Phát triển cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Công Thương khu vực Ba Đình

Lời mở đầu Có thể nói cho vay tiêu dùng (CVTD) đang và sẽ đóng một vai trò chủ đạo trong các dịch vụ ngân hàng. Bởi vì cho vay tiêu dùng không chỉ là khoản mục mang lại lợi nhuận cao cho Ngân hàng mà còn vì người tiêu dùng với trình độ dân trí và mức sống ngày càng cao sẽ vay nhiều hơn để tiêu dùng, để nâng cao mức sống bản thân và đáp ứng các kế hoạch chi tiêu trên cơ sở triển vọng về thu nhập trong tương lai. Nhưng hoạt động cho vay tiêu dùng cho đến nay tại Việt Nam vẫn chưa tương xứng với

doc88 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1317 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phát triển cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Công Thương khu vực Ba Đình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiềm năng vốn có của nó. Vì vậy với tư cách là trung gian tài chính quan trọng bậc nhất trong nền kinh tế, các ngân hàng thương mại cần phải thúc đẩy hoạt động đó. Hiện nay đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam thì tín dụng vẫn đang là hoạt động mang lại thu nhập chính, do đó họ cũng rất quan tâm phát triển cho vay tiêu dùng trong thời gian tới. Chi nhánh Ngân Hàng Công Thương (NHCT) Ba Đình là một Ngân hàng thương mại quốc doanh có mức dư nợ hàng năm lên đến hàng nghìn tỷ đồng, trong nhưng năm gần đây hoạt động cho vay tiêu dùng của NHCT Ba Đình đã có những bước phát triển đáng kể, chất lượng cho vay được cải thiện dần qua từng năm. Qua thời gian thực tập tại NHCT Ba Đình, em đã có điều kiện tìm hiểu và nghiên cứu về hoạt động kinh doanh cua Ngân hàng, đặc biệt là hoạt động cho vay tiêu dùng. Làm sao để cùng với việc tăng trưởng dư nợ là chất lượng CVTD không ngừng được nâng cao? Đây không chỉ là một vấn đề trăn trở với NHCT Ba Đình mà còn đối với các NHTM nói chung. Do vậy em chọn đề tài: “Phát triển cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Công Thương khu vực Ba Đình” để làm đề tài nghiên cứu với hy vọng góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động CVTD nói riêng cũng như hoạt động kinh doanh của NHCT Ba Đình nói chung trong những năm tới. Ngoài phần mở đầu và kết luận thì nội dung chính được chia thành 3 chương. + Chương 1: Khái quát chung về cho vay tiêu dùng của Ngân hàng thương mại. + Chương 2; Thực trạng cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Công thương Ba Đình. + Chương 3: Giải pháp phát triển cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Công Thương Ba Đình. Chương 1 Khái quát chung về cho vay tiêu dùng của Ngân hàng Thương Mại Khái niệm, đặc điểm và phân loại cho vay tiêu dùng 1.1.1. Khái niệm cho vay tiêu dùng (CVTD) Trong nền kinh tế hội nhập như hiện nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường thì ngân hàng được coi là một trung gian tài chính quan trọng bậc nhất của nền kinh tế. Sự hoạt động hiệu quả của nó sẽ là tiền đề cho việc luân chuyển, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính cũng như kích thích tăng trưởng kinh tế một cách bền vững. Nhắc đến hoạt động chủ yếu của ngân hàng thì không thể không nói đến hoạt động cho vay. Đặc biệt là đối với các ngân hàng Việt Nam thì lợi nhuận từ hoạt động cho vay đem lại chiếm một phần rất lớn trong tổng lợi nhuận. Do vậy có thể nói cho vay là hoạt động chủ chốt của các ngân hàng thương mại. Trên cơ sở đó thì hoạt động cho vay có thể được hiểu như sau: “ Cho vay là một giao dịch về tài sản ( tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay (ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên di vay (cá nhân, doanh nghiệp, và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên di vat có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán”. Do đó dựa trên các tiêu thức khác nhau thì người ta có thể phân chia cho vay ra lam nhiều loại. Nếu dựa vào mục đích sử dụng vốn vay thì người ta đưa ra loại hình cho vay tiêu dùng. Và trên thực tế có nhiều cách định nghĩa khác nhau về CVTD. CVTD là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của người tiêu dùng, bao gồm cá nhân và hộ gia đình. Đây là một nguồn tài chính quan trọng giúp những người này trang trải nhu cầu nhà ở, đồ dùng gia đình và xe cộ… Bên cạnh đó, những chi tiêu cho nhu cầu giáo dục, y tế và du lịch cũng có thể được tài trợ bởi CVTD. Nhưng nhìn chung “ CVTD được coi là khoản tiền vay cấp cho các cá nhân hộ gia đình để chi dùng cho các mục đích không kinh doanh”. Cho vay tiêu dùng cho phép cá nhân, các hộ gia đình được sử dụng trước khả năng mua của mình trong tương lai, tức là tạo điều kiện thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trước khi họ có khả năng chi trả. Do đó ngoài việc nâng cao mức sống về mặt vật chất thì nó còn gián tiếp kích thích sản xuất phát triển. Mặt khác ở CVTD thì người vay sử dụng tiền vay vào mục đích không sinh lời và nguồn trả nợ độc lập so với việc sử dụng tiền vay. ở các nước phát triển thì hoạt động này đã rất phát triển và được sử dụng rất rộng rãi còn ở nước ta thì mới chỉ là giai đoạn ban đầu. Do đó việc nghiên cứu những đặc trưng cơ bản của hoạt động cho vay này kết hợp với điều kiện thực tế của nước ta có ý nghĩa cho việc thúc đẩy hoạt động này và đem lại hiệu quả thiết thực cho ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung. 1.1.2. Đối tượng CVTD Tuỳ vào cách xác đinh của từng ngân hàng hoặc cách phân chia thì đối tương cho vay tiêu dùng có rất nhiều dạng. Ta có thể chia đối tượng cho vay tiêu dùng theo mức độ tài chính của khách hàng. Có thể chia làm các nhóm như sau: + Các đối tượng có thu nhập thấp: Những người có thu nhập thấp thì thường nhu cầu vay để tiêu dùng không cao vì giới hạn bởi thu nhập hạn chế việc vay vốn nhằm tạo sự cân đối giữa thu nhập và chi tiêu. + Các đối tượng có thu nhập trung bình: Đối với những người này nhu cầu vay vốn có xu hướng tăng mạnh. Đối tượng này muốn vay để tiêu dùng hơn là bỏ ra khoản tiền tiết kiệm tích luỹ của mình để đáp ứng được