Những vấn đề xung quanh việc Xuất nhập khẩu, đầu tư & giải pháp phát triển thị trường dệt may Việt Nam

Tài liệu Những vấn đề xung quanh việc Xuất nhập khẩu, đầu tư & giải pháp phát triển thị trường dệt may Việt Nam: MỞ ĐẦU Ngành công nghiệp dệt-may có một vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, vừa là ngành cung cấp hàng tiêu dùng thiết yếu cho xã hội, vừa có khả năng thu hút, tạo việc làm cho nhiều lao động nhất trong các ngành công nghiệp.Từ những năm qua, dệt-may còn là ngành có kim ngạch xuất khẩu lớn thứ hai trong cả nước, công nghiệp dệt-may luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm trong chính sách phát triển chung của công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. Ngày nay, các sản phẩm dệt may xuất khẩu củ... Ebook Những vấn đề xung quanh việc Xuất nhập khẩu, đầu tư & giải pháp phát triển thị trường dệt may Việt Nam

doc36 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1111 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Những vấn đề xung quanh việc Xuất nhập khẩu, đầu tư & giải pháp phát triển thị trường dệt may Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a Việt Nam không ngừng được phát triển cả về sản lượng, chủng loại sản phẩm và giá trị kim ngạch xuất khẩu trở thành một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trên thị trường thế giới. Những thành tựu của công nghiệp dệt-may đóng góp vào sự nghiệp kinh tế-xã hội ở nước ta đã đánh dấu bước khởi đầu tốt đẹp trong sự nghiệp đổi mới kinh tế ở Việt Nam.Tuy nhiên, nhìn nhận một cách thực tế hơn, các sản phẩm dệt may còn nhiều bất cập so với nhu cầu phát triển. Chẳng hạn như: Chất lượng vải của Việt Nam chưa đáp ứng nhu cầu xuất khẩu, giá cao hơn so với vải nhập khẩu, giá trị gia tăng của sản phẩm dệt may thấp…...Hơn nữa, trong xu thế quốc tế hoá hiện nay, Việt Nam cũng đã trở thành thành viên ASEAN (5/1995), APEC (11/1998) và WTO(11/2007). Như vậy, các sản phẩm dệt may của Việt Nam vừa có điều kiện để mở rộng, xâm nhập thị trường tiêu thụ, vừa chịu sức ép cạnh tranh lớn hơn trong môi trường cạnh tranh quốc tế. Vậy, làm thế nào để không bỏ lỡ cơ hội, vượt qua thử thách, làm thế nào để khai thác lợi thế, khắc phục mặt yếu kém là nhiệm vụ đặt ra cho ngành dệt may Việt Nam.Tiến hành đầu tư phát triển là giải pháp hữu hiệu để hoạt động sản xuất có hiệu quả, nâng cao khả năng phát triển của ngành dệt may. Và hiện trạng dệt may Việt Nam như thế nào, chúng ta đã và đang làm gì để phát triển ngành dệt may Việt Nam. Xuất phát từ vấn đề đó, em đã quyết định chọn đề tài : “Những vấn đề xung quanh việc xuất nhập khẩu, đầu tư và giải pháp phát triển thị trường dệt may Việt nam”. PHẦN I. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM I. Vai trò và đặc điểm của ngành dệt may Việt Nam 1. Vai trò của ngành dệt may Việt Nam Ngành sản xuất các sản phẩm dệt may ở nước ta là một trong những ngành nghề có truyền thống lâu đời nhất, gắn liền với quá trình hình thành và phát triển xã hội người Việt.Xã hội càng phát triển, khoa học công nghệ đạt đến khả năng giải quyết được các vấn đề khó khăn của sản xuất làm cho công nghiệp dệt may cũng ngày một hoàn thiện hơn và nhờ đó, phục vụ đời sống con người tốt hơn. Sự phát triển của công nghiệp dệt may Việt nam bắt đầu từ khu công nghiệp dệt Nam Định được thành lập năm 1889. Cho đến nay , ngành dệt may đã chứng tỏ là một ngành công nghiệp mũi nhọn, có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Thứ nhất, ngành công nghiệp dệt may có vai trò chủ đạo trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội. Nó có tác động lớn tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động và tạo ra nguồn thu ngoại tệ lớn cho quốc gia. Dệt may phát triển kéo theo sự phát triển của hàng loạt các ngành trong đó phải kể tới ngành nông nghiệp như việc trồng bông, trồng dâu, nuôi tằm….., ngành công nghiệp hoá dầu chế biến nguyên liệu phục vụ cho sản xuất, công nghiệp chế tạo, giải quyết được vấn đề việc làm cho hàng loạt lao động ….. Thứ hai, ngành dệt may là ngành có kim ngạch xuất khẩu cao. Đến nay, hàng may Việt nam đã xuất khẩu đến hơn 100 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, chủ yếu là Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU.Từ đó vừa có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, vừa thu được nguồn ngoại tệ đáng kể. Với tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 24,8%/năm, ngành vươn lên đứng vị trí thứ hai về kim ngạch xuất khẩu, sau ngành dầu khí. Năm 2003, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt 3,63 tỷ $, tăng nhanh so với năm 2002 và chiếm tỷ trọng hơn 18% trong cơ cấu mặt hàng xuất khẩu. Năm 2004, kim ngạch xuất khẩu đã đạt kỷ lục 4,36 tỷ $. Thứ ba, ngành dệt may còn có vai trò quan trọng trong việc giải quyết việc làm cho đông đảo lao động. Lực lượng lao động trong ngành dệt may chiếm khoảng 25% lực lượng lao động công nghiệp. Ngoài việc tạo công ăn việc làm cho chính lao động trong ngành, dệt may còn góp phần giải quyết việc làm cho ngành phụ trợ, như những nông dân trông bông, trồng dâu nuôi tằm…. Thứ tư, dệt may là một phân ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, nó cung cấp sản phẩm thiết yếu cho xã hội. Ngành có nhiệm vụ đáp ứng cho nhu cầu mặc- một trong hai nhu cầu thiết yếu của đời sống con người, mà con người là chủ thể của xã hội do đó chức năng của ngành dệt may có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế-xã hội. 2. Đặc điểm của ngành dệt may Thứ nhất, ngành công nghiệp may là ngành mà sản phẩm của nó có vòng đời ngắn. Sản phẩm được sản xuất ra để phục vụ con người, mà con người lại có có độ tuổi, nhu cầu, sở thích khác nhau nên sản phẩm dệt may cũng phải thay đổi để phù hợp với người sử dụng. Mỗi độ tuổi, giới tính lại có nhu cầu khác nhau về may mặc. Ngoài ra, sản phẩm dệt may còn chịu ảnh hưởng của yếu tố thời vụ: theo từng mùa, từng năm, yếu tố thời trang của từng giai đoạn nhất định. Đặc điểm này đòi hỏi nhà sản xuất phải nắm bắt nhu cầu, quan tâm đến thiết kế, thay đổi mẫu mã để phát triển được sản xuất, kinh doanh của mình. Thứ hai, công nghiệp dệt may là ngành công nghiệp mà sản phẩm của nó thường được bảo hộ cao. Việc bảo hộ này được thực hiện thông qua các hạn ngạch nhập khẩu, nguyên tắc nhãn hàng hoá, xuất xứ, chính sách xuất nhập khẩu…..Sự bảo hộ này không chỉ có ở các nước trực tiếp tham gia xuất khẩu hàng dệt may mà còn ở các nước lớn khác bởi họ muốn khống chế và chi phối các nước đang phát triển này. Do đó, nước nào muốn tham gia vào xuất khẩu hàng dệt may phải quan tâm dến chính sách nhà nước, luật quốc tế, để có đối sách cho phù hợp. Thứ ba, khác với ngành công nghiệp khác đòi hỏi nhiều máy móc thiết bị, công nghệ hiện đại do đó sử dụng ít lao động, ngành dệt may là ngành sử dụng nhiều lao động giản đơn. Do yêu cầu của việc sản xuất trong ngành dệt may không đòi hỏi công nghệ, may móc hiện đại, phức tạp do đó cần nhiều lao động, trong đó lao động giản đơn là chính. Thứ tư, công nghiệp dệt may là ngành có sản phẩm phục vụ nhu cầu thiết yếu cho con người, là sản phẩm không thể thay thế được. Con người có hai nhu cầu cơ bản đó là ăn và mặc, thì ngành dệt may đáp ứng nhu cầu mặc của con người. Con người không thể không mặc gì, không thể thay quần áo bằng những thứ khác, mà chỉ có thể thay thế vải này bằng vải loại vải khác, quần thành váy mà thôi. II. Tình hình huy động vốn trong ngành dệt may Việt Nam hiện nay 1. Vốn trong nước Hiện nay, hoạt động đầu tư phát triển bằng nguồn vốn trong nước của doanh nghiệp ngành dệt may đã mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế, như giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, tăng kim ngạch xuất nhập khẩu. Do đó, nhà nước có định hướng, chính sách khuyến khích đầu tư vào ngành dệt may. Các doanh nghiệp dệt may quốc doanh được cấp vốn ban đầu, đồng thời được cấp 30% vốn lưu động định mức theo kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm. Nguồn vốn trong nhân dân hiện nay còn rất lớn, các doanh nghiệp có