Phân tích thống kê thực trạng chi tiêu cho y tế của hộ gia đình

ĐỀ TÀI PHÂN TÍCH THỐNG KÊ THỰC TRẠNG CHI TIÊU CHO Y TẾ CỦA HỘ GIA ĐÌNH (Theo số liệu khảo sát mức sống dân cư của TCTK năm 2004, 2006) Giáo viên hướng dẫn : TH.S CHU THỊ BÍCH NGỌC Sinh viên : NGUYỄN THỊ THU HƯƠNG Chuyên ngành : Thống kê kinh tế xã hội Lớp : Thống kê 47A Khóa : 47 MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG BIỂU, ĐỒ THỊ A. BẢNG Bảng 1.1: Lượng tăng và tốc độ tăng năm 2006 so với năm 2004 của thu nhập, chi tiêu, chi cho y tế bình quân đầu người/tháng và tỷ lệ hộ nghèo 6 Bảng 1.2: Quyết t

doc77 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2534 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Phân tích thống kê thực trạng chi tiêu cho y tế của hộ gia đình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oán chi ngân sách nhà nước 9 Bảng 1.3: Số cán bộ y tế của nước ta năm 2004 và 2006 11 Bảng 1.4: Tình trạng sức khỏe của các nhóm thu nhập năm 2006 12 Bảng 2.1: Chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng phân 21 Bảng 2.2: Chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng phân theo vùng 22 Bảng 2.3: Chi cho y tế bình quân đầu người/tháng nói chung và của những người có khám, chữa bệnh 23 Bảng 2.4: Chi cho y tế bình quân người/tháng và tỷ lệ chi cho y tế của hộ có khám chữa bệnh trong tổng chi tiêu các hộ phân theo khu vực 25 Bảng 2.5: Chi cho y tế bình quân đầu người/tháng của hộ theo dân tộc 27 Bảng 2.6: Chi cho y tế bình quân đầu người một tháng của hộ gia đình năm 2006 phân theo dân tộc và khu vực 29 Bảng 2.7: Chi tiêu y tế bình quân một nhân khẩu/tháng năm 2004, 2006 phân theo 5 nhóm chi tiêu và giới tính chủ hộ 30 Bảng 2.8: Thu nhập, chi cho y tế bình quân và tỷ lệ chi y tế bình quân trên thu nhập bình quân phân theo 5 nhóm thu nhập 31 Bảng 2.9: Chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng phân theo 5 nhóm chi tiêu cho y tế của hộ gia đình 33 Bảng 2.10: Phân bố hộ theo 5 nhóm chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng theo khu vực, vùng và quy mô hộ gia đình 34 Bảng 2.11: Cơ cấu chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng của hộ năm 2004, 2006 36 Bảng 2.12: Chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng phân theo khoản chi và khu vực 38 Bảng 2.13: Chi cho y tế bình quân đầu người/tháng phân theo khoản chi, theo vùng và theo khu vực 40 Bảng 2.14: Tỷ lệ lượt người khám, chữa bệnh nội trú, ngoại trú năm 2004, 2006 chia theo loại cơ sở y tế 53 Bảng 2.15: Tỷ lệ lượt người khám, chữa bệnh nội trú chia theo loại CSYT 54 Bảng 2.16: Lý do đến cơ sở y tế của thành viên trong hộ phân theo vùng 55 Bảng 2.17: Phương tiện thường dùng để đến cơ sở y tế phân theo vùng 56 B. ĐỒ THỊ Đồ thị 1.1: Tỷ lệ nghèo phân theo vùng địa lý năm 2004, 2006 8 Đồ thị 1.2: Tình trạng sức khỏe của các nhóm thu nhập năm 2006 12 Đồ thị 2.1: Chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng của tống số hộ, của các hộ có khám chữa bệnh và tỷ lệ hộ có khám chữa bệnh 23 Đồ thị 2.2: Chi cho y tế bình quân người/tháng theo khu vực và vùng 25 Đồ thị 2.3 : Chi cho y tế bình quân đầu người/ tháng của hộ theo dân tộc 28 Đồ thị 2.4: Tỷ lệ chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng so với thu nhập bình quân đầu người/tháng của hộ gia đình 32 Đồ thị 2.5: Chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng phân theo khoản chi và khu vực 39 Đồ thị 2.6: Thăm dò mối liên hệ giữa ảnh hưởng của thu nhập bình quân đầu người/tháng đến chi cho y tế bình quân đầu người/tháng 47 Đồ thị 2.7: Mức chi phí của hộ gia đình cho một lần khám, chữa bệnh trong 12 tháng năm 2006 của cả nước và phân theo vùng 57 Đồ thị 2.8: Tỷ lệ hộ có đủ tiền để thanh toán chi phí khám/chữa bệnh cho người sử dụng dịch vụ y tế trong 12 tháng năm 2006 phân theo vùng 59 Đồ thị 2.9: Nguồn giải quyết chi phí thanh toán khám/chữa bệnh theo vùng 60 Đồ thị 2.10: Nguồn giải quyết chi phí thanh toán khám/chữa bệnh năm 2004, năm 2006 60 Đồ thị 2.11: Mức trợ giúp cho thành viên bị ốm bình quân một người/năm phân theo vùng 61 Đồ thị 2.12: Mức trợ giúp cho thành viên bị ốm bình quân một người/năm phân theo vùng và theo khu vực 62 LỜI MỞ ĐẦU Mức sống của người dân luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm. Để tìm ra biện pháp nâng cao và phát triển mức sống dân cư của người dân, của hộ gia đình Đảng và Nhà nước ta đã tiến hành nhiều cuộc điều tra, đặc biệt với sự giúp đỡ của các nước khác Tổng cục Thống kê (TCTK) đã tiến hành các cuộc khảo sát mức sống dân cư ở các năm 1993; 1999; 2002; 2004 và đặc biệt là năm 2006_cuộc khảo sát gần đây nhất đã được TCTK công bố số liệu. Trong thời hòa bình, giáo dục và y tế là hai vấn đề xã hội được quan tâm nhiều nhất. Tại các nước Tây phương, mỗi lần tranh cử là một lần hai vấn đề này được đem ra phân tích và bàn thảo. Ở nước ta, trong thời gian qua, vấn đề giáo dục đã được “mổ xẻ” nhiều, nhưng vấn đề y tế tuy nhức nhối hơn và nghiêm trọng hơn thì lại chưa nhận được quan tâm đúng mực của quần chúng và chính quyền địa phương. Thật vậy, mức sống của dân cư ngày càng tăng, chi cho y tế cũng vậy, ngày càng có nhiều cơ sở y tế, nhiều nơi chăm sóc chữa bệnh cho người dân; nhưng có thể thấy dù đã có nhiều nhưng vẫn còn rất nhiều tình trạng bất cập ở các bệnh viện, viện điều dưỡng như: tình trạng quá tải bệnh viện xảy ra ở các tuyến, thiếu giường bệnh, thiếu y bác sĩ có tay nghề chuyên môn cao, thiếu các trang thiết bị trong khi đó chính quyền lại tập trung vào việc xây dựng các trụ sở uy ban và đảng uy. Đặc biệt là tình trạng bất đồng đều giữa các khu vực, các vùng, các nhóm thu nhập và các nhóm chi tiêu vẫn còn rất cao... Ngày nay, ở nước ta người dân ngày càng quan tâm đến các vấn đề về sức khỏe, về các dịch vụ chăm sóc sức khỏe của mình và của các thành viên trong hộ. Họ nhận thức được sức khỏe là một trong những yếu tố quan trọng trong hạnh phúc gia đình, đồng thời đóng góp rất lớn cho sản xuất (có sức khỏe tốt thì việc sản xuất càng hiệu quảmang lại nhiều thu nhập). Người dân đã cân nhắc đến vấn đế an toàn của sản phẩm trong các quyết định mua sắm, đặc biệt trong lĩnh vực thực phẩm và giải khát…Vậy thực trạng chi tiêu cho y tế của hộ gia đình năm 2006 như thế nào? chúng chiếm bao nhiêu % trong tổng số thu nhập của hộ gia đình, đặc biệt nên chi cho y tế bao nhiêu là phù hợp mang lại lợi ích kinh tế là tốt nhất (chi phí điều trị chi ra và lợi ích thu về là bao nhiêu để phù hợp và đạt hiệu quả cao nhất)? Với mục tiêu như trên, trong đề tài này em sẽ nghiên cứu chi tiêu cho y tế của hộ gia đình và các nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu cho y tế của hộ để từ đó thấy được phần nào thực trạng chi tiêu cho y tế và mức sống của dân cư năm 2006. Đề tài ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, phần phục lục và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài còn bao gồm 2 phần sau: Chương 1: Khái quát chung về chi tiêu cho y tế của hộ gia đình Việt Nam Chương 2: Phân tích chi tiêu cho y tế của hộ gia đình Việt Nam năm 2006 (Dựa trên số liệu KSMS của TCTK năm 2004, 2006) Tuy có nhiều cố gắng nhưng do thời gian có hạn và trình độ còn hạn chế nên bài trình bày không tránh khỏi thiếu sót, em kính mong được các thầy cô chỉ bảo và các bạn góp ý để bài trình bày được tốt hơn. Em xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHI TIÊU CHO Y TẾ CỦA HỘ 1.1 Các khái niệm cơ bản về chi tiêu cho y tế của hộ 1.1.1 Hộ gia đình Là đơn vị cơ bản của phân tích trong cuộc khảo sát mức sống dân cư của Tổng cục Thống kê. Hộ gia đình bao gồm một hay một nhóm người ở chung và ăn chung. Những người này có thể có hoặc không có quỹ thu, chi chung; có thể có hoặc không