những mục đích đó. + Các đối tượng có thu nhập cao: Nhu cầu nảy sinh làm tăng thêm khả năng thanh toán và coi no như một khoản nợ linh hoạt để chi tiêu khi mà tiền vốn tích luỹ của họ đang được đầu tư trung và dài hạn. Hiểu theo cách khác thì khoản tiền vay tiêu dùng này được coi la nguồn ứng trước của lợi nhuận do đầu tư mang lại. Những người nhóm này là thường xuyên cần chi tiêu trong mục đích tiêu dùng với số tiền lớn. Vì vậy, các ngân hàng thương mại càn phải chú ý quan tâm đến nhóm khách hàng này. 1.1.3. Đặc điểm cho vay tiêu dùng 1.1.3.1. Đặc điểm về quy mô Đối với cho vay tiêu dùng ta có thể thấy một đặc điểm là số lượng khách hàng vay thì rất lớn những giá trị mỗi khoản vay thì thường là nhỏ. Mặc dù vậy thì tổng giá trị các khoản thì vẫn lớn. Bởi vì cho vay tiêu dùng là khoản vay cấp cho các cá nhân, hộ gia đình để chi dùng cho các mục đích không kinh doanh nên nó thường là các khoản vay có giá trị không lớn thậm chí còn rất nhỏ. Giá trị này được xác định trên cơ sở giá cả hàng hoá, dịch vụ mà khách hàng đang có nhu cầu tiêu dùng mà những thứ này thì không quá đắt đỏ. Hoặc do những cá nhân, hộ gia đình họ cũng có một số tiền tích luỹ nhất định nên số tiền họ còn thiếu để vay sẽ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng nhu cầu để tiêu dùng. Những do số lượng khách hàng là lớn nên tổng khoản cho vay la rất lớn, điều này được phản ánh qua tổng dư nợ cho vay tiêu dùng tại các ngân hàng thương mại lớn. Đây cũng là xu thế phổ biến, khi xã hội càng phát triển thì những nhu cầu để thoả mãn nhu cầu cá nhân và tiêu dùng càng trở nên phong phú và đa dạng hơn do đó số lượng vay tiêu dùng sẽ lớn. 1.1.3.2. Đặc điểm về lãi suất Lãi suất cho vay tiêu dùng thường cao hơn và “cứng nhắc” với lãi suất các loai trong lĩnh vực thương mại và công nghiệp. Ngoài ra chí phí của nó cũng thường cao hơn so với các khoản cho vay khác. Cho vay tiêu dùng từ khi ra đời và phát triển đã đem lại cho các ngân hàng lợi nhuận lớn, lãi suất cho vay tiêu dùng thường được cố định. Khi đưa ra mức lãi suất cho vay cố định đó, các ngân hàng thường phải dự tính đến yếu tố lãi suất huy động đầu vào sẽ thay đổi như thế nào để làm căn cứ đưa ra lãi suất cho vay tiêu dùng. Vì vậy lãi suất cho vay tiêu dùng không linh hoạt như các khoản cho vay kinh doanh khác hiện nay với lãi suất thoả thuận, tuỳ thuộc sự thay đổi của điều kiện thị trường. Đây cũng là yếu tố tiềm ẩn rủi ro cho ngân hàng khi lãi suât huy động tăng, nhưng thông thường các khoản vay tiêu dùng thường được định giá rất cao. Lý do chính được đưa ra để lý giải cho mức lãi suất cao của các khoản vay tiêu dùng đó là cho vay tiêu dùng có chi phí lớn và rủi ro cao trong danh mục cho vay của ngân hàng. Mỗi hợp đồng vay thường có giá trị nhỏ hơn nhiều so với giá trị các hợp đồng vay của các đơn vị sản xuất. Do đó chi phí tổ chức cho vay cao. Ngoài ra nhu cầu tiêu dùng của khách hàng thường phụ thuộc vào chu kỳ kinh tế. Khi nền kinh tế tăng trưởng mạnh, moi người tin rằng mình sẽ có một thu nhập cao hơn trong tương lai từ đó nhu cầu người dân sẽ tăng lên dẫn đến tăng nhu cầu cho vay tiêu dùng. Ngược lại khi nên kinh tế suy thoái, sức mua của dân cư giảm sút, mọi người có xu hướng tiết kiệm hơn là tiêu dùng nên họ sẽ hạn chế tìm kiếm các khoản vay từ ngân hàng. Do đó nhu cầu tiêu dùng sẽ giảm. Người tiêu dùng thường kém nhạy cảm với lãi suất. Ta có thể thấy nhu cầu vay tiêu dùng của khách hàng hầu như ít co dãn với lãi suất. Họ thường chỉ quan tâm đến số tiền mà họ phải trả theo từng đợt (có thể là tháng, quý) hơn là lãi suất mà họ phải chịu. Bởi vì khi tiêu dùng một loại hàng hoá dịch vụ nào đó, có thể có giá trị lớn hoặc nhỏ thì họ chỉ quan tâm đến việc thu nhập của mình trong tương lai có thể trang trải được khoản vay hiện nay hay không, nếu phù hợp họ sẽ vay để thoả mãn nhu cầu của mình. Thu nhập và trình độ học vấn cũng có tác động rất lớn đến việc sủ dụng các khoản tiền vay của người tiêu dùng. Những người có thu nhập cao và ổn định thường sẽ có nhu cầu tiêu dùng lớn hơn, và những người có học vấn cao thì những nhu cầu hàng ngày của họ yêu cầu sẽ ngày càng phong phú và đa dạng như vêd giải trí, điều kiện sống, sinh hoạt … và ngược lại. Bên cạnh đó thì tư cách khách hàng là một yếu tố rất khó xác định song lại rất quan trọng, quyết định đến sự hoàn trả của khoản vay. Nó là một khái niệm trừu tượng không dễ dàng gì xác định được rằng tư cách người đó là tốt hay xấu. Nếu họ là người có tư cách tốt thì họ sẽ có ý thức và trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi đầy đủ và đúng hạn. Ngược lại, nếu khách hàng là người có tư cách không tốt thì việc nhận biết được con người thực của họ là rất khó và họ chỉ làm sao để vay được tiền ngân hàng mà rất ít quan tâm tới việc làm thế nào để trả nợ. Do vậy ngân hàng cho những đối tượng đó vay sẽ rất dễ gặp rủi ro khi thu nợ. 1.1.3.3. Rủi ro trong cho vay tiêu dùng Bản thân hoạt động cho vay của ngân hàng đã đã tiềm ẩn rất nhiều rủi ro và cho vay tiêu dùng cũng không phải là ngoại lệ. Mà rủi ro trong hoạt động này lại tiềm ẩn rủi ro ở mức cao hơn các khoản vay kinh doanh. Ta có thể xem xét nó dưới 2 góc độ, đó la rủi ro lãi suất và rủi ro tín dụng. + Về rủi ro lãi suất: Cũng như đã nói ở trên do lãi suất cho vay tiêu dùng là cố định và nó thường được xác định giá dựa trên lãi suất cơ bản cộng với mức lãi suất cận biên và phần bù rủi ro. Nhưng khi lãi suất trên thị trường vốn tăng mà lãi suất của các khoản cho vay tiêu dùng là cố định và cứng nhắc như thế sẽ khiến cho ngân hàng phải bù đắp mức lãi suất huy động vốn mà không được thay đổi lãi suất cho vay tiêu dùng. + Về rủi ro tín dụng: Nguồn tài chính để chi trả cho khoản vay tiêu dùng không phải là dựa vào lợi nhuận hay bắt nguồn từ chính những khoản tiền vay đó đem lại mà nó lai phụ thuộc vào một nguồn khác độc lập hoàn toàn với nguồn vay đó chính là khoản thu nhập của người đó trong tương lai. Do đó nó sẽ bao gồm cả rủi ro khách quan và chủ quan. Ví dụ như tình trạng