Phát hành trái phiếu Chính phủ cho đầu tư phát triển - Kho bạc Nhà nước Việt Nam trong giai đoạn 2004 - 2008

BẢNG LIỆT KÊ CÁC CHỮ VIẾT TẮT. KBNNVN Kho Bạc Nhà Nước Việt Nam. NSNN Ngân sách Nhà Nước. NHNN Ngân hàng Nhà Nước. TTGDCK Trung tâm giao dịch chứng khoán. TTCK Thị trường chứng khoán. TPCP Trái phiếu Chính phủ XDTQ Xây dựng tổ quốc. CNH – HĐH Công nghiệp hoá – hiện đại hoá. ĐTPT Đầu tư phát triển. GT-TL Giao thông – thuỷ lợi. KT-XH Kinh tế xã hội. BHXH Bảo hiểm xã hội. XHCN Xã hội chủ nghĩa. HASTC Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội hjjk HANOI STOCK TRADING CENTER LỜI MỞ ĐẦU. 1

doc89 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1246 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phát hành trái phiếu Chính phủ cho đầu tư phát triển - Kho bạc Nhà nước Việt Nam trong giai đoạn 2004 - 2008, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu. Trong những năm gần đây, để thực hiện chủ trương khai thác tối đa các nguồn vốn trong nền kinh tế cho đầu tư phát triển, Chính phủ đã rất chú trọng đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, trong đó có việc phát hành để thực hiện các dự án, chương trình trọng điểm của quốc gia, tạo đà tăng trưởng kinh tế cả nước. Việc huy động vốn thông qua phát hành TPCP cho các dự án, chương trình trọng điểm của quốc gia, từ năm 2004 trở lại đây đã mang lại những ý nghĩa thiết thực, khẳng định hướng đi đúng đắn trong chiến lược tạo vốn phục vụ phát KTXH Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước, để tiếp tục bổ sung và hoàn thiện các công cụ quản lý nhà nước về tài chính, tạo điều kiện phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán, bảo đảm đủ nguồn lực tài chính cần thiết phục vụ nhu cầu và mục tiêu phát triển KTXH của các địa phương và nhu cầu vốn thực hiện các dự án kinh tế trọng điểm, các chương trình mục tiêu của Chính phủ trong giai đoạn sắp tới, đòi hỏi công tác huy động vốn dưới hình thức phát hành TPCP cho các công trình, dự án trọng điểm phải tiếp tục cải tiến và hoàn thiện. Xuất phát từ tình hình trên, học viên đã lựa chọn đề tài: "Phát hành trái phiếu Chính phủ cho đầu tư phát triển - Kho bạc Nhà nước Việt Nam trong giai đoạn 2004 - 2008" để làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. 2. Mục đích nghiên cứu. Chuyên đề nghiên cứu tổng thể về hoạt động huy động vốn bằng việc phát hành TPCP: khái niệm, đặc điểm, trình tự, thủ tục, công tác quản lý, cơ chế phát hành, hình thức phát hành,… từ đó làm sáng tỏ được sự cần thiết khách quan của việc huy động vốn cho đầu tư phát triển. Phân tích, đánh giá thực trạng huy động vốn bằng TPCP ở Việt Nam giai đoạn 2004 – 2008 để từ đó tìm ra những mặt được, những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế đó. Trên cơ sở lý luận chung và thực trạng huy động vốn cho ĐTPT bằng cách phát hành TPCP ở Việt Nam, chuyên đề đã đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn cho ĐTPT bằng cách phát hành TPCP ở Việt Nam trong thời gian tới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề tập trung vào hoạt động phát hành TPCP cho ĐTPT tại Việt Nam, đặc biệt là trái phiếu giao thông – thuỷ lợi và công trái giáo dục. Chuyên đề dựa vào thực trạng phát hành TPCP trong giai đoạn 2004 – 2008 để phân tích, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp phù hợp để tăng cường khả năng huy động vốn trong thời gian tới. Phạm vi nghiên cứu chủ yếu là lĩnh vực huy động vốn trong nước cho ĐTPT thông qua phát hành TPCP tại KBNN ở Việt Nam giai đoạn 2004 – 2008. 4. Phương pháp nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu được sử dụng để thực hiện đề tài là phương pháp duy vật biện chứng, hệ thống hoá,… theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin. Kết hợp với các phương pháp nghiên cứu truyền thống như: thu thập thông tin, phân tích, so sánh, thống kê, tổng hợp,…để nghiên cứu. 5. Kết cấu chuyên đề. Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề chia thành 3 chương: Chương 1 - Lý luận chung về việc phát hành trái phiếu Chính phủ cho đầu tư phát triển. Chương 2 - Thực trạng phát hành trái phiếu Chính phủ cho đầu tư phát triển tại Kho bạc Nhà nước Việt Nam trong giai đoạn 2004 – 2008. Chương 3 – Giải pháp hoàn thiện công tác phát hành trái phiếu Chính phủ cho đầu tư phát triển ở nước ta trong những năm tới. Do nhiều hạn chế về thời gian, kiến thức và nguồn tài liệu nên chuyên đề không tránh khỏi những hạn chế và thiết sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ thầy cô giáo và bạn bè để chuyên đề thực tập được hoàn chỉnh hơn. Cuối cùng, em xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến các thầy cô giáo khoa Kinh Tế Đầu Tư – trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội đã truyền đạt những kiến thức chuyên ngành bổ ích; cảm ơn thầy giáo: TS. Phạm Văn Hùng – người đã trực tiếp hướng dẫn em trong quá trình nghiên cứu chuyên đề; cảm ơn các bác, cô chú, anh chị công tác tại Kho bạc Nhà nước Việt Nam đã tạo điều kiện và nhiệt tình giúp đỡ em trong quá trình tìm kiếm thông tin và tài liệu để em có thể hoàn thành chuyên đề thực tập này. Sinh viên Lý Thị Ngọc Huyền Chương 1 - LÝ LUẬN CHUNG VỀ VIỆC PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN. 1.1 - Giới thiệu chung về trái phiếu chính phủ. 1.1.1 Khái niệm trái phiếu Chính phủ. Trái phiếu là một loại tài sản tài chính phản ảnh nghĩa vụ của nhà phát hành đối với người nắm giữ trái phiếu. Nhà phát hành (người vay tiền) phải cam kết trả cho người nắm giữ trái phiếu (người cho vay) tương ứng số tiền đã vay và tiền lãi trong một thời hạn nhất định. Như vậy xét về bản chất, trái phiếu là một hình thức đặc biệt của tín dụng. Nó phản ảnh quan hệ vay mượn, sử dụng vốn lẫn nhau trên nguyên tắc hoàn trả. Bản thân chứng chỉ trái phiếu hoặc các sổ sách ghi chép trái phiếu thể hiện mối quan hệ vay mượn giữa hai chủ thể. Dù phát hành dưới hình thức nào thì trái phiếu cũng có các điều khoản phản ánh quan hệ vay nợ như: số tiền gốc, kỳ hạn, lãi suất, cách thức trả lãi – gốc, các điều khoản có liên quan như quyền mua lại, quyền chọn bán, thế chấp,… Trái phiếu của Chính phủ là một loại công cụ nợ đặc biệt mà người phát hành là Chính phủ hoặc các cơ quan, tổ chức được Chính phủ chỉ định phát hành và Chính phủ đứng ra bảo đảm thanh toán trong trường hợp thanh toán trong trường hợp tổ chức phát hành không bố trí đủ nguồn để trả nợ khi đến hạn. TPCP được sử dụng để bù đắp bội chi NSNN hoặc để đầu tư xây dựng các công trình, dự án mang tính cộng đồng hoặc để thực hiện các dự án trọng điểm quốc gia, các chương trình, mục tiêu của Chính phủ. Nguồn vốn thanh toán TPCP được bố trí từ NSNN hoặc nguồn thu do công trình mang lại. Có thể định nghĩa TPCP là một loại giấy tờ có giá, được quy định tại Quyết định số 141/2003/QĐ-BTC ngày 20/11/2003 của Bộ trưởng Bộ Tài chính do Chính phủ phát hành, có thời hạn, có mệnh giá, có lãi, xác nhận nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ đối với người sở hữu trái phiếu. TPCP phát hành trực tiếp qua hệ hống KBNN gồm: trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình trung ương, trái phiếu đầu tư, trái phiếu ngoại tệ, công trái xây dựng tổ quốc. 1.1.2 Đặc điểm của trái phiếu Chính phủ. 1.1.2.1 Độ rủi ro thấp. Trái phiếu Chính phủ là một loại chứng khoán có độ rủi ro thấp nhất trong các loại chứng khoán nợ, bởi vì TPCP được NSNN bảo đảm thanh toán. Trong trường hợp NSNN không đảm bảo được nguồn để thanh toán gốc, lãi trái phiếu khi đến hạn thì Chính phủ có thể phát hành nợ đến hạn (bằng đồng tiền nội địa). Mặt khác, về mặt chính trị, khi Chính phủ này hết hạn cầm quyền thì Chính phủ mới có trách nhiệm tiếp nhận và thanh toán các khoản nợ của Chính phủ tiền nhiệm. Mặc dù được coi là có độ an toàn cao nhất trong các loại chứng khoán nợ nhưng TPCP vẫn tiềm ẩn những yếu tố rủi ro như rủi ro do biến động lãi suất, tỷ giá, rủi ro về khả năng thanh toán bằng ngoại tệ, rủi ro về khả năng chuyển trái phiếu thành tiền mặt. TPCP có nhiều loại khác nhau, tương ứng với mức độ rủi ro khác nhau. TPCP trực tiếp phát hành có độ rủi ro thấp nhất, trái phiếu chính quyền địa phương và trái phiếu của các cơ quan của Chính phủ phát hành có độ rủi ro cao hơn TPCP nhưng vẫn thấp hơn trái phiếu công ty. 1.1.2.2 Tính sinh lời thấp. Trái phiếu Chính phủ cũng có tính sinh lời như các loại chứng khoán nợ khác. Khi đầu tư vào TPCP người đầu tư sẽ được hưởng một mức lợi tức nhất định. Lợi tức của trái phiếu là vấn đề mà nhà đầu tư và các nhà kinh tế quan tâm nhất vì nó phản ánh chính xác lợi nhuận thu được khi đầu tư vào trái phiếu. Tỷ lệ lợi tức được xác định bằng cách lấy số tiền mà người sở hữu trái phiếu nhận được từ lãi suất được hưởng của trái phiếu, cộng với sự sai biệt về giá của trái phiếu đó, chia cho giá mua. So với lãi suất của trái phiếu công ty và trái phiếu ngân hàng, TPCP thường có lãi suất thấp hơn do độ rủi ro thấp hơn. Tuy nhiên lãi suất trên thị trường trái phiếu do cung cầu quyết định nên biến động theo thời gian. Do đó, nếu so sánh cùng thời điểm phát hành thì thị trường TPCP có mức lãi suất thấp hơn các loại trái phiếu khác (trừ trường hợp đặc biệt như chiến tranh, khủng hoảng, lạm phát, …Chính phủ cần huy động vốn cấp tốc để chi tiêu hoặc hút tiền để điều hoà lưu thông tiền tệ, kiềm chế lạm phát thì lãi suất rất cao). Nhưng nếu xét cả một quá trình thì lãi suất ở các thời điểm khác nhau của TPCP cũng biến động tuỳ theo diễn biến thị trường nên có thể tăng hay giảm. Vì vậy, so với thời kỳ trước và sau, không nhất thiết lãi suất TPCP luôn thấp hơn lãi suất của các loại trái phiếu khác. 1.1.3. Phân loại trái phiếu chính phủ. 1.1.3.1 Phân loại theo chủ thể phát hành. Trái phiếu Chính phủ do Chính phủ (thường uỷ nhiệm cho Bộ Tài chính) phát hành với mục đích bù đắp bội chi ngân sách, tăng cường vốn đầu tư phát triển và Chính phủ chịu trách nhiệm trích ngân sách hoàn trả gốc, lãi trái phiếu cho chủ sở hữu khi đến hạn. Đây là hình thức phổ biến nhất và thường chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng dư nợ từ chứng khoán nợ của các quốc gia. Trái phiếu chính quyền địa phương, do chính quyền địa phương cấp bang trở xuống phát hành gồm chính quyền địa phương; chính quyền tỉnh, thành phố; chính quyền quận, huyện,…Theo luật pháp của Mỹ và một số nước phát triển như Anh, Nhật, Canada, Italia, chính quyền địa phương có ngân sách độc lập với ngân sách quốc gia, được hình thành từ nguồn thu thuế , phí, lệ phí và một phần trợ cấp từ ngân sách liên bang. Chính quyền địa phương được phép huy động vốn để tài trợ cho các dự án phát triển KTXH trên địa bàn và chịu trách nhiệm thanh toán khi đến hạn.