đẩy mạnh đổi mới hệ thống chính trị với sự thiếu hụt trong những biện pháp mang tính đột phá trên lĩnh vực này. Công cuộc đổi mới kinh tế đã phát triển tới mức đòi hỏi phải đẩy mạnh hơn nữa việc đổi mới tổ chức, phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, sự kết hợp hài hoà hơn nữa giữa các bộ phận cấu thành hệ thống đó, song, chúng ta chưa có những đột phá trên lĩnh vực này. Đã có n._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docT0458.doc
Tài liệu liên quan