có mối quan hệ ruột thịt. 1.1.2 Chi tiêu cho y tế hộ gia đình Là tổng số tiền của hộ gia đình phải chi cho tất cả các khoản có liên quan đến y tế, bao gồm phòng bệnh, nâng cao sức khỏe và khám, chữa bệnh. Chi của hộ gia đình có thể là các khoản chi trước khi bị ốm (mua bảo hiểm y tế…) hoặc chi trực tiếp từ tiền túi khi sử dụng dịch vụ (trả viện phí, mua thuốc…) Chi tiêu trực tiếp từ tiền túi cho y tế khi sử dụng dịch vụ là khoản tiền hộ gia đình phải trả trực tiếp cho dịch vụ y tế khi sử dụng dịch vụ, chủ yếu là chi mua thuốc, chi trả viện phí, phí xét nghiệm, chuẩn đoán cận lâm sàng và các chi phí khác liên quan đến khám, chữa bệnh ở các cơ sở y tế nhà nước và tư nhân (trong đó có việc tự mua thuốc). Các khoản chi trực tiếp này thường tạo gánh nặng chi phí cho người bệnh, là một trong các nguyên nhân gây nghèo đói, bất công bằng trong chăm sóc sức khỏe. Để thực hiện mục tiêu công bằng trong chăm sóc sức khỏe, cần tăng chi ngân sách nhà nước cho y tế, tăng các hình thức chi trả trước (bảo hiểm y tế) và giảm tối thiểu các khoản chi trả trực tiếp từ tiền túi của người dân. Chi cho y tế bình quân đầu người của hộ gia đình là toàn bộ số tiền và giá trị hiện vật mà hộ gia đình và các thành viên của hộ đã chi cho tất cả các khoản có liên quan đến y tế bình quân cho một người trong một thời gian nhất định. Và được tính theo công thức sau: Chi cho y tế bình quân đầu người/tháng của hộ kỳ báo cáo = Tổng chi cho y tế của hộ trong tháng báo cáo Số thành viên của hộ trong tháng báo cáo Chi tiêu cho y tế của hộ gia đình là chỉ tiêu tương đối quan trọng vì đây là khoản chi đảm bảo cho hộ gia đình, cho các thành viên trong gia đình đáp ứng nhu cầu về y tế, chăm sóc sức khỏe, giúp tạo điều kiện để nâng cao thu nhập, đảm bảo cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Khi mức sống dân cư thấp thì hộ gia đình sẽ không có điều kiện để đảm bảo đủ điều kiện điều trị, chăm sóc sức khỏe; khi mức sống ngày càng tăng nên người dân sẽ càng chú y đến sức khỏe của mình, của các thành viên trong gia đình nên khi phân tích mức sống dân cư chúng ta cần quan tâm sự biến động của chi cho y tế của các hộ gia đình để đưa ra nhận xét về mức sống dân cư. Mặt khác chi cho y tế, nhất là chi từ tiền túi, thường khác với chi cho dịch vụ và háng tiêu dùng khác, vì đó là khoản chi không mong muốn và là một phản ứng đối với một sự kiện bất hạnh do sức khỏe, đôi khi bất ngờ, không dự đoán trước được, có tác động hoàn toàn tiêu cực tới phúc lợi của hộ gia đình, làm giảm nguồn lực có thể sử dụng để mua hàng hóa và dịch vụ khác. Chính vì vậy chi phí trực tiếp từ tiền tuic cho y tế cao là một trong những nguyên nhân gây đói nghèo, ngoài ra còn gây ra tình trạng mất cân bằng trong chăm sóc sức khỏe của các nhóm dân cư… 1.1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu cho y tế của hộ gia đình - Đặc điểm hộ: Thu nhập của hộ gia đình là toàn bộ số tiền và giá trị hiện vật mà hộ và các thành viên của hộ nhận được trong một thời gian nhất định. Thu nhập của hộ gia đình bao gồm: Thu từ tiền công; tiền lương; Thu từ sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản (đã trừ chi phí sản xuất và thuế sản xuất); Thu từ sản xuất ngành nghề phi nông, lâm nghiệp, thủy sản (đã trừ chi phí sản xuất và thuế sản xuất); Thu khác được tính vào thu nhập (không tính tiền rút tiết kiệm, bán tài sản, vay thuần túy, thu nợ và các khoản chuyển nhượng vốn nhận được) Thu nhập bình quân đầu người = Tổng thu nhập của dân cư Dân số trung bình Mức thu nhập bình quân đầu người phản ánh mức thu nhập đại biểu chung nhất của từng vùng, từng địa phương, từng nước. Chia theo tổng số hộ theo 5 nhóm thu nhập (mỗi nhóm 20% số hộ): Nhóm 1: Nhóm có thu nhập thấp nhất (nhóm nghèo nhất); Nhóm 2: Nhóm có thu nhập dưới trung bình; Nhóm 3: Nhóm có thu nhập trung bình; Nhóm 4: Nhóm có thu nhập khá; Nhóm 5: Nhóm có thu nhập cao nhất (nhóm giàu nhất) Chi tiêu của hộ gia đình là tổng số tiền và giá trị hiện vật mà hộ và các thành viên của hộ đã chi cho tiêu dùng trong một thời gian nhất định, bao gồm cả tự sản, tự tiêu về lương thực, thực phẩm, phi lương thực, thực phẩm và các khoản chi tiêu khác (biếu, đóng góp…). Các khoản chi tiêu của hộ không bao gồm chi phí sản xuất, thuế sản xuất, gửi tiết kiệm, cho vay, trả nợ và các khoản chi tương tự. Chi tiêu bình quân đầu người của hộ gia đình trong một thời kỳ là toàn bộ số tiền và giá trị hiện vật mà hộ gia đình và các thành viên của hộ đã chi cho tiêu dùng bình quân cho một người trong một thời gian nhất định (thường là một tháng, một năm). Được tính theo công thức: Chi tiêu bình quân đầu người/tháng của hộ kỳ báo cáo = Tổng chi tiêu của hộ gia đình trong tháng báo cáo Số thành viên của hộ trong tháng báo cáo Chia theo tổng số hộ theo 5 nhómchi tiêu (mỗi nhóm 20% số hộ): Nhóm 1: Nhóm có mức chi thấp nhất (nhóm nghèo nhất) Nhóm 2: Nhóm có mức chi dưới trung bình Nhóm 3: Nhóm có mức chi trung bình Nhóm 4: Nhóm có mức chi khá Nhóm 5: Nhóm có mức chi cao nhất (nhóm giàu nhất) Quy mô của hộ: là tổng số thành viên của một hộ gia đình Đặc điểm của chủ hộ: Giới tính: nam, nữ; Dân tộc: Kinh, Hoa… - Các nhân tố liên quan đến nơi cư trú của hộ gia đình Khu vực: thành thị, nông thôn Vùng địa lý: Đồng Bằng Sông Hồng, Đông Bắc, Tây Bắc, Bắc Trung Bộ, Duyên Hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Đồng Bằng Sông Cửu Long 1.2 Khái quát chung về sức khỏe của hộ gia đình Việt Nam qua số liệu cuộc KSMS của TCTK Mức sống của hộ gia đình được biểu hiện qua rất nhiều chỉ tiêu như thu nhập bình quân đầu người/tháng, chi tiêu cho đời sống, chi tiêu cho ăn, uống của hộ gia đình, tình hình sức khỏe, chi tiêu cho y tế , tình hình công ăn việc làm, tài sản, điều kện sinh hoạt của các thành viên trong hộ gia đình…Và qua kết quả của các cuộc khảo sát mức sống dân cư của TCTK ta thấy mức sống của hộ gia đình ngày càng tăng qua các năm. Cụ thể: Bảng 1.1: Lượng tăng và tốc độ tăng năm 2006 so với năm 2004 của thu nhập, chi tiêu, chi cho y tế bình quân đầu người/tháng và tỷ lệ hộ nghèo Đơn vị: Nghìn đồng 2004 2006 Lượng tăng Tốc độ tăng (%) Thu nhập bình quân đầu người/tháng 484,4 636,5 152,1 31,4 Chi tiêu bình quân đầu người/tháng 396,8 511,4 114,6 28,88 Chi cho y tế bình quân đầu người/tháng 25,3 29,3 4 15,81 Tỷ lệ hộ nghèo (%) 18,1 15,5 -2,6 -14,36 Nguồn: Khảo sát mức sống dân cư của TCTK 2004, 2006 Từ năm 2004 đến năm 2006 thu nhập bình quân đầu người/tháng tăng từ 484,4 nghìn đồng năm 2004 lên tới 636,5 nghìn đồng năm 2006, lượng tăng tuyệt đối là 152,1 nghìn đồng, tốc độ tăng năm 2006 so với năm 2004 đạt 31,4%. Khi phân theo thành thị và nông thôn: ta thấy thu nhập bình quân đầu người/tháng ở thành thị và nông thôn ngày càng tăng nhưng tốc độ tăng lại khác nhau: Xét đến chi tiêu bình quân đầu người/tháng ta thấy chi tiêu bình quân đầu người/tháng của hộ gia đình năm 2004 đến năm 2006 cũng tăng nhưng tốc độ tăng thấp hơn so với thu nhập bình quân đầu người/tháng cụ thể: từ 396,8 nghìn đồng năm 2004 tăng lên 511,4 nghìn đồng năm 2006 tức tăng: 114,6 nghìn đồng, tốc độ tăng là 28,88%. Mặt khác, năm 2004 chi tiêu bình quân đầu người/tháng chiếm 81,92% trong tổng số thu nhập bình quân đầu người/tháng của hộ gia đình, sang năm 2006 tỷ lệ này là đã giảm xuống còn 80,35%. Đặc biệt khi phân tích chi tiêu bình quân đầu người/tháng theo các khoản chi ta thấy năm 2006 chi cho đời sống đạt 460 nghìn đồng chiếm 90% trong tổng chi tiêu và chi tiêu khác 51 nghìn đồng chỉ chiếm 10%. Trong chi tiêu cho đời sống có tới 243 nghìn đồng chi ăn, uống, hút chiếm 52,83% trong tổng chi tiêu cho đời sống và 218 nghìn đồng chi cho ăn uống hút. Xét về lượng tuyệt đối các chỉ tiêu này đề tăng so với năm 2004 như chi tiêu cho đời sống năm 2004 chỉ có 360 nghìn đồng, chi cho ăn, uống, hút đạt 193 nghìn đồng chiếm 53,61% trong chi cho đời sống của hộ gia đìnhà Việt Nam vẫn là một nước nghèo vì tỷ trọng chi cho ăn, uống, hút so với chi tiêu cho đời sống vẫn còn cao (53,61% năm 2004 và 52,83% năm 2006) tuy nhiên mức sống của người dân năm 2006 đã tăng hơn so với năm 2004 vì khi còn nghèo người dân dành phần lớn chi tiêu của mình đảm bảo nhu cầu ăn, uống. Khi mức sống được cải thiện thì chi tiêu cho ăn, uống của dân tăng về số tuyệt đối, nhưng tỷ trọng trong chi tiêu chung sẽ giảm do các hộ gia đình đã có khả năng để chi nhiều hơn cho các nhu cầu không phải ăn, uống như may mặc, đi lại, giáo dục, sức khỏe, du lịch… Do thu nhập bình quân đầu người tiếp tục tăng khá, đời sống tầng lớp dân cư ở các vùng, đặc biệt là tầng lớp nghèo tiếp tục được cải thiện nên tỷ lệ hộ nghèo tiếp tục giảm. Tỷ lệ hộ nghèo của cả nước từ 18,1 năm 2004 xuống còn 15,5 năm 2006à giảm 2,6%. Theo kết quả bảng 1 phục lục 1 ta có đồ thị sau: Đồ thị 1.1: Tỷ lệ nghèo phân theo vùng địa lý năm 2004, 2006 Đơn vị: % Nguồn: Niên giám thống kê của TCTK năm 2007 Nhìn trên đồ thị ta thấy các vùng địa lý đều có tỷ lệ nghèo năm 2006 giảm so với năm 2004. Đặc biệt trong các vùng, vùng Tây Bắc có tỷ lệ nghèo cao nhất với 46,10% năm 2004 và 39,40% năm 2006 nhưng vùng này cũng là vùng có mức độ giảm cao nhất: giảm 6,7%. Sau đó đến Bắc Trung Bộ với 29,40% năm 2004 xuống chỉ còn 26,60% năm 2006 (giảm 2,8% tức 9,52% so với năm 2004) và Vùng Đông Nam bộ có tỷ lệ nghèo thấp nhất với 6,10% năm 2004 còn 4,60% năm 2006. Về chi tiêu cho y tế bình quân đầu người tăng từ 25,3 nghìn đồng năm 2004 lên 29,3 nghìn đồng năm 2006; chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng chiếm 6,38% trong tổng chi tiêu bình quân đầu người/tháng năm 2004 và 5,73% ở năm 2006; khi xét so với thu nhập bình quân đầu người/tháng thì chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng chỉ chiếm 5,22% năm 2004 và đã giảm xuống chỉ còn 4,60% năm 2006 (giảm0,62%)à Chứng tỏ mức sống người dân năm 2006 đã tăng so với năm 2004, người dân đã biết quan tâm, chăm sóc sức khỏe của mình và của các thành viên trong gia đình. Ta cũng biết, mục tiêu nhất quán của ngành y tế Việt Nam từ trước tới nay vấn là “mọi người đều được quan tâm chăm sóc sức khỏe”, tình trạng bất bình đảng giữa các nhóm thu nhập, các khu vực được giảm thiểu. Vì vậy, Nhà nước ta đã ngày càng quan tâm và chi ngân sách nhiều hơn cho y tế. Cụ thể: Bảng 1.2: Quyết toán chi ngân sách nhà nước Đơn vị: Tỷ đồng 2004 2006 TỔNG CHI 214.176 308.058 Trong đó Chi đầu tư phát triển 66.115 88.341 Chi phát triển sự nghiệp kinh tế xã hội 107.979 161.852 Chi sự nghiệp giáo dục, đào tạo 25.343 37.332 Chi sự nghiệp y tế 6.009 11.528 Chi dân số kế họach hoá gia đình 397 489 Chi sự nghiệp khoa học và CNMT 2.362 2.540 Chi sự nghiệp văn hoá, thông tin 1.584 1.874 Chi sự nghiệp phát thanh, truyền hình 1.325 1.184 Chi sự nghiệp thể dục, thể thao 883 956 Chi lương hưu, đảm bảo xã hội 17.282 22.157 Chi sự nghiệp kinh tế 10.301 14.212 Chi quản lý hành chính 15.901 18.515 Chi bổ sung quĩ dự trữ tài chính 78 135 Nguồn: Niên giám thống kê của TCTK năm 2007 Từ bảng số liệu ta thấy, trong tổng chi của ngân sách nhà nước cho phát triển sự nghiệp kinh tế năm 2006 thì chi sự nghiệp y tế đứng thứ 4 sau chi sự nghiệp giáo dục, đào tạo; chi lương hưu, đảm bảo xã hội; chi quản lý hành chính và chi cho sự nghiệp kinh tế. Tổng chi từ ngân sách cho sự nghiệp y tế ngày càng tăng từ 6.009 tỷ đồng năm 2004 lên 11.528 tỷ đồng năm 2006 tăng 5.519 tỷ đồng và tăng 91,85% so với năm 2004 (gần gấp đôi so với năm 2004). Trong năm 2004, chi sự nghiệp y tế chiếm trong tổng chi của ngân sách nhà nước; năm 2006 tỷ lệ này đã tăng lên là . Do vậy, mạng lưới y tế Việt Nam được hình thành rộng khắp cả nước từ trung ương đến địa phương, đến từng thôn xóm: tổng số cơ sở khám chữa bệnh tăng từ 13.149 cơ sở năm 2004 lên 13.243 cơ sở năm 2005, đến năm 2006 giảm chỉ còn 13.232 cơ sở (giảm 11 cơ sở so với năm 2005, nhưng tăng 83 cơ sở so với năm 2004_tức tăng 0,63% so với năm 2004). Tuy giảm 11 cơ sở so với năm 2005 nhưng nguyên nhân giảm ở đây là do hai bệnh viện điều dưỡng và phục hồi chức năng không còn hoạt động thay vào đó là sự tăng lên của các bệnh viện (từ 878 bệnh viện năm 2004 lên 903 bệnh viện năm 2006) cùng với sự tăng đó là sự tăng lên của các trạm y tế xã phường với 10.613 cơ sở năm 2004 tăng lên 10.672 cơ sở năm 2006 tức tăng lên 59 cơ sở. Bên cạnh sự tăng lên của các cơ sở khám, chữa bệnh thì số cán bộ y tế của nước ta tuy vẫn chưa đáp ứng và giải quyết được nhu cầu cấp bách về tình trạng thiếu y bác sĩ ở các bệnh viện, các cơ sở khám chữa bệnh đặc biệt là các bác sĩ, y tá có tay nghề cao hiện nay nhưng cũng đã và đang giải quyết nhằm hạn chế một phần nào đó các hiện tượng trên: Bảng 1.3: Số cán bộ y tế của nước ta năm 2004 và 2006 Đơn vị: Nghìn người 2004 2006 Cán bộ ngành y Bác sĩ 50,1 52,8 Y sĩ 49,2 48,8 Y tá 49,2 55,4 Bác sĩ bình quân cho 1 vạn dân (người) 6,1 6,3 Cán bộ ngành dược Dược sĩ cao cấp 5,6 5,5 Dược sĩ trung cấp 9,1 10,8 Dược tá 7,9 7,9 Nguồn: Niên giám thống kê năm 2006 Ta thấy y sĩ, dược sĩ cao cấp, dược tá năm 2006 so với năm 2004 còn các cán bộ y tế khác năm 2006 đều tăng so với năm 2004 nhưng tốc độ tăng lại quá thấp cụ thể: năm 2006 bác sĩ chỉ tăng có 2,7 nghìn người so với năm 2004, y tá tăng từ 49,2 nghìn người năm 2004 lên 55,4 nghìn người năm 2006à tăng 6,2 nghìn người tức tăng 12,6% trong khi đó dân số trung bình của nước ta lại khá đông và tiếp tục tăng từ 82.031,7 nghìn người năm 2004 lên 84155,8 nghìn người năm 2006_tăng hơn so với năm 2004 là 2.124,1 nghìn người. Mặt khác nhìn vào bảng ta thấy, bác sĩ bình quân cho một vạn người chỉ có 6,3 người và số bác sĩ trực thuộc sở y tế năm 2006 thì tập trung chủ yếu ở Đồng Bằng Sông Hồng với 9.866 bác sĩ trên 18.207,9 nghìn ngườià bác sĩ bình quân cho một vạn dân là 5,42 người và ở Đông Nam Bộ với 7.544 bác sĩ trên 13.798,4 nghìn người (bác sĩ bình quân cho một vạn dân là 5,47 bác sĩ) trong khi đó Tây Bắc chỉ có 1.130 bác sĩ trên 2.606,9 nghìn người (bác sõ bình quân cho một vạn dân chỉ có 4,33 bác sĩ). Bảng 1.4: Tình trạng sức khỏe của các nhóm thu nhập năm 2006 Đơn vị: % Tỷ lệ người mắc bệnh/chấn thương Tỷ lệ người có khám, chữa bệnh Tỷ lệ dân số có bảo hiểm y tê Chung 49,1 35,2 53,2 Nhóm 1 45,8 33,8 66,3 Nhóm 2 46,8 34,4 48,9 Nhóm 3 49,1 35,2 44,3 Nhóm 4 51 36,5 49,1 Nhóm 5 52,9 36,3 57,1 Nguồn: Kết quả khảo sát mức sống dân cư của TCTK năm 2006 Đồ thị 1.2: Tình trạng sức khỏe của các nhóm thu nhập năm 2006 Đơn vị: % Nguồn: Kết quả khảo sát mức sống dân cư của TCTK năm 2006 Ta thấy xét chỉ tiêu tỷ lệ dân số có bảo hiểm y tế thì nhóm 1 là nhóm có tỷ lệ dân số có bảo hiểm cao nhất với 66,3% ; đứng thứ 2 là nhóm 5 với 57,1%. Nhưng đi sâu vào từng loại bảo hiểm y tế ta thấy bảo hiểm y tế bắt buộc ở nhóm 1 chỉ có 66,4% trong khi đó ở nhóm 5 lên tới 95,9%; đặc biệt là phải kể đến bảo hiểm y tế của người nghèo: ở nhóm 1 tỷ lệ bảo hiểm này lên tới 30,8% gấp 1,79 lấn so với nhóm 2 và gấp nhóm 5 tới 25,67 lần. Ta thấy nhóm 4 là nhóm có tỷ lệ người có khám, chữa bệnh cao nhất với 36,5% , đứng thứ 2 là nhóm 5 với 36,3% còn nhóm 1 chỉ có 35,2%. Trong khi đó nhóm 1 có tỷ lệ người điều trị nội trú cao nhất với 7,1% và cũng là nhóm có tỷ lệ có bảo hiểm y tế hoặc sổ khám chữa bệnh miễn phí khi điều trị nội trú cao nhất với 5,3% trong khi đó nhóm 5 chỉ có 3,8%. Đặc biệt, tỷ lệ người có điều trị ngoại trú ở nhóm 1 chỉ có 30,4% mà tỷ lệ có bảo hiểm y tế hoặc sổ khám chữa bệnh miễn phí lên tới 21,5% trong khi đó nhóm 5 với 34,3% người có