Ở Việt Nam, theo luật NSNN chỉ chính quyền cấp tỉnh mới được phép phát hành trái phiếu chính quyền địa phương. Trái phiếu do các cơ quan của Chính phủ phát hành và sử dụng nguồn vốn đó để thực hiện chương trình, dự án theo mục tiêu chỉ định của Chính phủ. Tổ chức phát hành loại trái phiếu này thông thường là các tổ chức tài chính, tín dụng Nhà nước. Trái phiếu của các doanh nghiệp Nhà nước được Chính phủ chỉ định phát hành trái phiếu để đầu tư cho các dự án kinh tế trọng điểm quốc gia và được Chính phủ bảo đảm thanh toán. 1.1.3.2 Phân loại theo mục đích phát hành. Trái phiếu kho bạc (trái phiếu bù đắp bội chi NSNN). Chính phủ phát hành trái phiếu nhằm mục đích huy động vốn để bù đắp thiếu hụt NSNN, bổ sung vốn cho đầu tư phát triển thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách Trung ương theo chỉ tiêu đã được Quốc hội phê chuẩn. Trái phiếu huy động vốn cho chương trình, mục tiêu Quốc gia. Bao gồm công trái xây dựng Tổ quốc, trái phiếu do các cơ quan của Chính phủ phát hành. Mục đích phát hành loại trái phiếu này là huy động vốn đầu tư xây dựng những công trình quan trọng Quốc gia và các công trình thiết yếu khác phục vụ sản xuất, đời sống, tạo cơ sở vật chất, kĩ thuật cho đất nước. Trái phiếu huy động vốn cho chương trình, mục tiêu của chính quyền địa phương. Phát hành để đầu tư các dự án phát triển KTXH thuộc nhiệm vụ chi của chính quyền địa phương. Trái phiếu huy động vốn cho các công trình của doanh nghiệp Nhà nước. Đây là loại trái phiếu mà doanh nghiệp Nhà nước được Chính phủ chỉ định phát hành và bảo lãnh thanh toán. Mục đích phát hành loại trái phiếu này là để đầu tư cho các dự án kinh tế trọng điểm Quốc gia, do doanh nghiệp Nhà nước quản lý. 1.1.3.3 Phân loại theo kỳ hạn. Trái phiếu ngắn hạn (thường gọi là tín phiếu) có kỳ hạn dưới một năm. Tín phiếu thường được phát hành để bù đắp thiếu hụt tạm thời của NSNN và làm công cụ để điều hành chính sách tiền tệ của NHNN trung ương thông qua nghiệp vụ thị trường mở. Thông thường, tín phiếu ngắn hạn phát hành dưới hình thức chiết khấu, giao dịch theo lợi tức chiết khấu. Trái phiếu dài hạn, có kỳ hạn trên 1 năm. Trái phiếu thường được phát hành để bù đắp bội chi NSNN, đáp ứng các nhu cầu chi ĐTPT. Thông thường, trái phiếu được phát hành theo hình thức trả lãi định kỳ hoặc cuối kỳ, giao dịch trên cơ sở lãi suất cộng dồn. Về nguyên tắc, lãi suất trái phiếu dài hạn phải lớn hơn lãi suất tín phiếu ngắn hạn. 1.1.3.4 Phân loại theo hình thức trả lãi. Trái phiếu có lãi suất cố định. Lãi suất của trái phiếu không thay đổi và được xác định ngay tại thời điểm phát hành, có thể trả một lần khi đến hạn ( bullet bond), trả định kỳ (coupon bond) hoặc trả trước. Trái phiếu có lãi suất thả nổi. Lãi suất của trái phiếu thay đổi tại từng thời điểm trả lãi, thường được tính theo lãi suất của thị trường liên ngân hang hoặc điều chỉnh theo tỷ lệ lạm phát. Trái phiếu chiết khấu (zero coupon). Trái phiếu được bán với giá thấp hơn mệnh giá và thanh toán bằng mệnh giá khi đến hạn. Số tiền chênh lêch giữa bán và mệnh giá chính là lãi của trái phiếu. 1.1.3.5 Phân loại theo mức độ bảo đảm thanh toán. Trái phiếu Chính phủ. Do Chính phủ (uỷ nhiệm cho Bộ Tài chính) phát hành và chịu trách nhiệm bố trí nguồn thanh toán gốc, lãi trái phiếu cho chủ sở hữu từ NSNN. Trái phiếu được Chính phủ bảo đảm. Do chính quyền địa phương, các cơ quan, tổ chức được Chính phủ chỉ định phát hành trái phiếu. Các tổ chức phát hành có trách nhiệm thanh toán gốc, lãi khi đến hạn. Trường hợp các tổ chức phát hành không bố trí đủ nguồn thanh toán gốc, lãi đúng hạn thì Chính phủ trích NSNN để thanh toán cho chử sở hữu. 1.1.3.6 Phân loại theo hình thức và tiêu thức quản lý. Theo hình thức biểu hiện có trái phiếu chứng chỉ vật chất và trái phiếu ghi sổ. Theo tiêu thức quản lý thì có trái phiếu vô danh và trái phiếu ghi danh. Trái phiếu vô danh không ghi tên chỉ sở hữu lên trái phiếu. Trái phiếu ghi danh có ghi tên, địa chỉ, số chứng minh nhân dân, … của nhà đầu tư trên trái phiếu cả trong sổ của nhà phát hành. Trong trái phiếu ghi danh có trái phiếu ghi danh đầy đủ và trái phiếu ghi danh không đầy đủ. Ngày nay bên cạnh hình thức chứng chỉ ghi danh thì hình thức trái phiếu ghi danh ghi sổ ngày càng phát triển vì tiết kiệm được chi phí in ấn và quản lý. 1.1.3.7 Phân loại theo địa bàn phát hành. Trái phiếu trong nước: phát hành trong phạm vi một quốc gia. Trái phiếu quốc tế: phát hành ra thị trường vốn quốc tế. 1.2 – Sự cần thiết phát hành trái phiếu Chính phủ cho đầu tư phát triển. 1.2.1 Đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. 1.2.1.1 Đáp ứng nhu cầu vốn phát triển kinh tế địa phương. Trong những năm gần đây, nhu cầu huy động vốn của chính quyền địa phương trở nên lớn hơn ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, chủ yếu do hai xu hướng: Xu hướng thứ nhất xuất phát từ việc phân cấp chính trị đang được triển khai ở một số nước đang phát triển. Ở những nước này, chính quyền Trung ương đã giao cho chính quyền địa phương trách nhiệm cung cấp các dịch vụ công cộng tại địa phương và phát triển cơ sở hạ tầng có liên quan. Điều này đòi hỏi phải có nguồn lực tài chính rất lớn. Việc cải cách này nhằm mục đích giảm các khoản thâm hụt tài chính lớn ở chính quyền Trung ương và địa phương bằng cách tăng hiệu quả phân bổ nguồn lực của chính quyền địa phương cho việc cung cấp dịch vụ công cộng. Các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có cơ hội gần gũi với cử tri của mình hơn, sẽ nhạy cảm hơn và có trách nhiệm hơn với các nhu cầu của người dân và nhờ vậy sẽ phân bổ hiệu quả hơn các nguồn lực cần thiết để cung cấp các dịch vụ nhằm đáp ứng các nhu cầu đó. Tại Việt Nam, việc phân cấp chính trị đang được triển khai trong những năm gần đây. Trong khuôn khổ công cuộc đổi mới bao gồm cải cách hành chính công năm 2001, Chính phủ đã ban hành Chương trình tổng thể về cải cách hành chính công giai đoạn 2001 -2010. Theo đó, các quy định cơ bản mới về phân cấp quản lý hành chính giữa Trung ương và địa phương và giữa các cấp khác nhau của chính quyền địa phương sẽ được phát triển và đưa vào thực hiện. Ngoài ra, cơ chế phân cấp quản lý tài chính và ngân sách cũng sẽ được đổi mới để đảm bảo tính thống nhất của hệ thống quản lý tài chính quốc gia và vai trò dẫn dắt của ngân sách Trung ương. Điều này sẽ thúc đẩy tính chủ động, sang tạo và trách nhiệm trong việc quản lý tài chính và ngân sách được phân bổ cho chính quyền địa phương, quyền ra quyết định về việc sử dụng ngân sách sẽ được giao cho Hội đồng Nhân dân các cấp. Các cải cách này sẽ tăng cường việc phân cấp, giao trách nhiệm cung cấp các dịch vụ công cộng tại chỗ cho chính quyền địa phương. Xu hướng thứ hai xuất phát từ việc đô thị hoá nhanh đang diễn ra ở hầu hết các nước đang phát triển với sức ép lớn hơn đối với chính quyền địa phương trong việc nâng cấp và xây dựng cơ sở hạ tầng mới nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về các dịch vụ công cộng đô thị bao gồm đường xá, hệ thống cấp nước, truyền tải và phân phối điện, xử lý chất thải, … Việc đô thị hoá cũng diễn ra rất nhanh ở Việt Nam. Sự đô thị hoá ở các thành phố lớn càng nhanh, càng đòi hỏi nhiều dịch vụ đô thị và cơ sở hạ tầng mới. Sự đô thị hoá là một quá trình làm thu hẹp quỹ đất trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống đô thị như việc xây dựng nhà ở, việc lắp các công trình dịch vụ đô thị, việc phát triển các hệ thống giao thông, … Thực tế, thành phố Hồ Chí Minh có tốc độ đô thị hoá nhanh nhất trong cả nước cũng là địa phương có khối lượng trái phiếu đô thị phát hành lớn nhất cả nước. Với sự phát triển mạnh mẽ của hai xu hướng trên, ngân sách của các địa phương thường không đủ để đáp ứng nhu cầu đó. Nhu cầu về tài chính cho phát triển cơ sở hạ tầng đại phương đang gia tăng nhanh hơn so với khả năng đáp ứng của ngân sách chính quyền địa phương. Để thực hiện chiến lược công nghiệp hoá – hiện đại hoá đặc biệt là chuyển dịch cơ cấu kinh tế, công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn thì các địa phương cần phải chủ động khai thác các nguồn tài chính khác cho ĐTPT. Phát hành trái phiếu chính quyền địa phương là một trong những giải pháp hữu hiệu. Theo tính toán của Bộ Tài chính thì trong giai đoạn 2006 – 2010 nhu cầu huy động vốn bằng trái phiếu chính quyền địa phương sẽ khoảng 20.000 tỷ đồng. 1.2.1.2 Đáp ứng nhu cầu vốn tài trợ cho các chương trình, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đặc biệt của Chính phủ. Tài trợ cho chương trình mục tiêu của Chính phủ là một trong những hoạt động quan trọng của các nước đang phát triển. Việc tài trợ của Chính phủ thông qua đảm bảo cho các trái phiếu do cơ quan của Chính phủ là một chính sách hữu hiệu và là xu hướng chung của nhiều quốc gia. Chính phủ không tham dự trực tiếp vào việc huy động và tài trợ vốn cho từng dự án theo kiểu bao cấp mà chỉ bảo đảm khả năng thanh toán trong trường hợp tổ chức phát hành không thanh toán được nợ và có thể hỗ trợ một phần lãi suất dưới hình thức tín dụng đầu tư của Nhà nước. Chính sách này đặt ra cho các tổ chức tài chính nghĩa vụ và trách nhiệm theo cơ chế thị trường, sau đó là sự đảm bảo từ phía Chính phủ, dưới giác độ là người bảo trợ. Thực tế ở Việt Nam, Chính phủ đã thành lập Quỹ Hỗ trợ phát triển với chức năng thực hiện chính sách tín dụng đầu tư, tín dụng xuất khẩu của Nhà nước và Ngân hàng Chính sách xã hội với chức năng hỗ trợ xoá đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm và ổn định xã hội. Bản chất của các hoạt động tín dụng của Quỹ Hỗ trợ phát triển và Ngân hàng Chính sách xã hội là tín dụng Nhà nước. Hoạt động tín dụng Nhà nước thường gắn chặt với các mục tiêu khuyến khích phát triển sản xuất, kinh doanh một ngành, lĩnh vực nhất định, xây dựng cơ sở hạ tầng, các chương trình văn hoá, xã hội theo định hướng, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia trong từng giai đoạn. Theo kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006 - 2010, dự kiến nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước trong giai đoạn này khoảng 160 - 170 nghìn tỷ đồng, tăng 50% so với giai đoạn 2001 - 2005. Dự kiến giai đoạn 2006 - 2010, Quỹ sẽ huy động khoảng 37.000 tỷ đồng thông qua phát hành trái phiếu. Cùng với sự phát triển kinh tế thì vấn đề xoá đói, giảm nghèo luôn là thách thức to lớn đối với các nước đang phát triển. Bên cạnh đó, việc dôi dư lao động trong quá trình đô thị hoá ở nông thôn và chủ trương triển khai kênh tín dụng ưu đãi tại các vùng có điều kiện kinh tế khó khăn đã nảy sinh thách thức lớn về vốn để đáp ứng các nhu cầu tín dụng của các đối tượng thụ hưởng. Trong điều kiện ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, Ngân hàng Chính sách xã hội phải tính đến giải pháp huy động vốn trong và ngoài nước, trong đó huy động vốn trực tiếp từ thị trường tài chính thông qua phát hành trái phiếu được là giải pháp rất quan trọng và hữu hiệu. 1.2.1.3 Đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư các dự án kinh tế trọng điểm quốc gia của các doanh nghiệp Nhà nước. Với các quốc gia đang phát triển, nhu cầu vốn đầu tư cho các dự án kinh tế trọng điểm là rất lớn. Trong điều kiện ngân sách còn hạn hẹp, để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế đất nước, các doanh nghiệp Nhà nước đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc tham gia đầu tư vào các dự án nói trên. Không thể dựa hoàn toàn từ nguồn vốn ngân hàng vì đặc điểm vốn ngân hàng ngắn hạn là chủ yếu, trong khi các dự án đầu tư cần vốn dài hạn; mặt khác việc dựa quá nhiều vào khu vực ngân hàng có thể dẫn đến rủi ro cho thị trường và cho nền kinh tế. Chính vì vậy, các doanh nghiệp cần tiếp cận kênh huy động vốn trực tiếp từ thị trường tài chính trong nước và quốc tế . Đối với Việt Nam, để đáp ứng mục tiêu tăng trưởng kinh tế bình quân 8%/năm, trong giai đoạn 2006 - 2010, tổng nhu cầu vốn đầu tư toàn xã hội khoảng 2.700.000 tỷ đồng. Mức huy động vốn đầu tư qua thị trường vốn chiếm khoảng 22 - 23%, khoảng 600.000 tỷ đồng, trong đó, khu vực doanh nghiệp cần khoảng 29%, tương ứng với 174.000 tỷ đồng. Đây là một lượng vốn rất lớn, đòi hỏi các doanh nghiệp cần đa dạng hoá hình thức huy động vốn và việc phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh là một kênh huy động vốn quan trọng trong điều kiện hiện nay, giúp cho doanh nghiệp thuận lợi trong việc huy động vốn với chi phí thấp. Đối với các dự án có nhu cầu huy động vốn bằng ngoại tệ với khối lượng lớn (như dự án của các ngành điện lực, dầu khí, đóng tàu,...) thì cần thiết phải huy động vốn từ thị trường vốn quốc tế. Thông qua phát hành trái phiếu ra thị trường vốn quốc tế, các