Phân tích tình hình tài chính Doanh nghiệp xây dựng giao thông

chương 1 những vấn đề cơ bản về tài chính 1.1/ Sự ra đời của tài chính Tài chính ra đời và tồn tại trong điều kiện kinh tế lịch sử nhất định khi mà ở đó có những hiện tượng kinh tế xã hội khách quan nhất định xuất hiện và tồn tại và cũng có thể xem những hiện tượng kinh tế xã hội khách quan đó như tiền đề quyết định ra đời,tồn tại và phát triển của tài chính với một tư cách là một phạm trù kinh tế - xã hội. Vào cuối thời kỳ công xã nguyên thuỷ, sự phân công lao đỗng xã hội bắt đầu phá

doc145 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1228 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phân tích tình hình tài chính Doanh nghiệp xây dựng giao thông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t triển chế độ tư hữu xuất hiện sản xuất và trao đổi hàng hoá và theo đó tiền tệ đã xuất hiện như một đòi hỏi khách quan của sự phát triển xã hội . sản xuất hàng hoá là sản xuất ra để trao đổi mua bán trứ không phải để tiêu dùng. Trong nền kinh tế hàng hoá sự phát triển của sản xuất xã hội cũng đi từ đơn giản đến phức tạp . Trong nền kinh tế hàng hoá , việc trao đổi hàng hoá có thể tiến hành trực tiếp hàng đổi hàng hoặc thông qua trung gian là tiền tệ. Chủ nghĩa tư bản văn minh hơn chế độ phong kiến là nhờ đã phát triển mạnh kinh tế hàng hoá đưa nó lên mức kinh tế thị trường. Chính trong điều kiện của nền kinh tế hàng hoá với việc sử dụng tiền tệ đã nảy sinh ra phạm trù tài chính. Lịch sử loài người cũng đã cho biết rằng, khi chế độ tư hữu xuất hiện thì xã hội loài người cũng được phân chia thành các giai cấp và có su hướng đấu tranh giai cấp. trong điều kiện lịch sử đó, Nhà nước đã xuất hiện và tác động chủ quancho nhà nước thúc đẩy sự phát triển kinh tế hàng hoá tiền tệ . Nhà nước đã nắm lấy việc đúc tiền, sau đó là việc in tiền và lưu thông đồng tiền. Để duy trì quyền lực của nhà nước cần phải có sự đóng góp của các công dân dưới hình thức thuế và trong điều kinh tế hàng hoá tiền tệ . Nhà nước đã sử dụng mạnh mẽ hình thức tiền tệ trong việc phân phối sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân như thuế bằng tiền,công trái để tạo lập ra quỹ tiền tệ phục vụ cho hoạt động của mình , hình thành lĩnh vực tài chính Nhà nước. Sự vận động độc lập của tiền tệ trong việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ không chỉ là đạc trưng cho hoạt động của nhà nước mà là của tất cả các chủ thể trong xã hội , các tổ chức xã hội, các gia đình dân cư. Các quỹ tiền tệ chẳng những được hình thành và còn sử dụng cho những mục đích trực tiếp, sản xuất hoặc tiêu dùng, mà còn được hình thành như những tụ điểm trung gian để tự cung ứng phương tiện tiền tệ cho những mục đích trực tiếp. Nhà nước chẳng những tác động trực tiếp đến sự vận độnh độc lập của tiền tệ, trên phương diện ấn hành hiệu lực của đồng tiền mà còn tạo ra môi trường pháp lý cho sự tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ trung gian và ngân sách nhà nước. Chính trong điều kiện đó , phạm chù tài chính nảy sinh và tồn tại , và người ta coi sản xuất hàng hoá . Tiền tệ và nhà nước là những tiền đề phát sinhvà phát triển của tài chính . Tuy nhiên trong tiến hànhlịch sử của xã hội loài người ta cũng thấy rõ rằng Nhà nước trong đất nước nhất định có lúc thì thúc đẩy thêm có lúc lại tác động kìm hãm sự phát triển của tìa chính thông qua cơ chế quản lý kinh tế nhưng sự phát triển khách quan của nền kinh tế thế giới cũng buộc nhà nước trong một nước nhất định đi theo hướng phát triển của sản xuất hàng hoá -tiền tệ và sử dụng mạnh mẽ hệ quả tất yếu của nó là tài chính . Vì thế có thể coi tiền đề quyết định sự tồn tại và phát triển của tài chính là sản xuất hàng hoá và tiền tệ. Chính trong điều liện lịch sử của xã hội vào cuối phương thức sản xuất phong kiến , đặc biệt trong giai đoạnphát triển tư bản xã hội chủ nghĩa , sản xuất hàng hoá và tiền đề với sự phát triển tài chính và đến lượt mình, sự phá triển đó làm cho kinh tế hàng hoá tiền tệ phát triển ở một mức cao . Ngày nay trong thập niên cuối thế kỷ 20 , Việt nam đang xây dựng và phát triển nền kinh tếthị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa , nhưng tiền đề tồn tại và phát triển của tài chính trong xã hội loài người cũng đang hiện có ở Việt Nam . Sản xuất kinh tế hàng hoá tiền tệ với kinh tế nhiều thành phần là vấn đề lâu dài. Nhà nước đang phát huy vai trò quản lý đối với sự phát triển kinh tế xã hội như đã được ghi trong các văn kiện của Đảng và Quốc hội. Vì thế tài chính với tư cách là một phạm trù kinh tế khách quan đang tồn tại và được sử dụng mạnh mẽ trong sự nghiệp làm cho dân giàu nước mạnh. 1.2. khái niệm, bản chất, chức năng của tài chính doanh nghiệp 1.2.1 khái niệm về doanh nghiệp Từ trước đến nay có nhiều quan điểm khác nhau về doanh nghiệp nhất là khi nền kinh tế nước ta đang chuyển sang nền kinh tế thị trường : Có nhiều quan điểm cho rằng : Doanh nghiệp là một tổ chức kinh doanh thành lập vứi mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Quan điểm khác cho rằng: Doanh nghiệp là một cộng đồng người được liên kết với nhau tiến hành hoạt động kinh doanh nhằm mục đích chung hưởng những thành quả so việc sử dụng những tài nguyên hiện có của doanh nghiệp. Cả hai quan điểm được thể hiện trên phương diện kinh tế còn dưới góc độ pháp luật : Doanh nghiệp được hiểu là một đơn vị kinh doanh do có cá nhân hoặc một tổ chức có mức vốn không thấp hơn mức vốn pháp định hiện hành của pháp luật quy định , được thành lập nhằm mục đích chủ yếu là thể hiện các hoạt động kinh doanh . Trong đó kinh doanh được hiểu là việc thực hiện một hoặc một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời . Luật doanh nghiệp Quốc hội thông qua ngày 21 - 12 - 1990 cho rằng : Doanh nghiệp là đơn vị kinh doanh được thành lập nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện một hoặc một số , hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện trên thị trường nhằm mục đích kiếm lời. 1.2.2 Khái niệm Tài chính Doanh Nghiệp Tài chính doanh nghiệp là một khâu quan trong của hệ thống tài chính. Phạm trù tài chính doanh nghiệp trên cảm nhận trực quan bề ngoài được quan niệm tương đồng với các quỹ tiền tệ và các loại vốn kinh doanh. Xong các quỹ tiền tệ là kết quả của dịch chuyển của các nguồn tài chính thành các quỹ tiền tệ và ngược lại. Trong nền kinh tế thị trường sự vận động và chuyển hoá qua lại giữa các nguồn tài chính, nơi hình thành nên sức mua tài chính như lãi suất tín dụng, thị giá cổ phiếu, cổ tức, giá cả tiền tệ và các hình thức phân chia lợi nhuận khác trong lĩnh vực góp vốn, liên doanh, đầu tư. Quá trình vận động và chuyển hoá các nguồn tài chính nêu trên là chính là kết quả của việc thực hiện hàng loạt các quan hệ tài chính doanh nghiệp. Khi nền kinh tế thị trường càng phát triển, thị trường vốn càng trở lên sôi động thì các quan hệ tài chính doanh nghiệp càng trở nên phong phú và đa dạng thêm. - Xét phạm vi hoạt động, các quan hệ tài chính doanh nghiệp có thể xẩy ra các phạm vi sau: + Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với nhà nước : Đó là quan hệ về cấp phát vốn với các doanh nghiệp nhà nước, các khoản thuế, lệ phí phải nộp với các loại hình doanh nghiệp, các quan hệ này được giới hạn trong khuân khổ luật định. + Quan hệ giữa tài chính doanh nghiệp với thị trường : Quan hệ này bao gồm: Thị trường hành hoá, thị trường sức lao động, thị trường tài chính ... đây là những quan hệ mua bán trao đổi các yếu tố phục vụ cho quá trình sản suất kinh doanhvà tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp, khác với thời kì bao cấp, trong nền kinh tế thị trường loại hình quan hệ này được phất triển hết sức mạnh (đặc biệt là quan hệ cung ứng, giao lưu vốn...). + Quan hệ tài chính trong nội bộ doanh nghiệp: Đó là những quan hệ về phân phối, điều hoà cơ cấu, thành phần vốn kinh doanh phân thu nhập giữ các thành viên trong nội bộ doanh nghiệp, các quan hệ về thanh toán hợp đồng lao động giữa doanh nghiệp với công nhân viên chức trong doanh nghiệp đó ... - Nếu xét về nội dung kinh tế, các quan hệ về tài chính doanh nghiệp có thể được chia theo 3 nhóm sau: + Nhóm các quan hệ tài chính nhằm mục đích khai thác, thu hút vốn. Đó là các quan hệ về vay vốn hùn vốn, phát hành cổ phiếu và trá phiếu ...nhằm thu hút tạo lập vốn kinh doanh của doanh nghiệp. + Nhóm các quan hệ tài chính về đầu tư, sử dụng vốn kih doanh, phần lớn quá trình này được diễn ra trong nội bộ doanh nghiệp. Đó là việc phân phối để hình thành cơ cấu vốn kinh doanhthích hợpvà sử dụng quản lý nhỏ : Vốn cố định, vốn lưu động, quỹ tiền lương, quỹ khấu hao, quỹ dự trữ tài chính ... nhằm phục vụ cho mục tiêu kinh doanh. Ngoài ra doanh nghiệp còn có thể góp vốn liên doanh mua trái phiếu, của công ty khá, đây cũng là một hình thức đầu tư quan trọng mà các doanh nghiệp thường áp dùng nhằm mục đích kiếm lợi nhuân và đảm bảo an toàn vốn, đề phòng rủi ro bất trắc. + Nhóm các quan hệ tài chính về phân phối thu nhập và lợi nhuận: Nhóm quan hệ này có liên quan đến nhiều chủ thể và đối tượng phân phối như: Liên quan đến nhà trong việc nộp thuế, kiên quan đến ngân hàng trong việc thanh toán lãi suất tín dụng, liên quan đến cổ đông, các thành viên góp vốn trong việc thanh toán cổ tức, lãi liên doanh, liên quan đến nội bộ doanh nghiệp khi bù đắp, trong các chi phí đầu vào, phân phối các quỹ danh nghiệp... Các quan hệ tài chính diến ra trên các phạm vi khác nhau , chứa đựng các nội dung kinh tế khác nhau, song tất cả các mối quan hệ đó đều có những điểm chung giống nhau là: . Phản ánh luồng dịch chuyển giá trị, sự vận động của các nguồn tài chính nẩy sinh và gắn với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. . Sự vận động và chuyển hoá của các nguồn tài lực trong kinh doanh không phải là hỗn loạn mà được điều chỉnh bằng hệ thống các quan hệ phân phối dưới hình thức giá trị thông qua việc tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ, cac loại vốn kinh doanh nhất là trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp . Động lực của sự vận động, chuyển hoá các nguồn tài lực là nhằm mục tiêu doanh lợi trong phạm vi cho phép của luật định. 1.2.2.1 Khái niệm về tài chính doanh nghiệp: -Tài chính doanh nghiệp nó chính là tài chính của các pháp nhân kinh tế tức là các tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân đầy đủ. -Tài chính doanh nghiệp là một khâu của hệ thống tài chính kinh tế quốc dân và tài chính tồn tại và phát triển dựa trên hai tiên đề: + Sự tồn tại của nhà nước . + Sự tồn tại của nền sản xuất và tiền tệ Nó phát sinh các mối quan hệ kinh tế có thể biểu hiện được bằng tiền - Việc giải quyết các quan hệ kinh tế tức là chúng ta đã thực hiện các hoạt động tài chính -Với mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đều được tính toán, đánh giá thông qua hình thái giá trị là dùng thước do tiền tệ -Hoạt động của các doanh nghiệp xây dựng giao thông cũng giống như các doanh nghiệp khác là dùng tiền để mua sắm các yếu tố đầu vào. Vòng tuần hoàn vốn cũng phải trải qua 3 giai đoạn: + Giai đoạn I: (chuẩn bị sản xuất): Dùng tiền để mua các yếu tố đầu vào T-H nhưng hàng hoá ở đây là các yếu tố đầu vào là vật tư thiết bị. + Giai đoạn II: (giai đoạn sản xuất): Từ hàng Sản phẩm dở dang Sản phẩm hoàn thành chờ bàn giao thanh toán. + Giai đoạn III: Những hình thái sảm phẩm tiêu thụ biến thành tiền tệ T’>T đảm bảo tái sản xuất . Vì vậy