điều trị ngoại trú mà chỉ có 20,8% có bảo hiểm y tế hoặc số khám chữa bệnh miễn phíà thấp hơn nhóm 1 là 0,7%. Điều đó cho ta thấy: mức sống dân cư của người dân ngày càng cao, mức chi cho y tế bình quân đầu người càng tăng qua các năm nhưng vẫn còn nhiều tình trạng bất đồng đều giữa các vùng, các nhóm thu nhập. Do vậy, nhà nước phải đạt ra các chính sách thích hợp để vừa nâng cao mức sống của người dân vừa hạn chế tình trạng bất bình đẳng giữa các nhóm, các vùng. 1.3 Ảnh hưởng của các nhân tố đến chi tiêu cho y tế của hộ gia đình Nếu như ở Mỹ vào năm 1986 chi phí y tế cho một đầu người chỉ có 1.872 USD thì đến năm 2000 chi phí này đã tăng đến 5.039 USD và ước tính đến năm 2010 có thể lên đến 8.228 USD. Vấn đề này có nhiều nguyên do trong đó có việc xuất hiện của ngày càng nhiều các trang thiết bị chẩn đoán và điều trị đắt tiền nhất là các trang thiết bị mới. Ở nhiều nước tình trạng tăng chi phí dành cho y tế còn có nguyên do từ việc xuất hiện nhiều bệnh do lối sống trong đó có bệnh tim mạch, tiểu đường, các rối loạn tâm thần kể cả nhiều bệnh lây như AIDS, bệnh lây qua đường tính dục…Vậy ở nước ta thì sao, chi cho y tế của hộ gia đình như thế nào? và ảnh hưởng của các yếu tố đến cho y tế ra sao? Ta cũng biết, một trong những mục tiêu hàng đầu của ngành y tế Việt Nam là đảm bảo mọi người dân đều được tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế có chất lượng. Tuy nhiên vẫn có những chênh lệch về chi cho y tế của hộ gia đình ở thành thị và nông thôn; ở các vùng với nhau. Cụ thể, khi chia nước ta ra thành 8 vùng: Đồng Bằng Sông Hồng, Đông Bắc, Tây Bắc, Bắc Trung Bộ, Duyên Hải Nam Trung Bộ, Tây nguyên, Đông Nam Bộ, Đồng Bằng Sông Cửu Long ta có: chi cho y tế bình quân đầu người/tháng của hộ gia đình ở Đông Nam Bộ là cao nhất lên tới 40,14 nghìn đồng chiếm 3,77% trong tổng thu nhập bình quân đầu người/tháng ; sau đó đến Đồng Bằng Sông Cửu Long là 32,31 nghìn đồng; và thấp nhất là Tây Bắc chỉ có 11,54 nghìn đồng chiếm 3,09% trong tổng thu nhập bình quân đầu người/tháng và chỉ bằng 0,29 lần so với chi cho y tế bình quân đầu người/tháng của hộ gia đình ở khu vực Đông Nam Bộ. Đặc biệt, thu nhập của hộ là nhân tố quan trọng quyết định khả năng chi trả các dịch vụ chăm sóc sức khỏe và nó cũng ảnh hưởng đến lợi ích thu được khi tìm kiếm việc chăm sóc. khi ta quan tâm đến thu nhập bình quân đầu người/tháng của hộ gia đình ta thấy: những khu vực có thu nhập cao thì chi cho y tế cũng cao và ngược lại. Ví dụ như, Đông Nam Bộ là khu vực có thu nhập bình quân đầu người/tháng cao nhất lên tới 1.065 nghìn đồng và chi cho y tế cũng cao nhất. Và Tây Bắc là khu vực có thu nhập bình quân đầu người/tháng chỉ có 373 nghìn đồng_thấp nhất trong tất cả các khu vực thi chi cho y tế cũng thấp nhất. Nghèo đói cũng là nguyên nhân làm sức khỏe con người yếu kémà không đủ dinh dưỡng, không có điều kiện chăm sóc sức khỏe y tế trong thời gian bệnh tật, không đủ quần áo và nhà cửa…Và ngược lại sức khỏe cũng là nguyên nhân quan trọng dẫn đến nghèo đối vì nó dẫn đến những thiệt hại về thu nhập, chi phí y tế…vì vậy việc nâng cao sức khỏe đóng vai trò đáng kể vào mục tiêu tăng thu nhập, tăng trưởng càng cao. Do đó, để cải thiện tình hình y tế của hộ gia đình nói riêng và của cả nước nói chung, chúng ta phải đặt ra các chính sách để cải thiện các vấn đề bắt cập hiện nay như: quá tải trong bệnh viện, không đủ tài chính của người nghèo để chi trả các khoản viện phí, tình hình thiếu cán bộ, y bác sĩ chuyên môn….Ngoài các chính sách như: nâng cao tỷ trọng các nguồn tài chính công trong tổng chi tiêu y tế quốc gia, phân bổ ngân sách cho các mục tiêu, cho các vùng sâu vùng xa, đặt ra các chính sách phát triển bảo hiểm y tế….Chúng ta phải đặt ra các biện phát tăng thu nhập cho người dân, để người dân không chỉ đủ điều kiện chi cho đời sống mà còn có nguồn tài chính để chi cho y tế, cho bảo hiểm. Ngoài thu nhập, giáo dục cũng là yếu tố ảnh hưởng lớn tời sức khỏe. Chúng ta thử đạt ra câu hỏi: Tại sao giáo dục lại ảnh hưởng tới sức khỏe? ta cũng biết: giáo dục giúp chúng ta có khả năng kím tìm việc tốt nhất phù hợp với sức khỏe lại có thu nhập giảm thiểu khả năng thất nghiệp xuống. Thứ hai: giáo dục giúp ta nâng cao y thức cá nhân và xã hội, tránh được các hành động ảnh hưởng đến sức khỏe của người xung quanh và sức khỏe của chính bản thân ta; giúp chúng ta có cuộc sống lành mạnh, nhận thức và phòng tránh được những gì có hại cho sức khỏe. Bên cạnh đó, việc giáo dục còn giúp những bà mẹ nâng cao sức khỏe của mình và của trẻ em như khi mua kiến thức y tế cơ bản trong trường học sẽ cung cấp cho các bà mẹ tương lai những thông tin hữu ích cho việc chuẩn đoán và điều trị các vấn đề của trẻ em giảm tỷ lệ trẻ em bị suy dinh dưỡng, bị tử vong… Ngoài ra các kỹ năng đọc, viết và số học ở trường và tiếp xúc với xã hội hiện đại nói chung thông qua học có thể tăng cường khả năng của người mẹ để chữa trị bệnh tật trẻ em thay đổi thái độ của mình đối với các phương pháp nâng cao điều trị các vấn đề về sức khỏe: biết kết hợp các thức ăn và hàng hóa phù hợp với sức khỏe của trẻ cong…ngoài ra giáo dục còn giúp phụ nữ tăng thu nhập cho gia đình. Do đó giáo dục phải kết hợp với sức khỏe. Sức khỏe chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố do đó để nâng cao sức khỏe không chỉ là chăm sóc y tế mà còn là tổng thể phát triển của xã hội, văn hóa, kinh tế và giáo dục. 1.4 Đặc điểm số liệu và phương pháp nghiên cứu 1.4.1 Nguồn số liệu Nguồn số liệu chính được sử dụng trong đề tài này là kết quả điều tra mức sống dân cư năm 2006 với mẫu khảo sát thu nhập và chi tiêu là 9.189 hộ; được chọn đại diện từ 8 vùng và 3.063 xã phường. Tuy nhiên do vấn đề thiếu thông tin trong một số quan sát, chỉ có 8.615 hộ được sử dụng trong đề tài này. Các số liệu đã công bố trên trang web: của Tổng cục Thống kê. Ngoài các thông tin về hộ như thu nhập, chi tiêu của hộ, đặc điểm chủ hộ (giới tính, độ tuổi và trình độ học vấn…)…Cuộc điều tra cũng thu nhập số liệu về các điều kiện đường xá, cơ sở y tế… 1.4.2 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là chi tiêu cho y tế của các hộ gia đình Việt Nam năm 2006 phân theo các khoản chi; theo vùng; theo khu vực; theo dân tộc và theo 5 nhóm (thu nhập; chi tiêu và theo chi tiêu cho y tế của hộ gia đình). Ngoài ra còn nguyên cứu chi phí một lần khám, chữa bệnh ngoại trú-nội trú, số lần đến cơ sở y tế và lý do đến cơ sở y tế đó của các thành viên trong hộ gia đình Việt Nam năm 2006. Phạm vi nghiên cứu của đề tài cơ bản dựa vào kết quả của cuộc khảo sát mức sống dân cư của TCTK năm 2004 và 2006. Tuy thu nhập và chi tiêu của hộ mang tầm quan trọng hàng đầu thể hiện mức sống của dân cư nhưng tình hình y tế của cả nước và chi tiêu cho y tế của hộ gia đình cũng phản ánh được mức sống thực tế của dân cư và hộ gia đình nên trong các chỉ tiêu trên, em lựa chọn nghiên cứu chi tiêu của hộ gia đình Việt Nam cho y tế để đại diện cho mức sống. 1.4.3 Phương pháp nghiên cứu Đề tài đã vận dụng các phương pháp như phương pháp phân tích thống kê (kỹ thuật phân tổ, phân tích dãy số thời gian, phân tích hồi quy và tương quan, phương pháp chỉ số) đặc biệt là việc sử dụng phần mềm thống kê SPSS, kết hợp với việc sử dụng bộ số liệu VLSS 2006 (bộ số liệu mới nhất về khảo sát mức sống dân cư năm 2006 của TCTK) Kỹ thuật phân tổ (phân tổ thống kê) Phân tổ thống kê là một trong những phương pháp quan trọng chủ chốt trong nghiên cứu thống kê, được sử dụng trong cả ba giai đoạn: điều tra, tổng hợp và phân tích thống kê. Phân tổ thống kê là căn cứ vào một hay một số tiêu thức nào đó để phân chia các đơn vị của hiện tượng nghiên cứu thành các tổ và các tiểu tổ có các mức độ hoặc đặc điểm