nhà đầu tư nước ngoài có điều kiện hiểu biết hơn về tình hình chính trị, kinh tế, xã hội, môi trường đầu tư và các chính sách khuyến khích đầu tư của Việt Nam. Qua đó, từng bước khẳng định vị thế Việt Nam trên trường quốc tế, mở rộng cơ hội làm ăn với các nhà đầu tư trên thế giới. 1.2.2 Thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn. Sự có mặt của trái phiếu chính quyền địa phương và trái phiếu do cơ quan Chính phủ phát hành, trái phiếu doanh nghiệp được Chính phủ bảo lãnh sẽ làm phong phú thêm hoạt động của thị trường vốn, thị trường chứng khoán, nhất là trong giai đoạn đầu thị trường mới hoạt động như Việt Nam hiện nay. Các nhà đầu tư có thêm danh mục chứng khoán để lựa chọn, các tổ chức tài chính trung gian phát huy được vai trò của mình trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính. Việc phát hành trái phiếu đảm bảo bằng hợp đồng thế chấp tài sản là một trong những nghiệp vụ chứng khoán hoá được sử dụng có hiệu quả. Nghiệp vụ này cho phép chuyển những khoản vay theo hợp đồng thành chứng khoán có khả năng chuyển nhượng, từ đó tạo điều kiện thúc đẩy sự luân chuyển và điều hoà vốn trong nền kinh tế. Các trái phiếu được Chính phủ bảo đảm có thể sử dụng làm căn cứ xác định giá của các công cụ nợ khác trên thị trường (trừ trái phiếu Chính phủ). Trái phiếu chính quyền địa phương và trái phiếu do các cơ quan của Chính phủ phát hành có độ an toàn khá cao, bởi được đảm bảo bằng nguồn thu thuế của chính quyền địa phương, đảm bảo bằng hợp đồng vay thế chấp, được Chính phủ đảm bảo, được bảo hiểm bởi các công ty bảo hiểm có uy tín. Vì vậy, vào những thời điểm không phát hành trái phiếu Chính phủ, các nhà đầu tư có thể dựa vào giá trái phiếu được Chính phủ bảo đảm để xác định giá các công cụ nợ khác như trái phiếu công ty. 1.2.3 Góp phần ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát. Trong nền kinh tế thị trường, ổn định tiền tệ và kiềm chế lạm phát là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu đối với hầu hết các quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển. Để ổn định tiền tệ và kiềm chế lạm phát, Nhà nước phải sử dụng đồng bộ các giải pháp về kinh tế, tài chính, tiền tệ. Giải pháp quan trọng đã được nhiều nước trên thế giới sử dụng có hiệu quả là tăng cường công tác huy động vốn nói chung, trong đó có trái phiếu được Chính phủ bảo đảm, bởi vì thông qua các công cụ huy động vốn sẽ góp phần điều hoà lượng tiền mặt trong lưu thông, tăng nhanh tốc độ luân chuyển vốn trong nền kinh tế, qua đó góp phần ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát. 1.2.4 Góp phần tăng cường vai trò của nhà nước trong điều tiết kinh tế vĩ mô. Nhờ nguồn vốn có được từ phát hành TPCP, nhà nước có thể chủ động trong công tác xây dựng kế hoạch và điều hành NSNN, đặc biệt là trong việc cân đối và bố trí nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Hơn nữa, thông qua phát hành TPCP, nhà nước có nguồn để thực hiện các dự án phát triển kết cấu hạ tầng như công nghệ thông tin, hệ thống giao thông, hệ thống thủy lợi, phát triển y tế, giáo dục, nâng cao mức sống của nhân dân, ... Phát hành TPCP giúp nhà nước giải quyết được tình trạng thâm hụt NSNN mà không gây lạm phát, nhờ đó góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Một mặt, thuế và chi NSNN là những công cụ quan trọng được sử dụng trong ổn định giá trị đồng tiền. Mặt khác, thuế và chi NSNN cũng là một trong những công cụ để khuyến khích đầu tư và tái đầu tư từ lợi nhuận. Việc đảm bảo tiềm lực cho NSNN sẽ giúp cho NSNN thực hiện có hiệu quả vai trò của mình trong ổn định giá trị tiền tệ, khuyến khích đầu tư phát triển, từng bước tăng quy mô và tỷ trọng cũng như hiệu quả nguồn vốn đầu tư từ NSNN. Phát hành TPCP giúp cho việc điều hành ngân sách của nhà nước được thuận lợi hơn, giúp nhà nước tăng cường vị thế, vai trò và uy tín của mình đối với các tầng lớp dân cư trong xã hội. Đồng thời, việc phát hành TPCP trong nước cũng góp phần làm giảm tương đối vay nước ngoài, tránh sức ép trong quan hệ đối ngoại, tăng cường khả năng tự chủ của nền kinh tế. Tóm lại, trái phiếu Chính phủ là công cụ huy động vốn quan trọng của các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển. Chính quyền địa phương cấp nào được phép phát hành trái phiếu và cơ quan Chính phủ, doanh nghiệp Nhà nước nào được phát hành trái phiếu sẽ tuỳ thuộc vào chính sách của mỗi nước và mức độ phát triển của thị trường tài chính của các nước. Tuy nhiên, trong xu hướng hiện nay, các nước cần từng bước thực hiện tự do hoá hoạt động huy động vốn trên thị trường, trong đó có việc cho phép các cấp chính quyền địa phương, các cơ quan Chính phủ, các doanh nghiệp Nhà nước phát hành trái phiếu Chính phủ để đầu tư phát triển theo những mục tiêu đã định. 1.3 – Trình tự, thủ tục phát hành trái phiếu Chính phủ. Căn cứ vào Quyết định số 66/2004/QĐ-BTC ngày 11/8/2004 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc hướng dẫn về trình tự, thủ tục phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu Chính quyền địa phương. Quy chế này hướng dẫn về trình tự lập kế hoạch, xây dựng phương án phát hành, quyết định phát hành, điều hành lãi suất và các vấn đề liên quan đến tổ chức phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu Chính quyền địa phương (gọi chung là trái phiếu). 1.3.1 Phát hành tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình Trung ương và trái phiếu ngoại tệ. Kho bạc Nhà nước tổ chức triển khai thực hiện việc phát hành tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình Trung ương và trái phiếu bằng ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu chi của ngân sách nhà nước và các dự án, công trình quan trọng thuộc phạm vi cân đối của Ngân sách Trung ương. Căn cứ tổng mức vốn phát hành trái phiếu trong năm và kế hoạch phát hành đã được Bộ trưởng Bộ Tài chính phê duyệt, Kho bạc Nhà nước chủ động tổ chức triển khai thực hiện việc phát hành trái phiếu theo nhu cầu và tiến độ chi của ngân sách nhà nước. Việc phát hành trái phiếu theo phương thức bán lẻ qua hệ thống Kho bạc Nhà nước do Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết định cho từng đợt phát hành.. 1.3.2 Phát hành trái phiếu đầu tư. Quỹ Hỗ trợ phát triển, các tổ chức tài chính, tín dụng được chủ động tổ chức phát hành trái phiếu đầu tư để huy động vốn đáp ứng nhu cầu về vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước theo kế hoạch hàng năm và kế hoạch phát hành trái phiếu đã báo cáo Bộ Tài chính. Việc huy động vốn phải phù hợp với tiến độ giải ngân vốn vay, nguồn thu hồi nợ và đảm bảo nguyên tắc tiết kiệm đến mức thấp nhất các chi phí về huy động vốn. Không huy động vốn khi chưa có nhu cầu sử dụng hoặc nguồn vốn hiện tại vẫn đáp ứng được nhu cầu vay vốn của các dự án. 1.3.3 Phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh. Khi có nhu cầu phát hành trái phiếu, doanh nghiệp gửi đến Bộ Tài chính các tài liệu sau: Đơn đề nghị phát hành trái phiếu kèm theo phương án phát hành thuyết minh rõ về tổng mức vốn dự kiến huy động; thời hạn, lãi suất; kế hoạch trả nợ vốn vay khi đến hạn; nguồn trả nợ; biện pháp tổ chức phát hành, thanh toán trái phiếu. Văn bản về việc cho phép doanh nghiệp được phép phát hành trái phiếu để huy động vốn cho dự án; Dự án đầu tư được cấp có thẩm quyền phê duyệt; Giấy đề nghị Bộ Tài chính thực hiện bảo lãnh thanh toán; Các tài liệu khác có liên quan. Trong thời hạn 30 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp pháp, hợp lệ, Bộ Tài chính có ý kiến thoả thuận bằng văn bản để doanh nghiệp thực hiện phát hành trái phiếu. 1.3.4 Phát hành trái phiếu Chính quyền địa phương. Khi có nhu cầu phát hành trái phiếu, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh gửi Bộ Tài chính các tài liệu sau: Văn bản đề nghị phát hành trái phiếu, trong đó có nêu rõ về tổng mức vốn dự kiến huy động; thời hạn, lãi suất; thời gian dự kiến phát hành; biện pháp tổ chức phát hành, thanh toán trái phiếu. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh thông qua việc phát hành trái phiếu kèm theo phương án phát hành. Các tài liệu khác có liên quan. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp pháp, hợp lệ, Bộ Tài chính xem xét, có ý kiến thoả thuận bằng văn bản để Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh triển khai thực hiện. Căn cứ ý kiến thoả thuận của Bộ Tài chính, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có quyết định uỷ quyền cho Kho bạc Nhà nước hoặc tổ chức tài chính, tín dụng trên địa bàn thực hiện việc phát hành trái phiếu theo các quy định hiện hành. 1.4 – Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác phát hành TPCP. Việc phát hành TPCP bị ảnh hưởng bởi các nhân t._.ố sau: Nhu cầu vốn cho ĐTPT kinh tế. Việc phành hành trái phiếu của Chính phủ trên thị trường sơ cấp phụ thuộc vào nhu cầu huy động vốn để bù đắp thiếu hụt của NSNN và cho ĐTPT. Với rất nhiều quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển, các nguồn thu ngân sách có hạn nhưng nhu cấi chi ngân sách rất lớn, Chính phủ cần phải đi vay để bù đắp thâm hụt ngân sách. Hơn nữa, nhu cầu vốn lớn cho ĐTPT cũng là một vấn đề hết sức cấp bách. Nhiều Chính phủ không muốn phát hành tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách, đồng thời thi hành chính sách tín dụng thận trọng để kiếm soát lạm phát nên việc phát hành các loại trái phiếu cho NSNN và cho ĐTPT là hết sức cần thiết và có ý nghĩa quan trọng. Tốc độ phát triển kinh tế. Với một nền kinh tế tăng trưởng cao và ỏn định, thu nhập và tiết kiệm trong nền kinh tế nói chung và các tầng lớp dân cư ngày càng tăng. Khi đó, nhu cầu đầu tư vào trái phiếu của Chính phủ cũng tăng lên. Trong trường hợp kinh tế suy thoái, thu nhập dân cư giảm sút cùng với thiết kiệm, cầu về TPCP sẽ giảm đi. Cầu về trái phiếu là yếu tố quan trọng quyết định khả năng huy động vốn trái phiếu trên thị trường sơ cấp. Lạm phát và lãi suất tương lai dự tính. Lạm phát và lãi suất chịu ảnh hưởng lớn của chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương. Hai phạm trù này có liên quan chặt chẽ đến nhau và cùng có ảnh hưởng trực tiếp đến cầu trái phiếu. Nếu nhà đầu tư dự đoán được lạm phát và lãi suất tăng trong tương lai, họ sẽ giảm cầu TPCP trong hiện tại. Ngược lại, nếu dự kiến lạm phát hoặc lãi suất giảm trong tương lai thì cầi trái phiếu sẽ có xu hướng tăng trong hiện tại. Lợi tức và mức độ rủi ro của các công cụ đầu tư khác ( vàng, bất động sản …) Khi lợi tức của các công cụ đầu tư khác tăng lên hoặc mức độ rủi ro của chúng giảm đi thì cầu trái phiếu giảm xuống. Ngược lại, trường hợp lợi tức các công cụ đầu tư giảm hoặc mức độ rủi ro của chúng tăng lên thì cầu TPCP sẽ tăng lên. Khả năng sinh lời từ việc mua, bán chuyển nhượng TPCP. Khi mua trái phiếu trên thị trường, các nhà đầu tư có thể nhằm vào hai mục đích chủ yếu: mua để hưởng lãi từ trái phiếu khi đến hạn thanh toán và mua trái phiếu để bán lại nhằm thu lợi từ hoạt động kinh doanh này. Đối với các nhà đầu tư chuyên nghiệp và các nhà đầu tư có tổ chức, đa số mua trái phiếu để nhằm mục đích thứ hai. Tuy nhiên các nhà đầu tư chỉ bán lại trái phiếu đã mua khi thu được lợi từ hoạt động này, tức là số tiền lợi nhuận thu được do đầu tư vào các loại hình đầu tư khác lớn hơn số tiền lãi từ việc giữ trái phiếu. Nếu nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững sẽ có nhiều cơ hội cho các nhà đầu tư tìm kiếm các công cụ đầu tư có khả năng sinh lời cao nhu trái phiếu, cổ phiếu doanh nghiệp hoặc đầu tư trực tiếp. Ngược lại trong giai đoạn suy thoái, ít cơ hội đầu tư có tỷ suất lợi nhuận cao, các chủ thể sẽ tăng tỷ trọng đầu tư vào các công cụ tài chính ít rủi ro là TPCP, khi đó cầu TPCP trên thị trường sẽ tăng lên. Tính thanh khoản của TPCP. Nếu khả năng thanh toán của trái phiếu tăng thì cầu trái phiếu tăng. Ngược lại, nếu khả năng thanh toán của trái phiếu thấp thì cầu trái phiếu sẽ giảm nhanh chóng, nhất là đối với loại trái phiếu trung và dài hạn. Tính thanh khoản của trái phiếu chịu ảnh hưởng lớn của các quy định và trình tự thủ tục mua, bán trên thị trường. Nếu các quy định và trình tự này đơn giản, nhanh chóng và chi phí thấp, các nhà đầu tư sẽ có điều kiện thuận lợi trong việc mua, bán, chuyển nhượng các loại trái phiếu để chuyển đổi hình thức đầu tư nhằm tối đa hoá lợi nhuận. Trong điều kiện đó, tất cả các nguồn vốn đầu tư của các cá nhân và doanh nghiệp sẽ được huy động và sử dụng một cách có hiệu quả nhất. Chương 2 - THỰC TRẠNG PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN QUA KHO BẠC NHÀ NƯỚC VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2004-2008. 2.1 - Cơ chế chính sách phát hành TPCP phủ cho đầu tư phát triển ở nước ta. 2.1.2 Công tác xây dựng kế hoạch phát hành TPCP. Công tác xây dựng kế hoạch phát hành TPCP được thực hiện theo qui định tại Quyết định số 66/2004/QĐ-BTC ngày 11/8/2004 của Bộ Trưởng Bộ Tài chính ban hành “Qui chế hướng dẫn về trình tự, thủ tục phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương. Theo đó: - Bộ Tài chính chủ trì xây dựng kế hoạch phát hành, thanh toán các loại trái phiếu để tổng hợp chung trong dự toán ngân sách nhà nước báo cáo Chính phủ trình Quốc hội phê duyệt. - Căn cứ vào chỉ tiêu huy động vốn đã được Quốc hội quyết định, Bộ trưởng Bộ Tài chính giao nhiệm vụ huy động vốn phát hành tín phiếu, trái phiếu cho Kho bạc Nhà nước. - Kho bạc Nhà nước chủ trì phối hợp với Vụ Ngân sách nhà nước, Vụ Tài chính các ngân hàng và tổ chức tài chính xây dựng kế hoạch phát hành các loại trái phiếu hàng tháng phân theo từng loại trái phiếu, kỳ hạn trái phiếu, đồng tiền và phương thức phát hành báo cáo Bộ trưởng Bộ Tài chính phê duyệt. 2.1.2 Công tác quản lý phát hành trái phiếu Chính phủ qua hệ thống KBNN. 2.1.2.1 Tổ chức in trái phiếu. Kho bạc Nhà nước thống nhất in các loại trái phiếu để sử dụng tại tất cả các đơn vị KBNN trong phạm vi cả nước. Mẫu trái phiếu do KBNN thiết kế trình Bộ trưởng Bộ Tài chính phê duyệt. Việc in trái phiếu thực hiện kế hoạch được lập hàng năm hoặc trước mỗi đợt phát hành trái phiếu, căn cứ vào kế hoạch, chỉ tiêu huy động vốn và tình hình vốn kho các loại trái phiếu. 2.1.2.2 Phân phối, điều chuyển và thu hồi trái phiếu. Kho bac Nhà nước trực tiếp phân phối trái phiếu cho KBNN các tỉnh, thành phố phía Bắc từ Hà Tĩnh trở ra (Khu vực I), điều chuyển trái phiếu cho các Trung tâm khu vực II và III. KBNN Đà Nẵng là trung tâm khu vực II. KBNN Hồ Chí Minh là trung tâm khu vực III. Lệnh phân phối trái phiếu cho KBNN các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, lệnh điều chuyển trái phiếu cho các trung tâm khu vực, lệnh điều chuyển trái phiếu giữa các Trung tâm khu vực, các KBNN tỉnh, lệnh thu hồi trái phiếu từ Trung tâm khu vực, KBNN tỉnh về KBNN do Tổng Giám đốc KBNN (hoặc người được uỷ quyền) ký. Lệnh phân phối trái phiếu cho KBNN quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là KBNN huyện), lệnh điều chuyển trái phiếu giữa các KBNN huyện, lệnh thu hồi trái phiếu từ KBNN huyện về KBNN tỉnh do Giám đốc KBNN tỉnh ( hoặc người được uỷ quyền) ký. 2.1.2.3 Trách nhiệm của các đơn vị trong việc quản lý trái phiếu Tại KBNN. Ban Huy động vốn. Thiết kế mẫu trái phiếu báo cáo Lãnh đạo KBNN, trình Lãnh đạo Bộ Tài Chính phê duyệt. Lập kế hoạch in các loại trái phiếu, số lượng từng loại mệnh giá, cách đánh số sêri,…..; Xây dựng kế hoạch phân phối trái phiếu, lập lệnh phân phối, điều chuyển, thu hồi trái phiếu tại các Trung tâm khu vực và KBNN các tỉnh, trình Lãnh đạo KBNN phê duyệt. Cuối mỗi đợt phát hành trái phiếu, phối hợp với Ban Kế toán, Ban Kho quỹ đối chiếu, bảo đảm khớp đúng số tiền thu từ phát hành mới so với tổng mệnh giá trái phiếu đã sử dụng, số liệu trái phiếu nhập, xuất, sử dụng, tồn kho thực tế và trong chương trình “Quản lý trái phiếu KBNN” tại KBNN, Trung tâm khu vực và KBNN các tỉnh. Ban Kho quỹ. Chịu trách nhiệm nhân trái phiếu từ đơn vị in, trực tiếp phân phối, thu hồi trái phiếu từ KBNN các tỉnh phía Bắc. Điều chuyển, thu hồi trái phiếu từ các Trung tâm khu vực. Tổng hợp trái phiếu hỏng, hết giá trị sử dụng từ KBNN tỉnh và các Trung tâm khu vực, xin chủ trương và thực hiện tiêu huỷ trái phiếu hỏng hết hạn sử dụng theo quy định. Cuối mỗi đợt phát hành trái phiếu : chủ trì phối hợp với Ban Huy động vốn, Ban Tài vụ Quản trị đối chiếu bảo đảm khớp đúng số liệu trái phiếu nhập, xuất, sử dụng, tồn kho thực tế và trong chương trình “ Quản lý trái phiếu KBNN” tại KBNN, Trung tâm khu vực và KBNN các tỉnh, tổng hợp, báo cáo tình hình nhập, xuất, sử dụng, tồn kho các loại trái phiếu trong toàn hệ thống. Ban Tài vụ Quản trị. Căn cứ vào kế hoạch in trái phiếu đã được lãnh đạo KBNN phê duyệt, phối hợp với Ban Huy động vốn và đơn vị in dự thảo Hợp đồng in trình Lãnh đạo KBNN ký. Trung tâm Tin học và Thống kê. Căn cứ vào yêu cầu, chịu trách nhiệm bổ sung, hoàn thiện chương trình “Quản lý trái phiếu KBNN” cho phù hợp với các quy trình nghiệp vụ Hỗ trợ về mặt kỹ thuật cho các đơn vị KBNN trong toàn hệ thống để bảo đảm chương trình hoạt động tốt, số liệu được cập nhật kịp thời, báo cáo chiết xuất nhanh chóng, đầy đủ, chính xác. Các đơn vị KBNN tỉnh, huyện. Giám đốc KBNN chịu trách nhiệm bố trí cán bộ, bảo đảm các điều kiện phương tiện, cơ sở vật chất cần thiết cho công tác quản lý trái phiếu, bảo đảm tuyệt đối an toàn tiền, tài sản được KBNN cấp trên giao quản lý. Phụ trách phòng, bộ phận kế hoạch tổng hợp có nhiệm vụ theo dõi tình hình nhập, xuất, sử dụng trái phiếu tại đơn vị, căn cứ vào nhiệm vụ huy động vốn và tình hình tồn kho trái phiếu tại đơn vị, đề xuất nhu cầu bổ sung trái phiếu trình Lãnh đạo ký gửi KBNN cấp trên, lập lệnh phân phối, điều chuyển, thu hồi trái phiếu giữa các đơn vị trong phạm vi địa bản tỉnh. Thủ kho chấp hành các chế độ quản lý kho, chịu trách nhiệm về việc bảo đảm an toàn, chính xác toàn bộ trái phiếu xuất, nhập, bảo quản trong kho, mở sổ, ghi chép trái phiếu nhập, xuất, tồn kho, thực hiện kiểm kê theo quy định, cuối mỗi đợt phát hành, định kỳ hàng tháng và hàng năm, phối hợp với kế toán giấy tờ có giá đối chiếu số liệu trái phiếu sử dụng, tồn kho, lập và cung cấp số liệu để phòng, bộ phận kho quỹ lập báo cáo theo quy định. Phụ trách phòng kế toán, bộ phận kế toán giấy tờ có giá chịu trách nhiệm tổ chức, hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ nhập, xuất, điều chuyển, bảo quản trái phiếu; chỉ đạo, tổ chức hạch toán kế toán giấy tờ có giá theo quy định của Chế độ kế toán hoạt động nội bộ KBNN ban hành kèm theo Quyết định số 1190/1998/QĐ-BTC ngày 11/09/1998 của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Kế toán giấy tờ có giá có trách nhiệm hạch toán kế toán tình hình nhập, xuất trái phiếu chính xác, kịp thời, thực hiện chế độ báo cáo tình hình quản lý trái phiếu theo quy định. Cán bộ giao, nhận, điều chuyển trái phiếu có trách nhiệm tuyệt đối giữ bí mật khi được giao nhiệm vụ, chịu trách nhiệm về sự chính xác, an toàn trái phiếu trong suốt quá trình giao, nhận, vận chuyển trái phiếu. Tại bàn trái phiếu. Cán bộ trái phiếu có trách nhiệm mở sổ theo dõi tình hình xuất, nhập, sử dụng trái phiếu hàng ngày tại bàn trái phiếu, sử dụng và bảo quản an toàn trái phiếu tại bàn giao dịch theo đúng quy định. 2.1.2.4 Quản lý nguồn thu phát hành trái phiếu và nguồn thanh toán gốc, lãi trái phiếu. Toàn bộ số tiền thu về phát hành TPCP được tập trung vào KBNN để sử dụng đầu tư cho các công trình thuộc danh mục được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt hoặc đáo nợ trái phiếu Chính phủ đã phát hành cho các công trình quan trọng đến hạn. Không sử dụng cho các mục tiêu khác. Đối với khoản thu từ phát hành trái phiếu bằng ngoại tệ, sau khi trừ đi các khoản chi trực tiếp bằng ngoại tệ, Bộ Tài chính bán cho NHNN để tăng dự trữ ngoại hối của Nhà nước theo tỷ giá trên thị trường ngoại tệ lien ngân hàng tại thời điểm bán; tiền đồng Việt Nam do NHNN trả được chuyển cho Bộ Tài chính. Nguồn vốn để thanh toán lãi TPCP hàng năm do ngân sách Trung ương bảo đảm và được cân đối trong dự toán NSNN hàng năm. Nguồn vốn để thanh toán gốc trái phiếu được bố trí từ nguồn phát hành TPCP các đợt tiếp theo hoặc cân đối một phần vào dự taón NSNN hàng năm theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. KBNN tổ chức quản lý, hạch toán riêng tiền thu từ phát hành trái phiếu và thanh toán gốc trái phiếu. Việc thanh toán gốc trái phiếu trực tiếp từ NSNN được thực hiện thông qua tài khoản này. - Thực trạng của công tác phát hành trái phiếu Chính phủ cho đầu tư phát triển ở nước ta giai đoạn 2004 – 2008. 2.2.1 Khái quát tình hình phát hành TPCP cho đầu tư phát triển ở nước ta giai đoạn 2004 -2008. Chiến lược phát triển KTXH 10 năm 2001 -2010 đã xác định phải nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia.Thời gian qua, bên cạnh việc ưu tiên bố trí các nguồn lực tài chính tập trung cho ĐTPT, Đảng và Nhà nước đã thực hiện nhiều biện pháp như phát hành công trái XDTQ năm 1999, công trái giáo dục năm 2003 …để bổ sung nguồn vốn đầu tư, góp phần tích cực trong việc phát triển KTXH. Tuy nhiên, để thực hiện chiến lược phát triển KTXH đến năm 2010 và sự nghiệp CNH – HĐH đất nước đến năm 2020 cần phải đẩy nhanh hơn nữa tốc độ huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế. Do vậy, đồng thời với việc tăng cường bố trí nguồn vốn từ NSNN, huy động các nguồn vốn của nước ngoài và của doanh nghiệp, Nhà nước cần huy động thêm vốn đầu tư từ phát hành TPCP để xây dựng và đẩy nhanh tiến độ hoàn thành một số công trình hạ tầng giao thông, thuỷ lợi quan trọng nhằm sớm phát huy tác dụng thúc đẩy phát triẻn KTXH, xoá đói, giảm nghèo, bảo đảm an ninh quốc phòng, góp phần thực hiện thắng lợi Chiến lược phát triển KTXH của đất nước. Phát hành TPCP trong giai đoạn 2003 – 2010 là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm phát huy nội lực, huy động sự đóng góp của toàn dân cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Nguồn thu từ TPCP được sử dụng để đầu tư cho một số công trình giao thông, thuỷ lợi quan trọng của đất nước, góp phần hình thành và nâng cấp một cách cơ bản hệ thống giao thông và thuỷ lợi nước ta trong 10 năm tới. Công tác huy động vốn cho ĐTPT của Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay chủ yếu được thực hiện thông qua phát hành TPCP qua KBNN và thu hút nguồn vốn vay nợ, viện trợ nước ngoài. Nhằm tăng cường khả năng huy động các nguồn vốn trong nước cho đầu tư phát triển kinh tế, đồng thời tạo hàng hoá cho thị trường chứng khoán đã được thành lập và đang đi vào hoạt động, Chính phủ ban hành Nghị định 01/2000/NĐ-CP ngày 13/1/2000 về quy chế phát hành TPCP (thay thế Nghị định 72/CP), sau đó là Nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày 20/11/2003 (thay thế Nghị định 01/2000/NĐ-CP). Theo đó, bên cạnh việc duy trì phương thức đấu thầu tín phiếu qua NHNN và phát hành trái phiếu trực tiếp ra công chúng qua hệ thống KBNN, TPCP còn được phát hành theo hai phương thức mới: Đấu thầu qua trung tâm GDCK và bảo lãnh phát hành. Trái phiếu phát hành theo hai phương thức này được đăng ký, lưu ký, niêm yết và giao dịch tại TTGDCK, tạo điều kiện cho việc phát triển thị trường thứ cấp TPCP. Mặt khác, quy chế mới cũng đã quy định rõ hơn về cơ chế phát hành TPCP, trái phiếu chính quyền địa phương và trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh. Như vậy có thể