kinh tế tăng trưởng hay la suy thoái, bệnh tật, thiên tai, địch hoạ… nó đều làm ảnh hưởng đến khả năng trả nợ người vay, hoặc cac rủi ro mang tính cá nhân về sức khoẻ, tai nạn, công việc nó sẽ ảnh hưởng gian tiếp đến nguồn thu nhập của người đó và đương nhiên sẽ đe doạ đến nguồn trả nợ của ngân hàng. 1.1.3.4. Đặc điểm lợi nhuận trong cho vay tiêu dùng Chính vì rủi ro càng cao nên kỳ vọng lợi nhuận đem lại càng lớn, nên ta có thể thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa rủi ro và lợi nhuận. Như ở trên đã nói cho vay tiêu dùng luôn tiềm ẩn rủi ro ở mức cao, điều này đồng nghĩa với một điều là lợi nhuận kỳ vọng mang lại từ nguồn cho vay tiêu dùng là cũng lớn. Thực ra có điều này là do chính vì rủi ro tiềm ẩn là cao do đó phần bù rủi ro được cộng vào để tính mức lãi suất cũng cao, ngoài ra khoản chi phí mà ngân hang phải bỏ ra thực hiện được một hợp đồng là cũng chiếm tỷ lệ lớn so với giá trị khoản cho vay nên nó cũng làm cho lãi suất trở nên cao hơn. Ngoài ra hầu như không có sự co dãn cầu tiêu dùng khi lãi suất thay đổi, vì mục tiêu của họ là thoả mãn nhu cầu lên hàng đầu chứ không phải là tính chuyện thu lợi nhuận lãi lỗ từ khoản đó như là trong kinh doanh. Chính vì những điều kiện trên nên mức lãi suất cho vay tiêu dùng thường được xác định cao hơn mức bình thường và quan trọng hơn là nó lại được người tiêu dùng chấp nhân, do đó lợi nhuận kỳ vọng mang lại sẽ ở mức cao hơn. 1.2. Các phương thức cho vay tiêu dùng Có nhiều phương thức cho vay tiêu dùng dựa trên những tiêu thức khác nhau để ta có những góc nhìn nhận khác nhau đối với loại hình cho vay tiêu dùng. 1.2.1. Phân loại cho vay tiêu dùng dựa vào mục đích Căn cứ vào mục đích vay, cho vay tiêu dùng được chia làm 2 loại: - Cho vay tiêu dùng cư trú: cho vay tiêu dùng cư trú là khoản vay nhằm tài trợ cho nhu cầu mua sắm, xây dựng hoặc cải tạo nhà ở của khách hàng là cá nhân hộ gia đình. - Cho vay tiêu dùng phi cư trú: cho vay tiêu dùng phi cư trú là khoản cho vay tài trợ cho việc trang trải các chi phi mua sắm, xe cộ, đồ dùng gia đình, chi phí học hành , giải trí và du lịch… 1.2.2. Căn cứ vào phương thức hoàn trả Căn cứ vào phương thức hoàn trả thì gồm có cho vay tiêu dùng trả góp và phi trả góp. Trong đó thì cho vay tiêu dùng trả góp chiếm tỷ lệ rất lớn. Vì người ta thấy rằng định kỳ trả như vậy thì sẽ thuận lợi hơn là trả gốc và lãi một lần. - Cho vay tiêu dùng trả góp: nó là cac khoản vay ngắn hoặc trung hạn được thanh toán làm hai hoặc nhiều lần liên tiếp (có thể theo tháng hoặc quý). Khoản vay này thường được tài trợ cho nhu cầu mua sắm đối với những tài sản có giá trị lớn và thời gian sử dụng dài. Ví dụ như là ôtô, đồ dùng thiết bị gia đình hoặc để trả các khoản nợ cho gia đình. Cùng với nó thì trách nhiệm và thiện trí trả nợ của khách hàng cũng cao hơn. - Thông thường ngân hàng yêu cầu người đi vay phải thanh toán trước một phần giá trị tài sản cần mua sắm (khoảng 20-30% giá trị hàng hoá). Đây là số tiền phải trả trước, phần còn lại ngân hàng sẽ cho vay. Số tiền trả trước cũng cần phải đủ lớn để một mặt làm cho người đi vay nghĩ rằng họ chính là chủ tài sản, mặt khác nó còn làm nhiệm vụ hạn chế rủi ro cho ngân hàng. Và tài sản đảm bảo khoản vay này chính là tài sản cần mua sắm. Khi xác định các điều khoản liên quan đến việc thanh toán nợ của khách hàng, ngân hàng phải chú ý một số vấn đề sau: + Số tiền thanh toán mỗi kì phải phù hợp với khả năng thu nhập xét trong mối quan hệ hài hoà với các nhu cầu chi tiêu khác của khách hàng. + Giá trị của tài sản nợ không được thấp hơn số tiền tài trợ chưa được thu hồi. + Kỳ hạn trả nợ phải thuận lợi cho việc trả nợ của khách hàng, thường là theo tháng do nguồn trả nợ của người vay tiêu dùng chủ yếu là từ thu nhập nhận được hàng tháng. Đây chính là hình thức cho vay khuyến khích tiêu dùng, phù hơp với chủ trương kích cầu của Chính phủ giúp các doanh nghiệp đẩy nhanh tiến độ tiêu thụ sản phẩm. - Cho vay trả một lần: là các khoản vay ngắn hạn của cá nhân và hộ gia đình để đáp ứng nhu cầu tiền mặt tức thời và được thanh toán một lần khi khoản vay đáo hạn. Qui mô của những khoản vay này tương đối là nhỏ, bao gồm cả phí tài khoản với yêu cầu thanh toán trong một khoảng thời gian tương đối ngắn. Phần lớn các khoản vay loại này được dùng để chi trả cho các chuyến đi nghỉ, tiền nằm viện, mua các vật dụng gia đình hoặc sửa chữa ôtô, nhà ở. - Cho vay tiêu dùng tuần hoàn: là các khoản vay trong đó ngân hàng cho phép khách hàng sử dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành loại séc thấu chi dựa trên tài khoản vãng lai. Theo phương thức này, trong thời gian tín dụng được thoả thuận trước, căn cứ vào nhu cầu chi tiêu và thu nhập kiếm được từng kỳ, khách hàng được ngân hàng cho phép thực hiện cho vay và trả nợ nhiều kỳ một cách tuần hoàn. Trong tất cả các lãi suất cho vay tiêu dùng, mức cao nhất là đối với tín dụng tuần hoàn. Bởi vì những khoản vay tín dụng không được đảm bảo, và chi phí để điều hành tín dụng tuần hoàn tương đối cao: như dự trữ quỹ, xử lý thẻ tín dụng bao gồm kiểm tra tín dụng lừa đảo và những mất mát trong thu ngân. Lãi phải trả trong mỗi kỳ có thể dựa trên một trong ba cách sau: + Lãi trước được tính trên số dư nợ đã được điều chỉnh, theo phương pháp này số dư nợ được dùng để tính lãi là số dư nợ cuối cùng của mỗi thời kỳ khi khách hàng đã được thanh toán nợ cho ngân hàng. + Lãi được tính trên số dư nợ trước khi điều chỉnh: theo cách này số dư nợ dùng để tính lãi là số dự nợ mỗi kỳ có trước khi khoản nợ được thanh toán. + Lãi được tính trên cơ sở nợ bình quân. 1.2.3. Căn cứ vào hình thức đảm bảo tiền vay(3 loại) 1.2.3.1 Cho vay cầm đồ - Nó chính là một hình thức ngân hàng cho khách hàng vay để nhằm mục đích tiêu dùng nhưng ngân hàng giữ tài sản của khách hàng để đảm bảo thực hiện các nghĩa vụ của khách hàng. - Danh mục các loại tài sản và điều kiện các tài sản được cầm đồ cũng được ngân hàng quy định cụ thể dựa trên cơ sở quy định của pháp luật và chính sách tín dụng của