khác nhau. Phân tổ thống kê là tất yếu để thực hiện các phương pháp tiếp theo, nhằm hệ thống hóa các tài liệu ghi chép ban đầu, lập các bảng thống kê và tính toán chỉ tiêu phục vụ cho bước phân tích thống kê. Trong đề tài này, em phân chia chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng theo khoản chi (mua thuốc, mua dụng cụ y tế, khám chữa bệnh ngoại trú, nội trú và mua bảo hiểm y tế); khu vực (thành thị, nông thôn); giới tính chủ hộ (nam, nữ); dân tộc (Kinh, Hoa…); 5 nhóm thu nhập; 5 nhóm chi tiêu và theo._. vùng (với vùng 1: Đồng Bằng Sông Hồng; vùng 2: Đông Bắc; vùng 3: Tây Bắc; vùng 4: Bắc Trung Bộ; vùng 5: Duyên Hải Nam Trung Bộ; vùng 6: Tây Nguyên; vùng 7: Đông Nam Bộ; vùng 8: Đồng Bằng Sông Cửu Long). Phân tích dãy số thời gian Mặt lượng của hiện tượng thường xuyên biến động qua thời gian, việc nghiên cứu sự biến động này được thực hiện trên cơ sở phân tích dãy số thời gian. Dãy số thời gian là dãy các số liệu thống kê của hiện tượng nghiên cứu được sắp xếp theo thứ tự thời gian. Để phân tích đặc điểm biến động của hiện tượng qua thời gian ta có thể tính các chỉ tiêu sau: mức độ bình quân qua thời gian; lượng tăng hoặc giảm tuyệt đối (liên hoàn hay từng kỳ, định gốc, bình quân); tốc độ phát triển (liên hoàn, định gốc, bình quân); tốc độ tăng hoặc giảm (liên hoàn, định gốc, bình quân); và cuối cùng là giá trị tuyệt đối 1 % của tốc độ tăng (hoặc giảm) liên hoàn. Trong chuyên đề này chủ yế em sử dụng chỉ tiêu lượng tăng giảm tuyệt đối của chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng của hộ gia đình qua các năm: để phản ánh sự biến động về mức độ chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng tuyệt đối giữa hai thời gian. Ngoài ra trong đề tài còn sử dụng chỉ tiêu tốc độ phát triển của chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng của hộ gia đình qua 2 năm 2004 và 2006: cho phép phản ánh tốc độ và xu hướng biến động của chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng năm 2006 so với 2004. Phân tích hồi quy và tương quan Phân tích hồi quy là một phân tích thống kê để xác định xem các biến độc lập (biến thuyết minh) quy định các biến phục thuộc (biến được thuyết minh) như thế nào. Liên hệ tương quan là mối liên hệ không hoàn toàn chặt chẽ giữa tiêu thức nguyên nhân và tiêu thức kết quả: cứ mỗi giá trị của tiêu thức nguyên nhân sẽ có nhiều giá trị tương ứng của tiêu thức kết quả. Các mối liên hệ này không hoàn toàn chặt chẽ, không được biểu hiện một cách rõ ràng trên từng đơn vị cá biệt. Do đó, để phản ánh mối liên hệ tương quan thì phải nghiên cứu hiện tượng số lớn_tức là thu thập tài liệu về tiêu thức nguyên nhân và tiêu thức kết quả của nhiều đơn vị. Phân tích tương quan trước hết là đo mức độ chặt chẽ của mối liên hệ tương quan được thực hiện thông qua việc tính toán các hệ số tương quan, tỷ số tương quan, hệ số tương quan bội, hệ số tương quan riêng phần. Dựa vào kết quả tính toán có thể kết luận về mức độ chặt chẽ của mối liên hệ, giúp việc nhận thức hiện tượng được sâu sắc, từ đó đề ra những giải pháp cụ thể. Nhiệm vụ của phân tích hồi quy là căm cứ vào nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể để chọn ra một, hai, ba…tiêu thức nguyên nhân và một tiêu thức kết quả. Các tiêu thức nguyên nhân được chọn là các tiêu thức có ảnh hưởng lớn đến tiêu thức kết quả. Dạng đơn giản nhất của mô hình hồi quy là mô hình hồi quy đơn chứa một biến phụ thuộc (biến được thuyết minh hay biến Y) và một biến độc lập (biến thuyết minh hay biến X)à mô hình này có thể là mô hình tuyến tính_một trương hợp rất phổ biến trong thực tế (mô hình đường thẳng) hoặc mô hình phi tuyến (mô hình đường cong). Hoặc có thể xây dựng mô hình hồi quy giữa hai, ba…tiêu thức nguyên nhân và một tiêu thức kết quả: mô hình này thường được xây dựng dưới dạng tuyến tính và được gọi là mô hình hồi quy tuyến tính bội. Bên cạnh phân tích mô hình ta tính tiếp hệ số tương quan: giúp chúng ta đánh giá mức độ chặt chẽ của mối liên hệ giữa các nhân tố: thu nhập bình quân đầu người/tháng; chi tiêu cho giáo dục bình quân đầu người/tháng; tổng số người và chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng của hộ gia đình chặt chẽ hay không chặt chẽ, tỷ lệ thuận hay tỷ lệ nghịch. Phương pháp chỉ số Chỉ số thống kê là số tương đối biểu hiện quan hệ so sánh giữa hai mức độ của một hiện tượng nghiên cứu. Trong đề tài này em sử dụng hệ thống các chỉ số sau: - Hệ thống chỉ số phân tích biến động chỉ tiêu bình quân: Hệ thống chỉ số phân tích chỉ tiêu bình quân trên ta áp dụng để phân tích chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng chung cả nước do ảnh hưởng của chi tiêu bình quân đầu người/tháng của khu vực và cơ cấu dân cư. - Hệ thống chỉ số phân tích biến động tổng lượng biến tiêu thức Các mô hình phân tích biến động chi tiêu cho y tế bình quân một nhân khẩu/tháng của hộ gia đình năm 2006 so với năm 2004: Tổng mức chi tiêu cho y tế : chi tiêu cho y tế bình quân nhân khẩu / 1 tháng năm i. : dân số trung bình năm i. +/ Mô hình 1: Tổng mức chi tiêu cho y tế một tháng năm 2006 so với năm 2004 do ảnh hưởng của tổng chi tiêu cho y tế cá biệt và dân số trung bình từng khu vực. Công thức tính: Với: và : Chi tiêu cho y tế bình quân năm 2006, 2004. và : Dân số trung bình năm 2006, 2004. Qua mô hình trên ta sẽ phân tích được biến động của tổng mức chi tiêu cho y tế năm 2006 tăng (giảm) so với năm 2004 do ảnh hưởng của tổng chi tiêu cho y tế cá biệt và dân số trung bình từ khu vực; từ đó kết luận được tổng mức chi tiêu cho y tế chịu ảnh hưởng chủ yếu vào nhân tố nào. Qua đó có các biện pháp cụ thể, phù hợp để nâng cao mức sống dân cư. +/ Mô hình 2: Tổng mức chi tiêu cho y tế một tháng năm 2006 so với năm 2004 do ảnh hưởng của chi tiêu cho y tế bình quân cả nước và tổng dân số cả nước. Được phân tích qua công thức: +/ Mô hình 3: Tổng mức chi tiêu cho y tế một tháng năm 2006 so với năm 2004 do ảnh hưởng của chi tiêu cho y tế cá biệt từng khu vực, cơ cấu dân số và tổng dân số : CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG CHI TIÊU CHO Y TẾ CỦA HỘ GIA ĐÌNH (Dựa trên số liệu khảo sát mức sống dân cư của TCTK năm 2004, 2006) 2.1 Khảo sát, phân tích tình hình chi tiêu cho y tế thực tế của hộ gia đình Như là một hệ quả của phát triển kinh tế, khoảng cách giữa người giàu và nghèo càng ngày càng gia tăng, nhất trong lĩnh vực sức khỏe. Một xu hướng chung trên thế giới ngày nay là các nước giàu có chi tiêu cho y tế nhiều hơn các nước nghèo, dù sức khỏe của họ nói chung tốt hơn so với các nước nghèo. Ở nước ta cũng vậy, vẫn còn sự khác biệt về tình trạng sức khỏe giữa các vùng, miền trong nước và giữa các nhóm thu nhập. 2.1.1 Chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng phân theo khu vực Bảng 2.1: Chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng phân theo khu vực Đơn vị: Nghìn đồng 2004 2006 Cả nước 25,3 29,3 Thành thị 38 42,6 Nông thôn 21,2 24,5 Nguồn: Tính toán dựa vào kết quả KSMS của TCTK năm 2006 Nhìn vào bảng ta thấy, mức chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng của năm 2004 chỉ có 25,3 nghìn đồng và đã tăng lên 29,3 nghìn đồng tức tăng 15,81% so với năm 2004. Tuy nhiên vẫn có sự chênh lệch giữa các khu vực trong năm và giữa các năm với nhau. Cụ thể, năm 2004 ở nông thôn chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng chỉ có 21,2 nghìn đồng trong khi đó ở thành thị lên tới 38 nghìn đồng lớn hơn ở nông thôn tới 1,801 lần. Năm 2006 các chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng: Ở nông thôn đạt 24,5 nghìn đồng (tăng 3,3 nghìn đồng so với năm 2004_tức tăng 15,57%); ở thành thị đạt 42,6 nghìn đồng (tăng 4,6 nghìn đồng _ tức tăng 12,11% so với năm 