các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp giao thông nói riêng không thể tồn tại một cách độc lập mà phải có sự liên hệ, phụ thuộc lẫn nhau cùng phát triển. -Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì các doanh nghiệp phải cạnh tranh với nhaudẫn đến giảm được giá bán sản phẩm . Muốn vậy các doanh nghiệp phải tìm cách giảm các chi phí và trong các yếu tố là sử dụng đồng vốn có hiệu quả, điều đó giúp các doanh nghiệp có khả năng bảo toàn và phát triển vốn. 1.2.3 Bản chất của tài chính : Trên bề mặt của hiện tượng xã hội, tài chính được cảm nhận như những nguồn lực tài chính, những quỹ tiền tệ khác nhau, đại diện cho nhưng sức mua nhất địnhở các chủ thể trong xã hội . Hơn thế nữa nói đến tài chính người ta không chỉ thấy tiền ở trạng thái tĩnh mà thấy những lượng tiền nhất định đang vận động để tạo nên những thế năng về sức mua, hay chuyển thế năng đó thành hiên thực. Có thể thấy rõ những biểu hiện bề ngoài của tài chính liên quan đến dân cư, các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và nhà nước. Doanh nghiệp nộp thuế cho nhà nước, dân cư mua cổ phiếu, trái phiếu tín phiếu của các doanh nghiệp của ngân hàng, của kho bạc nhà nước, người làm công và các doanh nghiệp nộp tiền vào quỹ Bảo hiểm xã hội, mua bảo hiểm rủi ro (nộp phí bảo hiểm). Nhà nước cấp phát từ ngân sách của mình cho việc xây dựng giao thông, tài trợ các trường học, bệnh viện, tài trợ cho việc nghiên cứu khoa học , các doanh nghiệp sử dụng vốn để mua sắm vật tư , thiết bị kinh doanh, các ngân hàng cho doanh nghiệp vay tiền, các công ty bảo hiểm đền bù thiệt hại cho dân cư khi mất sức lao động tạm thời hay vĩnh viễn ( từ quỹ bảo hiểm xã hội), hay khi bị tai nạn rủi ro ( từ quỹ bảo hiểm rủi ro ). Những hiện tượng trên, có thể thấy tiền tệ xuất hiện trước hết vời thước đo giá trị mà trước hết ở chức năng phương tiện thanh toán chi trả và phương tiện cất trữ tiền tệ xuất hiện đại diện cho một giá trị đặc cho một thế năng có sức mua nhất định. Như vậy trong các hiện tượng gọi là tài chính có thể thấy sự xuất hiện của những nguồn lực ( ngòn tài chính). Trong xã hội có sản xuất hàng hoá, các chủ thể trong xã hội luôn luôn gặp những vấn đề sử dụng các nguồn nhân lực, vật lực, tài lựchiện có trong tay mình một cách có hiệu quả cao. Trong nền kinh tế thị trường, mỗi chủ thể trong xã hội khi nắm trong tay những nguồn tài lực nhất định là đã nắm trong tay một sưcs mua để có thể nắm được những nguồn vật lực hay sử dụng được những nguồn lực nhất định để sử dungj cho mục đích tích luỹ hay tiêu dùng. Với sự phân tích trên có thể xác định bản chất tài chính qua các khía cạnh sau: -Sự vận động tương đối cuả các nguồn tài chính để trực tiếp ( hay thông qua thị trường) tạo lập hoạc sử dụng các quỹ tiền tệ như mặt trực quan của tài chính . -Đằng sau những hiện tượng bề mặt đó là các quan hệ kinh tế trong phân phối của cải vật chất xã hội duươí hình thức phân phối các nguồn tài chính. -Việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ là phương thức phân phối đặc thù, giúp phân biệt phân phối tài chính với các phạm trù phân phối khácnhư giá cả, tiền lương... Các quỹ tiền tệ bao giờ cũng thể hiện mục đích của nguồn tài chính. Đây là tiêu thức chính của các quỹ tiền tệ là một lượng nhất định nguồn lực tài chính được dùng cho một mục đích nhất định. Tất cả các quỹ tiền tệ đều vận động thường xuyên tức là chúng luôn luôn được tạo lập ( hoặc được bổ sung )và được sử dụng. Là một dạng khác của sự vận động đó và nhằm mục đích cụ thể nào đó, các quỹ lớn được chia thành các quỹ nhỏ hoặc các quỹ nhỏ được khuyếch trương nhờ tập chung các quỹ nhỏ tương ứng . -Từ đó có thể xác định nội dung kinh tế của phạm trù tài chính như sau: Tài chính được bằng sự vận động độc lập tương đối của tiền tệ với chức năng phương tiện thanh toán và phương tiện cất trữ trong quá trình sử dụng hay tạo lập các quỹ tiền tệ đại diện cho những sức mua nhất định ở các chủ thể kinh tế xã hội. Tài chính phản ánh tổng thể các mối quan hệ trong phân phối nguồn lực tài chính thông qua tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm mục đích đáp ứng tích luỹ hay tiêu dùng của các chủ thể trong xã hội. Sự khác nhau giữa tài chính và tiền tệ là: Tài chính không phải là tiền tệ với chức năng và bản chất như vậy mà là phương vận động độc lập tuương đối của tiền tệ với chức năng và phương tiện cất trữ của nó, mà tính đặc trưng của nó trong lĩnh vực phân phối là tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ khác nhau cho mục đích tích luỹ và tiêu dùng khác nhau. Trong điều kiện kinh tế thị trường, tài chính chịu sự chi phối của các quy luật thị trường và có liên hệ chặt chẽ với thị trương tài chính. -Tài chính là những quan hệ kinh tế mà trên cơ sở nhưng quan hệ kinh tế này thì những quỹ tiền tệ ddược hình thành và sử dụng. Tài chính là sự vận động của giá trị gắn liền với sự tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ trong doanh nghiệp. Hiện nay người ta chia quan hệ kinh tế thành 4 nhóm : + Mối quan hệ giữa doanh nghiệp và ngân sách nhà nước ( doanh nghiệp có thể là doanh nghiệp nhà nước hoặc doanh nghiệp khác). nếu là doanh nghiệp nhà nước: Nhà nước cung cấp vốn ban đầu cho doanh nghiệp hoạt động. Doanh nghiệp có trách nhiệm quản lý và sử dụng số vốn được giao đồng thời doanh nghiệp phải có trách nhiệm nộp vào ngân sách cac khoản thu theo luật định, mối quan hệ này mang tính chất hai chiều. Đối với các doanh nghiệp khác: Các doanh nghiệp này không được nhà nước cấp vốn nên các doanh nghiệp phải tụe xoay vốn để hoạt động nhưng vẫn phải có trách nhiệm với nhà nước. đây là mối quan hệ một chiều. + Mối quan hệ giữa doanh nghiệp với hệ thống tín dụng ngân hàng . Nó được thể hiện rõ trong mối quan hệ vay vốn và trả vốn (cả gốc và lãi) giữa doanh nghiệp với tổ chức tín dụng ngân hàng. + Mối quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp mối thị trường: Doanh nghiệp là người mua: Mối quan hệ này phát sinh khi doanh nghiệp trả tiền các vật liệu, máy móc, mua sức lao động.. Khi doanh nghiệp là người bán: Nó thể hiện khi doanh nghiệp bàn giao tiêu thụ sản phẩm và nhận tiền về, ở đây doanh nghiệp đóng vai trò là người tạo lập quỹ tiền tệ. + Mối quan hệ giữa doanh nghiệp với các đơn vị thành viên cán bộ công nhân viên chức trong nội bộ doanh nghiệp, nó thể hiện ở: Lương và các quỹ phúc lợi... 1.2.4 Chức năng của tài chính doanh nghiệp Bản chất của tài chính doanh nghiệp được biểu hiện thông qua các quan hệ tài chính trong quá trình tái sản xuất và biểu hiện ngay trong các chức năng vốn có của chúng. Tài chính doanh nghiệp có hai chức năng: - Phân phối dưới hình thức giá trị của cải xã hội. - Giám đốc bằng đồng tiền mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. 1.2.4.1 Chức năng phân phối : Chức năng phân phối là chức năng vốn có khách quan của tài chính doanh nghiệp nó thể hiện công dụng và khả năng của tài chính trong việc phân phối dưới hình thức giá trị của cải xã hội trên các khâu của quá trình tái sản xuất và cần làm rõ 2 vấn đề sau: - Tại sao chức năng phân phối lại được coi là chức năng vốn có của phạm trù tài chính ? - Quan niệm về đối tượng phân phối và phân phối . Trong nền sản xuất hàng hoá, sự xuất hiện của phạm trù tài chính doanh nghiệp là một đòi hỏi tất yếu. Để tiến hành sản xuất kinh doanh cần phải có một lượng vốn ban đầu nhất định. Lượng vốn này được phân chia thành những lượng vốn nhỏ hơn ( vốn cố định, vốn lưu động...) tương ứng với các quá trình sản xuất kinh doanh. Khi kết thúc một chu kỳ sản xuất kinh doanh, thu nhập tiền tệ sẽ được trang trải các chi phí ban đầu đã bỏ ra và tiếp tục cho chu kỳ mới ... Như vậy, phân phối đã trở thành một đòi hỏi tất yếu khách quan của mọi quá trình sản xuất kinh doanh. Tính vì vậy chức năng phân phối có thể coi là thuộc tính khách quan của phạm trù tái chính doanh nghiệp. Cũng từ đó ta thấy, chức năng phân phối của tài chính doanh nghiệp được quan niệm cả về phương thức phân phối và đối tượng phân phối. Tài chính ở doanh nghiệp có thể diễn ra trong từng khâu của quá trình tái sản xuất, trong sản xuất, trong trao đổi và cũng có thể diễn ra trong một phạm vi cùng một hình thức sở hữu hoặc nhiều hình thức sở hữu. Mặt khác, đối tượng phân phối của tài chính doanh nghiệp diễn ra ở nhiềukhâu trên phạm vi toàn xã hội. Thể hiện ở các nguồn vốn dùng trong sản xuất kinh doanh đã được đa dạng hoá. Chức năng phân phối của tài chính doanh nghiệp được biểu hiện trước ở việc phân phối thu nhập của doanh nghiệp. Thu nhập của doanh nghiệp trước hết được phân phối để bù đắp các yếu tố vật chất bị tiêu hao trong quá trình sản xuất kinh doanh như: chi phí vật tư, nhiên liệu, khấu hao máy móc thiết bị, trả công lao động, chi phí marketing, trả lãi vay....phần còn lại của thu nhập sau khu bù đắp này lại tiếp tục được phân phối : một phần nộp cho nhà nước ( thuế thu nhập doanh nghiệp )phần còn lại trích lập các quỹ của doanh nghiệp và chia lợi tức cổ phần. Chức năng tài chính doanh nghiệp không chỉ giới hạn ở phân phối “ thu nhập và lợi nhuận” mà nó còn hiện diện ở tất cả các khâu của quá trình tuần hoàn vốn kinh doanh. Như điều chỉnh từ vốn ccố định sang vốn lưu động, thu hút các nguồn tài trợ tử bên ngoài doanh nghiệp. Như vậy, nhờ chức chức năng phân phối mà các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp được tạo lập và linh hoạt trong việc huy động và sủ dụng vốn để đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn 1.2.4.2 Chức năng giám đốc: Chức năng giám đốc cũng là một thuộc tính vốn có khách quan của phạm trù tài chính doanh nghiệp. Nó biểu hiện trong việc giám sát tạo lập và sử dụng các quỹ, mục đích sử dụng và tính hiệu quả trong quá trình sản xuất và kinh doanh. Tính khách quan của chức năng giám đốc xuất phát từ mục đích doanh nghiệp là nhằm bỏ vốn kinh doanh nhằm thu lại lợi nhuận càng cao càng tốt và vì vậy phải giám sát quá trình chi tiêu, quá trình đầu tư sao cho có hiệu quả tốt nhất. Chức năng giám đốc tài chính là giám đốc bằng đồng tiền thông qua các chỉ tiêu tài chính. Bởi các chỉ tiêu tài chính phản ánh trung thực và toàn diện quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nó đánh giá được thực trạng về năng lực tài chính của doanh nghiệp tại các kỳ nhất định, giúp cho lãnh đạo doanh nghiệp tăng cường quản lý, điều chỉnh hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Biểu hiện tập chung nhất của chức năng giám đốc tài chính là giám đốc quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp. Quá trình phân phối sẽ tạo ra hàng loạt các quỹ tiền tệcủa doanh nghiệp, nhưng các quỹ này phải được hình thành từ các nguồn tài chính hợp lý và sử dụng phải có hiệu quả do vậy đây chính là công việc của chức năng giám sát. Ví như: Vốn doanh nghiệp được hình thành từ nhiều nguồn vốn khác và trong quá trình sản xuất kinh doanh nó thường xuyên biến động và được bổ sung như vốn vay, phát hành trái phiếu, cổ phần hoặc có thể điều chỉnh từ nguồn vốn cố định sang nguồn vốn lưu động trong nội bộ...Khả năng giám đốc tài chính cho phép người quản lý lựa chọn những quyết định tài chính đúng đắn trong việc hình thành và sử dụng các nguồn tài trợ và các quỹ của doanh nghiệp. Cho phép lựa chọn những dự án đầu tư có hiệu quả và hạn chế được rủi ro trong kinh doanh. Chức năng giám đốc tài chính trong doanh nghiệp còn giúp cho các nhà quản lý ở các cấp có biện pháp làm lành mạnh hoá quan hệ tài chính trong quá trình sản xuất kinh doanh. Hai chức năng tài chính doanh nghiệp là phân phối và giám đốc có mối quan hệ hữu cơ với nhau, nhờ có phân phối mà tài chính phải có giám đốc và ngược lại nhờ có giám đốc thì phân phối mới đúng hướng và có hiệu quả và cũng nhò hai chức năng sẽ làm lạnh mạnh hoá tình hình tài chính của doanh nghiệp. 