ngân hàng 1.2.3.2. Cho vay thế chấp lương Cho vay thế chấp lương thường được áp dụng cho khách hàng có việc làm ổn định, thu nhập ổn định ngoài việc chi cho các khoản thường xuyên hàng tháng thì còn tích luỹ được để còn trả nợ vay. Và số tiền được vay sẽ dựa trên nhu cầu muốn vay của khách hàng, thu nhập thường xuyên của khách hàng đó và giới hạn cho vay tối đa của ngân hàng. Do đó khi xét duyệt cho vay, ngân hàng cần thu thập đủ thông tin về các thu nhập khác nhau cũng như các khoản chi tiêu khác thường xuyên của khách hàng. 1.2.3.3. Cho vay có đảm bảo tài sản hình thành từ tiền vay Nó thường được áp dụng đối với khách hàng có nhu cầu vay tiêu dùng để mua các tài sản có giá trị lớn, thời gian sử dụng lâu dài. Tuỳ thuộc vào khả năng tài chính và trả nợ của khách hàng, giá trị tài sản mua sắm và mức tối đa cho vay khoảng 50-60% giá trị tài sản mua sắm mà từ đó ngân hàng sẽ có mức cho vay thích hợp. 1.2.4. Căn cứ vào nguồn gốc của các khoản cho vay tiêu dùng Căn cứ vào nguồn gốc của các khoản cho vay thì ta có thể chia ra làm 2 loại: phương thức cho vay tiêu dùng trực tiếp và phương thức cho vay tiêu dùng gián tiếp. Bởi vì có 2 cách: đó là ngân hàng có thể thực hiện trực tiếp các khoản cho vay tiêu dùng này với khách hàng đến xin vay tại ngân hàng hoặc ngân hàng có thẻ mua lại các phiếu tiêu dùng từ những người bán lẻ hàng hoá cho khách hàng tiêu dùng hay từ những người cung cấp dịch vụ tiêu dùng. Ví dụ: các chứng từ của những người buôn bán xe ôtô, những người bán lẻ thiết bị dân dụng như máy điều hoà, tủ lạnh, máy giặt, tivi… 1.2.4.1 Cho vay tiêu dùng gián tiếp - Là hình thức cho vay trong đó ngân hàng mua các khoản nợ phát sinh do những công ty bán lẻ đã bán chịu hàng hoá hay dịch vụ cho nhà tiêu dùng. Nó được thể hiện qua sơ đồ sau: Công ty bán lẻ Ngân hàng Người tiêu dùng Ngân hàng và công ty bán lẻ ký kết hợp đồng mua bán nợ. Công ty bán lẻ và người tiêu dùng ký kết hợp đồng mua bán chiu hàng hoá. Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng. Công ty bán lẻ bán bộ chứng từ bán chịu hàng hoá cho ngân hàng. Ngân hàng thanh toán tiền cho các công ty bán lẻ. Người tiêu dùng thanh toán tiền trả góp cho ngân hàng. - Cho vay tiêu dùng gián tiếp có một số ưu điểm như: + Cho phép ngân hàng tăng doanh số cho vay tiêu dùng. + Cho phép ngân hàng tiết giảm được chi phí trong cho vay. + Là nguồn gốc của việc mở rộng quan hệ với khách hàng và các hoạt động ngân hàng khác. + Trong trường hợp có quan hệ với các công ty bán lẻ tốt, cho vay tiêu dùng gián tiếp an toàn hơn cho vay tiêu dùng trực tiếp. - Ngoài ra nó còn có một số nhược điểm sau: + Ngân hàng không tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng đã được bán chịu. + Thiếu sự kiểm soát của ngân hàng khi công ty bán lẻ thực hiện việc bán chịu hàng hoá. + Kỹ thuật nghiệp vụ cho vay tiêu dùng gián tiếp có tính phức tạp cao. Do những nhược điểm này cho nên những ngân hàng tham gia vào hoạt động này đều phải co những biện pháp , cơ chế kiểm tra kiểm soát rất chặt chẽ. Trong khi đó một số ngân hàng thì lại không để ý đến nhiều hoạt động cho vay tiêu dùng gián tiếp này. - Cho vay tiêu dùng gián tiếp thường được thực hiện thông qua các phương thức như phương thức được truy đòi hoàn toàn, phương thức truy đòi hạn chế, phương thức không truy đòi, phương thức mua lại. + Phương thức truy đòi hoàn toàn: Phương thức này nói rằng khi bán cho ngân hàng các khoản nợ mà mà người tiêu dùng đã mua chịu, công ty bán lẻ sẽ cam kết thanh toán toàn bộ các khoản nợ cho ngân hàng nếu khi đến hạn người mà tiêu dùng không thanh toán được cho ngân hàng. Mặt khác nếu một số phiếu nợ trở thành quá hạn thanh toán các công ty bán lẻ buộc phải chi trả, thu xếp thời gian thực hiện chi trả. Do đó phương thức này mang lại ít rủi ro cho ngân hàng và như thế các công ty bán lẻ buộc phải quan tâm đến chất lượng các khoản bán chịu. + Phương thức truy đòi hạn chế: theo phương thức này trách nhiệm của công ty bán lẻ đối với các khoản nợ mà người tiêu dùng không thanh toán chỉ giới hạn trong một chừng mực nhất định, nó phụ thuộc vào các khoản thoả thuận giữa ngân hàng và công ty bán lẻ. Các điều kiện thường được sử dụng là: * Công ty bán lẻ phải chịu trách nhiệm thanh toán một phần nợ trong trường hợp nếu người mua không đủ tiền để trả trước một số tiền nhất định khi mua hoặc không đủ tiêu chuẩn tín dụng của ngân hàng. * Công ty bán lẻ cam kết trả toàn bộ số đã bán chịu cho tới khi ngân hàng thu hồi được nợ. * Toàn bộ trách nhiệm thanh toán nợ của công ty bán lẻ giới hạn trong phạm vi số tiền dự phòng gửi tới ngân hàng. + Phương thức không truy đòi: Là phương thức không yêu cầu sự bồi thường của công ty bán lẻ do vậy các công ty này sẽ không có trách nhiệm về các phiếu nợ bán cho ngân hàng. Đây là phương thức luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn đối với ngân hàng nên chi phí tài trợ thường được ngân hàng tính cao hơn so với phương thức truy đòi. Cũng chính vì có nhiều rủi ro hơn nên ngân hàng thường phải lựa chọn loại chứng từ nào được mua và các công ty bán lẻ sẽ không nhận được một phần chi phí được trích lập của khoản dự trữ. Chỉ có các công ty bán lẻ mà rất được ngân hàng tin cậy thì mới được áp dụng phương thức này. + Phương thức mua lại: Đây chính là phương thức thoả thuận không truy đòi hoặc truy đòi giới hạn, cho phép công ty bán lẻ mua lại số dư thực tế chưa thanh toán. Khi khoản cho vay quá hạn thi hàng hoá sẽ được ngân hàng tái sở hữu và phân phát cho công ty bán lẻ trong một thời gian đã được sắp xếp. Phương thức này phù hợp với các công ty bán lẻ mạnh về tài chính và có trách nhiệm. Vì công ty bán lẻ có ít rủi ro với phương thức mua lại hơn là phương thức truy đòi hoàn toàn, họ được một phần nhỏ hơn trong lợi tức tài chính. 