2004) và gấp 1,74 lần so với ở nông thônà Có thể thấy tuy tốc độ tăng ở thành thị thấp hơn so với ở nông thôn nhưng lượng tăng tuyệt đối ở khu vực thành thị lại cao hơn ở khu vực nông thôn tới 1,394 lần và vẫn có sự chênh lệch giữa hai khu vực. 2.1.2 Phân tích cơ cấu chi cho y tế phân theo vùng Bảng 2.2: Chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng phân theo vùng Đơn vị: Nghìn đồng Tồng số người (người) Tổng chi tiêu cho y tế/tháng Chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng Chung 36.643 1.076.613,53 29,3 Vùng 1 6.972 224.010,4 32,13 Vùng 2 5.346 106.920 20 Vùng 3 2.045 31.084 15,2 Vùng 4 4.060 95.450,6 23,51 Vùng 5 3.419 99.527,09 29,11 Vùng 6 2.666 71.768,72 26,92 Vùng 7 4.814 204.209,9 42,42 Vùng 8 7.321 243.642,9 33,28 Nguồn: Tính toán dựa vào số liệu KSMS của TCTK năm 2006 Nhìn vào bảng ta thấy có sự chênh lệch về chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng giữa các vùng: Cụ thể, chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng của Đông Nam Bộ và cao nhất với 42,42 nghìn đồng; trong khi đó Tây Bắc chỉ có 15,2 nghìn đồng thấp hơn Đông Nam Bộ tới 27,22 nghìn đồng Bảng 2.3: Chi cho y tế bình quân đầu người/tháng nói chung và của những người có khám, chữa bệnh Đơn vị: Nghìn đồng Chi cho y tế bình quân đầu người/tháng nói chung Chi cho y tế bình quân đầu người/tháng của những người có người khám, chữa bệnh Tỷ lệ người khám, chữa bệnh (%) Chung 29,30 50,16 35,2 Vùng 1 32,13 55,33 31,6 vùng 2 20 40,15 28,5 Vùng 3 15,2 28,56 28,9 Vùng 4 23,51 43,02 27,1 Vùng 5 29,11 46,43 35,4 Vùng 6 26,92 40,57 41,3 Vùng 7 42,42 69,62 38,7 Vùng 8 33,28 44,98 44,5 Nguồn: Tính toán dựa vào số liệu KSMS của TCTK năm 2006 Đồ thị 2.1: Chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng của tống số hộ, của các hộ có khám chữa bệnh và tỷ lệ hộ có khám chữa bệnh Đơn vị: Nghìn đồng Nguồn: Tính toán dựa vào số liệu KSMS của TCTK năm 2006 Từ đồ thị có thể thấy Đông Nam Bộ thể hiện là vùng có nhu cầu sử dụng y tế nổi trội hơn hẳn so với các vùng khác: chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng của vùng nói chung hay chỉ tính riêng cho những người có khám, chữa bệnh đều cao hơn rất nhiều các vùng khác. Cụ thể: Chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng nói chung ở Đông Nam Bộ là 42,42 nghìn đồng cao hơn vùng đứng thứ 2 là Đồng Bằng Sông Cửu Long là 1,27 lần; và so với vùng có chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng ở vùng thấp nhất (Tây Bắc) là 2,79 lần. Chi tiêu cho y tế bình đầu người/tháng của những người có khám, chữa bệnh của Đông Nam Bộ đạt 69,62 nghìn đồng cao gấp từ 1,26 lần đến 2,44 lần so với mức chi tiêu cho y tế bình quân người/tháng của các hộ khám chữa bệnh ở các vùng khác. Và tỷ lệ người có khám, chữa bệnh trong tháng đạt 38,7% chỉ thấp hơn Đồng Bằng Sông Cửu Long có 5,8% còn cao hơn các vùng còn lại. Trong khi đó Tây Bắc thể hiện là vùng nghèo nàn khi mức chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng nói chung và của những người có khám chữa bệnh nói riêng là khá thấp, chỉ đạt trên dưới 15,2 nghìn đồng và 28,56 nghìn đồng trong khi đó tỷ lệ người có khám chữa bệnh đạt mức 28,9% chỉ cao hơn vùng 2 có 0,4% nhưng chi tiêu bình quân đầu người/tháng của vùng này lại thấp hơn so với vùng 2 (15,2<20 và 28,56<40,15) Tiếp tục xem xét về chi tiêu cho y tế bình quân người/tháng phân theo khu vực (thành thị, nông thôn) ở các vùng: Bảng 2.4: Chi cho y tế bình quân người/tháng và tỷ lệ chi cho y tế của hộ có khám chữa bệnh trong tổng chi tiêu các hộ phân theo khu vực Đơn vị: Nghìn đồng Tổng số người (người) Tổng chi tiêu Chi tiêu y tế bình quân đầu người/tháng Thành thị Nông thôn Thành thị Nông thôn Thành thị Nông thôn Chung 9.878 26.765 420.802,8 655.742,5 42,6 24,5 Vùng 1 1.647 5.325 87.109,83 136.905,75 52,89 25,71 Vùng 2 1.167 4.179 39.619,65 67.281,9 33,95 16,1 Vùng 3 376 1.669 16.487,6 14.620,44 43,85 8,76 Vùng 4 752 3.308 24.379,84 71.055,84 32,42 21,48 Vùng 5 1.241 2.178 41.933,39 57.608,1 33,79 26,45 Vùng 6 834 1.832 31.833,78 39.937,6 38,17 21,8 Vùng 7 2.234 2.580 108.483,04 95.743,8 48,56 37,11 Vùng 8 1.627 5.694 70.986,01 172.642,08 43,63 30,32 Nguồn: Tính toán dựa vào số liệu KSMS của TCTK năm 2006 Đồ thị 2.2: Chi cho y tế bình quân người/tháng theo khu vực và vùng Đơn vị: Nghìn đồng Nguồn: Tính toán dựa vào số liệu KSMS của TCTK năm 2006 Từ đồ thị ta thấy một bức tranh khá chênh lệch về mức độ chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng giữa khu vực thành thị và nông thôn ở tất cả các vùng. Xét khu vực thành thị: thành thị ở Đồng Bằng Sông Hồng có chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng cao nhất 52,89 nghìn đồng; sau đó đến Đông Nam Bộ với 48,56 nghìn đồng…và cuối cùng thấp nhất là Bắc Trung Bộ với 32,42 nghìn đồng. Đồng Bằng Sông Hồng cao nhất cao gấp từ: 1,09 lần đến 1,63 lần so với các vùng khác. Ở nông thôn mức chi cho y tế bình quân đầu người/tháng cao nhất lại là Đông Nam Bộ với 37,11 nghìn đồng; sau đó đến Đồng Bằng Sông Cửu Long với 30,32 nghìn đồng; Đồng Bằng Sông Hồng chỉ đứng thứ 4 với 25,71 nghìn đồng; và vùng có chi cho y tế bình quân đầu người/tháng thấp nhất ở nông thôn là Tây Bắc với 8,76 nghìn đồng kém hơn so với Đông Nam Bộ tới 28,35 nghìn đồng. Nhìn chung mức chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng của hộ gia đình ở khu vực thành thị cao hơn nông thôn rất nhiều và cao gấp từ 1,28 lần (Duyên Hải Nam Trung Bộ) đến 5,01 lần (Tây Bắc). 2.1.3 Phân tích cơ cấu chi cho y tế phân theo dân tộc Bảng 2.5: Chi cho y tế bình quân đầu người/tháng của hộ theo dân tộc Đơn vị: Nghìn đồng Dân tộc Chi y tế bình quân đầu người/tháng Dân tộc Chi y tế bình quân đầu người/tháng Chung 29,3 Xtiêng 7,24 Kinh 32,94 Bru-Vân Kiều 9,93 Tày 17,92 Thổ 11,99 Thái 11,1 Giấy 5,44 Hoa (Hán) 34,51 Cơ tu 4,2 Khơ Me 15,19 Giẻ-triêng 10,82 Mường 13,83 Mạ 13,18 Núng 12,45 Khơ mú 6,66 H’mông 6,14 Co 11,64 Dao 15,05 Tà-ôi 11,24 Gia-rai 9,31 Chơ-ro 24,12 Ê-ĐÊ 9,82 Kháng 7,31 Ba-Na 7,39 Xinh-mun 16,86 Xơ-Đăng 5,84 Hà-nhì 2,3 Sán chay 13,96 Chu-ru 14,72 Cơ ho 14,92 Lào 12,58 Chăm (Chàm) 10,28 La chí 4,38 Sán dìu 10,44 La hủ 3,17 Hrê 5,19 Lự 5,34 Mnông 6 Cống 4,04 Ra-glai 6,75 Không Xác định 2,47 Nguồn: Tính toán dựa vào số liệu KSMS của TCTK năm 2006 Đồ thị 2.3 : Chi cho y tế bình quân đầu người/ tháng của hộ theo dân tộc Đơn vị: Nghìn đồng Nguồn: Tính toán dựa vào số liệu KSMS của TCTK năm 2006 Trong 41 dân tộc ở trên ta thấy: có sự mất cân đối nghiêm trọng giữa các dân tộc, cụ thể: Chi cho y tế bình quân đầuss người/tháng của hộ gia đình ở dân tộc Hà nhì là thấp nhất chỉ có 2,3 nghìn đồng/tháng;…. Dân tộc kinh có chi cho y tế bình quân đầu ngưới là 32,94 nghìn đồng là dân tộc cao thứ 2 sau dân tộc Hoa (hán). Dân tộc Hoa (hán) có chi cho y tế cao nhất lên tới 34,51 nghìn đồng (cao hơn dân tộc Kinh là 1,05 lần; và cao hơn dân tộc thấp nhất là 15 lần). Kết luận: Đồng bào dân tộc thiểu số có mức sống kém, ngoài các điều kiện về nơi sinh sống dân tộc thiểu số thường vùng sâu, vùng xa thì trình độ văn hóa thấp, lao động chủ yếu là lao động gian đơn trong nông nghiệp cùng với tỷ lệ trẻ em cao nên cũng không đủ điều kiện để tăng mức chi cho y tế. Bảng 2.6: Chi cho y tế bình quân đầu người một tháng của hộ gia đình năm 2006 phân theo dân tộc và khu vực Đơn vị: Nghìn đồng Dân tộc Nông thôn Thành thị Kinh 27,49 40,67 Hoa (Hán) 27,52 36,21 Ba-na 5,76 3,68 Sán chay 12,15 12,50 Cơ ho 14,17 6,55 Sán dìu 9,31 4,35 Ra-glai 5,21 2,92 Xtiêng 5,13 6,43 Giáy 1,68 10,48 Mạ 12,59 2,50 Lào 3,33 130,00 Nguồn: Tính toán dựa vào số liệu KSMS của TCTK năm 2006 Bên cạnh đó ta cũng thấy khu vực nông thôn ở các dân tộc thiểu số có chi cho y