nói sau khi Nghị định 141 có hiệu lực, Chính phủ cho phép phát hành nhiều loại trái phiếu thì thị trường trái phiếu mới bắt đầu hình thành và phát triển mạnh, đặc biệt là sau sự ra đời của TTGDCK TP Hồ Chí Minh (nay là Sở giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh). Trong giai đoạn này số lượng TPCP phát hành cho NSNN và cho ĐTPT nói chung cũng như cho dự án, công trình do Trung ương và địa phương quản lý đều tăng so với giai đoạn từ năm 2003 trở về trước về quy mô phát hành, phương thức phát hành và kỳ hạn, phương thức trả lãi, đồng tiền phát hành được đa dạng hóa. Công tác quản lý, điều hành quỹ NSNN và huy động vốn cho ĐTPT đã có nhiều bước phát triển quan trọng, tạo được những điều kiện tiền đề để thu hút nguồn vốn trung và dài hạn. Phát hành TPCP đã trở thành một chủ trương đúng đắn và là một giải pháp có hiệu quả trong việc chấm dứt phát hành tiền để bù đắp thiếu hụt NSNN và kiềm chế lạm phát, tạo thế chủ động trong việc quản lý và điều hành NSNN, góp phần cùng với NHNN thực thi chính sách tài chính – tiền tệ quốc gia. Ngoài ra, phát hành TPCP còn góp phần thúc đẩy sự ra đời và phát triển của thị trường vốn thông qua việc tạo ra nguồn hàng hoá chủ yếu ban đầu đủ tiêu chuẩn niêm yết và giao dịch trên thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, nếu so sánh với thế giới và các trong khu vực, thị trường trái phiếu ở Việt Nam còn rất hạn chế cả về qui mô và trình độ phát triển, chỉ chiếm khoảng 13,72 %GDP (đến năm 2007). Thị trường trái phiếu quốc tế, Mỹ, Nhật Bản và EU chiếm đến 80%. Thị trường trái phiếu ở Singapore, Malaysia và Thái Lan phát triển mạnh hơn Việt Nam cũng chiếm khoảng 30-40% GDP. Công tác phát hành trái phiếu Chính phủ cho đầu tư phát triển ở nước ta giai đoạn 2004 – 2008. Vốn huy động thông qua hình thức phát hành TPCP được sử dụng cho hai mục đích, thứ nhất là để bù đắp thiếu hụt cho NSNN và thứ hai là để cho ĐTPT. Từ năm 2004, công tác huy động vốn cho ĐTPT qua hệ thống KBNN đã có một bước phát triển mạnh mẽ mang tính đột biến cả về số lượng và chất lượng quản lý thông qua việc mở rộng quy mô phát hành các loại TPCP và ứng dụng công nghệ thông tin góp phần hoàn thiện quy trình quản lý và nâng cao chất lượng phục vụ của KBNN. Bảng 2.1: Kết quả huy động vốn bù đắp thiếu hụt NSNN và ĐTPT giai đoạn 2004 – 2008. Đơn vị: tỷ đồng STT Mục đích sử dụng Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 1 Bù đắp thiếu hụt NSNN 22040 29000 33000 28000 33632 2 ĐTPT 5004 10500 10000 20276 6695 Nguồn: Kho bạc Nhà nước Việt Nam. Trái phiếu Chính phủ cho ĐTPT giai đoạn 2004 - 2008 bao gồm công trái giáo dục phát hành năm 2005 cho chương trình kiên cố hoá trường lớp học và trái phiếu giao thông thủy lợi phát hành trong giai đoạn 2004 – 2008 cho các chương trình, dự án trọng điểm quốc gia. Trong giai đoạn này Nhà nước đã huy động được 55053 tỷ đồng dành riêng cho ĐTPT. Bảng 2.2 : Tình hình thực hiện kế hoạch phát hành TPCP cho ĐTPT giai đoạn 2003-2008. Loại TPCP Năm Kế hoạch (tỷ đồng) Thực hiện (tỷ đồng) Tỷ lệ thực hiện I. Công trái giáo dục 2005 2.700 2.816 104% II.Trái phiếu Giao thông thuỷ lợi 2004 4.300 4.323 101% 2005 10.500 10.585 100% 2006 15.500 10.348 67% 2007 20.000 20.276 101% 2008 20.000 6.695 33% Cộng (II) 70.300 52.237 77% Cộng (I+II) 73.000 55.053 75% Nguồn: Kho bạc Nhà nước Kết quả phát hành TPCP cho ĐTPT trong giai đoạn 2004- 2008 đạt 75% so với kế hoạch đặt ra là 73.000 tỷ đồng. 2.2.2.1 Kết quả phát hành trái phiếu GT-TL cho các dự án, công trình trọng điểm Quốc gia. Các công trình GT-TL là mạch máu của nền kinh tế, muốn phát triển kinh tế không thể để tình trạng giao thông bế tắc. Kinh tế hàng hoá cần đường bộ, đường sắt, đường biển, đường sông thông suốt, hiện đại, nhanh và đảm bảo thuận lợi trong mọi thời tiết. Giao thông luôn gắn với nhịp độ cuộc sống và chất lượng cuộc sống của người dân; đảm bảo cho mọi miền, mọi miền được kết nối, từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi đến miền núi ... Thủy lợi đảm bảo cho việc tưới tiêu, chống lũ lụt, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mùa vụ, thực hiện chính sách an ninh lương thực, ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân nói riêng và toàn xã hội nói chung ... Trong những năm qua, Nhà nước đã tập trung đầu tư cho hai lĩnh vực này khá lớn: hệ thống đường bộ nhất là tuyến quốc lộ đã được nâng cấp và mở ra nhiều tuyến đường mới, hầu hết các xã đã có đường ô tô đến trung tâm xã; hệ thống đường sắt đã được hiện đại hoá; nhiều cảng biển, cảng sông, sân bay được nâng cấp mở rộng và xây dựng mới...Hệ thống thuỷ lợi được hoàn thiện, nhiều hồ đập, kênh mương được xây dựng, chủ động tưới tiêu phục vụ nông nghiệp ở nhiều vùng mà trước đay rất khó khăn ... Tuy nhiên, do chiến tranh tàn phá, do thiên tai lũ lụt vv...những công trình hạ tầng GT-TL bị ảnh hưởng, xuống cấp nghiêm trọng; thêm vào đó hiện tại nhiều công trình kết cấu hạ tầng quan trọng của nên kinh tế (đặc biệt là các công trình GT-TL) cần sớm xây dựng và đưa vào khai thác sử dụng để tạo ra năng lực sản xuất mới, chuyển dịch cơ cấu kinh tế xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân vì vậy vốn đầu tư của NSNN phải dành một phần để phục hồi, nâng cấp những công trình đã có; và nhiều công trình xây dựng mới phải huy động các nguồn vốn khác hoặc kết hợp nhiều nguồn vốn (vốn của doanh nghiệp, vốn tín dụng, vốn ODA, vốn vay ngân hàng nước ngoài ...). Nhiều công trình, dự án nhóm A thuộc lĩnh vực GT-TL đã ghi kế hoạch 2001- 2005 nhưng chưa triển khai được vì thiếu vốn như: đường quốc gia xuyên Việt, trục giao thông nối các vùng kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng có vị trí chiến lược quan trọng để phát triển xuất khẩu, hội nhập; hệ thống đường giao thông vành đai biên giới phía Bắc, các vùng Đông Bắc, Tây Bắc, Trung Bộ, Tây Nam bộ và đồng bằng sông Cửu Long, tuyến giao thông nối với các huyện ở Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Nam ... để khơi thông nguồn lực phát triển kinh tế các tỉnh miền núi, các tỉnh có nhiều khó khăn. Một số công trình thuỷ lợi lớn ở Trung và Tây Nguyên nhằm phát triển sản xuất, cải tạo môi trường, phong chống thiên tai. Tái định cư thuỷ điện Sơn La, Na Hang (Tuyên Quang) ... Đây là những dự án có tính quan trọng đối với sự phát triển KTXH, an ninh quốc phòng cần phải thực hiện ngay từ nay đến năm 2005 và gối đầu cho giai đoạn 2006- 2010. Vì vậy, việc huy động thêm nguồn vốn để đầu tư cho các công trình phục vụ phát triển kinh tế nói chung và cho các công trình phát triển GT-TL quan trọng của đất nước nói riêng là rất cần thiết và cấp bách. Thấy được ý nghĩa và tầm quan trọng đó, để giảm bớt gánh nặng cho NSNN cần thiết phải phát hành TPCP để đầu tư cho các công trình GT-TL quan trọng của đất nước với thời gian triển khai thực hiện tương đối dài hạn từ năm 2003 đến năm 2010 với tổng mức huy động là 110.000 tỷ đồng. Kho bạc Nhà nước trực tiếp phát hành và NSNN bố trí nguồn thanh toán gốc, lãi đúng hạn. Để đáp ứng nhu cầu bức xúc về vốn đầu tư cho các công trình GT-TL nhất là các công trình GT-TL miền núi theo Nghị quyết số 33/2004/QH11 Ngày 09/11/2004 của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định tăng mức huy động trong giai đoạn 2003-2010 từ 63.000 tỷ đồng lên 110.000 tỷ đồng. Thống nhất trong nhận thức và chỉ đạo tổ chức thực hiện, coi việc huy động TPCP để đầu tư một số công trình GT-TL quan trọng của đất nước và một nhiệm vụ trung tâm của ngành tài chính trong những năm 2004 – 2008. Trái phiếu GT-TL được phát hành đợt 1 từ năm 2003. Từ đó đến nay KBNN liên tục phát hành qua các năm với số lượng TPCP ngày một tăng cao Bảng 2.3: Tổng hợp phát hàng trái phiếu GT-TL từ năm 2004-2008. Đơn vị: tỷ đồng/ triệu USD Tỷ giá 15.602 STT Hình thức phát hành Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Tổng cộng Tổng số phát hành (qui đổi) 5033 10585 10348 20276.6 6695 52937.6 Bằng VNĐ 4322.136 10585 10348 20276.6 45531.736 Bằng USD 44358 0 0 44358 1 Phát hành qua KBNN Bằng VNĐ 1203412 1385 0 0 0 1204797 Bằng USD 38858 0 0 0 38858 2 Đấu thầu qua NHNN 5.5 0 0 0 0 5.5 3 Đấu thầu qua TTGDCK 483724 50 1488 6350 555 492167 4 Bảo lãnh phát hành 635 3150 4360 7650 3640 19435 5 BHXH mua 2000 6000 4500 6000 2500 21000 6 Đấu thầu theo lô lớn 296.6 296.6 Nguồn: Kho bạc Nhà nước Việt Nam Trong năm 2007, sau một thời gian nghiên cứu và chuẩn bị chu đáo, KBNN đã phối hợp với trung tâm Giao dịch chứng khoán, Trung tâm Lưu ký chứng khoán thực hiện thành công hai đợt phát hành trái phiếu lô lớn theo kỹ thuật phát hành của các nước tiên tiến, nhằm cơ cấu lại thị trường trái phiếu, góp phần nâng cao tính thanh khoản của trái phiếu trên thị trường thứ cấp, từng bước hình thành đường cong lãi suất chuẩn TPCP, tạo cơ sở cho sự phát triển ổn định, bền vững của thị trường chứng khoán. Kỹ thuật phát hành này đã nhận được sự đồng tình, hưởng ứng của đông đảo các nhà đầu tư, khối lượng vốn huy lớn, lãi suất thấp hơn so với các đợt phát hành cùng thời điểm, thể hiện hiệu ứng liên kết, hỗ trợ giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp, mở ra một trang mới cho sự phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam. Bảng 2.4 : Tình hình giải ngân trái phiếu GT-TL từ 2003 đến 2008. Đơn vị: tỷ đồng. Chỉ tiêu 2003+2004 2005 2006 2007 2008 Luỹ kế I. Tổng nguồn vốn TPCP 10066 12834,5 16120,5 26634,1 21134,1 57970,6 Trong đó: Nguồn vốn TPCP còn năm trước chuyển sang 2249,5 5772,5 6357,5 14439,1 28818,6 Số vốn TPCP huy động hàng năm 10066 10585 10348 20276,6 6695 57970,6 II. Tổng kế hoạch vốn TPCP đã phân bổ 10277 8368 12525 17200 22069,6 70389,6 % so với số vốn huy động hàng năm 102% 79% 121% 85% 330% 121% III. Tổng giá trị khối lượng hoàn thành 6671 5599 7212 9684 12582 41748,9 % so với tổng số vốn huy động 66% 53% 70% 48% 188% 72% % so với tổng kê hoạch vốn đã phân bổ 65% 67% 58% 56% 57% 59% IV. Tổng số vốn TPCP thanh toán qua BNNN (bao gồm cả tạm ứng) 7816,5 7062% 9763% 12195% 20529,7 57366,2 % so với tổng số vốn huy động 78% 67% 94% 60% 307% 99% % so với tổng kế hoạch vốn đã phân bổ 76% 84% 78% 71% 93% 81% % so với tổng giá trị khối lượng hoàn thành 117% 126% 135% 126% 163% 137% Nguồn: Kho bạc Nhà nước Việt Nam Về tình hình giải ngân, nhìn chung quản lý sử dụng vốn huy động được từ phát hành TPCP chặt chẽ. Tuy tỷ lệ giải ngân chưa cao nhưng cơ bản đảm bảo nguyên tắc giải ngân 80% khối lượng huy động của năm trước khi đề ra kế hoạch huy động năm sau. 2.2.2.2 Kết quả phát hành công trái giáo dục cho chương trình kiên cố hoá trường lớp học. Kiên cố hoá trường, lớp học là một Chương trình dự án trọng điểm Quốc gia để nâng cao chất lượng giáo dục và thực hiện mục tiêu của chiến lược phát triển giáo dục đến năm 2010 và những năm tiếp theo. Trong điều kiện NSNN còn nhiều khó khăn, cơ sở vật chất của ngành giáo dục đặc biệt là giáo dục phổ thông và giáo dục tiểu học còn nhiều thiếu thốn. Để phát triển sự nghiệp giáo dục, bên cạnh tăng cường cơ sở vật chất và hiện đại hoá các trường, lớp học đã đủ tiêu chuẩn, cần đầu tư để xóa tình trạng học 3 ca và phòng học tranh tre nứa lá là một mục tiêu hết sức quan trọng mà Đảng ta đã đề ra trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010: “ Tăng cường đầu tư cho giáo dục từ ngân sách Nhà nước và đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục đào tạo. Khuyến khích mạnh mẽ các thành phần kinh tế đầu tư phát triển giáo dục ở tất cả các bậc học, đáp ứng nhu cầu đa dạng của xã hội. Ngân sách Nhà nước tập trung nhiều hơn cho các các bậc giáo dục phổ cập, cho vùng nông thôn, miền núi ...đảm bảo học tập cho con em người có công và gia đình nghèo ...”