1.3. Vai trò và vị trí của tài chính doanh nghiệp: 1.3.1 Vai trò của tài chính doanh nghiệp : Trong điều kiện hoạt động sản xuất kinh doanh hiện nay, các doanh nghiệp phải tự lo nguồn lực tài chính của mình và phải sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính của mình và phải sử dụng hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn lực tài chính đã huy động. Vì vậy tài chính của doanh nghiệp có các Vai trò sau đây: - Tài chính doanh nghiệp là một công cụ khai thác, thu hút các nguồn tài chính nhằm đảm bảo nhu cầu đầu tư phát triển của doanh nghiệp . Để thực hiện mọi quá trình sản xuất kinh doanh trước hết mọi doanh nghiệp phải có một yếu tố tiên đề đó là vốn kinh doanh. Trong cơ chế quản lý quan liêu bao cấp trước đây, vốn của doanh nghiệp nhà nước được nhà nước đầu tư gần như toàn bộ vì lí do này vai trò của khai thác thu hút vốn khoong được đặt ra như một nhu cầu cấp bách có tính sống còn đối với doanh nghiệp. Việc thu hút, khai thác đảm bảo vốn cho kinh doanh đối với doanh nghiệp trở lên hết sút thụ động. Cơ chế phân bổ bao cấp vốn của nhà nước chỉ được thu hẹp trên 2 kênhlà ngân sách và ngan hàng nhà nước. Điều này đã thủ tiêu tính chủ động của doanh nghiệp mặt khác lại tạo ra sự cân đối giả tạo về cung cầu trong nền kinh tế. Đây là lý do chủ yếu giải thích tại sao trong thời kỳ bao cấp lại vắng mặt thị trường vốn. Chuyển sang nền kinh tế thị trường đa thành phần các doanh nghiệp chỉ còn là một bộ phận cùng song song tồn tại trong cạnh tranh cho việc đầu tư phát triển những ngành nghề mới nhằm thu được lợi nhuận cao, đã trở thành động lực và là một đòi hỏi bức bách đối với tất cả các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. -Tài chính doanh nghiệp có vai trò đòn bẩy kích thích và điều tiết sản xuất kinh doanh. Vai trò kích thích hoặc điều tiết của tái chính doanh nghiệp được thể hiện đậm nét nhất ở việc tạo ra sức mua hợp lý để thu hút vốn đồng thời cũng phải xác định giá bán hợp lý khi phát hành cổ phiếu, bán hàng hoá, dich vụ. Bằng việc xây dựng giá mua, giá bán hợp lý sẽ có tác động tích cực đến sản xuất kinh doanh, vốn được quay vòng nhanh, khả năng sinh lời lớn. Khả năng kích thích sản xuất và điều tiết sản xuất kinh doanh của tài chính doanh nghiệp cũng có thể phát huy tác dụngngay trong quá trình điều hành sản xuất thông qua các hoạt động phân phối thu nhập giữa các hội viên góp vốn kinh doanh, phân phối quỹ tiền lương, tiền thưởng thực hiện các hợp đồng kinh tế về mua bán hàng hoá hoặc thanh toán với bạn hàng. - Tài chính doanh nghiệp có vai trò trong việc sử dụng vốn một cách tits kiệm và có hiệu quả. Việc tổ chức sử dụng vốn một cách tiết kiệm có hiệu quả được coi là điều kiện tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, yêu cầu của các quy luật kinh tế đã đặt ra trước mắt của mỗi doanh nghiệp những chuẩn mực hết sức khắt khe. Sản xuất với , phải bán những sản phẩm mà thị trường cần và chấp nhận chứ không được bán cái mình có, để đáp ứng nhu cầu này người quản lý doanh nghiệp phải sử dụng vốn một cách tiết kiệm và có hiệu quả. - Tài chính doanh nghiệp là công cụ hiệu quả để kiểm tra các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đều phải phản ánh thông qua tình hình tài chính của doanh nghiệp, thông qua các chỉ tiêu như: hệ số nợ, hiệu suất và hiệu quả sử dụng vốn, cơ cấu thành phần vốn. Thông qua tất cả những thứ đó có thể biết được tình trạng tốt hay xấu của doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh. Để sử dụng có hiệu quả công cụ kiểm tra tài chính đòi hỏi các doanh nghiệp phải tổ chức tốt công tác hoạch toán kế toán, xây dựng các chỉ tiêu thích hợp, duy trì nề nếp chế độ phân tích tài chính của doanh nghiệp. 1.3.2 Vị trí của tài chính doanh nghiệp : - Nếu xét trên phạm vi một đơn vị sản xuất kinh doanh thì tài chính doanh nghiệp là công cụ quan trọng nhất để quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tài chính có tác dụng tích cực hoặc tiêu cực đến quá trinh sản xuất, vì vậy nó có thể kìm hãm hoặc thúc đẩy quả trình sản xuất phát triển. - Nếu xết trên một góc độ hệ thồng tài chính của nền kinh tế quốc dân thì tài chính doanh nghiệp được coi là một bộ phận của hệ thồng tài chính. Nó có tính cầu nối giữa doanh nghiệp với nhà nước.Thông qua mạng lưới tài chính doanh nghiệp Việt Nam có thể thực hiện các chức năng quản lý vĩ mô để điều tiết nền kinh tế bằng hệ thông pháp luật. 1.4. Nội dung tổ chức tài chính doanh nghiệp : Tổ chức cônt tác tài chính trong doanh nghiệp chính là xây dựng nội dung của công tác tài chính, hình thức và phương pháp thực hiện. Đâylà vấn đề quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường, công tác tổ chức tài chính doanh nghiệp gồm những nội dung sau : 1.4.1 Tham gia thẩm định, dưới góc độ phân tích kinh tế và tài chính những dự án về sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Để doanh nghiệp tồn tại và phát triển người quản ký cần phải vạch ra những định hướng trước mắt và lâu dài cho sự sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Những định hướng chủ yếu la: - Quy mô và tốc độ phát triển của doanh nghiệp. - Phương hướng quy mô của doanh nghiệp. - Vấn đề quảng cáo tiếp thị. - Vấn đề trang thiết bị kỹ thuật... 1.4.2 Xây dựng những luận cứ để giám đốc hoặc hội đồng quản trị xem xét và ra quyết định về tài chính. - Thực chất của các quyết định tài chính là hệ thống các biên pháp tài chính nhằm để thực hiện phương hướng và mục tiêu đã định . Những quyết định về tài chính thường là: - Các quyết định về tài trợ cho phương án kinh doanh ngắn hạn - Các quyết định về tài trợ cho đầu tư dài hạn - Các quyết định về điều chỉnh quy mô, kết cấu của doanh nghiệp - Các quyết định về phân phối lợi nhuận, tạolập và sử dụng các quỹ của Việc xác định những kuận cứ chính xác cho các quy định tài chính được coi là một nhiệm vụ then chốt để giúp đỡ quản lý doanh nghiệp có được những quyết định tài chính đúng dắn thì bộ phận tc phải có đầy đủ các dữ kiện về tình hình và kết quả thực hiện hoạt động tài chính doanh nghiệp. 1.4.3 xây dựng hệ thống kế hoạch tài chính và tổ chức các biện pháp thực hiện kế hoạch. Hệ thống kế hoạch tài chính trong doanh nghiệp bao gồm kế hoạch dài hạn, kế hoạch ngắn hạn và kế hoạch tác nghiệp. -Kế hoạch ngắn hạn :(Hàng quý , năm )gồm việc xác định kế hoạch vốn và nguồn vốn lưu động , lợi nhuận và phân phối lợi nhuận , sử dụng các quỹ của doanh nghiệp , lập bảng tổng hợp và cân đối các nguồn ngân quỹ . -Kế hoạch dài hạn : Xác định chủ yếu các nguồn tài trợ cho các dự án đầu tư dài hạn , khả năng trả nợ và lợi nhuận dự kiến. Hệ thống kế hoạch tài chính của doanh nghiệp phản ánh một cách cụ thể các quyết định về tài chính của doanh nghiệp và đưa ra những phương án để thực hiện các quyết định đó . Việc xây dựng kế hoạch tài chính hàng năm là khâu cơ bản của công tác kế hoạch hoá tài chính doanh nghiệp. 1.4.4 Phân tích , Kiểm tra và đánh giá kết quả tài chính. Qua từng thời kỳ phải tổ chức phân tích , kiểm tra và đánh giá kết quả tài chính của doanh nghiệp . Thông qua hệ thống các chỉ tiêu tài chính như : Hệ thống thống thanh toán , Hệ số sinh lời ....cho phép những nhà quản lý doanh nghiệp thấy toàn cảnh bức tranh về tài chính của doanh nghiệp mình trên cơ sở đó điều chỉnh các hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động tài chính nói riêng của doanh nghiệp và qua việc phân tích , kiểm tra , các nhà quản lý tìm thấy những biện pháp hữu hiệu để bảo toàn vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cũng thông qua việc phan tích , kiểm tra , lãnh đạo doanh nghiệp có những căn cứ chính xácđể xây dựng các dự án về sản xuất kinh donh cũng như các quyết định tài chính . 1.5. Những nguyên tắc tổ chức hoạt động tài chính doanh nghiệp Để sử dụng tốt các công cụ tài chính , phat huy vai trò tích cực của chúng trong sản xuất kinh doanh , cần thiết phải tổ chức tài chính . Tổ chức tài chính là ._.việc hoạch định chiến lược về sử dụng tài chính và hệ thống các biện pháp đẻe thực hiện chiến lược đó nhằm đạt được các mục tiêu kinh doanh cuả doanh nghiệp trong thừi kỳ nhất định . Tổ chức tài chính doanh nghiệp phải dựa trên các nguyên tắc cơ bản sau đây: Thứ nhất , Nguyên tắc tôn trọng pháp luật Trong nền kinh tế hàng hoá , mục tiêu chung của các doanh nghiệp đều hướng đến lợi nhuận tối đa . Lợi nhuận tối đa , một mặt, là mmột động lực mạnh mẽ để thúc đẩy cạnh tranh tăng trưởng kinh tế . Mặt khác , để đạt được lợi nhuận tối đa các doanh nghiệp cố thể không từ bỏ bất kỳ một điiêù kiện gì , kể cả điều đó có hại đến lợi ích quốc gia, đến lợi ích của cả doanh nghiệp khác . Từ đó sẽ dẫn đến sự hỗn loạn trật tự xã hội và đó cũng chính là dấu hiệu của sự suy thái kinh tế. Vì vậy, song song với bàn tay vô hình của nền kinh tế thi trường , dứt khoát phải có “một bàn tay vô hình” của nhà nước để điều chỉnh nền kinh tế . Một nền kinh tế thi trường hoàn hảo cần thiết phải tồn tại cả hai cơ chế: Thị trường và sự quản lý của nhà nước , cũng ví như để có tiếng vỗ tay thì không thể thiếu một bàn tay. Những phân tích trên đây cho thấy, trong nền kinh tế thị trường hiện nay không thể vắng mặt sự quản lý của nhà nước. Để quản lý thị trường nói chung, các doanh nghiệp nói riêng, nhà nước phải sử dụng các công cụ vĩ mô như luật pháp, các chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả....Các cồn cụ quản lý vĩ mô của nhà nước, một mặt tạo điều kiện kích mở rộng đầu tư, tạo môi trường kinh doanh, mặt khác tạo ra khuân khổ luật pháp kinh doanh rất chặt chẽ. Vì vậy, nguyên tắc hàng đầu của tổ chức tài chính doanh nghiệp là phải tôn trọng pháp luật. Người cán bộ tài chính cần phải hiểu luật để làm đúng pháp luật, đồng thời hiểu luật để hướng kinh doanh đầu tư vào những nơi được nhà nước khuyến khích ( như giảm thuế, có tài trợ tín dụng...). Đó chính là một hướng đi khôn ngoan của các nhà doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Thứ hai, tài chính tài chính doanh nghiệp phải tôn trọng nguyên tắc hoạch toán kinh doanh: Hoạch toán kinh doanh là nguyên tắc quan trọng nhất, quyết định tới sự sống còn của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Trong cơ chế bao cấp cũ ở nước ta, vấn đề hoạch toán kinh tế đã được đề cập rất nhiều và được coi là một phương thức quản lý quan trọng. Tuy nhiên do khuân khổ chật hẹp, cứng nhắc của cơ chế bao cấp đẫ không tạo ra môi trường cũng như nhu cầu cấp bách để các dn, cứng nhắc của cơ chế bao cấp đẫ không tạo ra môi trường cũng như nhu cầu cấp bách để các doanh nghiệp thực hiện nguyên tắc này. Vì vậy, trên thực tế, hoạch toán kinh doanh ở thời kỳ bao cấp chỉ mang tính hình thức. Hoạch toán kinh doanh chỉ có thể được phát huy tác dụng trong môi trường đích thực của nó là nền sản xuất hàng hoá thực thụ, mà đỉnh cao của nó là cơ chế thị trường. Sở dĩ như vậy là do: Yêu cầu tối cao của nguyên tắc này ( lấy thu bù chi, có doanh lợi) đã hoàn toàn trùng hợp với mục tiêu của các doanh nghiệp là kinh doanh để đạt được lợi nhuận tối đa. Do có sự thống nhất đó, nên trong nền kinh tế thị trường, hoạch toán kinh doanh không chỉ có điều kiện