1.2.4.2. Phương thức cho vay tiêu dùng trực tiếp - Là các khoản cho vay tiêu dùng trong đó ngân hàng trực tiếp tiếp xúc và cho khách hàng vay cũng như trực tiếp thu nợ từ người này. Cho vay tiêu dùng trực tiếp thường được thể hiện theo sơ đồ sau: Ngân hàng Công ty bán lẻ Người tiêu dùng Ngân hàng và người tiêu dùng ký kết hợp đồng vay. (2) Người tiêu dùng trả trước một phần tiền mua tài sản cho các công ty bán lẻ. (3) Ngân hàng thanh toán số tiền mua tài sản còn thiếu cho công ty bán lẻ. Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng. Người tiêu dùng thanh toán số tiền vay cho ngân hàng. - So với cho vay tiêu dùng gián tiếp thì cho vay tiêu dùng trực tiếp có một số ưu điểm như: + Ngân hàng có thể tận dùng được sở trường của nhân viên tín dụng. Đây là những người được đào tạo chuyên môn và có rất nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực tín dụng nên các quyết định trực tiếp của ngân hàng sẽ có chất lượng cao hơn với trường hợp quyết định bởi các công ty bán lẻ. + Ngoài ra thì bản thân nhân viên tín dụng của ngân hàng luôn có ý thức và trách nhiệm tạo ra các khoản vay có chất lượng tốt (khả năng cho vay được nhiều nhưng phải kèm theo khả năng thu hồi cả gốc và lãi tốt) trong khi các nhân viên của các công ty bán lẻ thường chú trọng đến việc bán được nhiều hàng. + Tại điểm bán hàng, thì các quyết định thường được đưa ra vội vàng và có thể từ chối bỏ sót đối với một số khách hàng tốt, đương nhiên cũng sẽ có nhiều khoản cấp tín dụng không chính đáng. Điều này có thể sẽ hạn chế hơn nếu người câp tín dụng là ngân hàng. Ta có thể phân thành các phương thức như sau: - Phương thức tín dụng trả theo định kỳ: Theo phương thức này thì toàn bộ số tiền vay được sẽ ghi nợ vào tài sản cho vay và ghi có vào tài sản tiền gửi cá nhân, hoặc được giao cho khách hàng một cách trực tiếp. Trong hợp đồng tín dụng của phương thức này giữa ngân hàng và khách hàng thường tồn tại điều khoản “ mục đích sử “ tức là thoả thuận về đối tượng cấp tín dụng. Thông thường thì kỳ hạn hoàn trả thường là một tháng, người vay tiêu dùng tiến hành trả dần dần theo tháng để giảm bớt số tiền nợ cho đến khi hết. Ngoài ra kỳ hạn hoàn trả còn tuỳ thuộc vào nhu cầu của người vay nữa. Tiền lãi được tính trên cơ sở số dư hàng tháng còn lại của khoản tiền vay. Nhưng cũng có sự linh hoạt trong phương thức hoàn trả, ví dụ trong trường hợp thì việc hoàn trả được tiến hành một lần vào thời điểm giao hạn khoản vay bao gồm cả gốc và lãi. Ngoài ra còn có sự linh động trong phương thức sử dụng khoản vay. Ngân hàng cung ứng những khoản ứng trước có tính chất dự phòng nghĩa là chỉ một phần khoản ứng trước này được đem ra sử dụng trong kỳ hạn đã cho phép. Khi đó ngân hàng sẽ áp dụng phí cam kết có thể tính cho toàn bộ số tiền trong suốt kỳ hạn kể từ khi ngân hàng trao quyền sử dụng, hoặc có thể tính cho số tiền còn lại thuộc phần chưa dùng đến của khoản ứng trước đã cho phép. Điều quan trọng đối với ngân hàng trong phương thức cho vay này là ngân hàng phải xác định được các nguồn thu nhập của khách hàng đồng thời với nó là các khoản cho chi phí cần thiết. Từ đó có thể đánh giá được năng lực hoàn trả của người vay cũng như hạn mức khoản tiền có thể vay. - Phương thức thấu chi: Thấu chi là hình thức cấp tín dụng ứng trước đặc biệt trên cơ sở hợp đông tín dụng hay còn gọi là hạn mức tín dụng, nó được thực hiện bằng cách cho phép khách hàng được sử dụng dư nợ trong một giới hạn nhất định. Cho phép một cá nhân rút tiền từ tài khoản vãng lai của họ vượt quá số dư cho tới một hạn mức cho phép. Nghiệp vụ này có lợi cho khách hàng hơn trong việc sử dụng nó. Nó chỉ đòi hỏi khách hàng chỉ phải trả lãi phần tiền của khoản tiền ứng trước đã sử dụng theo mức lãi suất đã thoả thuận, không qui định các đối tượng tín dụng là các mặt hàng cụ thể nào. Việc hoàn trả định kỳ không được thiết lập, khách hàng có thể hoàn trả một số tiền nào đó vào bất kỳ lúc nào, có thể bằng cách gửi tiền vào tài khoản. Hàng năm ngân hàng sẽ xem xét ấn định lại việc tăng hay giảm lượng tiền hoặc yêu cầu phải hoàn trả vào bất cứ lúc nào. Đối với ngân hàng thì việc kiểm tra kiểm soát thường xuyên có ý nghĩa rất quan trọng, bởi vì nó chính là lúc xem lại hoạt động này có thật sự đem lại hiệu quả cho ngân hàng không, sự rủi ro không thu hồi được có lớn hay không, số dư biến động ra sao. Khi cấp khoản tiền thấu chi, giám đốc hoặc cán bộ tín dụng có nhiêm vụ phát hành một thư nghiệp vụ. Trong đó nó qui định lượng tiền tối đa có thể thấu chi, lãi suất, các điều kiện yêu cầu đảm bảo, chi phí các loại có liên quan, thời điểm tái xét và kỳ hạn nợ. - Phương thức thẻ tín dụng: Đây là nhiệp vụ tín dụng mà trong đó ngân hàng sẽ phát hành thẻ cho những người có tài khoản ở ngân hàng phải có đủ điều kiện cấp thẻ và ấn định mức giới hạn tín dụng tối đa mà người có thẻ được phép sử dụng. ở đây sẽ có sự thoả thuận giữa 3 bên: người giữ thẻ, ngân hàng và người buôn bán. Tấm thẻ sẽ là bằng chứng đảm bảo để các nhà buôn bán thấy rằng ngân hàng đã bảo lãnh một mức tín dụng đối với người giữ thẻ. Mỗi thẻ có một mức tín dụng ấn định, và mức này có thể thay đổi tuỳ thuộc vào sự tín nhiệm của ngân hàng với khách hàng và một phần phụ thuộc vào yêu cầu của khách hàng. Nếu khách hàng có những dấu hiệu làm ảnh hưởng đến lòng tin của ngân hàng như việc chậm chi trả, hoặc chi trả thiếu không đúng thời hạn thì có thể thẻ tín dụng sẽ bị thu hồi. Thẻ được tái phát hành định kỳ theo thời gian, đây cũng là điều hợp lý vì nó cho phép ngân hàng đánh giá lại khả năng của người giữ thẻ, xem người đó có thể giữ thẻ không và có phải thay đổi mức tín dụng cho phù hợp với tình hình tài chính của người đó trong hiện tại va tương lai hay không. Có hai cách để ngân hàng cung cấp dịch vụ thẻ tín dụng cho khách hàng. + Ngân hàng có thể đưa ra loại thẻ tín dụng riêng mình và thoả thuận với các công ty bán lẻ là châp nhận loại thẻ đó như là một phương thức thanh toán. Khi khách hang sử dụng loại thẻ này để đi mua hàng hoá dịch vụ thì công ty bán lẻ sẽ chấp nhận và gửi hoá đơn bán hàng hoặc sử dụng dịch vụ có ký tên xác nhân của khách hàng cho ngân hàng phát hành thẻ, lúc đó ngân hàng sẽ ghi có vào tài khoản của công ty bán lẻ sau khi đã trử đi khoản