khả năng có thể huy động vốn bằng cổ phiếu, trái phiếu. Mặt khác nhiều doanh nghiệp năng động, đã huy động được các nguồn vốn khác, như vốn vay ở ngân hàng, vốn vay nước ngoài, liên doanh, hợp tác... để mở rộng quy mô sản xuất như May 10, May Nhà Bè, May Việt Tiến... Theo thống kê của hiệp hội dệt may Việt Nam, trong 4 năm 2001-2004, riêng Vinatex đầu tư 8000 tỷ đồng, trong đó gần 70% là đầu tư vào ngành dệt. Hiệp hội dệt may Việt Nam đang kiến nghị chính phủ tập trung nguồn tín dụng khoảng 15 000 tỷ đồng hỗ trợ cho ngành dệt may phát triển từ 2004-2009. Đồng thời, các ngân hàng giảm lãi suất cho vay, các tổ chức tín dụng nước ngoài sẵn sàng cho Việt Nam vay khi có ngân hàng ngoại thương bảo lãnh. Vì vậy, tạo thuận lợi cho việc thu hút cho ngành dệt may. Tuy nhiên, các doanh nghiệp vẫn trong tình trạng thiếu vốn, nhất là vốn đầu tư dài hạn. Tình trạng thiếu vốn này thể hiện ở cả 2 mặt: vốn lưu động và vốn đầu tư để đổi mới công nghệ và thiết bị. Một số doanh nghiệp cần vốn ngay do đó phải đi vay và chịu lãi suất cao, thời gian trả nợ ngắn. Lãi vay không kịp trả đưa đến tình trạng nợ lớn, nguy cơ phá sản cao. Lãi suất ngân hàng hiện nay tuy đã giảm nhiều so với trước nhưng tỷ trọng cho vay trong và dài hạn quá thấp nên các doanh nghiệp không có điều kiện để vay vốn đầu tư chiều sâu. 2. Vốn nước ngoài Vốn đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng trong sản xuất của ngành dệt may. Nó chiếm tỷ trọng không nhỏ trong tổng vốn đầu tư vào ngành dệt may hiện nay. Tính đến nay, có khoảng 180 dự án sợi- dệt- nhuộm- đan len- may mặc có hiệu lực với số vốn đăng ký đạt gần 1,85 tỷ $, trong đó đã có 130 dự án đi vào hoạt động. Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài chiếm trên 30 % giá trị sản lượng hàng dệt và trên 25 % giá trị sản lượng hàng may mặc của cả nước. Dòng vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào ngành dệt may trong thời gian qua đã thực sự có tác động tích cực và có vai trò quan trọng trong chiến lược đầu tư phát triển ngành dệt may Việt Nam. Đầu tư nước ngoài đã mang lại cho ngành dệt may Việt Nam một lượng vốn đầu tư rất lớn, khoảng 42 % trong tổng số vốn đầu tư toàn ngành dệt may trong thời gian qua. Lượng vốn này đã góp phần giải quyết khó khăn của doanh nghiệp dệt may Việt Nam, là nguồn vốn bổ sung đáng kể khi nguồn vốn trong nước chưa huy động hết. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành dệt may Việt Nam Năm Số dự án Tổng số vốn(triệu $) Bình quân 1dự án(Triệu $) 2000 46 89,018 1,872 2001 73 135,83 1,86 2002 148 237,78 1,606 2003 145 268,23 1,85 2004 21 73,0738 3,479 Đến nay, có khoảng 25 quốc gia đầu tư vào ngành dệt may Việt Nam, chủ yếu là Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan.... với dự án quy mô vừa và nhỏ. Đài Loan là nước đầu tư lớn nhất với số vốn 1388,88 tr $ trong đó 53 dự án dệt, tương ứng 1189, 51 tr$; 92 dự án may tương ứng 199,37tr $. Song song với việc thu hút lượng vốn đầu tư nước ngoài, một lượng lớn tài sản thiết bị kỹ thuật và nguồn lực đáng kể được đưa vào hoạt động cho mục tiêu phát triển của ngành dệt may một cách có hiệu quả. Việc đổi mới trang thiết bị, máy móc công nghệ có được là nhờ sự góp vốn đầu tư của nhiều tập đoàn dệt may trên thế giới: Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản...Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp vai trò quan trọng trong sản xuất công nghiệp nói chung, dệt vải chiếm 33,5 % tổng giá trị sản xuất công nghiệp của ngành. Tuy nhiên, nguồn vốn nước ngoài còn một số hạn chế, đó là: Vốn đầu tư nước ngoài vào các khu vực chưa hợp lý do đó tạo ra sự chênh lệch thu nhập của công nhân dệt may giữa các khu vực và chưa khai thác hết tiềm năng về lao động, lợi thế của ngành dệt may. Hiệu quả sử dụng vốn nước ngoài chưa cao và không đồng đều. Hình thức liên doanh giảm đi đáng kể, chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ 16,44 % III. Tình hình đầu tư vào tài sản cố định hữu hình 1. Đầu tư vào máy móc thiết bị và công nghệ Hoạt động đầu tư vào thiết bị công nghệ có vai trò rất quan trọng trong sản xuất của các ngành công nghiệp, đặc biệt là ngành dệt may. Tuy ngành dệt may được phát triển sớm nhưng nếu không có khả năng đầu tư đổi mới công nghệ thì không có khả năng phát triển sản xuất sản phẩm chất lượng cao, tốn kém về chi phí sản xuất, không tạo được sản phẩm đa dạng. Công nghệ mới góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, phục vụ tốt hơn nhu cầu ngày một gia tăng của con người. Ngược lại, sự tiến bộ khoa học công nghệ tạo sản phẩm mới kích thích làm phát triển nhu cầu tiêu dùng dẫn đến thúc đẩy trở lại ngành dệt may phát triển. Đổi mới thiết bị công nghệ của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam thực sự được đặt ra và thực hiện một cách mạnh mẽ trong quá trình công nghiệp hoá. Hiện nay, công nghệ này đã có những cải thiện đáng kể, nhiều công đoạn của quá trình sản xuất đã đạt được trình độ công nghệ ở các nước tiên tiến. Trong những năm qua, với lượng vốn đầu tư thu hút nhiều, ngành dệt may Việt Nam đã tập trung đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ cho ngành dệt may. Vốn đầu tư thiết bị trong tổng vốn đầu tư của Vinatex giai đoạn 1998-2004 Đơn vị: Tỷ đồng 2000 2001 2002 2003 2004 Tổng vốn đầu tư 2066,8 3157 2111,8 1245,3 1514,6 Vốn thiết bị 1126 1774 1036 598 709,59 Tỷ lệ(%) 54,48 56,19 48,89 48,02 46,85 Ta thấy chỉ có năm 2003 vốn cho thiết bị của ngành thấp, chỉ đạt 598 tỉ đồng, còn lại ở các năm 2000-2004 thì vốn thiết bị tăng theo tổng vốn đầu tư. Cụ thể được thể hiện ở biểu đồ sau: Qua kết quả khảo sát 2003 về “ đổi mới thiết bị công nghệ tại các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam” ta có thực trang trình độ công nghệ của công nghiệp dệt may như sau: * Thiết bị công nghệ kéo sợi: Hiện nay, toàn ngành có khoảng 1050000 cọc kéo sợi và số cọc đã sử dụng trên 20 năm chiếm 44,67 %; số cọc sợi đã sử dụng từ 10 – 20 năm chiếm 36,62 %; số cọc sợi đã sử dụng dưới 10 năm chiếm 8,6 %. Nhìn chung, công nghệ kéo sợi chưa đạt yêu cầu về chất lượng, công ty sợi được trang bị máy móc hiện đại nhất cũng mới chỉ đạt khoảng 50 %. Công nghệ kéo sợi OE là công nghệ phổ biến nhất cũng mới chỉ đạt xấp xỉ 5 % sản lượng kéo sợi. *Thiết bị công nghệ dệt thoi: Tỷ lệ máy dệt mới được trang bị chỉ chiếm khoảng 15 % toàn ngành có khoảng 14 nghìn máy dệt vải, 450 máy dệt kim. Số máy dệt thoi kiểu cũ khổ hẹp chiếm tới 80%. Hầu hết các doanh nghiệp mới kéo được sợi có chỉ số 50, một số ít làm được sợi 60 và sợi để sản xuất mảnh vải có chất lượng cao nhưng chỉ số 80 – 100 thì chưa làm được *Thiệt bị công nghệ in nhuộm: Chất lượng sản phẩm không chỉ phụ thuộc vào thiết bị mà còn phụ thuộc vào công nghệ bao gồm hoá chất, thuốc nhuộm, quy trình công nghệ. Hiện nay, các xí nghiệp in nhuộm có năng lực sản xuất khoảng 600 tr m/ năm nhưng năng suất rất thấp. Tỷ lệ nhuộm đúng ngay từ mẻ đầu thường là 45 – 50%, cơ sở tốt nhất là 75% trong khi đó tỷ lệ này ở nước khác là 90%. Tỷ lệ nhuộm lại do sai màu chiếm 15-25%, cơ sở làm tốt nhất cũng chỉ đạt 6-7%, ở nước ngoài là 1-4%. *Thiết bị công nghệ may: Hiện nay toàn ngành có khoảng 190 nghìn máy may. Trên cả nước, ngành may đã đổi mới được 90% máy móc thiết bị, trong đó có các loại máy có chất lượng cao, tự động hoá. Song hiện nay thiết bị ở các khâu trên dây chuyền công nghệ có trình độ công nghệ rất chênh lệch nhau. Ở khâu may và hoàn tất sản phẩm sử dụng thiết bị mới và hiện đại, còn ở khâu chuẩn bị sản xuất, khâu cắt thì vẫn sử dụng lao động thủ công, năng suất thấp. Bên cạnh đó, còn tồn tại sự chênh lệch về trình độ công nghệ của các doanh nghiệp dệt may, như là: sự chênh lệch trình độ công nghệ của các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác nhau, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cao, còn ở doanh nghiệp nhà nước và ngoài nhà nước rất thấp. Chênh lệch về trình độ công nghệ giữa doanh nghiệp dệt và doanh nghiệp may, doanh nghiệp dệt chỉ có 15% máy mới, còn doanh nghiệp may xuất khẩu