thực hiện, mà còn là một nhu cầu bát buộc các doanh nghiệp phải thực hiện, nếu như không muốn doanh nghiệp của mình bị phá sản. Để thực hiện được nhu cầu lấy thu bù chi, có doanh lợi của nguyên tắc hoạch toán kinh doanh, việc tổ chức công tác tài chính và doanh nghiệp phải hướng vào hàng loạt các biện pháp như: chủ động tận dụng khai thác các nguồn vốn; bảo toàn và phát huy hiệu quả đồng vốn; việc đầu tư vốn phải bám sát những yêu cầu của thị trường....tất cả các biện pháp trên đây đều nhằm thực hiện một mục đích là kinh doanh phải có hiệu quả. Đó là mục tiêu số một bao trùm và chi phối toàn bộ hoạt động tài chính của mọi doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Ba là, công tác tổ chức tài chính phải luôn luôn giữ chữ tín: Giữ chữ tín không phải là một tiêu chuẩn đạo đức trong đời thường, mà còn là một nguyên tắc nghiêm ngặt trong kinh doanh nói chung, trong tổ chức tài chính doanh nghiệp nói chung. Trong các hợp đồng kinh tế, các quan hệ tài chính, nếu vì một lời hứa nà chúng ta bị thô lỗ thì tốt nhất là chúng ta chịu mất tiền, còn hơn là mất danh dự, mất uy tín để làm ăn. Trong thực tế kinh doanh đã cho thấy: kể làm mất chữ tín, chỉ tham lợi trước mắt sẽ bị bạn hàng xa lánh. Đó là một nguy cơ dẫn đến phá sản. Trong công tác tổ chức tài chính doanh nghiệp, để giữ gìn chữ tín, cần nghiên túc tôn trọng kỷ luật thanh toán, các điều khoản trong hợp đồng kinh tế, các cam kết trong liên doanh, góp vốn, hùn vốn, đầu tư và phân chia lợi nhuận. Trong kinh doanh, đi đôi với việc giữ gìn chữ tín cũng phần phải tỉnh táo, đề phòng sự bội tín của đối phương để đảm bảo an toàn về vốn kinh doanh. Bốn là, công tác tổ chức tài chính cần phải giữ nguyên tắc an toàn, phòng ngừa những rủi ro bất trắc: Đảm bảo an toàn, đề phòng rủi ro bất trắc cũng được coi là một trong những nguyên tắc kinh doanh nói chung, trong tổ chức tài chính doanh nghiệp nói riêng. Đảm bảo an toàn là cơ sở vững chắc cho việc thực hiện các mục tiêu kinh doanh có hiệu quả. Nguyên tắc an toàn cần được quán triệt trong mọi khâu của nguyên tắc tổ chức tài chính doanh nghiệp: an toàn trong việc chon nguồn vốn, an toàn trong việc góp vốn đầu tư liên doanh, an toàn trong sử dụng vốn....Để đảm bảo được an toàn, trước khi ra một quyết đinh tài chính, cần cân nhắc, xem xét trên nhiều phương án, nhiều góc độ khác nhau. Có thể chấp nhận một phương án đầu tư mang lại mức lợi nhuận vừa phải còn hơn là một phương án có lợi nhuận cao nhưng lại phưu lưu, mạo hiểm. Ngoài biện pháp lựa chọn các phương án, để đảm bảo an toàn trong kinh doanh, cần thiết phải tạo lập các quỹ dự phòng ( quỹ dự trữ tài chính ) hoặc mua bảo hiểm. Trong việc thành lập công ty, hình thức phát hành cổ phiếu cũng là một biện pháp vừa để tập chung vốn, vùi để san sẻ tủi ro cho nhiều cổ đông, nhằm làm tăng độ an toàn cho vốn kinh doanh . Trên đây là những nguyên tắc hết sức cơ bản cần được quán triệt trong công tác tổ chức tài chính doanh nghiệp. Để tổ chức tốt công cụ tài chính doanh nghiệp, điều cần thiết tiếp theo là phải ỳim hiểu những nội dung hoạt động của tài chính doanh nghiệp. chương 2 Những vấn đề chung về phân tích tình hình tài chính trong doanh nghiệp xây dựng giao thông 2.2/ý nghĩa, mục đích của phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp Hoạt động tài chính là một trong những nội dung cơ bản của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhằm giải quyết mối quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình kinh doanh được biểu hiện dưới hình thức giá trị. Tài chính doanh nghiệp là những mối quan hệ tiền tệ gắn liền với việc tổ chức, huy động phân phối, sử dụng và quản lý vốn trong quá trình kinh doanh. Hoạt động tài chính có quan hệ trực tiếp đối với hoạt động sản xuất kinh doanh. Hoạt động tài chính ở doanh nghiệp phải đạt được các mục tiêu sau: - Hoạt động tài chính phải giải quyết tốt các mối quan hệ kinh tế thể hiện qua việc thanh toán với các đơn vị có liên quan như ngân hàng, các dơn vị khác... Mối quan hệ này được cụ thể hoá bằng các chỉ tiêu đánh giá về mặt lượng, mặt chất và thời gian. - Hoạt động tài chính phải đảm bảo nguyên tắc hiệu quả, nguyên tắc này đòi hỏi phải tối thiểu hoá được việc sử dụng các nguồn vốn, nhưng vẫn đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh được bình thường và mang lại hiệu quả cao. - Hoạt động tài chính phải được thực hiện trên cơ sở tôn trọng pháp luật, chấp hành và tuân thủ các chế độ về tài chính tín dụng, nghĩa vụđóng góp, kỷ luật thanh toán với các đơn vị và tổ chức có liên quan. 2.1.1 ý nghĩa của phân tích hoạt động tài chính Phân tích hoạt động tài chính của doanh nghiệp hay cụ thể hoá là việc phân tích báo cáo tài chính của doanh nghiệp là quá trình kiểm tra đoói chiếu so sánh các số liệu, tài liệu về tình hình tài chính hiện hành. Thông qua việc phân tích báo cáo tài chính, người sử dụng thông tin có thể đánh giá tiềm năng hiệu quả kinh doanh cũng như những rủi ro trong tương lai Báo cáo tài chính là những báo cáo tổng hợp nhất về tình hình tài sản , vốn và công nợ cũng như tình hình tài chính, kết quả kinh doanh trong kì của doanh nghiệp. Báo cáo tài chính rất hữu ích đối với việc quản trị doanh nghiệp, đồng thời là nguồn thông tin tài chính chủ yếu với những người ngoài doanh nghiệp. Báo cáo tài chính không những cho biết tình hình tài chính của doanh nghiệp tại thời điểm báo cáo mà còn cho thấy những kết quả hoạt động mà doanh nghiệp đạt được trong hoàn cảnh đó.. 2.1.2 Mục đích của việc phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp Mục đích chính của việc phân tích hoạt động tài chính là giúp cho người sử dụng thông tin đánh giá chính xác sức mạnh tài chính, khả năng sinh lãi, triển vọng của doanh nghiệp. Bởi vì vậy phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp là mối quan tâm của nhiều nhóm người khác nhau như ban giám đốc ( hội đồng quản trị ), các nhà đầu tư, các cổ đông, các chủ nợ, các khách hàng chính, các nhà cho vay tín dụng, các nhà bảo hiểm, các đại lý...kể cả các cơ quan chính phủ và người lao động. Mỗi một nhóm người này có những nhu cầu thông tin khác nhau và do vậy, mỗi nhóm có xu hướng tập trung vào những khía cạnh riêng trong bức tranh tài chính của một công ty. Mặc dù mục đích của họ khác nhau nhưng thường liên quan với nhau, do vậy họ thường sử dụng các công cụ và kỹ thuật cơ bản để phân tích hoạt động tài chính. Đối với các chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp, mối quan tâm hàng đầu của họ là tìm kiếm lợi nhuận và khả năng trả nợ. Ngoài ra các nhà quản trị doanh nghiệp còn phải quan tâm dến nhiều mục tiêu khác như công ăn việc làm, nâng cao chất lượng sản phẩm, cung cấp nhiều sản phẩm hàng hoá và dịch vụ với chi phí thấp, đóng góp phúc lợi xã hội, bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, một doanh nghiệp chỉ có thể thực hiện được các mục tiêu nếu đáp ứng được hai thử thách sống còn và là hai mục tiêu cơ bản là kinh doanh có lãi và thanh toán được nợ. Một doanh nghiệp sẽ bị lỗ liên tục rút cuộc sẽ bị cạn kiệt các nguồn lực và buộc phải đóng cửa. Mặt khác, mếu doanh nghiệp không có khẳ năng thanh toán nợ đến hạn cũng buộc phải ngừng hoạt động và đống cửa. Đối với các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng, hướng quan tâm chủ yếu của họ hường chủ yếu vào khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Vì vậy họ đặc biệt chú ý đến số lượng tiền và các tài sản khác có thể chuyển đổi thành tiền nhanh: Từ đó, so sánh với số nợ gắn hạn để biết được khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng cũng rất quan tâm đến số lượng vốn của chủ sở hữu: bởi vì số vốn của chủ sở hữu này là khoản bảo hiểm cho họ trong trường hợp doanh nghiệp gặp rủi ro. Đối với các nhà cung cấp vật tư hàng hoá địch vụ....họ phải quyết định xem có cho phép khách hàng sắp tới được mua chịu hàng hay không, nhóm người này cũng như chủ ngân hàng, họ cần phải biết được khả năng thanh toán của khách hàng hiện tại và thời gian sắp tới. Đối với các nhà đầu tư, mối quan tâm của họ hướng vào như sự rủi ro, thời gian hoàn vốn, mức sinh lãi, khả năng thanh toán vốn ....Vì vậy, họ cần thông tin về điều kiện tài chính, tình hình hoạt động về kết quả kinh doanh và tiềm năng tăng trưởng của doanh nghiệp. Đồng thời các nhà đầu tư cũng rất quan tâm đến việc điều hành hoạt động và tính hiệu quả của công tác quản lý. Những điều đó nhằm đảm bảo sự an toàn và tính hiệu quả cho các nhà đầu tư. Bên cạnh các chủ doanh nghiệp (chủ sở hưu ) các nhà quản lý, đầu tư, các chủ ngân hàng, các nhà cung cấp còn còn có nhiều nhóm người khác quan tâm tới thông tin tài chính của doanh nghiệp. Đó là các cơ quan tài chính thuế, thống kê, chủ quản, các nhà phân tích tài chính, những người lao động....Những người này có cos nhu cầu thông tin về cơ bản giống như các nhà ngân hàng, các nhà đầu tư, các chủ doanh nghiệp... Bởi vì nó liên quan đến quyền lợi và trách nhiệm, đến khách hàng hiện tại và tương lai của họ. Như vậy có thể nói mục đích tối cao và quan trọng nhất của phân tích tình hình tài chính là giúp người ra quyết định lựa chọnphương án kinh doanh tối ưu và đánh giá chính xác thực trạng, itềm năng của doanh nghiệp 2.2. Các bước tiến hành phân tích tình hình tài chính 2.2.1 Thu thập thông tin: Phân tích tình hình tài chính cần sử dụng mọi nguồn thông tin có khẳ năng lý giải và thuyết minh thực trạng hoạt động tài chính của doanh nghiệp, phân tích để phục vụ cho quá trình dự đoán tài chính. Nó bao gồm cả nghững thông tin nội bộ đến những thông tin bên ngoài. Trong đó chủ yếu là các thông tin kế toán phản ánh tập trung trong báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Nguồn thông tin quản lý tài chính quan trọng bao gồm các thông tin sau: - Thông tin tài chính lãnh đạo doanh nghiệp xây dựng giap thông, kết quả phân tích hoạt động tài chính của doanh nghiệp xây dựng giao thông nhằm mục đích cung cấp thông tin về kết quả và tình hình tài chính của doanh nghiệp cho những người sử dụng. Đối với các nhà doanh nghiệp và quản trị doanh nghiệp xây dựng giao thông, mối quan tâm hàng đầu của họ là tìm kiếm lợi nhuận và khả năng trả nợ. Ngoài ra các nhà quản trị doanh nghiệp còn quan tâm tới nhiều mục tiêu khác. Từ các thông tin tài chính cần thiết do báo cáo phân tích hoạt động tài chính cung cấp, sẽ giúp cho người lãnh đạo doanh nghiệp xây dựng giao thông có được quyết định tài chính đúng đắn, kịp thời để có thể thực hiện được các mục tiêu trên. - Thông tin tài chính với việc quyết định tài trợ tài chính của các tổ chức tài trợ cho doanh nghiệp xây dựng giao thông: Đối với các ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng, hướng quan tâm của họ hướng vào các yếu tố như sự rủi ro, khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Vì vậy, họ đặc biệt chú ý đến lượng tiền và các tài sản khác có thể chuyển đổi thành tiền. Từ đó so sánh với số nợ ngắn hạn để biết khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp bên cạnh đó các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụn còn chú ý tới số lượng vốn chủ sở hữu, bởi vì số vốn chủ sở hữu này là khoản bảo hiểm cho họ trong trường hợp rủi ro. Không mấy ai sẵn sàng cho vay nếu các thông tin cho thấy người vay không đảm bảo chắc chắn rằng khoản vay đó có thể được thanh toán ngay khi đến hạn. Đối với các nhà đầu tư vào doanh nghiệp xây dựng giao thông hướng quan tâm của hướng vào các yếu tố chủ yếu như: sự rủi