tiền chiết khấu phù hợp. Với phương thức này khách hàng muốn thu được lợi nhuận thì số công ty bán lẻ châp nhận thẻ của ngân hàng phải đủ lớn và số người sử dụng thẻ cũng phải đủ lớn. Để khắc phục nhược điểm này thì có thể đưa ra loại thẻ tín dụng thứ hai đó là thẻ tín dụng do công ty Visa, Master card phát hành. Thuận lợi mang lại từ phương thức phát hành này la ngân hàng sẽ nhận được nhiều sự giúp đỡ về nghiên cứu thị trường, sử lý và nâng cao chất lượng thẻ, cùng với nó là ngân hàng sẽ phải bỏ ra một chi phí thấp hơn nhiều so với trường hợp ngân hàng tự phát hành thẻ tín dụng của riêng mình. Ngoài ra do phát hành thông qua một chương trình độc quyền nên thẻ sẽ được nhiều biết đến được châp nhận rông rãi của các công ty bán lẻ vô hình chung đã khuyến khích mọi người sử dụng thẻ nhiều hơn làm tăng số lượng người sử dụng từ đó tạo điều kiện để ngân hàng thu lại nhiều lợi nhuận hơn từ phương thức phát hành thẻ này. Thật vậy việc sử dụng thẻ mang lại rất nhiều điều kiện thuận lợi so với tiền mặt, séc và một số phương thức chi trả khác. Việc sử dụng thẻ làm giảm thiểu nhu cầu giữ tiền mặt (đang là một thói quen của người dân Việt Nam), nó cho phép người sử dụng thẻ trì hoãn việc chi trả cho các hàng hoá và dich vụ mà họ tiêu dùng trong một thời gian ngắn. Mặt khác nó còn có giá trị như một tài sản đảm bảo dùng để tạm ứng tiền mà không cần những thủ tục rườm rà khác. Nhưng song song với nó thì việc kiể._.m tra kiểm soát thẻ tín dụng lại trở nên vô cùng quan trọng và cần thiết. Vì việc các thẻ tín dụng bị đánh cắp, làm giả đã trở nên ngày càng phổ biến và nó gây tổn thất cho cả ngân hàng và người sử dụng thẻ. Và do đó thì thẻ tín dụng được sử dụng chủ yếu trong pham vi mức bán lẻ và nó không phù hợp để sử dụng trong các cuộc mua bán hàng hoá dịch vụ có giá trị lớn như: xe hơi, tàu thuyền, các thiết bị gia dụng đắt tiền. 1.3. Các nhân tố tác động đến cho vay tiêu dùng Có nhiều nhân tố tác động đến cho vay tiêu dùng, nhưng ta có thể chia nó ra làm hia loại nhân tố chính: đó là nhóm các nhân tố khách quan và nhóm các nhân tố chủ quan. 1.3.1. Nhóm nhân tố khách quan Đây là nhóm các nhân tố mà bản thân ngân hàng không kiểm soát được, nó gồm có các nhân tố sau: môi trường kinh tế, môi trường pháp lý, môi trường xã hội, các chính sách của nhà nước. 1.3.1.1. Môi trường kinh tế Đây là môt nhân tố có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng. Nó có thể là điều kiện thuận lợi thúc đẩy hoạt động này hoặc ngược lại. Môi trường kinh tế bao gồm: trình độ phát triển kinh tế, thu nhập trung bình trên đầu người, mức sống của người dân. Khi mà nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định thì mức sống người dân cũng được nâng cao, khi đó thì những nhu cầu về tiêu dùng cũng gia tăng theo vì họ yên tâm về các khoản thu nhập của họ trong tương lai. Từ đó dẫn đến hoạt động cho vay tiêu dùng sẽ có điều kiện để phát triển mạnh. Còn khi nền kinh tế bị khủng hoảng, trì trệ thì bản thân tâm lý người tiêu dùng cũng rất cẩn trọng trong chi tiêu vì họ muốn dự trữ cho tương lai, do đó mà nhu cầu tiêu dùng cũng chỉ dừng lại ở mức vừa đủ nên hoạt động cho vay tiêu dùng sẽ gặp khó khăn hơn. 1.3.1.2. Môi trường pháp lý Ta thấy bất kỳ một hoạt động của cá nhân hay tổ chức xã hội nào đều phải tuân theo pháp luật của đất nước và quốc gia đó. Có như vậy thì đất nước mới có sự ổn định lâu dài, và do đó hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay tiêu dung nói riêng cũng nằm trong pham vi khuôn khổ của pháp luật, nó cũng phải tuân theo những qui định của nhà nước, luật của các tổ chức tín dụng, luật dân sự và các qui định khác. Nếu luật qui định về cho vay tiêu dung chung chung không rõ ràng, thiếu sự đồng bộ còn nhiều khe hở thì sẽ gây khó khăn cho hoạt động của các ngân hàng, không có cơ sở pháp lý để giải quyết các vấn đề phát sinh. Còn nếu như bộ luật qui định đầy đủ, rõ ràng và chặt chẽ thì góp phần thúc đẩy sự phát triển lành mạnh các hoạt động của ngân hàng nói chung và cho vay tiêu dùng nói riêng. Và khi có luật về cho vay tiêu dùng thì nó sẽ tạo điều kiện cho hoạt động này phát triển hơn và mang lại hiệu quả cao. Nó chính là yếu tố then chốt ảnh hưởng đến đường lối mục tiêu và chiến lược của từng ngân hàng. 1.3.1.3. Môi trường xã hội Các nhân tố này gồm tập quán, trình độ dân trí, lối sống, thói quen… Nó sẽ ảnh hưởng nhiều đến nhu cầu người tiêu dùng và từ đó ảnh hưởng đến mối quan hệ cho vay tiêu dùng giữa khách hàng và ngân hàng. Ví dụ tuỳ từng vùng với những tập quán sinh hoạt ăn uống chi tiêu khác nhau mà lương tiền họ chi tiêu để thoả mãn nhu cầu hiện tại và tương lai là khác nhau. Có những nơi họ có xu hướng chi tiêu thu nhập của mình vào chủ yếu là ăn uống, nhưng cũng có nhưng nơi họ chi tiêu cho ăn uống ít hơn và để tích luỹ mua sắm các đồ dụng thiết bị cho gia đình nhiều hơn. Hoặc cũng có nơi người dân là những người cần cù, cần mẫn tiết kiệm thì nhu cầu của những nơi này là không cao, và cũng có những nơi mọi người đến để vui chơi giải trí, để tiêu dùng thì những nơi này hoạt động cho vay tiêu dùng có nhiều cơ hội để phát triển và mở rộng. 1.3.1.4. Chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước Đây là những chính sách mang tầm vĩ mô và thường có thời gian tương đối dài. Nó thường được đề ra theo nhiệm vụ của từng năm. Ví dụ là khuyến khích đầu tư nước ngoài, hay gia tăng đầu tư vào một số ngành trong nước, kích cầu để tạo điều kiện hàng hoá tiền tệ lưu thông nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, hoặc là giảm qui định lãi suất trần của các ngân hàng… Tất cả những điều này đều nhằm mục đích làm cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển một cách bền vững, nếu thực hiện được đúng thì đời sống người dân sẽ được nâng cao, xã hội phát triển nhu cầu tiêu dùng và trinh độ dân trí cũng thay đổi theo hướng thuận lợi cho phát triển cho vay tiêu dùng. Cùng với nó là các chính sách về thuế thu nhập, thuế về hàng hoá, dịch vụ, các chương trình ưu đãi hỗ trợ phát