đã được thay toàn bộ thiết bị hiện đại. Hơn nữa, trình độ công nghệ sản xuất của ngành dệt may vẫn đang lạc hậu so với các nước trên thế giới, sản lượng sản phẩm xuất khẩu hạn chế, đạt khoảng 400 tr sản phẩm, trong khi đó ở Trung Quốc là 10 tỷ, Inđô là 3 tỷ, Thái Lan là 2,5 tỷ sản phẩm. Vốn đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ còn thiếu, đầu tư mang tính chất bổ sung thay thế là chính, chứ chưa quan tâm đến đầu tư mở rộng sản xuất, đầu tư sản xuất chủng loại mặt hàng mới. Nhiều doanh nghiệp đầu tư lớn song lại chưa huy động hết thiết bị mới đầu tư vào sản xuất, đặc biệt là dây truyền dệt, nhuộm. Đầu tư còn chưa đồng bộ và chưa phù hợp với xu hướng hiện nay của thị trường. Từ thực trạng trên cho thấy, đòi hỏi các doanh nghiệp ngành dệt may cần tập trung đầu tư hơn nữa cho thiết bị, công nghệ để có thể sản xuất ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu khắt khe của thị trường trong nước cũng như thế giới. 2. Đầu tư vào nguồn nguyên vật liệu Hiệu quả sản xuất của ngành may mặc chịu ành hưởng của nhiều nhân tố như thị trường đầu ra, đầu vào, môi trường thể chế pháp luật…. trong đó, một trong những yếu tố đầu vào có ý nghĩa quyết định đó là nguyên liệu thượng nguồn hay còn gọi là nguồn nguyên phụ liệu. Nguyên liệu thượng nguồn cho ngành may mặc, bao gồm những loại sản phẩm trung gian có vai trò hỗ trợ cho việc sản xuất sản phấm cuối cùng của may măc, một số sản phẩm chủ yếu như: sợi, vải, chỉ may, bao bì đóng gói, nhãn mác… cũng có thể hiểu một cách tương đối là sản xuất nguyên phụ liệu may mặc chính là ngành sản xuất phụ trợ của may mặc. Trong thời gian qua, ngành dệt may đã chú trọng đến đầu tư phát triển nguồn nguyên liệu và đạt được một số kết quả như: sản lượng bông cung cấp phát triển, chất lượng tốt hơn, các nguyên phu liệu khác cũng đáp ứng tốt hơn. Tuy nhiên, theo thống kê hiện nay ngành may mặc Việt Nam, nguồn nguyên phụ liệu trong nước chưa đáp ứng được yêu cầu của ngành. Hàng năm, phải nhập từ nước ngoài chiếm đến 70%, điều này ành hưởng lớn đến hiệu quả của ngành may mặc Việt Nam. Nhập khẩu nguyên phụ liệu ngành dệt may Việt Nam Mặt hàng Đơn vị 2000 2001 2002 2003 2004 Sợi dệt Nghìn tấn 273 210,7 265 217,3 231 Bông Nghìn tấn 90,4 98 97 91,7 138 Nguyên phụ liệu dệt may Triệu $ 1422 1589 1711 2035,6 2216 Tính đến nay, ngành may mặc và các cơ sở sản xuất nguyên phụ liệu phục vụ may mặc có số vốn đầu tư đăng ký đạt 1,85 tỷ $, các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài chiếm trên 30% giá trị sản lượng hàng dệt và 25% giá trị sản lượng may mặc. Bên cạnh đó, cây bông có vai trò quan trọng, là nguồn nguyên liệu của ngành dệt may. Ta sử dụng bông sản xuất trong nước sẽ chủ động được nguyên liệu, tiết kiệm ngoại tệ, cân băng kim ngạch XNK và khai thác tiềm năng đất đai lao động nhiều vùng trong cả nước. Trong giai đoan 2000 – 2003, ngành dệt may đã thực hiện 10 dự án phát triển trồng và chế biến bông, sản lượng bông tăng hàng năm 12- 15%, diện tích tăng từ 11- 17%, năng suất bình quân hàng năm đạt khoảng gần1 tấn/ha. Tuy vậy, thực tế hiện nay diện tích và năng suất trồng bông của Việt Nam mới chỉ đáp ứng được từ 10- 15% nhu cầu nguyên liệu của ngành dệt may, còn lại vẫn nhập khẩu là chủ yếu. Hàng năm, chúng ta vẫn phải bỏ khoảng 100 tr $ để nhập khẩu từ 50- 60 tấn bông xơ, chiếm 90% số lượng bông xơ sử dụng. Chính việc nhập khẩu này đã hạn chế khả năng phát triển của công nghiệp dệt. Doanh nghiệp không chủ động được nguồn nguyên phụ liệu và thời gian đáp ứng nhanh yêu cầu khách hàng từ đó ảnh hưởng đến kết quả sản xuất. Ngoài ra, tơ tằm cũng là nguyên liệu quan trọng trong ngành dệt may. Trong những năm gần đây nghề trồng dâu nuôi tằm đã được nhà nước quan tâm đầu tư phát triển. Diện tích trồng dâu có xu hướng tăng lên, đến 2000, diện tích trồng dâu lên đến 40000 ha. Bên cạnh đó, cũng tập trung vào trồng đay để sản xuất đay tơ. Hàng năm sản lượng đay đạt 20000 tấn. Một số dự án phát triển sản xuất tơ sợi nhân tạo và tổng hợp cho công nghệ dệt được xây dựng và thực hiện. Tổng sản lượng sợi đã gia tăng, tính riêng tổng công ty dệt may Việt Nam đã đạt 90000 tấn. Tuy nhiên, tình hình đầu tư phát triển vùng nguyên vật liêu, phụ liệu cho ngành dệt may còn gặp nhiều khó khăn. Nghề trồng dâu nuôi tằm được sản xuất ở quy mô nhỏ, phân tán do đó năng suất chưa cao, kỹ thuật còn chưa hiện đại nên sản lượng, chất lượng tơ chưa cao. Sản xuất đay tơ gần đây có xu hướng giảm sút. Nhà nước chưa có chính sách hỗ trợ việc trồng trọt, sản xuất nguyên liệu cho ngành dệt may. Các nhà sản xuất chưa lấy chất lượng đặt lên hàng đầu cho quá trình sản xuất. IV. Tình hình đầu tư vào tài sản vô hình 1. Đầu tư vào thương hiệu Theo đánh giá của chuyên gia quốc tế Việt Nam thành lập khá ổn định sự có mặt của mình trong thị trường hàng dệt may toàn cầu, ngành công nghiệp dệt may của Việt Nam đã có sức cạnh tranh. Sản phẩm dệt may Việt Nam đã tạo được sự tin cậy của các nhà bán lẻ quốc tế được biết đến khá nhiều trên thị trường quốc tế. Một số thương hiệu quen thuộc đã gây được uy tín như: may 10, may Việt Tiến, gấm Thái Tuấn, dệt kim Đông Xuân, sơ mi An Phước. Vài năm trở lại đây, một số doanh nghiệp dệt may đầu tư vào công tác tiếp thị, quảng bá sản phẩm hiệu quả đã sản xuất được nhiều sản phẩm mang thương hiệu của chính mình và từng bước đẩy lùi hàng ngoại như: công ty thời trang Việt với nhãn hiệu NinoMaxx, đưa ra sản phầm trên vải jeans, kaki, lylen… thích hợp cho giới trẻ năng động ; gấm Thái Tuấn với vải lụa mềm, hoạ tiết độc đáo hợp cho trang phục mang đậm nét văn hoá; may Việt Tiến với sản phẩm sơ mi, quần âu… đa dạng mẫu mã chiếm lĩnh thị trường khá đông đảo. Gần đây các doanh nghiệp đã quan tâm đến nghiên cứu, thu thập và phân tích thông tin thị trường như: tổ chức xây dựng các bộ phận nghiên cứu phát triển của phòng Marketing, xây dựng chương trình quảng cáo khuyến mãi, mở rộng hội nghị khách hàng, tham dự hội trợ trong nước, quốc tế. Tuy nhiên,sản phẩm may tiêu thụ nội địa phần lớn dựa vào mẫu mốt nước ngoài. Công tác nghiên cứu thiết kế mẫu thời trang còn thiếu. Các sản phẩm thời trang trên sàn diễn không được nhiều người thực tế sử dụng. Một số hàng thời trang cho trẻ em và phụ nữ còn ở mức cóp nhặt cải biển từ mẫu mã của Thái Lan, Hàn Quốc, Trung Quốc mà chưa có nhà thiết kế chuyên nghiệp. Ngành dệt may đến nay chưa hình thành được các trung tâm thiết kế mẫu mốt, tình hình tiêu thụ sản phẩm dệt may chất lượng cao mang nhãn mác của doanh nghiệp Việt Nam còn quá ít do đó không tạo được uy tín cho khách hàng, chưa xây dựng được hình ành doanh nghiệp trên thị trường. Bên cạnh đó, thương hiệu dệt may Việt Nam vẫn còn quá ít. Doanh nghiệp Việt Nam thiếu ý thức về đăng ký bản quyền bảo hộ thương hiệu, thường bị động trong việc bảo vệ thương hiệu khi xâm nhập thị trường nước ngoài. Chính vì vậy doanh nghiệp dệt may Việt Nam thường bị mất thương hiệu do sự thiếu cẩn trọng trong nghiên cứu thị trường và đối tác nước ngoài. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp dệt may Việt Nam xuất khẩu chưa có thương hiệu riêng về hàng hoá của mình theo thống kê có 70% giá trị xuất khẩu là sản phẩm gia công và mang nhãn hiệu hàng hoá của bên đặt hàng, 30% mang nhãn hiệu hàng hoá của nhà sản xuất trong nước hoặc mua quyền sử dụng nhãn hiệu hàng hoá của nước ngoài. Chính vì vậy, một số nhãn hiệu nổi tiếng của Việt Nam như: may Nhà Bè, may Thành Công, dệt kim Hà Nội không được Mỹ, Nhật, EU biết đến. Mặt khác doanh nghiệp Việt Nam sau khi bị đánh cắp thương hiệu thường lúng túng trong việc giành lại quyền sở hữu thương hiệu của mình, như vừa qua công ty Việt Tiến bị chiếm dụng thương hiệu ở Mỹ. 2. Đầu tư vào nguồn nhân lực Theo số lượng thống kê, đến nay có khoảng 1,6 tr lao động làm việc tại các cơ sở, nhà máy dệt may trong cả nước. Số lao động này chiếm khoảng 25% lực lượng lao động làm việc trong lĩnh vực công nghiệp. Nhưng nhìn chung, khả năng sản xuất, phát triển của ngành dệt may còn có những hạn chế như: còn thiếu cán bộ có trình độ quản