ro, thời gian hoàn vốn ....Vì vậy họ cần những thông tin về điều kiện tài chính, tình hình hoạt động, kết quả kinh doanh và tiềm năng tăng trưởng của doanh nghiệp. Đồng thời các nhà đầu tư cungc rất quan tâm đến việc điều hành hoạt động và tính hiệu quả của công tác quản lý. Những điều đó nhằm đảm bảo sự an toàn và tính hiệu quả cho các nhà đầu tư. Đối với các nhà cung cấp vật tư hàng hoá....họ phải quyết định xem có cho phép khách hàng sắp tới được mua chịu hàng hay không? nhóm người này cũng như chủ ngân hàng, họ cần phải biết được khả năng thanh toán của khách hàng (doanh nghiệp xây dựng giao thông ) hiện tại và thời gian sắp tới. Bên cạnh các chủ doanh nghiệp ( chủ sở hưu ), các nhà quản lý, đầu tư, các chủ ngân hàng, các nhà cung cấp còn còn có nhiều nhóm người khác quan tâm tới thông tin tài chính của doanh nghiệp. Đó là các cơ quan tài chính thuế, thống kê, chủ quản của doanh nghiệp xây dựng giao thông, các nhà phân tích tài chính, những người lao động....Những người này có coa nhu cầu thông tin về cơ bản giống như các nhà ngân hàng, các nhà đầu tư, các chủ doanh nghiệp... Bởi vì nó liên quan đến quyền lợi và trách nhiệm, đến khách hàng hiện tại và tương lai của họ. 2.2.2 Sử lý thông tin Phân tích tình hình tài chính là quá trình sử lý thông tin đã thu thập được trong giai đoạn người sử lý thông tin ở các góc độ nghiên cứu ứng dụng khác nhau sẽ có phương pháp sử lý thông tin khác là quá trình sắp xếp các thông tin theo các mục tiêu nhất định nhằm tính toán, so sánh, phân tích, đánh giá, xác định nguyên nhân của các kết quả đã thu được phục vụ cho quá trịnh dự đoán và quyết định 2.2.3 Dự đoán và quyết định Thu thập và sử lý thông tin nhằm chuẩn bị những tiền đề và điều kiện cần thiết để sử dụng thông tin, dự đoán nhu cầu và đưa ra các quyết định về tài chính liên quan tới mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp là tăng trưởng, phát triển, tối đa hoá lợi nhuận hay tối đa hoá giá trị doanh nghiệp. Đối với cho vay là đầu tư vào doanh nghiệp thì là các quyết định về tài chính đầu tư. Đối với các cơ quan quản lý cấp trên của doanh nghiệp thì đưa ra các quyết định tài chính liên quan đến mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp là phát triển, tăng trưởng, tối đa hoá lợi nhuận hay tối đa hoá giá trị doanh nghiệp. Đối với ngườ cho vay và đầu tư thì đưa ra các quyết định về tài trợ đầu tư. Đối với các cơ quan quản lý cấp trên của doanh nghiệp thì đưa ra các quyết định quản lý doanh nghiệp. 2.3. Các phương pháp phân tích tình hình tài chính Phương pháp phân tích hoạt động tài chính của doanh nghiệp là sự nghiên cứu một cách tổng hợp và toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình diễn biến và kết quả của chúng nhằm đánh giá đúng đắn và khách quan kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khái quát chung các hiện tượng và quá trình kinh tế không những cần thiết phải phân tích về mặt chất lượng mà còn phải phân tích chính xác về mặt số lượng, do đó phương pháp phân tích có thể chia làm hai loại: - Các phương pháp phân tích định tính ( phân tích về mặt chất lượng ) nhằm xác định mối quan hệ bản chất, tính quy luật, xu hướng phát triển của hiện tượng quá trình kinh tế - Các phương pháp phân tích định lượng ( phân tích về mặt lượng ) nhằm xác định liên hệ về mặt số lượng và ghi chép về mặt toán học các hiện tượng và quá trình kinh tế 2.3.1 Phương pháp so sánh Phương pháp so sánh là phương pháp được sử dụng phổ biến nhất trong các phân tích kinh tế để đánh giá kết quả, xác định vị trí và xu hướng biến động của các chỉ tiêu phân tích. - So sánh chỉ tiêu thực tế ( thực hiện ) với các chỉ tiêu kế hoạch, dự kiến hay định mức, đây là phương pháp quan trọng nhất để đánh giá mức độ thực hiện chỉ tiêu kế hoạch, định mức và kiểm tra tính có căn cứ của nhiệm vụ kế hoạch được đề ra. - So sánh chỉ tiêu thực tế của doanh nghiệp với các chỉ tiêu tương ứng của doanh nghiệp cùng loại hoặc doanh nghiệp cạnh tranh - So sánh chỉ tiêu thực hiện giữa các kỳ trong năm và giữa các năm, cho thấy xự biến động trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Để áp dụng phương pháp so sánh cần phải đảm bảo caca điều kiện có thể so sánh được của các chỉ tiêu nhưng thống nhất về nội dung, phương pháp thời gian và đơn vị tính toán của các chỉ tiêu so sánh. - Khi so sánh các chỉ tiêu số lượng phải thống nhất về mặt chất lượng - Khi so sánh các chỉ tiêu các chỉ tiêu tổng hợp, phức tạp phải thông nhất về nội dung và cơ cấu các chỉ tiêu. - Khi so sánh các chỉ tiêu hiện vật khác nhau phải tính các chỉ tiêu này băng đơn vị tính đổi nhất định. - Khi so sánh các chỉ tiêu tuyệt đối thì phải so sánh bằng chỉ tiêu tương đối 2.3.2Phương pháp chi tiết 2.3.2.1Chi tiết theo thời gian: Chỉ tiêu theo thời gian sẽ giúp cho việc đánh giá kết quả sản xuất kinh doanh được chính xác. Tìm được hiểu quả trong công việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuỳ theo đian diểm quá trình sản xuất kinh doanh, tuỳ theo từng nội dung kinh tế của các chỉ tiêu phân tích, tuỳ thuộc vào mục đích phân tích có thể kựa chọn khoảng thời gian cần chi tiết khác nhau và chỉ tiêu chi tiết khác nhau. 2.3.2.2 Chi tiết theo địa điểm: Khi phân tích kinh tế hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chỉ cần chi tiết theo các của phân xưởng, đội sản xuất, mục đích của việc chi tiết này là: - Đánh giá kết quả thực hiện hạch toán kinh doanh nội bộ - Phát hiện các đơn vị tiên tiến hoặc lạc hậu trong việc thực hiện các mục tiêu sản xuất kinh doanh Khai thác các khẳ năng tiềm tàng và sử dụng vật tư, lao động tiền vốn. 2.3.2.3. Phương pháp loại trừ: Phương pháp này được sử dụng rộng rãi để xác định xu hướng và mức độ ảnh hưởng đến từng nhân tố đối với chỉ tiêu phân tích, gọi là phương pháp loại trừ vì để nghiên cứu ảnh hưởng một nhân tố nào đó phải loại trừ ảnh hưởng của các nhân tố khác, phương pháp loại trừ gồm có hai phương pháp: thay thế liên hoàn và thay thế số chênh lệch trong đó phương pháp thay thế số chênh lệch được áp dụng nhiều hơn. Phương pháp thay thế chênh lệch được áp dụng trong trường hợp số lượng các nhân tố ảnh ít ( hai hoặc ba nhân tố ). Trình tự sắp xếp các nhân tố cũng tương tự như phương pháp thay thế liên hoàn đó là: Trong trường hợp có nhiều nhân tố số lượng cùng ảnh hưởng thì nhân tố chủ yếu xếp trước, nhân tố thứ yếu xếp sau và không được đảo lộn. a. Phương pháp thay thế liên hoàn Phương pháp thay thế liên hoàn cho phép xác định ảnh hưởng của từng nhân tố cá biệt đang nghiên cưú với điều kiện của nhân tố ảnh hưởng có mối quan hệ tích số với nhau đối với nhân tố mà ta đang nghiên cứu. Khi nghiên cứu các tích số phải để nhân tố số lượng số lượng đứng trước và nhân tố chất lượng đứng sau, các nhân tố có tính chất số lượng mạnh nhất thì đứng trước. Cách thực hiện: - Khi xem xét ảnh hưởng của nhân tố nào thì ta cố định các nhân tố khác tức là xem chúng không thay đổi Nội dung phương pháp được thể hiện như sau: Mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố là số chênh lệch giữa kết quả vừa thay thế với kết quả liền trước đó. Tổng các trị số ảnh hưởng của các nhân tố đúng bằng số chêng lệch giữa thực tế báo cáo với kế hoạch và kỳ gốc của chỉ tiêu cần phân tích + Phương trình kinh tế: L = a.b.c....n. Trong đó a0, b0, c0 .....n0 ký hiệu là các nhân tố tính theo giá trị của kỳ phân tích, thường là số thực tế của thời kỳ phân tích hoặc là số thực tế của kỳ năm trước. a1, b1, c0 .....n0 ký hiệu là các nhân tố tính theo giá trị của kỳ phân tích, thường là số thực tế của thời kỳ phân tích hoặc là số thực tế của kỳ năm sau. + Phương trình cơ sở: L0 = a0.b0.c0 ......n0 ( L1 = a1.b1.c1 ......n1 ) phương trình giá trị hiện thực. Xác định tích số trung gian L1 = a1.b1.c1 ......n1 tích số của lần thay thế thứ nhất L1 = a2.b2.c2 ......n2 tích số của lần thay thế thứ hai ......................................................................................... Ln = an.bn.cn ......nn tích số của lần thay thế cuối cùng Xác định mức ảnh hưởng của từng nhân tố - Mức ảnh hưởng của nhân tố thứ nhất. La = L1 - L0. - Mức ảnh hưởng của nhân tố thứ hai. Lb = L2 - L1. - Mức ảnh hưởng của nhân tố cuối cùng. Lb = Ln - Ln-1 Xác nhận tổng mức ảnh hưởng của các nhân tố L = La + Lb + Lc + .......... Ln = L1 - L0 Khi thay đổi trình tự sắp xếp các nhân tố tổng mức ảnh hưởng của các nhân tố không thay đổi nhưng mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố sẽ có sự thay đổi Ưu nhược điểm của phương pháp liên hoàn: Ưu điểm: Phương pháp thay thế liên hoàn đơn giản, dễ tính toán, dễ hiểu so với phương pháp xác định nhân tố ảnh hưởng khác Phương pháp này xác định nhân tố ảnh hưởng tới từng đối tượng phân tích, chúng có mối quan hệ với chỉ tiêu có thể bằng, tổng, hiệu, tích, thương có khi bằng cả % xác định được Nhược điểm: Các mối quan hệ giữa các nhân tố phải được có mối liên hệ theo mô hình tích số. Trong thực tế các nhân tố có thể có những mối liên hệ khác theo các mo hình khác. Khi giả định các nhân tố không biến đổi, nhưng trong thực tế các nhân tố luôn biến đổi b. Phương pháp thay thế số chênh lệch Phương páhp thay thế số chênh lệch là một trường hợp đặc biệy của phương pháp liên hoàn, điều kiện vận dụng của phương pháp này giống như phương pháp thay thế liên hoàn, chỉ khác ở chỗ chỉ xác địmh mức độ ảnh hưởng của nhân tố nào thì trực tiếp dùng số số chênh lệch về gia trị kỳ báo cáo so với kỳ gốc của nhân tố đó. Trình tự của phương pháp này là. Trường hợp có hai nhân tố ảnh hưởng Phương trình kinh tế : L = a.b - Xác định mức ảnh hưởng của nhân tố thứ nhất: Được xác định bằng số số chênh lệch của nhân tố thứ nhất nhân với số kế hoạch của nhân tố thứ hai La = ( a1 - a0 ). b0 - Xác định mức ảnh hưởng của nhân tố thứ hai: Mức ảnh hưởng của nhân tố thứ hai bằng số số chênh lệch của nhân tố thứ hai nhân với số thực hiện hoặc số của kỳ phân tích của nhân tố thứ nhất Lb = ( b1 - b0 ). a1 - Tổng mức độ ảnh hưởng của nhân tố bằng mức độ ảnh hưởng của nhân tố thứ nhất cộng với mức độ ảnh hưởng của nhân tố của nhân tố thứ hai L = La + Lb = L1 - L0 Trường hợp có ba nhân tố Phương trình kinh tế: L = a.b.c - Mức độ ảnh hưởng của nhân tố thứ nhất: La = ( a1 - a0 ).b0.c0 - Mức độ ảnh hưởng của nhân tố thứ hai: Lb = ( b1 - b0 ).a1.c0 - Mức độ ảnh hưởng của nhân tố thứ ba: Lc = ( c1 - c0 ).a1.b1 - Tổng mức độ mức độ ảnh hưởng của nhân tố : La = La + Lb + Lc 2.3.2.4. Phương pháp liên hệ: Mọi kết quả kinh doanh đều có mối liên hệ mật thiết với nhau, giữa các mặt, các bộ phận....