tế bình quân đầu người/tháng thấp hơn ở thành thị rất nhiều như ở dân tộc Kinh chi cho y tế bình quân đầu người/tháng ở thành thị là 40,67 nghìn đồng; ở nông thôn là 27,49 nghìn đồng bằng 67,59%; trong khi đó ở dân tộc Giáy chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng ở thành thị chỉ có 10,48 nghìn đồng, ở nông thôn chỉ có 1,68 nghìn đồng/người/tháng àmột mức chi tiêu quá thấp. 2.1.4 Phân tích cơ cấu chi cho y tế phân theo 5 nhóm và giới tính chủ hộ Phân tích cơ cấu chi cho y tế phân theo 5 nhóm chi tiêu và giới tính chủ hộ Bảng 2.7: Chi tiêu y tế bình quân một nhân khẩu/tháng năm 2004, 2006 phân theo 5 nhóm chi tiêu và giới tính chủ hộ Đơn vị: Nghìn đồng Chỉ tiêu 2004 2006 Lượng tăng Tốc độ tăng (%) 5 nhóm chi tiêu chung cả nước Nhóm 1 6.7 8.1 1.4 20.90 Nhóm 2 12.6 15 2.4 19.05 Nhóm 3 18.5 22.8 4.3 23.24 Nhóm 4 27.6 34.2 6.6 23.91 Nhóm 5 61.2 66.9 5.7 9.31 Giới tính chủ hộ Nam 23 27.4 4.4 19.13 Nữ 33.8 36.1 2.3 6.80 Nguồn: Tính toán dựa vào số liệu KSMS của TCTK năm 2006 Nhìn vào bảng ta thấy, vẫn còn sự chênh lệch khá lớn giữa các nhóm: Đối với 5 nhóm chi tiêu: chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng năm 2004 nhóm 5 gấp 9,13 lần so với nhóm 1, sang năm 2006 tỷ lệ này có giảm nhưng vẫn còn rất cao lên tới 8,26 lần (có thể nói: khi chia thành 5 nhóm chi tiêu thì sự bất bình đẳng giữa người giàu và người nghèo được thể hiện càng rõ). Đặc biệt, nhóm 5 so với nhóm 4 cũng khá xa: nhóm 4 chỉ có 27,6 nghìn đồng, lên tới 34,2 nghìn đồng trong khi đó nhóm 5 là 61,2 nghìn đồng, và lên tới 66,9 nghìn đồng năm 2006 gấp 1,96 lần so với nhóm 4. Khi xét giới tính chủ hộ: ta nhận thấy khi nữ là chủ hộ thì khoản chi cho y tế và chăm sóc sức khoẻ được chú trọng cao hơn rất nhiều khi nam là chủ hộ. Phân tích cơ cấu chi cho y tế phân theo 5 nhóm thu nhập Bảng 2.8: Thu nhập, chi cho y tế bình quân và tỷ lệ chi y tế bình quân trên thu nhập bình quân phân theo 5 nhóm thu nhập Đơn vị: Nghìn đồng Thu nhập bình quân đầu người/tháng Chi tiêu cho đời sống bình quân đầu người/tháng Chi y tế bình quân đầu người/tháng Chi y tế/thu nhập bình quân (%) Chi cho y tế/chi tiêu cho đời sống bình quân (%) 2004 2006 2004 2006 2004 2006 2004 2006 2004 2006 Chung 484,4 636,5 359,7 460,4 25,3 29,3 5,22 4,60 7,03 6,36 Nhóm 1 141,8 184,3 160,4 202,2 11,0 13,8 7,76 7,49 6,86 6,82 Nhóm 2 240,7 318,9 226,0 286,0 16,3 19,5 6,77 6,11 7,21 6,82 Nhóm 3 347 458,9 293,8 376,9 20,2 25,8 5,82 5,62 6,88 6,85 Nhóm 4 514,2 678,6 403,9 521,9 27,9 34,2 5,43 5,04 6,91 6,55 Nhóm 5 1182,3 1541,7 715,2 916,8 51,1 53,5 4,32 3,47 7,14 5,84 Nguồn: Tính toán dựa vào số liệu KSMS của TCTK năm 2006 Từ năm 2004 đến năm 2006 thu nhập bình quân đầu người/tháng ở các nhóm đều tăng cụ thể nhóm 1 tăng từ 141,8 nghìn đồng lên 184,3 nghìn đồng năm 2006 tăng 29,97%; nhóm 5 tăng từ 1182,3 nghìn đồng lên 1541,7 nghìn đồng tăng 359,4 nghìn đồng tức 30,4%. Chính vì sự tăng thu nhập như vậy lên chi tiêu cho y tế của các nhóm năm 2006 cũng tăng hơn so với năm 2004 tuy nhiên tốc độ tăng lại thấp hơn tốc độ tăng của thu nhập cụ thể: Nhóm 1 chi tiêu y tế và chăm sóc sức khỏe bình quân đầu người/tháng là 11 nghìn đồng năm 2004 đã lên tới 13,8 nghìn đồng năm 2006 tăng 25,45% so với năm 2004. Trong khi đó, nhóm 5 có chi cho y tế và chăm sóc sức khoẻ là 51,1 nghìn đồng gấp 4,65 lần nhóm 1 năm 2004 nhưng năm 2006 chỉ tăng có 4,7% so với năm 2004 nhưng vẫn gấp nhóm 13,88 lần nhóm 1. Đồ thị 2.4: Tỷ lệ chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng so với thu nhập bình quân đầu người/tháng của hộ gia đình Đơn vị: % Nguồn: Tính toán dựa vào số liệu KSMS của TCTK năm 2006 Ta thấy, nhóm có thu nhập càng cao thì mức chi cho y tế càng cao nhưng tỷ lệ chi cho y tế bình quân đầu người/tháng so với thu nhập bình quân đầu người giữa các nhóm thu nhập ngày càng giảm và càng giảm qua các năm: năm 2004 ở nhóm 1 là 7,76% và nhóm 5 chỉ còn 4,32%; sang năm 2006 nhóm 1 chỉ còn 7,49%, còn nhóm 5 là 3,47%. Phân tích cơ cấu chi cho y tế phân theo 5 nhóm chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng Để khảo sát kỹ hơn về chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng ta phân tổ biến này thành 5 nhóm chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng của hộ gia đình, tương ứng với 5 nhóm: nhóm 1(nghèo); nhóm 2 (hơi nghèo hay cận nghèo); nhóm 3 (trung bình); nhóm 4 (khá) và nhóm 5 ( giàu). Bảng 2.9: Chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng phân theo 5 nhóm chi tiêu cho y tế của hộ gia đình Đơn vị: Nghìn đồng Chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng Trung bình Giá trị nhỏ nhất Giá trị lớn nhất Trung vị Chung 29,3 0,00 2.002,08 10 Nhóm 1 1,45 0,00 3,13 1,43 Nhóm 2 4,94 3,13 7 4,97 Nhóm 3 10,26 7,01 14,17 10 Nhóm 4 22,01 14,19 34,69 20,92 Nhóm 5 109,57 34,72 2.002,08 69,44 Nguồn: Tính toán dựa vào số liệu KSMS của TCTK năm 2006 Khi chia nước ta ra làm 5 nhóm theo chi tiêu cho y tế bình quân đầu người (mỗi nhóm là 20% số hộ) ta thấy chi tiêu cho y tế trung bình trung của các nước đạt 29,3 nghìn đồng trong khi đó nhóm 1 chỉ có 1,45 nghìn đồng kém rất nhiều so với trung bình chung của cả nước đặc biệt kém rất nhiều so với nhóm 5. Mặt khác trung bình của nhóm 5 đạt tới 109,57 nghìn đồng cao gấp 75,57 lần so với nhóm 1 và 4,98 lần so với nhóm 4 (nhóm 4 chỉ đạt 22,01 nghìn đồng; nhóm 3 là 10,26 nghìn đồng và nhóm 2 là 4,94 nghìn đồng). Nhìn tiếp sang cột trung bị (giá trị được gặp nhiều nhất) ta thấy ở nhóm 1 giá trị được gặp nhỏ nhất là 1,43 nghìn đồng thấp hơn rất nhiều nhóm 5 à Vẫn còn sự chênh lệch rất lớn giữa nhóm giàu và nhóm nghèo ở nước ta. Bảng 2.10: Phân bố hộ theo 5 nhóm chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng theo khu vực, vùng và quy mô hộ gia đình Đơn vị: % Chung Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3 Nhóm 4 Nhóm 5 Khu vực Thành thị 100 11,57 17,84 20,67 22,06 27,87 Nông thôn 100 23,44 20,16 19,95 19,07 17,38 Vùng Vùng 1 100 17,66 21,83 20,35 20,52 19,64 Vùng 2 100 33,95 22,53 15,72 14,1 13,7 Vùng 3 100 43,28 21,39 13,43 12,19 9,7 Vùng 4 100 21,87 23,55 21,24 16,51 16,82 Vùng 5 100 15,27 21,28 20,9 23,03 19,52 Vùng 6 100 21,28 16,7 20 21,47 20,55 Vùng 7 100 11,13 17,59 20,11 22,53 28,64 Vùng 8 100 13,28 16,37 22,61 24,21 23,53 Quy mô hộ gia đình 1-2 người 100 11,74 12,82 18,78 24,48 32,19 3-4 người 100 19,42 20,88 20,68 18,95 20,08 5-6 người 100 22,18 21,40 20,99 19,31 16,13 7 người trở lên 100 34,84 16,71 16,01 18,84 13,60 Nguồn: Tính toán dựa vào số liệu KSMS của TCTK năm 2006 Từ bảng 2.10 có thể thấy rõ sự khác biệt giữa các khu vực thành thị và nông thôn: Ở thành thị có đến 27,87% hộ thuộc nhóm giàu, chỉ có 11,57% hộ thuộc nhóm nghèo và 17,84% hộ thuộc nhóm cận nghèo. Trong khi đó ở nông thôn nhóm giàu chỉ có 17,38% hộ, còn nhóm nghèo và nhóm cận nghèo chiếm tới 23,44% và 20,16%. Khi chia nước ta ra làm 8 vùng ta thấy có sự phân bộ hộ giàu và nghèo theo chi tiêu cho y tế ở các vùng là không đồng đều: Tây Bắc (vùng có thu nhập bình quân thấp nhất) có tới 43,28% hộ năm trong nhóm 1 trong khi đó nhóm giàu chỉ có 9,70% hộ thuộc nhóm giàu. Ở Đông Bắc cũng tương tự Tây Bắc với 33,95% thuộc nhóm 1; 22,53% hộ thuộc nhóm 2; và chỉ có 13,70% hộ thuộc nhóm 5. Trái ngược với hai vùng trên ta thấy Đông Nam Bộ (vùng có mức sống cao) có 28,64% hộ thuộc nhóm 5 trong khi đó chỉ có 11,13% hộ chỉ bằng 32,78% so với Đông Bắc và bằng 25,72% so với Tây Bắc thuộc nhóm 1. Tiếp theo nữa của bảng 2.10 trình bày phân bố các hộ có quy mô khác nhau theo 5 mức chi tiêu. Số liệu cho thấy tỷ lệ hộ nghèo tăng theo chiều tăng của quy mô hộ: nhóm các hộ có quy mô hộ càng lớn, tỷ lệ hộ nghèo càng cao. Tỷ lệ hộ nghèo của nhóm hộ có từ 7 