lý, chuyên ngành… do đó đòi hỏi cần tập trung đầu tư phát triển nguồn nhân lực. Hiện nay, vấn đề đào tạo nguồn nhân lực của ngành đã được quan tâm. Các trường đại học đã có chuyên ngành đào tạo riêng như: Trường đại học Mỹ thuật công nghiệp, Khoa công nghệ dệt may của Trường đại học Bách Khoa, chuyên ngành thời trang của Viện đại học Mở. Ngoài ra, các công nhân kỹ thuật cũng được đào tạo trong các trường dạy nghề ở Gia Lâm. Các địa phương cũng có trường dạy nghề tại chỗ, trường hướng nghiệp. Theo số liệu năm 2204, tổng công ty dệt may Việt Nam đã triển khai được 24 lớp đào tạo, 699 học viên, 126 cán bộ được tập huấn quản trị chiến lược. Về vấn đề tiền lương cho người lao động trong ngành dệt may đã được gia tăng. Thu nhập cho người công nhân hiện nay khá ổn định so với trước. Tiền lương bình quân lao động ngành dệt may Việt Nam Chỉ tiêu Năm (USD/người/năm) 2000 2001 2002 2003 Tiền lương 700 720 740 760 Như vậy, ta thấy xu hướng này khá tốt đẹp trong ngành dệt may. Đến nay, nó đã tăng gấp gần 4 lần so với năm 1992. Do đó, đời sống người lao động làm trong ngành dần được cải thiện hơn. Đây cũng chính là điểm mạnh thu hút lao động vào ngành dệt may trong giai đoạn hiện nay.Trong đó, thu nhập của lao động ngành may cao hơn so với ngành dệt. Nhưng hiện nay, do ngành dệt đã được chú ý đầu tư nên khoảng cách này sẽ ngày càng có xu hướng giảm. Bên cạnh đó, tình hình đầu tư vào ngành dệt may hiện nay còn tồn tại một số vấn đề bất cập: Nhân công trong ngành dệt may ít được qua đào tạo và đào tạo lại, thường khoá đào tạo được tiến hành ngắn, trong 2 đến 3 tháng nội dung, mục tiêu đào tạo còn chậm đổi mới, chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất. Tay nghề của công nhân chưa cao, chưa đồng bộ, phù hợp với máy móc thiết bị do đó dẫn tới năng suất lao động, chất lượng sản phẩm thấp. Theo Vinatex, ngành dệt may Việt Nam hiện nay chỉ có 0,4% kỹ su công nghệ, 1,9% đạt trình độ trung cấp. Ngành sử dụng lao động nhiều, tỷ lệ ở mức cao ( 72 - 77%) nên khi doanh nghiệp không co việc làm, không tiêu thụ sản phẩm dẫn tới nghỉ việc tràn lan, gây ảnh hưởng đến các vấn đề về xã hội, tệ nạn gia tăng. Cơ sở vật chất, vốn tự có còn thấp, giải quyết chế độ phúc lợi còn chưa tốt. Thu nhập của công nhân dệt may dù phát triển nhưng còn thấp. Vì đó ảnh hưởng đến sức khoẻ, năng suất lao động, đời sống của công nhân. Từ đó ảnh hưởng đến phát triển sản xuất ngành dệt may. Trong vòng 20 đến 30 năm nữa, Việt Nam vẫn là nước có nguồn lao động dồi dào và rẻ, đây là cơ sở để dòng đầu tư nước ngoài từ các nước phát triển và các nước NICs đầu tư mạnh vào ngành dệt may Việt Nam nhằm tận dụng lợi thế về sức lao động. Do đó đầu tư phát triển vào nguồn nhân lực trong ngành dệt may cần được chú trọng để nâng cao sản xuất của ngành. V. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trong những năm gần đây 1. Xuất khẩu qua thị trường Mỹ năm 2007 Ước tính của bộ công thương cho biết, năm 2007, xuất khẩu dệt may đạt 7,8 tỷ USD, vượt 450 triệu USD so với kế hoạch và tăng tới 31% so với năm 2006. Đây có thể là một kết quả bất ngờ khi ngành dệt may Việt Nam phải đối phó với sự cạnh tranh ngày càng lớn và nhiều hàng dào kĩ thuật mới đang dựng lên. Bộ công thương dự báo năm 2008, xuất khẩu dệt may Việt Nam sẽ tiếp tục đà tăng trưởng mạnh. Dệt may Việt Nam đặt mục tiêu xuất khẩu 9,5 tỷ USD, tăng 21,8% so với năm 2007 Tại cuộc họp mới đây về triển khai kế hoạch xuất khẩu năm 2008, các DN dệt may không hề e ngại mục tiêu được đặt ra. Năm 2007, dệt may đã tăng trưởng đến 31% thì mức 21% năm 2008 không phải là vấn đề quá sức. Và nếu hoàn thành mục tiêu này, ngành dệt may sẽ cán đích đề ra cho năm 2010 sớm. Tuy nhiên, dù chưa bắt đầu thực hiện kế hoach 2008 nhưng các DN đã cảm nhận được những khó khăn trong năm tới và năm 2008 có thể sẽ tiếp tục là một năm căng thẳng đối với ngành dệt may Việt Nam. Theo các DN, có nhiều vấn đề cả trong và ngoài nước mà DN Việt Nam phải đối mặt. Trước hết đó sự cạnh tranh ngày càng gay gắt đến từ các nước sản xuất dệt may lớn trong khu vực như Trung Quốc, Bangladest, Campuchia và Ấn Độ. Trong đó, có những nước có nhiều thế mạnh về công nghiệp phụ trợ và chủ động về nguyên liệu như Trung Quốc và Ấn Độ. Ở trong nước, các DN dệt may vẫn bị ám ảnh trước vấn nạn đình công và thiếu công nhân ngành dệt may. Bên cạnh đó, chuyện tăng lương ngành dệt may cho tương xứng với những ngành khác đang đặt các DN trước nhiều bài toán đi theo rất khó giải. Đặc biệt, vấn đề khó khăn nhất vẫn là những rào cản đến từ thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam là Mỹ. Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam Lê Quốc Ân cho rằng, năm 2008 sẽ là một năm “căng thẳng” đối với ngành dệt may với những “rào cản” đến từ thị trường chủ lực Hoa Kỳ.  2. Xuất khẩu qua thị trường canada năm 2007 Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, trong 6 tháng đầu năm 2006, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Canađa đạt 44,8 triệu USD, tăng 54,8% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong 6 tháng đầu năm, xuất khẩu áo thun đạt kim ngạch cao nhất với 9,2 triệu USD, tăng hơn 78%. Mặt hàng đạt tăng trưởng cao nhất là quần áo bơi với 383 ngàn USD. Tiếp đến mặt hàng áo Jackét tăng 12%, đạt 7,9 triệu USD. Ngoài ra xuất khẩu một số mặt hàng khác cũng tăng khá như quần short (tăng 70%), đạt 2,75 triệu USD; áo khoác (tăng 45%), đạt 2,75 triệu USD; quần áo trẻ em (tăng 46%), đạt 1,9 triệu USD. Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Canađa 6 tháng 2006 Mặt hàng Kim ngạch 6 tháng 2006 (USD) So 06/05 (%) Tổng 44.780.659 54,85 Áo thun 9.223.228 78,66 Áo Jackét 7.917.704 12,07 Quần 7.618.728 107,64 Áo 3.061.121 194,14 Áo sơ mi 2.964.175 15,89 Quần Short 2.754.423 70,26 Áo khoác 2.572.782 44,98 Quần áo trẻ em 1.932.460 46,43 Váy 1.073.462 131,58 Q áo các loại 986.409 38,68 Áo kiểu 710.171 133,29 Quần áo thể thao 638.814 85,49 Găng tay 5460078 49,79 Vải 508.259 295,48 Quần áo bơi 383.891 Hàng may mặc 291.792 -27,77 Đồ lót 263.410 415,09 Quần áo Vest 256.564 -55,52 Áo Ghilê 226.358 140,24 Áo len 218.919 490,05 Quần áo ngủ 124.666 83,62 Quần áo Jackét 120.345 166,42 Áo gió 94.175 259,42 Áo choàng 65.916 Bộ áo váy 48.203 Áo dạ hội 37.699 90,21 Khăn 29.088 76,06 Khăn lông 28.077 Quần áo BHLD 28.046 378,38 Màn 19.249 Quần áo thun 9.703 -61,15 Bít tất 8.620 -81,70 Bộ váy áo 5.019 Q áo đồng bộ 4.300 Áo đầm 3.233 -99,11 Áo Blouson 2.297 631,47 Quần Jean 2.019 Áo nỉ 1.256 -99,64 Phụ liệu may -100,00 Quần áo tắm Tất Áo Vest 3. Xuất khẩu qua thị trường EU 2008 Hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang EU đang khá thuận lợi. Theo số liệu thống kê, kim ngạch xuất khẩu sang EU trong 2 tháng đầu năm đạt 240 triệu USD, tăng 22% so với cùng kỳ năm ngoái. Đựơc đánh giá là năm khó khăn đối với dệt may Việt Nam tại EU, do hàng dệt may của Trung quốc được dỡ bỏ hạn ngạch. Nhưng với kết quả đạt được trong thời gian qua là tín hiệu tốt cho việc đạt chỉ tiêu xuất khẩu vào thị trường EU. Với đà tăng trưởng cao, được sự quan tâm của các cấp ngành. Cùng với sự thuận lợi về tỷ giá giữa các đồng tiền trong xuất khẩu của Việt Nam, thì xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam sang EU sẽ giữ được mức tăng trưởng cao trong thời gian tới. Đạt được mức tăng trưởng xuất khẩu cao trong 2 tháng qua là nhờ tăng xuất sang hầu hết các nước thành viên có mức nhập khẩu nhiều hàng dệt may Việt Nam như Anh, Pháp, Hà Lan, Tây Ban Nha với các mức cụ thể: + Anh tăng 34% + Pháp tăng 27% + Tây ban nha tăng 25% + Italia tăng 32% 4. Xuất khẩu qua thị trường Nhật Bản Hàng dệt may Việt Nam xuất sang thị trường Nhật Bản phải đạt tiêu chí xuất sứ “ hai công đoạn”. Một trong những yêu cầu của Nhật Bản trong đàm phán về Hiệp định đối tác kinh tế với Việt Nam_ EPA nghĩa là hàng dệt may Việt Nam xuất sang Nhật Bản phải được sản xuất từ nguyên phụ liệu trong nước hoặc của Nhật, hoặc cảu các nước ASE._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc11804.doc
Tài liệu liên quan