Để lượng hoá các mối quan hệ đó, ngoài các phương pháp đã nêu trong phân tích kinh doanh còn phổ biến cách nghiên cứu liên hệ phổ biến như: Liên hệ cân đối, liên hệ thuận nghịch, liên hệ tương quan. a. Liên hệ cân đối: Phương pháp liên hệ cân đối thường thể hiện dưới hình thức phương trình kinh tế hoặc bảng cân đối kinh tế Nội dung chủ yếu của bảng cân đối kinh tế gồm hai hệ thống chỉ tiêu có quan hệ trực tiếp với nhau về mặt chỉ tiêu. Khi thay đổi một thành phần hệ thống chỉ tiêu đó sẽ dãn tới sự thay đổi của một hoặc một số thành phần khác nhưng sự thay đổi nhưng sự thay đổi đó vẫn đảm bảo sự cân bằng của bảng cân đôí kinh tế Khi phân tích thường dùng để kiểm tra việc ghi chép hoặc để tính toán các chỉ tiêu. Để tính mức độ ảnh hưởng của nhiều nhân tố một cách đồng thời đến một chỉ tiêu nào đó: Tổng = b. Liên hệ thuận nghịch Phương pháp này tính bằng số tương đối Ta có công thức c = Trong đó: C - Chỉ tiêu cá biệt mà ta đang nghiên cứu T - Chỉ tiêu trực tiếp hoặc chỉ tiêu thuận nghịch N - Chỉ tiêu ngược chiều Khi phân tích ta làm theo từng bước sau: -Mức độ ảnh hưởng của nhân tố trực tiếp (T) đến chỉ tiêu nghiên cứu (C ) CT = ( % ) -Mức độ ảnh hưởng của nhân tố trực tiếp (T) đến chỉ tiêu nghiên cứu (C ) CN = CT + CN = (%) Trong đó: N : Số số chênh lệch tương đối của chỉ tiêu T và N CT, CN, C : Mức độ ảnh hưởng của chỉ tiêu T, N và của 2 chỉ tiêu T, N đến chỉ tiêu cá biệt đang nghiên cứu c. Liên hệ tương quan Gồm các phần sau: * Phân tích tương quan nhằm xác định sự tồn tại và sử dụng của mối liên hệ giữa các đại lượng ngẫu nhiên cho phép đánh giá mức độ chặt chẽ giữa mối quan hệ đó. * Tài liệu sử dụng: Phân tích trên cơ sở quan sát một số lượng lớn các biểu hiện của các mối quan hệ giữa các đại lượng. Sau khi xác định dạng tương quan kiểm tra mức độ tương quan. * Trình tự tiến hành: Theo các bước sau: - Phân tích lý luận để giải thích sự tồn tại và bản chất của mối liên hệ - Thăm dò các mối quan hệ đó - Lập phương trình hồi quy: căn cứ vào số tiêu thức, số lần quan sát - Tính toán các tham số của phân tích 2.4. Nội dung phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp Tình hình tài chính doanh nghiệp là một trong những nội dung cơ bản của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhằm giải quyết mối quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình kinh doanh được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ. Để tiến hành sản xuất kinh doanh, đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng vốn nhất định, bao gồm vốn cố định, vốn lưu động và vốn chuyên dùng khác ( quỹ xí nghiệp, vốn xây dựng cơ bản....). Doanh nghiệp có nhiệm vụ tổ chức, huy động các loại vốn cần thiết cho nhu cầu kinh doanh đồng thời tiến hành phân phối, quản lý và sử dụng số vốn hiện có một cách hợp lý, có hiệu quả cao nhất trên cơ sở chấp hành các chế độ, chính sách quản lý kinh tế tài chính và kỷ luật thanh toán của nhà nước. Việc thường xuyên tiến hành phân tích hoạt động tài chính sẽ giúp cho người sử dụng thông tin nắm được thực trạng hoatj động tài chính xác định rõ nguyên nhân và mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến tình hình tài chính. Trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp hữu hiệu và các quyết định cần thiết để nâng cao chất lượng công tác quản lý kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Nội dung của phân tích tình hình tài chính bao gồm: - Đánh giá khái quát tình hình tài chính + Phân tích về quy mô vốn doanh nghiệp sử dụng trong kỳ và khẳ năng huy động vốn của doanh nghiệp + Phân tích mức độ tự chủ về mặt tài chính + Phân tích khẳ năng thanh toán tài chính + Phân tích hiệu quả sản xếp kinh doanh + Phân tích độ tăng trưởng Phân tích chi tiết hoạt động tài chính doanh nghiệp + Phân tích tình hình đảm bảo vốn cho sản xuất kinh doanh + Phân tích tình hình biến động và cơ cấu tài sản + Phân tích tình hình biến động và phân bổ nguồn vốn + Phân tích tình hình công nợ và khẳ năng thanh toán + Phân tích hiệu quả sử dụng vốn + Phân tích báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh + Phân tích tình hình sử dụng tài sản cố định, vốn cố định + Phân tích tình hình sử dụng tài sản lưu động, vốn lưu động Việc phân tích phải được tiến hành từ khái quát đến phân tích chi tiết, như vậy mới giúp được cho người sử dụng thông tin nắm được thực trạng tài chính của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp hữu hiệu và ra các quyết định cần thiết để năng cao chất lượng công tác quản lý và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp 2.5.Tài liệu để tiến hành phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp Để tiến hành phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp ta dùng các tài liệu và chủ yếu là các báo cáo tài chính của doanh nghiệp 2.5.1 Khái niệm báo cáo: Báo cáo tài chính là báo cáo được lập trên phương pháp kế toán tổng hợp từ các sổ sách kế toán theo các chỉ tiêu tài chính phát sinh tại những thời điểm hoặc những thời kỳ nhất định. Các báo cáo tài chính phản ánh một cách hệ thống tình hình tài sản của doanh nghiệp, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và tình hình sử dụng vốn trong những thời kỳ nhất định. Đồng thời được giải trình giúp cho các đối tượng sử dụng thông tin tài chính nhận xét được các thực trạng tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh của đơn vị đề ra các quyết định cho phù hợp. C._.y là tỷ lệ rất nhỏ. Hàng tồn kho của công ty tăng ở đầu năm 11,25% và cuối năm là 16,50% tương ứng với lượng tăng là 3.125.133.994 đồng, công ty vẫn cồn tồn đọng với một lượng hàng tồn kho lớn cho thấy trong năm tiến độ thi công còn chậm. do quá trình sản xuất kéo dài, khối lượng thi công công trình lớn nên còn tồn đọng một lượng lớn. Vậy công ty cần có biện pháp tốt nhất là mua đến đâu dùng ngay đến đó , điều này rất phù hợp với cơ chế thị trường ngày nay, để tránh lãng phí cũng như tồn đọng làm giảm đến tiến độ thi công và hiệu quả của quá trinh sản xuất kinh doanh, 4.5.2.3Phân tích biến động và cơ cấu nguồn vốn lưu động . Nguồn vốn lưu dộng mà doanh nghiệp dùng để dự trữ TSLĐ bao gồm: - Nguồn vốn do ngân sách nhà nước cấp: Đây là nguồn vốn ban đầu theo luật định ( Đối với doanh nghiệp nhà nước) hoặc do cổ đông góp vốn(đối với doanh nghiệp cổ phần) hay do một cá nhân bỏ vốn ra (doanh nghiệp tư nhân) - Nguồn vốn tự bổ sung : là nguồn vốn được lấy từ kết quả của quả trinh sản xuất kinh doanh, từ quỹ đầu tư phát triển của doanh nghiệp . Nguồn vốn tín dụng ngắn hạn : doanh nghiệp đi vay của các ngân hàng, các tổ chức cho vay tài chính . Trong quá trình sản xuất kinh doanh khi doanh nghiệp cần vốn mà hai nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp và nguồn vốn tự bổ sung không đáp ứng đủ thì doanh nghiệp phải huy động từ nguồn vốn vay ngắn hạn . Qua bảng cân đối tài sản và thuyết minh báo cáo tài chính năm 2001 ta có bảng sau: Bảng phân tích tình hình biến động và cơ cấu nguồn vốn lưu động. Chỉ tiêu Số đầu năm Số cuối năm Số chênh lệch Số tiền TT % Số tiền TT % Số tiền Tỉ lệ % N.vốn do NS cấp 1.011.000.341 5,92 1.473.968.070 7,16 462.967.729 45,8 N.vốn tự bổ sung 5.547.839.498 32,46 5.449.206.685 26,46 -98.632.813 -1,78 Vay ngắn hạn 10.530.815.820 61,62 13.668.662.747 66,38 3.137.846.927 29,8 Tổng cộng 17.089.655.659 100 20.591.837.502 100 3.502.181.843 20,5 Qua số liệu phân tích ở bảng trên ta thấy: Nguồn vốn do ngân sách nhà nước cấp trong năm đã tăng thêm 462.967.729 đồng tăng 45,8% đây là một điều thuận lợi cho công ty được nhà nước cấp thêm vốn và không phải đi vay. Đầu năm chiếm tỷ trọng 5,92%, cuối năm tăng lên chiếm tỷ trong 7,16% đây là một điều đáng mừng nhưng chưa cao. Nguồn vốn tự bổ sung của công ty cuối năm chiếm tỷ trọng 26,46% tương ứng với 5.449.206.685 đồng, giảm đi so với đầu năm cả về quy mô lẫn tỷ trọng , đầu năm là 32,46% tương ứng với 5.547.839.498 đồng đây là nguồn vốn công ty trích lập từ các quỹ. Vay ngắn hạn đầu năm chiếm tỷ trọng 61,62% tương ứng với 10.530.815.820 đồng, đến cuối năm tăng lên 66,38% tương ứng với 13.668.662.747 đồng vậy trong năm đã tăng 3.137.846.927 đồng , cho thấy thiếu nguồn vốn do ngân sách nhà nước cấp và nguồn vốn tự bổ sung không đủ để cho hoạt đông sản xuất kinh doanh , vì vậy công ty phải đi vay thêm để đáp ứng cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp một cách liên tục và có hiệu quả . Tuy nhiên công ty cần phải sử dụng khoản tiền vay cho hợp lý. 5.2.4 Phân tích tình hình dự trữ Tài sản lưu động của Doanh nghiệp Dự trữ Tài sản lưu động của doanh nghiệp phải thực hiện điều hoà theo yêu cầu vừa đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành bình thường vừa đẩm bảo tiết kiệm vốn, nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Phân tích tình hình dự trữ TSLĐ của doanh nghiệp ta cần tiến hành phân ích trên các mặt sau: + Phân tích sự thay đổi về kết cấu các loại TSLĐ dự trữ thông qua việc xác định tỷ trọng của từng loại trong phân tích cần chú ý đến quy mô sản xuất kinh doanh và chủng loại sản phẩm hàng hoá. +Phân tích sự biến động của từng loại TSLĐ dự trữ. Dựa vào bảng cân đối kế toán năm 2001 ta có bảng phân tích sau: Chỉ tiêu Số đầu năm Số cuối năm Số chênh lệch Số tiền TT% Số tiền TT % Số tiền Tỷ lệ % NL,VL tồn kho 711.641.621 21,65 599.509.218 9,5 -112.132.403 -17.8 CCDC trong kho 10.146.510 0,30 13.339.010 0,2 3.192.500 31,5 Chi phí SXKD dở 2.416.855.316 73,52 5.650.926.213 89,4 3.234.070.897 133,8 Tổng cộng 3.138.643.447 100 6.236.774.441 100 3.125.130.994 98,8 Theo kết quả của bảng phân tích trên ta thấy tổng số TSLĐ dự trữ thực tê của doanh nghiệp cuối năm so với đầu năm tăng 92,4% tương ứng với 3.035.902.523 đồng, cho thấy trong năm chưa giả quyết được hàng tồn kho. Vậy ta phân tích chi tiết từng chỉ tiêu vì lượng hàng tồn kho tương đối lớn làm ảnh hưởng tới quá trình sản xuất kinh doanh của công ty , Về nguyên vật liệu tồn kho ở đầu năm là 711.641.621 đòng chiếm tỷ trọng 21,65% đến cuối năm giảm xuống còn 599.509.218 đồng chiếm tỷ trọng 9,5%. Như vậy trong năm lượng hàng tồn kho này được sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh, đây là một điều đáng mừng cho công ty. Về khoản công cụ dụng cụ trong kho cho ta thấy trong năm qua đã tăng nên đầu năm là 10.146.510 đồng chiếm tỉ trọng 0,3% đến cuối năm là 13.339.010 đồng và chiếm tỉ trọng 0,2%, tỉ trọng đầu năm giảm xuống so với đầu năm là 0,1% , tỉ trọng này chiếm trong tổng số không lớn qua đây cho thấy trong năm công ty chưa sử dụng hết còn tồn đọng. Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang tăng mạnh đầu năm chiếm tỉ trọng 73,52% tương ứng với 2.416.855.316 đồng, đến cuối năm là 89,4% tương ứng với 5.650.926.213 đồng. Vậy trong năm đã tăng nên 133,8% tương ứng với 3.234.070.897 đồng. Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang tăng cho thấy trong năm công ty đang xây dựng dở một số công trình. Đây là một điều không lấy gì làm khả quan do lượng vốn lưu động tập trung nhiều trong khâu dự trũ gây ảnh hưởng đến mức độ tự chủ trong kinh doanh của công ty. 4.5.2.5 Phân tích mức độ đảm bảo nguồn vốn lưu động của công ty. Giữa nguồn vốn lưu động và tình hình dự trữ tài sản lưu động có mối quan hệ mật thiết với nhau, vì vậy ta tiến hành phân tích mức độ đảm bảo cả nguồn vốn lưu động đối với các loại tài sản lưu động dự trữ thực tế. Để phân tích mức độ đảm bảo ta lập bảng sau: Bảng phân tích mức độ đảm bảo nguồn vốn lưu động - tài sản lưu động dự trữ Chỉ tiêu Số đầu năm Số cuối năm Nguồn vốn LĐ thực tế 17.089.655.659 20.591.837.502 TSLĐ dự trữ thực tế 3.287.228.918 6.323.131.441 Mức độ đảm bảo 13.802.426.741 14.268.706.061 Theo kết quả trên bảng ta thấy tại thời điểm đầu năm công ty thừa 13.802.426.741 đồng đến cuối năm công ty thừa cao hơn 14.268.706.061 đồng. Như vậy vốn lưu động của công ty luân đảm bảo cho tài sản lưu động dự trữ của công ty và trong năm của công ty. 4.5.3 Phân tích hiệu quả sử dụng vốn. Mục đích cuối cùng của việc sản xuất kinh doanh là lợi nhuận tức là khi thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp phải đầu tư một lượng vốn nào đó, nhằm thu hút một số tiền lớn hơn. Như vậy ngoài việc xem xét hiệu quả sản xuất kinh doanh dưới góc độ sử dụng TSLĐ và TSCĐ, khi phân tích ta cần xem xét có hiệu quả sử dụng vốn dưới góc độ lợi nhuận. Đây là một trong những nội dung phân tích mà được các nhà đầu tư, các nhà tín dụng quan tâm đặc biệt vì nó gắn liền với lợi ích của họ về hiện tại và tương lai. Lợi nhuận giữ một vị trí quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp trong điều kiện hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường, doanh nghiệp có phát triển hay không thì đều quyết định là doanh nghiệp có tạo ra lợi nhuận hay không vì thế lợi nhuận được coi là một trong những đòn bẩy kinh tế quan trọng đồng thời là một chỉ tiêu cơ bản quan trọng để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh . Vì thế cần phải phân tích các chỉ số về doanh lợi để đánh giá được đúng đắn và chính xác thực trang hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cung cấp cho nhà phân tích những thông tin cần thiết. Ta có chỉ tiêu sau: Lợi nhuận trước thuế Hệ số doanh lợi doanh thu thuần = . Doanh thu thuần Chỉ tiêu này phản ánh một đồng doanh thu thuần thì đem lại mấy đồng lợi nhuận. * Năm 2001: 230.644.283 Hệ số doanh lợi doanh thu thuần = = 0.004 . 