. Phát hành Công trái giáo dục là một chủ trương quan trọng của Đảng và Nhà nước, là hình thức huy động vốn thông qua việc vận động chính trị nhằm động viên các tầng lớp dân cư, các cơ quan đơn vị, tổ chức kinh tế trên tinh thần tự nguyện và tùy theo khả năng của mình tích cực tham gia mua công trái, góp phần tăng cường đầu tư cho sự nghiệp giáo dục đào tạo của đất nước. Để thực hiện mục tiêu xóa phòng học 3 ca, phòng học tranh tre nứa lá và kiên cố hóa trường học theo Nghị quyết 09/2002/NQ-QH11 ngày 28/11/2002 của Quốc hội và Nghị định số 28/2003/NĐ-CP ngày 31/3/2003 của Chính phủ, Nghị định số 42/2005/NĐ-CP ngày 29/3/2005 của Chính phủ, Bộ Tài chính đã phát hành 02 đợt Công trái giáo dục theo phương thức bản lẻ qua hệ thống KBNN với tổng khối lượng huy động được 5.396 tỷ đồng trong đó đợt 1 ( từ 5/5 đến hết 23/5/2003) huy động được 2.580 tỷ đồng và đợt 2 (từ 19/5/2005 đến hết 03/6/2005) huy động được 2.816 tỷ đồng, đạt 110% so với kế hoạch được giao (5.396tỷ/4.900 tỷ đồng). Theo Nghị định số 42/2005/NĐ-CP ngày 29/3/2005 của Chính phủ về việc phát hành công trái giáo dục năm 2005, Bộ Tài chính đã khẩn trương nghiên cứu, ban hành cơ chế chính sách có liên quan đến việc phát hành công trái giáo dục. Đến ngày 22/4/2005, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và các tài liệu chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ đã được ban hành đầy đủ, đồng bộ và được gửi đến các Bộ ngành, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các địa phương, các cơ quan thông tấn, báo chí, phát thanh truyền hình để triển khai kịp thời cuộc vận động phát hành công trái giáo dục từ ngày 19/5/2005 trên phạm vi cả nước. Từ kinh nghiệm của đợt phát hành công trái giáo dục 2003, KBNN đã chủ động phối hợp với Nhà máy In tiền Quốc gia để in và phân phối chứng chỉ kịp thời, với cơ cấu các loại mệnh giá hợp lý, đảm bảo cung cấp kịp thời cho các điểm bán công trái có đủ số lượng, chủng loại chứng chỉ cần thiết trước khi phát hành.. Ngày 19/5/2005, hệ thống KBNN đồng loạt tổ chức việc phát hành công trái giáo dục với hàng nghìn bàn phát hành trên phạm vi cả nước. KBNN các tỉnh, thành phố đã bố trí địa điểm và thời gian bán công trái hợp lý, bố trí thêm các bàn bán công trái lưu động tạo thuận lợi nhất cho người mua công trái. Theo số liệu điện báo của 64 tỉnh, thành phố, tổng khối lượng công trái giáo dục đã phát hành tính đến hết ngày 03/6/2005 là 2.803 tỷ đồng; so với kế hoạch ban đầu đạt 187% (2.803 tỷ đồng/1.500 tỷ đồng); so với tổng mức chỉ tiêu sau khi được Chính phủ bổ sung đạt 104% (2.803 tỷ đồng/2.700 tỷ đồng). Bảng 2.5: Kết quả thực hiện việc phát hành công trái giáo dục so với kế hoạch vận động năm 2005. Đơn vị: Tỷ đồng STT Khu vực Kế hoạch Thực hiện Tỷ lệ (%) 1 Khu vực dân cư 500 812 162 2 Các tổ chức tín dụng 500 1.550 310 3 Các công ty bảo hiểm 100 185 185 4 Các doanh nghiệp thuộc TW 100 56 56 5 BHXH Việt Nam 300 200 67 TỔNG SỐ 1.500 2.803 187 Nguồn: Kho bạc Nhà nước Việt Nam Tính đến ngày 03/6/2005, tất cả 64 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đều hoàn thành vượt mức chỉ tiêu kế hoạch huy động từ khu vực dân cư. Trong đó, một số địa phương có thành tích nổi bật (đạt tỷ lệ từ 200% trở lên so với chỉ tiêu kế hoạch hoặc có khối lượng phát hành từ 15 tỷ đồng trở lên) Bảng 2.6: Kết quả thực hiện việc phát hành công trái giáo dục năm 2005 ở một số tỉnh thành trong cả nước. Đơn vị: Tỷ đồng STT Tỉnh, thành phố Kế hoạch Thực hiện Tỷ lệ(%) 1 Bình Phước 4 15,454 386,37 2 Quảng Ninh 8 20,680 258,51 3 Hậu Giang 3 7,042 234,76 4 Bình Định 6 12,938 215,64 5 Quảng Ngãi 3 6,106 203,55 6 An Giang 6 12,074 201,25 7 Hà Nội 100 194,508 194,51 8 TP Hồ Chí Minh 60 94,636 157,73 9 Hải Phòng 16 24,751 154,70 10 Thanh Hóa 16 23,508 146,93 11 Bà Rịa – Vũng Tàu 11 20,370 185,19 12 Hà Tây 12 19,845 165,38 13 Nghệ An 12 17,363 144,70 14 Bình Dương 8 15,818 197,73 Nguồn: Kho bạc Nhà nước Việt Nam Đợt phát hành công trái giáo dục 2005 đã hoàn thành vượt mức chỉ tiêu được Chính phủ giao (đạt 187% kế hoạch ban đầu và 104% kế hoạch bổ sung) đảm bảo nguồn vốn để thực hiện chương trình xóa bỏ phòng học ca 3, tran._.riển thị trường TPCP, thị trường vốn của Việt Nam. 3.2 – Những giải pháp hoàn thiện công tác phát hành trái phiếu Chính phủ cho đầu tư phát triển ở nước ta. Các giải pháp về cơ chế chính sách và tổ chức bộ máy. Hoàn thiện cơ chế, chính sách huy động vốn và cơ chế phát hành công trái XDTQ. Xây dựng và ban hành Pháp lệnh (hoặc Luật) về lĩnh vực huy động vốn cho ĐTPT của Nhà nước theo hướng: Nghiên cứu xác định các chủ thể được phép phát hành trái phiếu phục vụ nhu cầu huy động vốn cho ĐTPT trên lãnh thổ Việt Nam bao gồm: Chính phủ; chính quyền địa phương cấp tỉnh, thành phố; các doanh nghiệp được Chính phủ bảo lãnh và các định chế tài chính. Đối tượng mua TPCP: tạo sân chơi bình đẳng cho các tổ chức, cá nhân người Việt Nam được tự do mua các loại TPCP phát hành dưới các hình thức bán buôn bán lẻ. Theo đó, các thành viên của thị trường đấu thầu và bảo lãnh phát hành vẫn được mua trái phiếu Kho bạc phát hành trựuc tiếp ra công chúng. Bổ sung quy định cho phép các tổ chức, cá nhân người nước ngoài được tham gia mua TPCP trên thị trường giao dịch chứng khoán tập trung theo quy định của pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán, nhằm khai thác tối đa nguồn vốn trong nước và ngoài nước cho ĐTPT. Sửa đổi Luật Ngân sách nhà nước cho phép chính quyền địa phương được huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu, đồng thời nâng tỷ lệ dư nợ trái phiếu đầu tư bằng 100% so với tổng mức vốn đầu tư XDCB của ngân sách tỉnh, nhằm nâng cao trách nhiệm tự chủ tài chính của chính quyền địa phương. Sửa đổi Luật các tổ chức tín dụng cho phép ngân hàng thương mại được mua bán TPCP trong phạm vi thời gian đáo hạn không quá 1 năm, nhằm nâng cao tính thanh khoản của TPCP, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng thương mại trong việc sử dụng nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và tăng cường hàng hoá cho thị trường tiền tệ. Ngoài việc phát hành trái phiếu huy động vốn cho ĐTPT, đề nghị Chính phủ cho phép làm thí điểm việc bán có thời hạn một số công trình thuộc cơ sở hạ tầng do Nhà nước đầu tư cho các thành phần kinh tế khác quản lý, khai thác nhằm thu hồi vốn nhanh để đầu tư cho các công trình khác. Sau khi thực hiện thí điểm thành công việc bán có thời hạn các công trình thuộc cơ sở hạ tầng để các thành phần kinh tế khác quản lý, khai thác, thu hồi vốn đầu tư cho NSNN, các cơ quan cần phối hợp soạn thảo, trình Chính phủ ban hành Nghị định về cơ chế chuyển giao, nhượng bán có thời hạn các công trình được Nhà nước đầu tư đã hoàn thành và đang được khai thác có hiệu quả. Bên cạnh việc phát hành TPCP huy động vốn cho NSNN và cho ĐTPT, trong trường hợp đặc biệt, cần huy động một khối lượng vốn lớn trong một thời gian ngắn, có thể tổ chức các đợt phát hành công trái XDTQ với cơ chế phát hành, thanh toán đã được cải tiến, phục vụ nhanh chóng, thuận tiện cho người mua. Lãi suất công trái được xác định trên cơ sở bảo đảm lợi ích của người đầu tư, kết hợp hài hoà giữa lợi ích kinh tế và động viên tinh thần yêu nước của tầng lớp nhân dân. Nguồn vốn huy động từ phát hành công trái được đầu tư cho các công trình có ý nghĩa quan trọng đặc biệt về kinh tế - xã hội, nâng cao dân trí và đời sống tinh thần cho người dân ở các vùng sâu, vùng xa, có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Sau Pháp lệnh về phát hành Công trái XDTQ số 12/1999/PL-UBTVQH10 ngày 27/4/1999 đến nay, chưa có Nghị định hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh như điều 17 của Pháp lệnh đã quy định mà chỉ có Nghị định cụ thể phát hành từng đợt. Vì vậy, mỗi lần phát hành công trái tốn khá nhiều thời gian trong việc xây dựng và ban hành Nghị định cũng như các văn bản dưới luật và công tác triển khai thực hiện. Từ tình hình trên, để thực hiện cải cách thủ tục hành chính, cần soạn thảo một Nghị định chung về phát hành công trái xây dựng tổ quốc, theo hướng Chính phủ giao cho Bộ Tài chính quyết định khối lượng, lãi suất và thời điểm phát hành từng đợt để KBNN hướng dẫn việc tổ chức triển khai phát hành công trái XDTQ. Nâng cao chất lượng công tác kế hoạch hoá phát hành TPCP. Sau khi thành lập cơ quan quản lý nợ quốc gia, cơ quan này sẽ có nhiệm vụ phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan trong việc xây dựng kế hoạch huy động vốn cho ĐTPT, phù hợp với nhu cầu đầu tư của Nhà nước và khả năng của thị trường, đảm bảo sử dụng vốn hiệu quả, tiết kiệm chi phí cho NHNN. Kế hoạch huy động vốn được xây dựng theo từng chủ thể phát hành, bao gồm các nội dung chủ yếu sau: Kế hoạch huy động vốn theo từng loại kỳ hạn Kế hoạch huy động vốn theo thời gian. Bao gồm kế hoạch ngắn hạn ( dưới 1 năm), kế hoạch trung hạn (2-5 năm) và kế hoạch dài hạn (10 – 15 – 20 năm). Kế hoạch huy động vốn theo các phương thức phát hành. Bao gồm huy động vốn dưới hình thức đấu thầu qua NHNN và qua TTGDCK; huy động vốn dưới hình thức đại lý và bảo lãnh phát hành. Kế hoạch huy động vốn phải gắn với kế hoạch sử dụng và phương án trả nợ, bảo đảm sử dụng vốn hiệu quả và có khả năng hoàn trả nợ đầy đủ, đúng hạn. Thực hiện phân loại các đối tượng đầu tư của Trái phiếu Chính phủ để từ đó có chính sách huy động cụ thể với từng đối tượng đó Đối tượng đầu tư của Trái phiếu Chính phủ hiện nay chưa đa dạng, chỉ tập trung vào một số nhà đầu tư nhất định; đặc biệt là số lượng các nhà đầu tư tham gia mua Trái phiếu thông qua các phương thức như đấu thầu, bảo lãnh, đại lý là rất ít. Điều này dẫn đến thực trạng là công tác huy động vốn của KBNN phụ thuộc quá nhiều vào một nhóm các nhà đầu tư cố định; gây ra sự khó khăn, lãng phí và kém hiệu quả trong công tác huy động vốn. Nếu có chính sách phân loại đối tượng đầu tư của Trái phiếu Chính phủ đúng đắn, tức là hiểu rõ những đối tượng đầu tư là những thành phần nào? Động cơ nào thúc đẩy các đối tượng đó đầu tư vào Trái phiếu Chính phủ? Các đặc điểm riêng biệt của từng loại đối tượng đầu tư? Thông qua việc tìm hiểu về các nhà đầu tư của Trái phiếu Chính phủ đó, cần xây dựng các chiến lược huy động cho từng nhà đầu tư; trong đó bao gồm các biện pháp đa dạng hóa các công cụ phát hành, các phương thức phát hành và thực hiện các biện pháp cụ thể hướng tới từng nhà đầu tư nhằm khuyến khích họ tích cực tham gia đầu tư vào Trái phiếu Chính phủ. Cần phân biệt rõ các nhà đầu tư tài chính và các nhà đầu tư không thuộc đầu tư tài chính. Các nhà đầu tư tài chính là các NHTM, công ty bảo hiểm, các công ty tài chính, các quỹ… Các nhà đầu tư thông thường là các công ty, tập đoàn hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp,… các nhà đầu tư lẻ. Đối với các NHTM: Các NHTM đầu tư vào Trái phiếu Chính phủ là nhằm đáp ứng nhu cầu về tính thanh khoản của tài sản, thu được một khoản lãi ổn định nhằm bù đắp cho những khoản đầu tư khác có tính rủi ro cao hơn, thực hiện quản lý tính thanh khoản trong ngắn hạn. Đồng thời, việc đầu tư vào Trái phiếu Chính phủ giúp các NHTM cung cấp các khoản ký quỹ cho các hoạt đông giao dịch repo với khách hàng và các khoản vay chiết khấu từ NHTW. Sự phát triển các hoạt động giao dịch giao dich repo sẽ tạo điều kiện cho các NHTM đầu tư vào các Trái phiếu Chính phủ dài hạn. NHTM là một trong những đối tượng đầu tư bắt buộc của Trái phiếu Chính phủ. Bằng cách quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc và tỷ lệ tài sản thanh khoản cao và cơ chế đảm bảo rằng Trái phiếu Chính phủ là những tài sản thích hợp đáp ứng yêu cầu đó; Trái phiếu Chính phủ nghiễm nhiên có một đối tượng đầu tư với chi phí thấp. Tuy nhiên, nếu