thành viên trở lên cao gấp =1,794 lần so với hộ chỉ có 3-4 người và gấp =2,97 lần so với nhóm hộ chỉ có 1-2 người. Trong khi đó tỷ lệ hộ giàu của các nhóm quy mô hộ tuân theo chiều ngược lại: nhóm hộ có quy mô nhỏ có tỷ lệ hộ giàu cao hơn rất nhiều lần nhóm hộ có quy mô lớn cụ thể: nhóm hộ từ 1-2 người có tỷ lệ hộ nghèo cao hơn nhóm hộ có 3-4 người là 1,6 lần; cao hơn nhóm hộ có 5-6 người là 2 lần và đặc biệt cao hơn nhóm hộ có từ 7 người trở lên là 2,37 lần. Kết luận: Thu nhập càng cao thì mức chi tiêu cho y tế của hộ gia đình ngày càng tăng. Và nhóm thu nhập càng cao thì chi cho khám, chữa bệnh và chi y tế ngoài khám, chữa bệnh đều cao hơn so với nhóm có mức thu nhập thấp. Có thể nói rằng, mức sống dân cư không đồng đều giữa các nhóm thu nhập: nhóm thu nhập càng cao thì mức sống dân cư càng tốt có cơ hội tiếp cận với các dịch vụ xã hội, bảo vệ sức khỏe. 2.1.5 Chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng phân theo khoản chi Bảng 2.11: Cơ cấu chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng của hộ năm 2004, 2006 Cả nước Chung Chi cho khám, chữa bệnh Chi cho y tế ngoài khám, chữa bệnh Chia ra Mua thuốc tự chữa, hoặc dự trữ Mua dụng cụ Mua bảo hiểm y tế tự nguyện Nghìn đồng 2004 25,3 19 6,3 5,3 0,3 0,7 2006 29,3 21,2 8,1 6,6 0,5 1,0 Cơ cấu (%) 2004 100 75,1 24,9 20,95 1,19 2,76 2006 100 72,35 27,65 22,53 1,71 3,41 Nguồn: Kết quả KSMS hộ gia đình năm 2006 biểu 4.21 trang 165 Nhận xét: Khi xét theo các khoản chi ta thấy: Tính trong tổng mức chi tiêu cho y tế năm 2006, chi cho khám, chữa bệnh chiếm tỷ trọng lớn hơn rất nhiều so với chi cho y tế ngoài khám, chữa bệnh: 72,35%>27,65%. Còn các khoản chi khác chiếm các tỷ trọng khác nhau trong tổng chi tiêu cho y tế như chi mua thuốc chiếm 22,53%; mua dụng cụ 1,71% và mua bảo hiểm y tế tự nguyện 3,41%. Trong chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng ta thấy chi cho khám, chữa bệnh năm 2004 chỉ có 19 nghìn đồng chiếm 75,1% ; chi cho ngoải khám chữa bệnh chỉ có 6,3 nghìn đồng và chiếm 24,9% à chi cho khám, chữa bệnh giảm từ 75,1% năm 2004 xuống còn 72,35% năm 2006 và chi ngoài khám, chữa bệnh tăng từ 24,9% năm 2004 lên 27,65% năm 2006. Cụ thể: chi mua thuốc tự chữa tăng từ 20,95% năm 2004 lên 22,53% năm 2006; chi mua dụng cụ y tế tăng từ 1,19% năm 2004 lên 1,71% năm 2006; mua bảo hiểm y tế tự nguyện 2,76% năm 2004 lên 3,41% năm 2006 Kết luận: Ta cũng biết chi phí cho hoạt động khám chữa bệnh ngày một tăng cao cũng rất đáng ngại, có nhiều nguyên nhân như: xuất hiện của ngày càng nhiều các trang thiết bị chẩn đoán và điều trị đắt tiền nhất là các trang thiết bị mới. Nhưng ở nhiều nước tình trạng tăng chi phí dành cho y tế còn có nguyên do từ việc xuất hiện nhiều bệnh do lối sống trong đó có bệnh tim mạch, tiểu đường, các rối loạn tâm thần kể cả nhiều bệnh lây như AIDS, bệnh lây qua đường tính dục…Vì vậy nước ta qua số liệu y tế ở trên cho thấy tuy xét về lượng tuyệt đối chi cho khám, chữa bệnh ngày càng tăng nhưng tỷ trọng trong chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng lại giảm đi qua các năm, mặt khác các khoản chi cho y tế ngoài khám, chữa bệnh như mua thuốc tự chữa, dự trự, mua dụng cụ y tế hay mua bảo hiểm xã hội ngày càng tăng chứng tỏ người dân đã biết quan tâm chú ý đến sức khỏe của mình cũng như của những thành viên trong gia đình Bảng 2.12: Chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng phân theo khoản chi và khu vực Đơn vị: Nghìn đồng Năm Khu vực Chung Chi cho khám, chữa bệnh Chi cho y tế ngoài khám, chữa bệnh Chia ra Mua thuốc tự chữa hoặc dự trữ Mua dụng cụ Mua bảo hiểm y tế tự nguyện 2004 Thành thị 38 28,7 9,3 7,6 0,7 1,1 Nông thôn 21,2 15,9 5,3 4,6 0,2 0,5 2006 Thành thị 42,6 30 12,6 10 0,8 1,8 Nông thôn 24,5 18,1 6,4 5,3 0,3 0,8 Nguồn: Kết quả KSMS hộ gia đình năm 2006 biểu 4.21 trang 165 Đồ thị 2.5: Chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng phân theo khoản chi và khu vực Đơn vị: Nghìn đồng Nguồn: Kết quả KSMS hộ gia đình năm 2006 biểu 4.21 trang 165 Đồ thị cho chúng ta bức tranh về mức độ chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng phân theo các khoản chi: Mức độ chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng phân theo các khoản chi ở thành thị đều cao hơn so với ở nông thôn. Xét chung, năm 2004 và 2006 Chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng ở thành thị và nông thôn đều tăng lên (ở thành thị tăng từ 38 nghìn đồng năm 2004 lên 42,6 nghìn đồng năm 2006à tăng 4,6 nghìn đồng tức 12,11%. Ở nông thôn tăng từ 21,2 nghìn đồng lên 24,5 nghìn đồngà tăng 3,3 ngìn đồng tức 15,57%) nhưng có thể thấy mức độ chi tiêu cho y tế bình quân một nhân khẩu/tháng là rất khác nhau giữa khu vực thành thị và nông thôn. Bảng 2.13: Chi cho y tế bình quân đầu người/tháng phân theo khoản chi, theo vùng và theo khu vực Đơn vị: Nghìn đồng Chỉ tiêu Chung Mua thuốc Mua dụng cụ Mua bảo hiểm Chữa bệnh ngoại trú Điều trị nội trú Thành thị Nông thôn Thành thị Nông thôn Thành thị Nông thôn Thành thị Nông thôn Thành thị Nông thôn Thành thị Nông thôn Vùng 1 52,89 25,71 14,02 5,88 1,88 0,42 1,94 1,17 18,35 8,90 16,70 9,33 Vùng 2 33,95 16,1 7,65 3,68 1,41 0,43 2,02 0,71 10,23 4,35 12,63 6,93 Vùng 3 43,85 8,76 7,95 1,99 0,99 0,25 2,25 0,39 5,10 2,55 27,58 3,56 Vùng 4 32,42 21,48 6,91 4,75 0,74 0,41 2,49 1,08 10,27 5,54 11,99 9,69 Vùng 5 33,79 26,45 8,49 4,77 1,42 0,59 2,49 1,25 10,41 8,72 10,96 11,13 Vùng 6 38,17 21,8 6,69 4,87 1,13 0,45 1,54 0,88 18,10 9,64 10,70 5,94 Vùng 7 48,56 37,11 10,47 6,65 1,19 0,81 2,48 1,28 21,12 16,90 13,29 11,45 Vùng 8 43,63 30,32 10,44 6,80 1,41 0,56 1,92 0,88 17,45 12,04 12,39 10,02 Nguồn: Tính toán dựa vào số liệu khảo sát mức sống dân cư của TCTK Nhận xét: Thành thị chi mua thuốc ca nhất là 14,02 nghìn đồng trong khi đó nông thôn cao nhất chỉ có 6,80 nghìn đồng cao hơn Tây Nguyên (vùng có chi cho mua thuốc thấp nhất ở thành thị). Các khoản chi mua thuốc, mua bảo hiểm, chữa bệnh ngoại trú hay điều trị nội trú cũng vậy, khu vực thành thị ở các vùng đều chi nhiều hơn rất nhiều so với khu vực nông thôn ở các vùng. Cụ thể: ở thành thị Tây Bắc chi cho mua thuốc gấp 3,99 lần; mua dụng cụ gấp 3,96 lần; mua bảo hiểm gấp 5,77 lần; chữa bệnh ngoại trú gấp 2 lần và điều trị nội trú gấp 7,75 lần. Còn Đông Nam Bộ các tỷ lệ này lần lượt là: 1,57 lần; 1,47 lần; 1,94 lần; 1,25 lần; 1,16 lần kém rất nhiều so với Tây Bắc. 2.2 Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chi cho y tế bình quân đầu người/tháng của hộ gia đình Chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng của hộ gia đình phụ thuộc vào rất nhiều biến như: thu nhập bình quân đầu người/tháng, số thành viên trong hộ, chi cho giáo dục, giới tính chủ hộ, khu vực hộ sống…Với 64 tỉnh/thành phố chúng ta sẽ nghiên cứu mô hình chi tiêu cho y tế bình quân đầu người/tháng của hộ gia đình phụ thuộc vào các biến sau: 2.2.1 Chi cho y tế bình quân đầu người/tháng phụ thuộc vào thu nhập, tổng số người và chi cho giáo dục - Thu nhập bình quân đầu người/tháng: (nghìn đồng) - Tổng số người của tỉnh, thành phố: (người) - Chi tiêu cho giáo dục bình quân đầu người/tháng: (nghìn đồng) Bằng phần mềm spss ta có: +/ Phương pháp đưa một lượt ( enter): là phương pháp mà các tiêu thức nguyên nhân (các biến độc lập) đều được đưa vào một lượt trong mô hình hồi quy, không có tiêu thức nào bị loại khỏi mô hình. Ta có kết quả sau: Model Summary Model R R Square Adjusted R Square Std. Error of the Estimate 1 .754(a) .568 .546 7.08773 a Predictors: (Constant), , , Bảng này cho biết: Hệ số tương quan bội R=0,754 phản ánh mối liên hệ giữa tiêu thức nguyên nhân: thu nhập bình quân đ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2252.doc