53.805.752.151 * Năm 2000: 1.005.305.907 Hệ số doanh lợi doanh thu thuần = = 0.022 . 45.481003.832 Như vậy ta thấy năm 2001 là 0.004 thấp hơn năm 2000. năm 2000 cứ một đồng doanh thu thì thu được 0,022 đồng lợi nhuân còn năm 2001 cứ một đồng doanh thu chỉ thu đươc 0,004 đồng lợi nhuận . - Doanh lợi tổng vốn là chủ tiêu được xác định bằng mối quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận trước thuế với tổng số vốn kinh doanh, làm nhiệm vụ thước đo mức sinh lời của tổng số vốn được chủ sở hữu đầu tư không phân biệt nguồn hình thành . Lợi nhuận trước thuế Doanh lợi tổng vốn = Tổng số vốn Nếu doanh nghiệp có tỷ suất này lớn hơn lãi suất tiền vay thể hiện trong năm doanh nghiệp làm ăn có lãi và có khả năng hoàn trả tiền vay cả vố lẫn lãi và có tích luỹ . Nếu doanh nghiệp có tỷ suất này nhỏ hơn lãi suất tiền vay chứng tỏ doanh nghiệp có nhiều khả năng không hoàn trả được nợ vay, bởi vì tất cả lợi nhuận tạo ra trong kỳ cũng không đủ để trả lãi suất tiền vay, hoạt động của doanh nghiệp là kém hiệu quả. Ta có: Doanh lợi tổng vốn. *Năm2000: 1.005.305.907 Doanh lợi tổng vốn = = 0.07 13.717.703.509 *Năm2001 230.664.283 Doanh lợi tổng vốn = = 0.01 18.264.835.582 Trong chỉ tiêu này ta có thể phân tích sâu hơn thông qua chỉ tiêu: Lợi nhuận trước thuế Doanh lợi Vốn Chủ sở hữu (HCSH ) = Vốn Chủ sở hữu *Năm 2000: 1.005.305.907 Doanh lợi Vốn Chủ sở hữu (HCSH ) = = 0.064 15.512.238.621 *Năm 2001 230.664.238 Doanh lợi Vốn Chủ sở hữu (HCSH ) = = 0.014 16.373.921.895 Như vậy Hệ số doanh lợi của Vốn chủ sở hữu trong năm 2001 thấp hơn năm2000 Năm 2000 mỗi đòng vốn chủ sở hữu đem lại 0,064 đồng lợi nhuận trước thuế, năm 2001 chỉ đem lại 0,014 đồng lợi nhuận trước thuế, kém hơn năm 2001 là 0,05 đồng. Từ công thức tính hệ số doanh lợi của vốn chủ sở hữu và mối quan hệ giữa các nhân tố ảnh hưởng ta có: Lãi trước thuế Lãi trước thuế Doanh thu thuần HCSH = = x Vốn CHS bìnhquân Doanh thu thuần Vốn CSH bình quân = Hệ số doanh lợi doanh thu thuần x Hệ số doanh lợi vốn chủ sở hữu Dựa vào công thức trên ta thấy hệ số doanh lợi của vốn chủ sở hữu chịu ảnh hưởng hai yếu tố là “ hiệu suắt sử dụng của vốn chủ sở hữu” và “ Hệ số doanh lợi của doanh thu”. Bằng phương pháp loại trừ ta tiến hành xem xét mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến “ Hệ số doanh lợi của vốn chủ sở hữu “. Nếu ta gọi : - ao , a1 lần lượt là hiệu suất sử dụng của vốn chủ sở hữu kỳ gốc và kỳ phân tích. - b0 , b1 lần lượt là hệ số doanh lợi của doanh thu kỳ gốc và kỳ phân tích . thì ta có: H1 - H0 = Ha + Hb trong đó: Ha = (a1 - ao ). bo Hb = (b1 -bo ). a1 Tức là:- Mức độ ảnh hưởng của nhân tố “ Hệ số quay vòng của vốn chủ sở hữu” bằng chênh lệch của nhân tố đó giữa kỳ phân tích và kỳ gốc so với thực hiên ở kỳ gốc của nhân tố “ Hẹ số doanh lợi của doanh thu “ . - Mức độ ảnh hưởng của nhân tố “ Hệ số doanh lợi của doanh thu “ bằng chênh lệch của nhân tố đó nhân với số thực hiện ở kỳ phân tích của “ Hệ số quay vòng của vốn chủ sở hữu”. Cụ thể ta có: Doanh thu thuần (2000) 45.481.003.832 ao = = = 2,93 Vốn CSH (2000) 15.512.238.621 Doanh thu thuần (20001) 53.805.752.151 a1 = = = 3,29 Vốn CSH (200011) 16.373.921.895 Lợi nhuận trước thuế(2000) 1.005.305.907 b0 = = = 0.022 Doanh thu thuần (2000) 45.481.003.832 Lợi nhuận trước thuế(2001) 230.664.283 b0 = = = 0.004 Doanh thu thuần (2001) 54.805.752.151 Vậy: Ha = (a1 - a0). b0 = ( 3,29 - 2,93 )x 0,022 =0,0079 Hb = (b1 - b0). a1 = (0,004 - 0,022 )x 3,29 = - 0,0592 Như vậy so với năm 2000, Hệ số sinh lợi của vốn Chủ sở hữu năm 2001 giảm 0,0592 đồng là do: + Hiệu xuất sử dụng của vốn chủ sở hữu làm tăng hệ số sinh lời của vốn chủ sở hữu tăng lên 0,0079 đồng. + Hệ số doanh lời của doanh thu giảm làm hệ số sinh lời của vốn chủ sở hữu giảm đi 0,0592 đồng. 4.5.3.1 Phân tích tình hình hiệu quả sử dụng Vốn lưu động - Tài sản lưu động. *. Phân tích tình hình hiệu quả sử dụng Vốn lưu động. Hiệu quả chung về sử dụng TSLĐ được phản ánh qua các chỉ tiêu như, Hiệu suất sử dụng, Hiệu quả sử dụngvốn lưu động, khi phân tích ta tính chỉ tiêu này mà tăng lên thì chứng tỏ hiệu quả sử dụng tăng lên vá ngược lại. Cụ thể ta tính và so sánh các chỉ tiêu vừa nêu cho công ty cầu 3 TL (ở đây ta lấy năm 2000 làm gốc). - Chỉ tiêu Hiệu suất sử dụng vốn lưu động. Doanh thu Hiệu suất sử dụng VLĐ( HTSLĐ ) = Vốn lưu động bình quân Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động trong năm đem lại mấy đồng doanh thu thuần. Vốn lưu động bình quân được tính như sau: 1/2 V1 + V1 + ...... + 1/2 Vn VLĐ = n - 1 V1 , V1 ,...... VN là số vốn lưu động đầu các tháng. n : Số tháng Trong trường hợp không có số liệu về vốn lưu động ở các tháng ta có thể tính số vốn lưu độnh bình quân trong kỳ bằng cách lấy số vốn lưu động đầu năm cộng với số vốn lưu động cuôi năm và chia cho 2. VLĐ đầu năm + VLĐ cuối năm VLĐ = 2 * Năm 2000: 26.456.253.293 + 27.883.993.968 VLĐ = = 27.170.123.630,5 đồng 2 - Doanh thu : 45.481.003.832 đồng 45.481.003.832 Hiệu suất sử dụng VLĐ( HTSLĐ ) = = 1,67 27.170.123.630,5 * Năm 2001: 27.883.993.968 + 37.988.480.453 VLĐ = = 32.936.237.210,5 đồng 2 -Doanh thu : 53.805.752.151 đồng 53.805.752.151 Hiệu suất sử dụng VLĐ( HTSLĐ ) = = 1,64 32.936.237.210,5 Kết quả cho thấy : Hiệu suất sử dụng VLĐ trong năm 2001 thấp hơn hiệu suất sử dụng VLĐ năm 2000. Năm 2000mỗi đồng VLĐbình quân đem lại 1,67 đồng doanh thu , năm 2001 mỗi đồng VLĐbình quân đem lại 1,64 đồng doanh thu giảm đi 0,03 đồng so với năm 2000. - Chỉ tiêu Hiệu quả sử dụng Vốn lưu động Lợi nhuận trước thuế Hiệu quả sử dụng VLĐ( PVLĐ ) = Vốn lưu động bình quân Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động bình quân đem lại mấy đồng lợi nhuận trước thuế. * Năm 2000: - Lợi nhuận trước thuế là:1.005.305.907 đồng. - Vốn lưu động bình quân là: 27.170.123.630,5 đồng 1.005.305.907 PVLĐ = = 0,038 27.170.123.630,5 * Năm 2001: - Lợi nhuận trước thuế là:230.664.283 đồng. - Vốn lưu động bình quân là: 32.936.237.210,5 đồng 230.664.283 PVLĐ = = 0,007 32.936.237.210,5 Kết quả cho thấy , Hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong năm 2001 thấp hơn nhiều so với hiệu quả sử dụng vốn lưu động năm 2000. Năm 2000 cứ một đồng vốn lưu động bình quân đem lại 0,038 đồng lợi nhuận trước thuế . năm 2001 cứ một đồng vốn lưu động bình quân chỉ đem lại 0,007 đồng lợi nhuận trước thuế ( giảm đi 0,031 đồng) mức này giảm tương đối. * Phân tích tốc độ luân chuyển của vốn lưu động Trong quá trình sản xuất kinh doanh vốn lưu động vận động không ngừng thường xuyên qua các giai đoạn của quá trình tai sản xuất ( dự trữ, sản xuất ,tiêu thụ ). Đẩy nhanh tốc độ luân chuyển của vốn lưu động sẽ góp phần giải quyết nhu cầu về vốn của công ty góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Để phân tích tốc độ luân chuyển của vốn lưu động ta tiến hành các bước phân tích sau : + Đánh giá chung tốc độ luân chuyển . + Xác định các nhân tố ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố. + Tính số vốn lưu động tiết kiệm được hay lãng phí do tốc độ luân chuyển của vốn lưu động thay đổi - Đánh giá chung tốc độ luân chuyển: Ta tính và so sánh các chỉ tiêu phân tích phản ánh tốc độ luân chuyển VLĐ giữa kỳ phân tích và kỳ gốc so sánh là năm 2000. Các chỉ tiêu phản ánh tốc độ luân chuyển của VLĐ bao gồm: Chỉ tiêu hệ số về số vòng luân chuyển VLĐ, Chỉ tiêu thời gian của vòng luân chuyển. + Số vòng luân chuyển vốn lưu động ( Hệ số luân chuyển) (N). Doanh thu thuần Số vòng luân chuyển VLĐ (N) = Vốn lưu đông bình quân Chỉ tiêu này cho biết trong năm vốn lưu động quay được mấy vòng trong kỳ. Nếu số vòng luân chuyển tăng thì chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động tăng và ngược lai. * Năm 2000: - Doanh thu thuần là : 45.481.003.832 đồng - Vốn lưu động bình quân là: 27.170.123.630,5 đồng 45.481.003.832 N = = 1,67 27.170.123.630,5 * Năm 2001: - Doanh thu thuần là : 53.805.752.151 đồng - Vốn lưu động bình quân là: 32.936.237.210,5 đồng 53.805.752.151 N = = 1,64 32.936.237.210,5 Như vậy số vòng luân chuyển của vốn lưu động trong năm 2001 thấp hơn năm 2000 là 0,03 - Chỉ tiêu thời gian của một vòng luân chuyển (T) Thời gian của kỳ phân tích T = Số vòng quay của vốn lưu động Chỉ tiêu này thể hiện số ngày cần thiết để cho VLĐ luân chuyển được một vòng. Thời gian của một vòng luân chuyển càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển càng lớn và ngược lại . Thời gian của kỳ phân tích theo quy ước, để đơn giản trong phân tích thì thời gian một tháng là 30 ngày, thời gian một năm là 360 ngày . Ta tính chỉ tiêu này như sau : * Năm 2000: T = 360 / 1,67 = 216 ngày * Năm 2001 T = 360 / 1,64 = 220 ngày. Kết quả cho thấy thời gian một vòng luân chuyển VLĐ năm 2001 cao hơn năm 2000 là 4 ngày. - Chỉ tiêu hệ số đẩm nhiệm của vốn lưu động : ( H ) Chỉ tiêu này cho biết để có được một đồng doanh thu thì cần mấy đồng VLĐ. Chỉ tiêu này càng nhỏ thì chứng tỏ hiệu quả sử dụng VLĐ càng cao, số vốn tiết kiệm được càng nhiều và ngược lại. Vốn lưu động bình quân Hệ số đẩm nhiệm Vốn lưu động (H) = Doanh thu thuần * Năm 2000 27.170.123.630,5 H = = 0,59 45.481.003.832 * Năm 2001: 32.936.237.210,5 H = = 0,61 53.805.752.151 Kết quả tính cho thấy: Hệ số đảm nhiệm VLĐ năm 2001 cao hơn năm 2000, điều đó có nghĩa là hiệu quả sử dụng VLĐ năm 2001 kém hơn năm 2000 Để tiện cho việc so sánh ta tập hợp các số liệu và kết quả tính của các chỉ tiêu vào bảng sau: Bảng phân tích tình hình luân chuyển vốn lưu động . Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Chênh lệch Đ.vị Doanh thu 45.481.003.832 53.805.752.151 8.324.748.319 đồng VLB bình quân 27.170.123.630,5 32.936.237.210,5 5.766.113.580 đồng Số vòng luân chuyển 1.76 1.64 -0.03 vòng T.gian vòng luân chuyển 216 220 4 ngày Hệ số đảm bảo VLĐ 0.59 0.61 0.02 đồng - Xác định các nhân tố ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố. Để biết được các nhân tố ảnh hưởng đến tốc độ luân chuyển VLĐ cần đi sâu xem xét các quá trình thu mua, sản xuất ,tiêu thụ sản phẩm, tình hình thanh toán công nợ ...bởi vì muốn đẩy nhanh tốc độ luân chuyển của VLĐ, cần áp dụng đồng bộ các biện pháp nhằm rút bớt số vốn và thời gian lưu lại của vốn ở từng khâu, từng giai đoạn trong quá trình kinh doanh. Đẩy nhanh được tốc độ luân chuyển của VLĐ tăng nếu số vốn lưu động tham gia luân chuyển không đôỉ xễ làm ra được lượng doanh thu nhiều hơn và ngược lại, nếu doanh thu không đổi, tốc độ luân chuyển của vốn lưu động được nâng nên thì doanh nghiệp chỉ cần lượng vốn tham gia luân chuyển ít hơn. Điều này được chứng minh như sau: Căn cứ vào công thức xác định số vòng quay của vốn lưu động nếu ta kí hiệu: - N0, N1 lần lượt là số vòng quay của VLĐ nếu ta ký hiệu - D0, D1 lần lượt là doanh thu kỳ gốc và kỳ phân tích - V0, V1 lần lượt là số vốn lưu động bình quân tham gia luân chuyển ở kỳ gốc và kỳ báo cáo Ta có: D0 N0 = hay D0 = V0xN0 V0 và : D1 N1 = hay D1 = V1xN1 V1 áp dụng phương pháp loại trừ, ta tính ra ảnh hưởng của các nhân tố đến doanh thu của công ty D1 - D0 = V + N = ( V1 - V0 )N0 + ( N1 - N0 )V1 V: Là ảnh hưởng của mức VLĐ luân chuyển bình quân đến doanh thu N: Là ảnh hưởng của nhân tố số vòng quay của VLĐ đến doanh thu ảnh hưởng của nhân tố VLĐ bình quân tham gia luân chuyển V = ( V1 - V0 )N1 Điều này cho, thấy trong điều kiện tốc độ luân chuyển ở kỳ phân tích của VLĐ không thay đổi so với kỳ gốc. Sự thay đổi của vốn lưu động bình quân tham gia luôn chuyển sẽ ảnh hưởng rẹc tiếp đến doanh thu. Lượng VLĐ tăng sẽ làm tăng doanh thu và ngược lại Cụ thể với những đã tính ở những phần trên, số VLĐ thực tế tham gia luôn chuyển thực tế năm 2001 là 32.936.237.210,6 đồng số vốn lưu động bình quân tham gia luân chuyển thực tế 2000 là: 26.670.123.630,5 đồng. Tốc độ luân chuyển VLĐ năm 2000 là:1.75 vòng. Nếu công ty giữ nguyên được tốc độ luân chuyển của VLĐ như năm 2000 là 1.75 vòng /năm thì tổng doanh thu sẽ đạt thêm được là (32.936.237.210,6 - 26.670.123.630,5 )x1.75 = 10.965.698.765,1 đồng. Như vậy tốc độ luân chuyển về tín dụng lưu động giảm mà doanh thu giảm đi 10.965.698.765,1 đồng ảnh hưởng của nhân tố vòng quay VLĐ N = ( N1 - N0 )V1 Số vòng quay của VLĐ thể hiện tốc độ luân chuyển của VLĐ. Lượng doanh thu thuần làm gia nhiều hay ít cũng chịu ảnh hưởng của nhân tố này. Giả sử VLĐ bình quân tham gia luân chuyển không đổi so với kỳ gốc thì nếu như N1 > N0 cũng sẽ làm cho doanh thu tăng lên. Ngược lại trong trường hợp giả định tổng doanh thu không đổi, nếu N1 > N0 thì lượng vốn luân chuyển thực tế sẽ ít hơn so với kỳ gốc, tức là V1 < V0 Một cách tổng quát, ta có xác định số vốn lưu động tiết kiệm được (-) hay tăng (+) trong kỳ phân tích so với kỳ gốc như sau Từ công thức D Tk N = và T = V V Ta có D V = x T Tk Với Tk là thời gian của kỳ phân tích ( 360 ngày ) Từ phương trình kinh tế trên ta thấy: Số vốn tham gia luân chuyển chịu ảnh hưởng của hai nhân tố, đó là: Tổng doanh thu ( phản ánh quy mô luân chuyển) và thời gian luân chuyển ( phản ánh tốc độ luân chuyển ). Trong đó số vốn tiết kiệm hay lãng phí do đẩy nhanh tốc độ luân chuyển là: Tổng doanh thu Thời gian Thời gian Số vốn tiết kiệm kỳ phân tích một vòng luân chuyển hay lãng phí do tốc độ = x luân chuyển - một vòng luân chuyển thay đổi Thời gian của VLĐ ở kỳ VLĐ ở kỳ phân tích phân tích kỳ gốc D = x ( T1 - T0 Tk Với kỳ gốc là năm 2000 ta có: D 55.336.254.787 x ( T1 - T0 ) = x ( 215 - 206 ) = 1.383.406.369,7 đồng Tk 360 Như vậy, so với năm 2000 công ty để lãng phí một số vốn là 1.383.406.369,7 đồng Qua việc phân tích trên ta thấy hiệu quả sử dụng vốn lưu động công ty cầu 3 Thăng Long không tốt bằng năm 2000. kết luận và kiến nghị Qua việc phân tích hoạt động tài chính của công ty xây dựng công trình giao thông 873 ta có thể rút ra một số kết luận sau: Về tình hình phân bổ vốn và nguồn vốn đã có phần hợp lý và số vốn , nguồn vốn đã tăng lên so với đầu năm. Chứng tỏ công ty đã cố gắng tận dụng một cách tối đa nguồn vốn để có thể tăng vốn lên nguồn vốn đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh được liên tục. Tuy nhiên trong số nguồn vốn mà công ty sử dụng có nguồn vốn vay tương đối lớn , còn nguồn vốn Chủ sở hữu thì nhỏ. Khi sử dụng nguồn vốn Chủ sở hữu để trang trải cho hoạt động sản xuất kinh doanh nên không đủ thì công ty phải đi vay ( đi chiếm dụng). Mặc dù phải đi vay vốn nhưng công ty sử dụng không hết mà để doanh nghiệp khác chiếm dụng lãng phí. Việc chiếm dụng vốn và bị chiếm dụng vốn là điều không thể tránh khỏi đối với các doanh nghiệp, nhưng với quy mô chiếm dụng và quy mô bị chiếm dụng lớn rõ ràng là điều không tốt, nó làm quy mô sản xuất không tănglên hoặc tăng lên không nhiều mặc dù về quy mô vốn tăng. Công ty cần có biện pháp tích cực hơn trong việc thu hồi các khoản phải thu để bổ sung vốn cho sản xuất kinh doanh . Khả năng thanh toán ngắn hạn của công ty đảm bảo tốt, các nhà cho vay đều yên tâm, nhưng khả năng thanh toán thường của công ty chưa tốt vì công ty đi chiếm dụng vốn quá nhiều . Tình hình thanh toán với ngân sách nhà nước công ty vẫn còn để tồn đọng , tuy nhiên việc nợ nần này chỉ mang tính chất gối đầu và mức độ không nghiêm trọng . Nhưng công ty cần phải quan tâm hơn nữa trong các khoản thanh toán này để thực hiện nghĩa vụ với nhà nước tốt hơn. Nhìn chung tình hình tài chính của công ty cầu 3 Thăng Long có nhiều tiến bộ được thể hiện rõ trong chỉ tiêu doanh thu so với năm trước tăng nhiều. Dù thế các công trình do công ty thi công đã hoàn thành nhưng chậm được thanh toán nên công ty gặp nhiều khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh . Do chậm thanh toán nên vốn nằm trong các công trình đó bị ứ đọng không quay vòng được mà chỉ xếp vào chi phí xây dựng cơ bản dở dang. Nếu chỉ sử dụng vốn lưu động do ngân sách nhà nước cấp thì thiếu vốn rất nhiều nên công ty phải đi vay ngắn hạn của các tổ chức tín dụng với số vốn vay lớn dẫn đến chi phí lãi vay trong giá thành cao hơn làm giảm kết quả kinh doanh của công ty. Biện pháp để đảm bảo tình hình tài chính cho hoạt động sản xuất kinh doanh không bị gián đoạn , công trình đã hoàn thành và lấy vốn vòng quay tiếp, cố gắng bổ sung vốn vào nguồn vốn tự bổ sung và đi chiếm dụng hợp pháp để tránh đi vay phải trả lãi vay. Nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho cán bộ công nhân viên. Công ty cần thường xuyên làm tốt công tác này, biện pháp tốt là đi sâu, đi sát thực tế người lao động cùng nhau xây dựng công ty vững mạnh . Ưu tiên việc trả lương khen thưởng cho anh em công nhân, để công nhân yên tâm tham gia sản xuất và thường xuyên mở các lớp huấn luyện chuyên môn cho anh em nhằm nâng cao tau nghề, đảm bảo chất lượng công trình. Mục lục Trang Lời nói đầu Chương I: Những vấn đề cơ bản về tài chính. 1.1. Sự ra đời của tài chính. 1.2. Khái niệm, bản chất, chức năng của tài chính trong doanh nghiệp 1.2.1. Khái niệm về doanh nghiệp. 1.2.2. Khái niệm tài chính doanh nghiệp. 1.2.3. Bản chất của tài chính. 1.2.4. Chức năng của tài chính doanh nghiệp. 1.3. Vai trò và vị trí của tài chính doanh nghiệp. 1.3.1. Vài trò của tài chính doanh nghiệp. 1.3.2 Vị trí của tài chính doanh nghiệp. 1.4. Nội dung tổ chức tài chính doanh nghiệp. 1.4.1. Tham gia thẩm định dưới góc độ phân tích kinh tế và tài chính những dự án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 1.4.2. Xây dựng những luận cứ đề giám đốc hoặc hội đồng quản trị xem xét và ra quyết định về tài chính. 1.4.3. Xây dựng hệ thống , thống kê, hoặc tài chính và tổ chức các biện pháp thực hiện kế hoạch. 1.4.4 Phân tích, kiểm tra và đánh giá kết quả tài chính. 1.5. Những nguyên tắc tổ chức hoạt động tài chính doanh nghiệp. Chương II: Những vấn đề chung về phân tích tình hình tài chính trong doanh nghiệp xây dựng giao thông. 2.1. ý nghĩa mục đích của phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp. 2.1.1. ý nghĩa của phân tích hoạt động tài chính. 2.1.2. Mục đích của việc phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp. 2.2. Các bước tiến hành phân tích tình hình tài chính. 2.2.1. Thu thập thông tin. 2.3. Các phương pháp phân tích tài chính. 2.4. Nội dung phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp. 2.5. Tài liệu để tiến hành phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp. Chương III: Phân tích chung tình hình tài chính của Công ty cầu 3 Thăng Long. 3.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty. 3.2. Phân tích khái quát tình hình tài chính Công ty cầu 3 Thăng Long. Chương IV: Phân tích chi tiết tình hình tài chính của Công ty cầu 3 Thăng Long. 4.1. Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. 4.2. Phân tích cơ cấu tài sản và nguồn hình thành tài sản. 4.3. Phân tích báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh. 4.4. Phân tích tình hình công nợ và khả năng thanh toán. 4.5. Phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh. 2 4 4 5 8 11 14 14 16 16 17 17 17 18 18 23 23 23 24 26 26 28 36 37 47 54 71 76 88 91 117 Bảng phân tích tình hình bién độngvà cơ cấu tài sản Chỉ tiêu Số đầu năm Số cuối năm Chênh lệch Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ lệ (%) A-TSLĐ và ĐTNH 27.883.993.968 47,6 37.988.480.453 61,41 10.104.486.485 36,23 -78- I, Tiền 506.364.586 1,03 355.933.546 0,57 -150.431.040 -29,71 II, Đầu tư TC ngắn hạn III, các khoản phải thu 24.072.340.871 49,24 31.303.366.399 50,60 7.231.025.528 30,03 IV, Hàng tồn kho 3.138.643.447 6,42 6.263.774.441 10,12 3.125.130.994 99,56 V, TSLĐ khác 166.645.064 0,34 65.406.067 0,10 -101.238.997 -60,67 B- TSCĐ và ĐTDH 21.002.052.155 42,96 23.870.024.090 38,59 2.867.971.935 13,26 I, TSCĐ 20.752.104.155 42,44 17.729.209.578 28,66 -3.022.894.577 -14,57 II, Đầu tư TC dài hạn 249.948.000 0,51 6.140.814.512 9,92 5.890.866.512 24,56 Tổng cộng 18.886.046.123 100 61.858.504.543 100 12.972.458.420 26,53 Bảng phân tích tình hình biến động và phân bổ nguồn vốn Chỉ tiêu Đầu năm Cuối năm Số chênh lệch Số tiền Tỷ trọng(%) Số tiền Tỷ trọng(%) Số tiền Tỷ lệ (%) A, Nợ phải trả 33.373.807.502 68,26 45.484.582.648 75,54 12.110.775.146 36,28 -84- I, Nợ ngắn hạn 24.946.511.026 51,02 35.842.861.428 59,94 10.896.350,402 43,67 II, Nợ dài hạn 7.718.955.578 15,78 8.641.721.220 13,97 922.765.642 11,95 III, Nợ khác 708.340.890 1,44 -708.340.890 B, nguồn vốn chủ sở hữu 15.512.238.621 31,74 16.373.921.895 26,46 861.683.274 5,55 I, Nguồn vốn quỹ 15.512.238.621 31,74 16.373.921.895 26,46 861.683.274 5,55 II, Nguồn kinh phí Tổng cộng = A+B 48.886.046.123 100 61.858.504.543 100 12.972.458.420 26,54 stt Chỉ tiêu Mã số Năm 2000 Năm 2001 Mức độ biến động năm 20001 so với năm 2000 Tỷ lệ so DT thuần Số tiền Tỷ lệ 00(%) 01(%) 1 Tổng doanh thu 01 46.689.446.112 55.336.254.787 8.646.805.675 118,5 102,6 102,8 2 Các khoản giảm trừ 02 1.208.445.290 1.530.502.636 322.507.346 126,6 2,66 2,84 3 Doanh thu thuần 10 45.481.003.832 53.805.752.251 8.324.748.319 118,3 100 100 4 Giá vốn hàng bán 11 43.589.053.165 50.347.409.718 6.749.356.553 115,5 95,85 93,57 5 Lợi tức gộp 20 1.882.950.667 3.458.342.433 1.575.391.766 183,7 4,14 6,42 6 Chi phí bán hàng 21 -89- 7 Chi phí quản lý doanh nghiệp 22 1.035.169.178 3.076.923.722 2.041.754.544 297,2 2,27 5,75 8 Lợi tức thuần từ hoạt động SXKD 30 847.781.489 381.418.711 -466.362.778 -55,1 186 0,70 9 Lợi tức hoạt động tài chính 40 10 Các khoản thu nhập bất thường 50 321.344.818 98.630.420 -222.714.398 -69,3 0,71 0,18 11 Các khoản chi phí bất thường 51 163.820.400 249.384.848 85.564,448 152.3 0,36 0,46 12 Lợi tức bất thường 60 157.524.418 150.754.428 -6.769.990 -4,3 0,35 0,28 13 Tổng lợi tức trước thuế 70 1.005.305.907 230.664.238 -774.641.624 -77,1 2,21 0,42 14 Thúe thu nhập doanh nghiệp phải nộp 80 90 253.739.992 58.227.799 -195.512.193 -77,1 0,56 0,11 15 Lợi tức sau thuế 752.565.915 172.436.484 -579.129.431 -77,06 1,65 0,32 Bảng báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh năm 2000 và 2001 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33386.doc
Tài liệu liên quan