các NHTM được tự do đầu tư và trao đổi các Trái phiếu Chính phủ để nhằm đáp ứng các yêu cầu cho công tác quản lý nguồn vốn và tài sản của NHTM, dự phòng cho các hoạt động mang nhiều rủi ro và đáp ứng các yêu cầu của hoạt động giao dịch repo thì các NHTM sẽ trở thành các nhà đầu tư chính của Trái phiếu Chính phủ. Đối với các công ty bảo hiểm và quỹ hưu trí: Các công ty bảo hiểm và quỹ BHXH là các nhà đầu tư quan trọng của Trái phiếu Chính phủ, đặc biệt là các Trái phiếu dài hạn. Quỹ BHXH tạo ra một nguồn tài chính dài hạn và như vậy thích hợp với việc đầu tư vào các công cụ dài hạn của Trái phiếu Chính phủ. Tuy nhiên, do tính chất nguồn vốn của quỹ, quỹ bảo hiểm cần xem xét để kết hợp thời gian đến hạn của các Trái phiếu với nghĩa vụ thanh toán các khoản lương hưu. Các nghĩa vụ thanh toán này phụ thuộc vào cấu trúc về tuổi tác của đối tượng được hưởng lương hưu. Bản chất và kết cấu của nghĩa vụ thanh toán cũng ảnh hưởng đến chính sách đầu tư của các công ty bảo hiểm nhân thọ. Thời hạn của các bản hợp đồng và nghĩa vụ chi trả thường dài, do đó các công ty bảo hiểm nhân thọ có thời hạn thanh toán của Trái phiếu với các nghĩa vụ thanh toán của mình để tránh các rủi ro do tái đầu tư đem lại. Tuy nhiên, các hợp đồng bảo hiểm có khi có thời hạn của Trái phiếu Chính phủ. Đây là một vấn đề cần phải xem xét khi quy định thời hạn của Trái phiếu Chính phủ. Đối với các công ty chứng khoán: Các công ty chứng khoán có vai trò là người trung gian trên thị trường chứng khoán nói chung và thị trương Trái phiếu Chính phủ nói riêng. Nó có chức năng là tạo ra cơ chế huy động vốn đưa ra các dịch vụ quản lý chuyên nghiệp và đa dạng hóa tài sản với tính thanh khoản cao và chi phí thấp. Đối tượng của các công ty chứng khoán là các nhà đầu tư lớn như các NHTM, các công ty bảo hiểm… và các nhà đầu tư nhỏ lẻ. Công ty chứng khoán thực hiện kinh doanh chứng khoán thông qua hai nghiệp vụ chính. Thứ nhất là làm trung gian hoặc đại diện mua, bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Thứ hai là qua nghiệp vụ tự doanh; tức là công ty chứng khoán tiến hành các giao dịch mua bán chứng khoán cho chính mình, sau đó thực hiện mua bán chứng khoán với khách hàng để hưởng chênh lệch gia. Đối với các doanh nghiệp: Thường thì các doanh nghiệp này không phải là các nhà đầu tư dài hạn của Trái phiếu Chính phủ. Trái phiếu Chính phủ chỉ là công cụ để các doanh nghiệp đảm bảo tính lỏng của tài sản trong doanh nghiệp. Tuy nhiên, nguồn vốn nhàn rỗi tạm thời này hay các quỹ của doanh nghiệp cũng là những nguồn tiềm năng của Trái phiếu Chính phủ nếu có cơ chế khai thác phù hợp. Đối với các nhà đầu tư nhỏ lẻ ( dân cư): trong quá trình thực hiện huy động vốn, các nhà đầu tư nhỏ lẻ luôn được dành một sự quan tâm đặc biệt. Mục đích mua Trái phiếu Chính phủ của bộ phận các nhà đầu tư này là một hình thức đầu tư khoản tiền tiết kiệm nhằm mục đích dự phòng hoặc đầu tư trong tương lai. Tuy nhiên, bộ phận này cũng chủ yếu đầu tư vào các công cụ Trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn ngắn. Mặc dù cũng có những bộ phận dân cư có nguồn vốn nhàn rỗi dài hạn, nhưng do ý thức sợ ảnh hưởng của lạm phát, của các biến động về kinh tế nên không dám đầu tư vào các loại Trái phiếu dài hạn. Dựa trên sự phân tích trên đây ta thấy rằng để huy động tối đa các nguồn lực trong nước cần có một chính sách huy động vốn toàn diện và linh hoạt để đáp ứng những nhu cầu đầu tư khác nhau của từng nhà đầu tư. Thứ nhất, tạo cơ chế khuyến khích phát triển hoạt động repo của NHTM; đồng thời tạo điều kiện cho các NHTM chủ động trong việc đảm bảo tính thanh khoản của tài sản, thực hiện dự phòng bù đắp rủi ro… nhằm tăng thêm tính thanh khoản của TPCP. Thứ hai, tạo cơ chế để thúc đẩy hoạt động của các công ty bảo hiểm, các quỹ hưu trí cảu BHXH… các công ty, các quỹ này là các nhà đầu tư dài hạn tiềm năng của Trái phiếu Chính phủ. Tuy nhiên, để khai thác nguồn vốn này, cần có chính sách thích hợp một mặt khuyến khích hoạt động của các nhà đầu tư này phát triển, mặt khác có chính sách huy động phù hợp nhằm thu hút tối đa nguồn vốn này. Để thúc đẩy hoạt động của các tổ chức này thì Nhà nước cần có những quy định và giám sát cụ thể nhằm tạo cơ chế hoạt động minh bạch, rõ ràng; khuyến khích thành lập các công ty bảo hiểm, các quỹ hưu trí…; hoặc miễn giảm thuế kinh doanh… Mặt khác, để huy động nguồn vốn dài hạn của các nhà đầu tư này cần có những công cụ huy động vốn phù hợp với thơi gian thực hiện nghĩa vụ của các nhà đầu tư theo như đặc điểm hoạt động của họ quy định. Tuy nhiên, do là các công cụ dài hạn nên sẽ không tránh khỏi những rủi ro ảnh hưởng của các yếu tố ngoại cảnh tác động đến giá trị thực của Trái phiếu khi đến hạn; do vậy, cần phải xem xét phát hành các Trái phiếu Chính phủ vừa có kỳ hạn dài, vừa có các đặc điểm cân thiết để đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư Trái phiếu, chẳng hạn như Trái phiếu có kèm theo các đặc điểm như: lãi suất thả nổi, Trái phiếu có mối quan hệ với lạm phát… Thứ ba, tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty chứng khoán, các quỹ đầu tư thực hiện tốt chức năng của mình. Đối với các công ty chứng khoán, cần có cơ chế tách bạch rõ ràng giữa hoạt động môi giới chứng khoán và hoạt động tự doanh. Cần có cơ chế thúc đẩy hoạt động môi giới chứng khoán và xem đó là một trong những công cụ làm giảm chi phí phát hành Trái phiếu Chính phủ. Mặt khác, hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán mở ra một kênh huy động tiềm năng cho Trái phiếu Chính phủ; do vậy, cần có những chính sách ưu đãi khuyến khích thành lập và phát triển hoạt động của các công ty chứng khoán trong nước cũng như nước ngoài. Thứ tư, ban hành các quy chế quản lý các quỹ được trích lập sai lợi nhuận của doanh nghiệp một cách rõ ràng để tạo điều kiện cho doanh nghiệp sử dụng quỹ đó đầu tư vào Trái phiếu Chính phủ trong thời gian ngắn khi nhàn rỗi. Đồng thời, về phía KHNN, cần nghiên cứu, xem xét phát hành các loại Trái phiếu ngắn hạn, có đặc điểm thích hợp với nhu cầu đầu tư của doanh nghiệp nhằm khai thác nguồn vốn tạm thời của doanh nghiệp. Thứ năm, cần có các chính sách khuyến khích các nhà đầu tư nhỏ lẻ mua trái phiếu Chính phủ. Việc khuyến khích có thể thông qua công tác tuyên truyền cho họ thấy rõ được lợi ích của họ khi mua Trái phiếu. Đồng thời, KBNN cũng cần tính toán đến những đặc điểm của Trái phiếu mà các nhà đầu tư nhỏ lẻ yêu cầu như: tính an toàn, lãi suất cao, dễ mua, dễ chuyển nhượng… Đồng thời, ngoài kênh tiếp cận với các nhà đầu tư nhỏ lẻ thông qua bán lẻ qua hệ thống KBNN, cần phát triển các kênh tiếp cận khác như thông qua thị trường chứng khoán, thông qua các trung gian tài chính như các công ty tài chính, các công ty chứng khoán… Thứ sáu, nghiên cứu các cơ chế cho phép cá nhân, tổ chức nước ngoài mua Trái phiếu Chính phủ để mở rộng khả năng huy động vốn của Chính phủ cho đầu tư phát triển; đồng thời thúc đẩy công tác huy động vốn vận động phù hợp với xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan chức năng có liên quan để thực hiện có hiệu quả công tác huy động vốn. Ngoài công tác kế hoạch hóa công tác huy động vốn, sự phối hợp giữa các cơ quan như Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp, NHNN, KBNN, Ủy ban chứng khoán Nhà nước, UBND các tỉnh, thành phố thực thuộc trung ương… cần được tăng cường để thực hiện các công việc như: - Xây dựng và hoàn thiện các văn bản quy hướng dẫn việc phát hành Trái phiếu Chính phủ, cơ chế giao dịch Trái phiếu trên thị trường chứng khoán. - Xây dựng kế hoạch phát hành Trái phiếu theo phương thức đấu thầu qua NHNN và qua Trung tâm GDCK hàng quý, hàng năm và dài hạn hơn nữa. - Tổ chức có hiệu quả công tác đấu thầu, bảo lãnh, đại lý Trái phiếu Chính phủ. - Xây dựng các chính sách có liên quan như chính sách lãi suất, Chính phủ thuế… để khuyến khích hoạt động đầu tư, mua bán Trái phiếu Chính phủ. Tăng cường đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ và nâng cao kiến thức của công chúng về lĩnh vực huy động vốn. Tổ chức đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ làm công tác huy động vốn, đặc biệt là nhóm cán bộ xây dựng chiến lược huy động vốn, cơ chế, chính sách huy động vốn với các hình thức: Đối với cán bộ lãnh đạo: tham gia các khoá học ngắn hạn, hội thảo về tài chính công, chính sách kinh tế vĩ mô, chính sách huy động vốn, giúp cho nhóm cán bộ này được cập nhật kiến thức thường xuyên. Đồng thời, tổ chức các đợt khảo sát, học tập kinh nghiệm phát triển thị trường vốn ở các nước kinh tế phát triển hoặc các nước trong khu vực có điều kiện, hoàn cảnh tương đồng để nghiên cứu vận dụng vào thực tế tại Việt Nam. Đối với nhóm cán bộ xây dựng chính sách, chế độ: cử tham gia các khoá đào tạo tập trung, dài hạn, trong nước, nước ngoài về ngoại ngữ và chuyên môn nghiệp vụ. Tổ chức các lớp huấn luyện ngắn hạn, hội thảo chuyên sâu về lĩnh vực tài chính công và phát triển thị trường vốn, giúp cho nhóm cán bộ này củng cố, cập nhật kiến thức, phục vụ cho việc nghiên cứu, xây dựng chính sách, chế độ. Đối với nhóm cán bộ trực tiếp làm nhiệm vụ phát hành, thanh toán trái phiếu: thường xuyên tổ chức các khoá đào tạo nghiệp vụ, giúp cho nhóm cán bộ này có khả năng triển khai các nghiệp vụ phát hành mới, phục vụ nhanh chóng, thuận tiện cho người dân, nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn. Khuyến khích toàn dân thực hiện chính sách tiết kiệm cho ĐTPT và tham gia thị trường chứng khoán: Tổ chức các khoá đào tạo miễn phí phổ biến kiến thức về huy động vốn và lý thuyết chung về thị trường chứng khoán cho tất cả các đối tượng, đặc biệt quan tâm nhóm đối tượng là sinh viên chuẩn bị tốt nghiệp các trường đại học. Tổ chức các cuộc hi tìm hiểu về lĩnh vực huy động vốn cho các đối tượng và đông đảo các tầng lớp nhân dân để phát hiện các sáng kiến, giải pháp tăng cường huy động các nguồn vốn trong dân cho ĐTPT. Phổ biến kiến thức rộng rãi cho công chúng thông qua việc phát hành và phân phối miễn phí các loại sách, báo, tạp chí, băng, đĩa…liên quan đến lĩnh vực huy động vốn và thị trường chứng khoán. Nhóm giải pháp kỹ thuật, nghiệp vụ. 3.2.2.1 Hoàn thiện phương thức phát hành TPCP. Cải tiến cơ chế đấu thầu: Từng bước chuyển dần việc đấu thầu theo kiểu Hà Lan sang đấu thầu kiểu Mỹ. Hình thức đấu thầu kiểu Hà Lan là xác định giá trúng thầu thấp nhất (tương ứng với lãi suất trúng thầu cao nhất) áp dụng chung cho tất cả các thành viên trúng thầu. Hình thức này thực sự phát huy tác dụng trong giai đoạn thị trường mới phát triển vì khuyến khích về giá với các thành viên thị trường. Tuy nhiên, trên phương diện nhà phát hành thì không có lợi do các thành viên đặt lãi suất thấp nhưng vẫn trúng thầu ở mức lãi suất cao. Về lâu dài, nên áp dụng hình thức đấu thầu kiểu Mỹ (các thành viên đặt thầu ở mức giá nào thì trúng thầu ở mức giá đó) để tăng khả năng cạnh tranh của các thành viên thị trường, đồng thời giúp nhà phát hành giảm chi phí huy động vốn so với hình thức đấu thầu kiểu Hà Lan. Cải tiến cơ chế bảo lãnh: Cần xác định lại điều kiện để tham gia thành viên thị trường bảo lãnh. Ngoài tiêu chuẩn về vốn, các tổ chức bảo lãnh phải có khả năng phân phối trái phiếu ra công chúng thể hiện qua mạng lưới chi nhánh, hệ thống khách hàng tiềm năng... Thực hiện nghiêm cơ chế bắt buộc các tổ chức bảo lãnh phải chào bán trái phiếu ra công chúng để đợt phát hành mang tính đại chúng, từ đó tăng khả năng giao dịch, mua bán lại trái phiếu sau khi phát hành. Đổi mới cơ chế lựa chọn tổ chức bảo lãnh trong các đợt phát hành theo hướng tổ chức phát hành đấu thầu để chọn ra các nhà bảo lãnh. Thông qua đấu thầu sẽ xác định được lãi suất và khối lượng trái phiếu phát hành, các tổ chức bảo lãnh được lựa chọn là các đơn vị trúng thầu. Các tổ chức bảo lãnh có trách nhiệm phân phối trái phiếu ra công chúng và được hưởng phí. Mức phí này có thể tính bằng tỷ lệ nhất định trên số tiền trái phiếu nhận bảo lãnh hoặc bằng chênh lệch giữa giá trúng thầu và giá phát hành. 3.2.2.2. Sớm thành lập các nhà đại lý cấp một trên thị trường sơ cấp Đại lý cấp một bao gồm các ngân hàng thương mại, các công ty chứng khoán có tiềm lực tài chính, tham gia thị trường đều đặn, có uy tín và đáp ứng được một số yêu cầu quy định của Bộ Tài chính. Các đại lý cấp một được ưu tiên mua trái phiếu, hưởng phí phát hành thoả đáng. Trường hợp cần vốn để kinh doanh, các đại lý này được sử dụng TPCP để vay tái cấp vốn của NHNN. Đồng thời, họ được đưa ra các ý kiến, nguyện vọng của mình và của các nhà đầu tư cho Bộ Tài chính và các tổ chức phát hành nhằm phát triển thị trường TPCP. Trong những giai đoạn nhất định, các đại lý cấp một có thể được áp dụng chính sách ưu đãi về thuế, phí để khuyến khích thị trường phát triển. Gắn với quyền lợi trên, các đại lý phân phối cấp một có trách nhiệm tham gia đều đặn các đợt đấu thầu, bảo lãnh trái phiếu và phải mua lại trái phiếu khi các nhà đầu tư có nhu cầu bán nhưng không tìm được người mua. Như vậy các đại lý sẽ phải thường xuyên yết giá mua, giá bán trái phiếu, thực hiện các nghiệp vụ mua vào bán ra các trái phiếu sau khi phát hành. Do vậy, các đại lý cấp một còn đóng vai trò nhà tạo lập thị trường (market maker), làm tăng tính thanh khoản cho TPCP trên thị trường thứ cấp. Hàng năm, Bộ Tài chính sẽ xem xét lại tư cách của các đại lý cấp một, loại bỏ những thành viên không đủ tiêu chuẩn, uy tín giảm sút. Quy định này sẽ buộc các thành viên đại lý có trách nhiệm cao hơn trong việc tham gia vào thị trường trái phiếu. Mặt khác, việc giới hạn một số đơn vị đại lý cấp một sẽ làm cho các nhà đầu tư khác muốn đầu tư vào TPCP sẽ phải đặt mua qua các đại lý cấp một, hoặc muốn được công nhận làm đại lý cấp một thì phải phấn đấu để đạt các tiêu chuẩn của Bộ Tài chính đưa ra. Điều này làm cho thị trường TPCP sôi động hơn. 3.3.2.3. Cải tiến cơ chế xác định lãi suất TPCP. Vấn đề xác định lãi suất là yếu tố quan trọng nhất của một đợt phát hành trái phiếu. Lãi suất TPCP cũng như các công cụ lãi suất khác đều có hai mặt và rất nhạy cảm: Nếu lãi suất cao thì có lợi cho nhà đầu tư, khả năng huy động nhanh nhưng lại không hiệu quả đối với việc sử dụng vốn và ngược lại. Đặc biệt đối với trái phiếu trung và dài hạn, lãi suất là một yếu tố quan trọng, tác động trực tiếp đến khả năng huy động vốn. Một chính sách lãi suất hợp lý, bảo đảm được lợi ích của người đầu tư là một đòn bẩy kinh tế hấp dẫn, xoá bỏ tâm lý e ngại đầu tư vào trái phiếu trung và dài hạn. Tại các nước có thị trường vốn phát triển hoàn chỉnh, lãi suất TPCP được hình thành qua đấu thầu, là lãi suất thị trường, không có sự can thiệp của Nhà nước. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, thị trường phát hành TPCP mới hình thành, còn ở trong tình trạng chưa phát triển nên không thể áp dụng cơ chế để lãi suất hình thành tự phát qua đấu thầu. Trước mắt, cần duy trì cơ chế lãi suất trần để định hướng thị trường và tránh những tác động tiêu cực từ các tổ chức đầu tư. Khi thị trường vốn phát triển hoàn chỉnh hơn, cần tháo bỏ cơ chế này, từng bước xác định lãi suất theo hướng tự do hoá để lãi suất trái phiếu phản ánh sát thực tình hình thị trường. Trong thời gian tới, Bộ Tài chính cần thực hiện thí điểm việc bãi bỏ lãi suất trần với tín phiếu Kho bạc vì hiện nay trên thị trường đấu thầu tín phiếu Kho bạc đã có tính cạnh tranh lớn. Mặt khác, tín phiếu Kho bạc có tính thanh khoản cao, độ rủi ro thấp nên lãi suất tín phiếu Kho bạc có thể coi là lãi suất chuẩn cho thị trường. Trên cơ sở lãi suất tín phiếu Kho bạc, cộng thêm một phụ trội nhất định để xác định lãi suất TPCP trung hạn và dài hạn (xác định lãi suất trái phiếu bán lẻ và xác định trần lãi suất phát hành theo phương thức đấu thầu, bảo lãnh TPCP). 3.3.2.4. Xây dựng hệ thống công nghệ thông tin hiện đại cho thị trường TPCP. Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin trong thời đại hiện nay, việc ứng dụng thành tựu của công nghệ tin học vào công tác quản lý TPCP là cần thiết và sẽ mang lại hiệu quả rất lớn. Công nghệ tin học giúp cung cấp thông tin nhanh chóng, chính xác phục vụ công tác quản lý, đồng thời cung cấp dịch vụ thuận tiện cho người đầu tư. Để áp dụng công nghệ tin học nhằm thúc đẩy sự phát triển của thị trường TPCP, góp phần đảm bảo an toàn, nâng cao khả năng huy động vốn trong nước cho đầu tư phát triển, cần quan tâm giải quyết các vấn đề sau: Xây dựng chương trình quản lý nợ Chính phủ, trong đó có một phần phục vụ công tác quản lý TPCP của KBNN, nhằm cung cấp thông tin quản lý về tình hình thị trường TPCP, đáp ứng các nhu cầu phát hành, thanh toán TPCP, đặc biệt là trái phiếu vãng lai bán lẻ qua hệ thống KBNN. Cung cấp các trang thiết bị tin học như máy tính, đường truyền... nhằm xây dựng hệ thống mạng vi tính để phục vụ cho giao dịch mua bán TPCP trên thị trường OTC; cung cấp thông tin kịp thời cho các nhà đầu tư và nhà phát hành về tình hình thị trường trong và ngoài nước, sự biến động của nền kinh tế và các nhân tố khác có ảnh hưởng đến thị trường TPCP. Ứng dụng công nghệ tin học tiên tiến vào công tác quản lý hoạt động giao dịch trái phiếu, rút ngắn thời gian của các món giao dịch, tiết kiệm chi phí và hạn chế các sai sót có thể xảy ra. Việc ứng dụng công nghệ thông tin sẽ tạo điều kiện cho các tổ chức trung gian tài chính kết nối trực tiếp với Sở GDCK tạo điều kiện cho các ngân hàng trong việc thanh toán chuyển giao trái phiếu và thanh toán chuyển tiền, kết nối với Trung tâm lưu ký và thanh toán bù trừ nhằm thực hiện các quyền đối với chủ sở hữu trái phiếu như thanh toán gốc, lãi, cầm cố và chiết khấu trái phiếu trong các quan hệ tín dụng KẾT LUẬN. Trái phiếu là công cụ huy động vốn có hiệu quả của Nhà nước. Trong những năm gần đây, doanh số phát hành trái phiếu cho đầu tư phát triển không ngừng tăng lên, bình quân mỗi năm đạt trên dưới 20.000 tỷ đồng. Việc phát hành trái phiếu công trình có khả năng huy động được khối lượng vốn lớn trong một thời gian ngắn, giúp cho các công trình trọng điểm có thể thi công đúng tiến độ, đảm bảo nâng cao hiệu quả vốn đầu tư. Kết quả này là một đóng góp rất quan trọng để cân đối nguồn vốn đầu tư cho NSNN hàng năm, giải quyết kịp thời các nhu cầu chi cấp bách của nền kinh tế, đặc biệt là bố trí nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Việc phát hành TPCP có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong điều kiện NSNN Việt Nam còn hạn hẹp như hiện nay. Phát hành TPCP không chỉ giúp NSNN có vốn tài trợ cho ĐTPT mà còn góp phần hình thành thị trường tài chính đồng bộ và phát triển. Tăng nhanh tiềm lực tài chính Quốc gia, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn đầu tư của nền kinh tế trong thời kỳ đổi mới, tạo thế là lực để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, phấn đấu đến năm 2010 nước ta đã cơ bản thoát khỏi tình trạng kém phát triển và đến năm 2020 trở thành nước công nghiệp hiện đại, đưa tổng GDP gấp 5 lần so với 2000. Để hoạt động phát hành TPCP trong thời gian tới đáp ứng được yêu cầu chung và bối cảnh của nền kinh tế cần hoàn thiện hơn phương thức phát hành, nghiệp vụ, mục đích phát hành theo hướng coi trọng huy động vốn thông qua phát hành TPCP tài trợ cho đầu tư phát triển. Việc hoàn thiện công tác phát hành TPCP , cơ chế chính sách huy động vốn cho ĐTPT của Nhà nước là một vấn đề phức tạp nên trong phạm vi của chuyên đề này sẽ không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Học viên mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy giáo, cô giáo để bài chuyên đề được hoàn thiện hơn ./. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PGS.TS. Nguyễn Bạch Nguyệt, TS. Từ Quang Phương (2007), Giáo trình kinh tế đầu tư, NXB đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. PGS.TS Lê Văn Hưng (2006), Các giải pháp nhằm tăng cường công tác huy động vốn cho đầu tư phát triển của Nhà nước giai đoạn 2005-2010, NXB Tài chính, Hà Nội. Bộ Tài chính (2000), Kho bạc Nhà nước Việt Nam - quá trình hình thành và phát triển, NXB bản Tài chính, Hà Nội. Bộ Tài chính (2003), Đề án phát hành trái phiếu Chính phủ để đầu tư một số công trình hạ tầng kinh tế xã hội quan trọng của Nhà nước. Bộ Tài chính, Kho bạc Nhà nước Việt Nam (2005), giáo trình bồi dưỡng nghiệp vụ Kho Bạc Nhà nước, NXB Tài chính, Hà Nội. Bộ Tài chính, Kho bạc Nhà nước Việt Nam (2006, 2007, 2008), Tài liệu hội nghị tổng kết công tác các năm 2006, 2007, 2008 hệ thống Kho bạc Nhà nước, Hà Nội. Bộ Tài chính, Kho bạc Nhà nước Việt Nam (2008), Chiến lược phát triển Kho bạc Nhà nước đến 2020, NXB Tài chính, Hà Nội. Hồ Xuân Phương, Lê Văn Ái (2004), giáo trình quản lý tài chính Nhà nước, NXB Tài chính, Hà Nôi. Lê Văn Hưng (2004), Huy động vốn cho đầu tư phát triển của Nhà nước – thực trạng và giải pháp. Kho bạc Nhà nước Việt Nam, ban huy động vốn (2004, 2005, 2006, 2007, 2008), Báo cáo tổng kết công tác các năm 2004, 2005, 2006, 2007, 2008, Hà Nội Thủ tướng Chính phủ (2003), Quyết định số 182/2003/QĐ-TTg ngày 05/9/2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc phát hành trái phiếu Chính phủ để đầu tư một số công trình giao thông, thuỷ lợi quan trọng của đất nước. Chính phủ (2003), Nghị định số 141/2003/NĐ-CP ngày 20/11/2003 của Chính phủ về việc phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu Chính quyền địa phương. Bộ Tài Chính (2004), Thông tư số 19/2004/TT-BTC ngày 18/03/2004 của Bộ Tài chính hướng dẫn việc đấu thầu tín phiếu kho bạc và trái phiếu ngoại tệ qua NHNN Việt Nam. Bộ Tài chính (2004), Thông tư số 32/2004/TT-BTC ngày 12/04/2004 của Bộ Tài chính về việc hướng dẫn phát hành trái phiếu Chính phủ qua hệ thống Kho bạc Nhà nước. Bộ Tài chính (2004), Quyết định số 66/2004/QĐ-BTC ngày 11/08/2004 của Bộ Tài chính ban hành quy chế hướng dẫn về trình tự, thủ tục phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu Chính quyền địa phương. Bộ Tài chính (2006), Quyết định số 4/2006/QĐ-BTC ngày 6/09/2006 của Bộ Tài chính về quy chế phát hành trái phiếu Chính phủ theo lô lớn. Một số website: www.tapchiketoan.com ; www.vneconomy.vn ; www.hanoigov.vn ; www.vietbao.vn ; www.vnexpresss.net ; www.vietnamnet.vn ; www.vbpq.mof.gov.vn ; www.diendankinhte.info ; … MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Kết quả huy động vốn bù đắp thiếu hụt NSNN và ĐTPT giai đoạn 2004 – 2008. 30 Bảng 2.2 : Tình hình thực hiện kế hoạch phát hành TPCP cho ĐTPT giai đoạn 2003-2008. 31 Bảng 2.3: Tổng hợp phát hàng trái phiếu GT-TL từ năm 2004-2008. 34 Bảng 2.4 : Tình hình giải ngân trái phiếu GT-TL từ 2003 đến 2008. 36 Bảng 2.5: Kết quả thực hiện việc phát hành công trái giáo dục so với kế hoạch vận động năm 2005. 39 Bảng 2.6: Kết quả thực hiện việc phát hành công trái giáo dục năm 2005 ở một số tỉnh thành trong cả nước. 40 Bảng 2.7: Kết quả phát hành TPCP theo phương thức huy động vốn giai đoạn 2004-2008. 43 Bảng 2.8: Giao dịch TPCP trên thị trường chứng khoán 2004 – 2008. 45 Bảng 2.9: Kết quả bán lẻ qua hệ thống KBNN cho ĐTPT giai đoạn 2004 - 2007 46 Bảng 2.10: Kết quả đấu thầu TPCP do KBNN phát hành qua TTGDCK giai đoạn 2004-2008. 48 Bảng 2.11: Kết quả phát hành TPCP theo phương thức bảo lãnh phát hành giai đoạn 2004 – 2008. 51 Bảng 2.12: Danh mục công trình sử dụng nguồn vốn phát hành TPCP giai đoạn 2003 – 2010. 53 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21608.doc
Tài liệu liên quan