triển, xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế vùng sâu vung xa, miền núi, hải đảo… Những yếu tố như thế đều có tác động đến trước mắt và lâu dài đến cầu tiêu dùng của người dân Ngoài ra những mối quan hệ, sự hỗ trợ lẫn nhau giữa các thành phần kinh tế khác nhau, giữa các cơ quan cá nhân tổ chức đều ảnh hưởng đến hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng. Và những điều này lại chịu sự chi phối không nhỏ của những chính sách của Đảng và nhà nước, do đó ta có thể thấy được tầm ảnh hưởng của những đường lối chính sách này tới hoạt động cho vay tiêu dùng. 1.3.2. Nhóm các nhân tố chủ quan Đây là nhóm nhân tố phụ thuộc vào chính bản thân ngân hàng. Do đó nó sẽ là những nhân tố ngân hàng có thể chi phối được. Nếu ngân hàng có một chính sách chiến lược tổng thể và lâu dài cho hoạt động cho vay tiêu dùng thì hoạt động này sẽ có điều kiện để phát triển và ngày một hoàn thiện hơn. Nhưng nếu ngân hàng không làm gì để khuyến khích thúc đẩy nó thì hoạt động này sẽ không có cơ hội và động lực để phát triển. 1.3.2.1 Chính sách tín dụng Chính sách tín dụng chính là mức giới hạn cho vay đối với một khách hàng, lãi suất cho vay và mức phí, tài sản đảm bảo và hướng giải quyết những khoản nợ khó đòi. Do đó một chíng sách tín dụng phù hợp và đa dạng sẽ thu hút được nhiều khách hàng đến xin vay, và khi nó đáp ứng được mong muốn nhu cầu của người tiêu dùng thì chắc chắn ngân hàng sẽ thành công trong việc mở rộng cho vay tiêu dùng. Ngược lại với chính sách tín dụng cứng nhắc kém linh hoạt thi sẽ hạn chế việc đi vay giảm tính canh tranh trong hoạt động giữa các ngân hàng. 1.3.2.2. Thẩm định khách hàng Quá trình này là rất quan trọng đối với việc xem xét có cho khách hàng vay hay không, nhưng chính nó cũng là rào cản nếu nó quá ư phức tạp và rườm rà. Nó làm người di vay nản lòng trong khi quá trình này làm họ mất nhiều thời gian và công sức. Và để hạn chế được điều này thì việc thẩm định phải dựa trên các thủ tục cơ sở khoa học hợp lý và song song với nó thì việc thực hiện phải nghiêm chỉnh, nó là yếu tố quyết định chất lượng thẩm định và chất lượng khoản tín dụng . Ngoài ra vốn huy động và vốn tự có giữ một vai trò hết sức quan trọng trong việc ngân hàng tiến hành các hoạt động kinh doanh của mình, nó cũng thể hiện phần nào độ tin cậy và khả năng sức mạnh của ngân hàng đó. 1.3.2.3. Thông tin tín dụng Bản chất của ngân hàng là đi vay và cho vay, mà hoạt động cho vay lại phụ thuộc vào lòng tin của ngân hàng với khách hàng đó: họ có tình hình tài chính ra sao, có thể hoàn trả lãi và gốc trong khoảng thời gian nào. Mà để ra quyết định có cho vay hay không thì ngân hàng phải có được nhưng thông tin có thể tin cậy được nói khác đi đó chính là chất lượng thông tin tín dụng. Ví dụ: tư cách, uy tín, năng lực quản lý, tình hình xã hội, xu hướng phát triển kinh tế... Và việc yêu cầu của thông tin tín dụng đó phải chính xác, kịp thời và đầy đủ, vì mọi thông tin chỉ có giá trị trong một khoảng thời gian xác định và một số ngân hàng do không nắm bắt được thông tin kịp thời nên đã không đáp ứng được nhu cầu về vốn cho khách hàng, hạn chế việc mở rộng cho vay tiêu dùng. 1.3.2.4. Chất lượng cán bộ tín dụng Chất lượng cán bộ tín dụng thể hiện qua trình độ nghiệp vụ chuyên môn đạo đức nghề nghiệp, cũng như khả năng giao tiếp của cán bộ tín dụng. Nếu cán bộ tín dụng có trình độ chuyên môn giỏi mà không có đạo đức nghề nghiệp thì lợi ích của ngân hàng sẽ bị tổn hại nhiều hơn là ích lợi mà họ mang lại. Nhưng bên cạnh đó, cán bộ tín dụng nhất thiết cần phải có trình độ chuyên môn cao, hiểu biết sâu rộng, có như vậy thì việc thẩm định khách hàng mới chính xác, từ đó đưa ra quyết định mới đúng đắn, giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng. Do khách hàng là người tiếp xúc trực tiếp với cán bộ tín dụng nên theo họ thì cán bộ tín dụng sẽ chính là bộ mặt của ngân hàng. Sự thân thiện và cởi mở đúng mực sẽ làm cho khách hàng hài lòng và tin tưởng hơn vào ngân hàng và từ đó dễ trở thành khách hàng quen thuộc của ngân hàng. 1.3.2.5. Cơ sở vật chất thiết bị Cơ sở vật chất thiết bị cũng ảnh hưởng lớn đến việc thu hút khách hàng. Việc trang bị đầy đủ cơ sở vật chất, phù hợp đáp ứng được nhu cầu của khách hàng sẽ giúp ngân hàng gia tăng khả năng cạnh tranh, thu hút được nhiều khách hàng hơn. Mặt khác việc áp dụng các công nghệ tiên tiến giúp hoạt động của ngân hàng diễn ra chính xác và trôi chảy hơn rất nhiều. Trên đây là một số yếu tố có ảnh hưởng lớn đến cho vay tiêu dùng, ngân hàng muốn duy trì hoạt động và nâng cao chất lượng cho vay tiêu dùng thì không thể không để ý đến các yếu tố trên. Chương 2: Thực trạng cho vay tiêu dùng tại chi nhánh ngân hàng công thương Ba Đình 2.1. Khái quát về chi nhánh ngân hàng Công thương khu vực Ba Đình 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực Ba Đình ra đời từ năm 1959 lúc thành lập được gọi : Chi điếm Ngân hàng Ba Đình trực thuộc Ngân hàng Hà Nội và đặt tại phố Đội Cấn – Hà Nội . Khi mới thành lập chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực Ba Đình được giao nhiệm vụ : Vừa xây dựng cơ sở vật chất vừa củng cố tổ chức và hoạt động ngân hàng. Lúc này hoạt động mang tính cung ứng cấp phát theo chỉ tiêu- kế hoạch được giao của nhà nước với mục tiêu hoạt động mang tính bao cấp, không lấy lợi nhuận làm mục tiêu, hoạt động theo mô hình quản lí một cấp theo Nghị định 163/CP được Hội đồng chính phủ ban hành ngày 16/6/1977. Mô hình này được duy trì từ khi thành lập cho đến tháng 07 năm 1988 thì kết thúc. Ngày 01/07/1988, theo nghị định 53 của Hội đồng Bộ trưởng (hiện nay đổi thành chính phủ) ngành ngân hàng chuyển từ cơ chế quản lí hành chính, kế hạch sang hạch toán kinh tế kinh doanh theo mô hình quản lí ngân hàng hai cấp ( bao gồm : Ngân hàng Nhà nước – Ngân hàng thương mại ). Các ngân hàng thương mại quốc doanh lần lượt ra đời, gồm: Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp phát triển nông thôn Việt Nam, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam hoạt động theo mục tiêu lợi nhuận và an toàn. Nghị định 53/ HĐBT đã góp phần hình thành mô hình ngân hàng mới đem lại hình thức mới trong lĩnh vực huy động và chu chuyển vốn. Trong bối cảnh chuyển đổi đó, ngân hàng Ba Đình cũng đã được chuyển đổi thành một Chi nhánh ngân hàng thương mại quốc doanh với tên gọi chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình trực thuộc Ngân hàng Công thương Thành phố Hà Nội. Hoạt động kinh doanh mang tính kinh doanh thực sự, thông qua việc đổi mới phong cách giao tiếp – phục vụ, lấy lợi nhuận làm mục tiêu kinh doanh, cùng với việc đa dạng hoá các loại hình kinh doanh dịch vụ, khai thác mở rộng thị trường, đưa thêm các sản phẩm dịch vụ mới vào kinh doanh. Từ năm 1988 đến năm 1993 chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình hoạt động theo mô hình quản lí NHCT ba cấp : trung ương – thành phố – quận dẫn đến việc quản lí cồng kềnh, chồng chéo. Hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình phụ thuộc hoàn toàn vào NHCT Thành phố Hà Nội, các phương thức và nghiệp vụ kinh doanh chưa được triển khai có hiệu quả, cùng những khó khăn thử thách của những năm đầu chuyển đổi mô hình kinh tế theo đường lối đổi mới của Đảng nên hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình đi đến kém hiệu quả, không phát huy được thế mạnh và ưu thế của một chi nhánh ngân hàng thương mại trên địa bàn thủ đô. Trước những khó khăn vướng mắc từ mo hình tổ chức quản lí, cũng như từ cơ chế; bắt đầu từ 01/04/1993, Ngân hàng Công thương Việt Nam thực hiện thí điểm mô hình tổ chức hai cấp. Trong mô hình này cấp trung gian là NHCT Thành phố Hà Nội bị xoá bỏ, chỉ còn hai cấp : Cấp trung ương – Cấp quận. Cùng với việc đổi mới và tăng cường công tác cán bộ chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình đã có sức bật mới; hoạt động theo mô hình một ngânhàng thương mại đa năng, có đầy đủ năng lực, uy tín để tham gia cạnh tranh một cách tích cực trên thị trường. Nhanh chóng tiếp cận thị trường và không ngừng tự đổi mới, hoàn thiện để thích nghi với các môi trường kinh doanh trong cơ chế thị trường. Trong công tác xây dựng, ổn định mô hình tổ chức, chi nhánh luôn coi trọng đội ngũ cán bộ, luôn bồi dưỡng nâng cao phẩm chất năng lực chuyên môn, năng lực quản lí điều hànhvà coi đó là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu cụ thể: chi nhánh đã tự sưu tầm tài liệu, tự tổ chức các lớp học tại chỗ hoặc ngoài giừ làm việc,người biết kèm người chưa biết, người có kinh nghiệm truyền đạt cho người mới vào nghề. Công tác đào tạo nghiên cứu, học tập của mỗi cán bộ viên chức chi nhánh đã thực sự có ý nghĩa thiết thực, tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ viên chức hoàn thành tốt nhiệm vụ trênvị trí công tác được phân công, làm nòng cốt xây dựng đơn vị trong sạch vững mạnh toàn diện, hoàn thành tốt nhiệm vụ kinh doanh trong những năm sau này. Sau năm 1993, hoạt độngkinh doanh tại chi nhánh đã có những thuận lợi nhất định. Sự phối kết hợp chặt chẽ, thường xuyên giữa chi nhánh với các NHCT cùng hệ thống nhằm khai thác ưu thế từng đơn vị với mục tiêu cùng xây dựng và phát triển thị trường. Về mô hình tổ chức số cán bộ viên chức đã được tăng thêm cả về chất lượng và số lượng. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ các phòng ban 2.1.2.1. Cơ cấu tổ chức các phòng ban Theo quyết định số 151/QĐ-HĐQT-NHCT1 về việc chuyển mới mô hình của chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực Ba Đình theo dự án hiện đại hóa NHCT, gồm có các phòng ban nghiệp vụ sau: Phòng kế toán giao dịch Phòng khách hàng 1 Phòng khách hàng 2 Phòng khách hàng cá nhân Phòng tổ chức hành chính Phòng tổng hợp và tiếp thị Phòng tài trợ thương mại Phòng tiền tệ kho quỹ Phòng thông tin điện toán Phòng kế toán tài chính Phòng kiểm tra nội bộ Các phòng giao dịch Các quỹ tiết kiệm / Điểm giao dịch Các phòng ban của chi nhánh có sơ đồ cơ cấu tổ chức điều hành như sau: 2.1.2.2. Chức năng nhiệm vụ hoạt động của từng phòng ban a/ Phòng kế toán giao dịch. Chức năng: Là phòng nghiệp vụ thực hiện các giao dịch trực tiếp với khách hàng, tổ chức hoạch toán kế toán theo qui định của nhà nước và của NHCT Việt Nam. Cung cấp các dịch vụ ngân hàng theo qui định của NHNN và của NHCT. Quản lí hệ thống giao dịch trên máy, quản lí quỹ tiền mặt trong ngày, thực hiện nhiệm vụ tư vấn cho khách hàng về sử dụng sản phẩm của ngân hàng. Nhiệm vụ: - Quản lí hệ thống giao dịch trên máy : thực hiện mở, đóng giao dịchchi nhánh hàng ngày; nhận các dữ liệu/ tham số mới nhất từ NHCT Việt Nam; thiết lập thông số đầu ngày để thực hiện hoặc không thực hiện giao dịch. - Thực hiện các giao dịch trực tiếp với khách hàng. + Mở/ đóng các tài khoản (ngoại tệ và VND). + Thực hiện các giao dịch gửi /rút tiền từ tài khoản. + Bán sec (bảo chi, chuyển khoản ) cho khách hàng theo thẩm quyền. + Thực hiện các giao dịch mua bán ngoại tệ, thanh toán và chuyển tiền (VND và ngoại tệ) trong và ngoài nước, chi trả kiều hối. + Thực hiện các dịch vụ về tiền mặt, các giao dịch về thẻ, séc du lịch, séc bảo chi , séc chuyển khoản... + Thực hiện các giao dịch giải ngân, thu nợ, thu lãi, xoá nợ… + Thực hiện nghiệp vụ thấu chi (theo hạn mức được cấp). + Kiểm tra và thu phí của khách hàng khi thực hiện các dịch vụ ngân hàng; Kiểm tra tính lãi (lãi cho vay, lãi huy động). + Cung ứng các dịch vụ ngân hàng khác (bảo quản giấy tờ có giá, cho thuê tủ két...) - Thực hiện công tác liên quan đến thanh toán bù trừ, thanh toán điện tử liên ngân hàng, lập và phân tích báo cáo cuối ngày của giao dịch viên và chi nhánh, làm các báo cáop theo quy định. - Quản lí thông tin và khai thác thông tin. + Duy trì, quản lí hồ sơ thông tin khách hàng. + Quản lí mẫu dấu chữ kí của khách hàng. + Quản lí sec và giấy tờ có giá, các ấn chỉ quan trọng, các chứng từ gốc... + Quản lí quỹ tiền mặt trong ngày. - Thực hiện chức năng kiểm soát các giao dịch trong và ngoài quầy theo thẩm quyền, kiểm soát lưu trữ chứng từ, tổng họp liệt kê giao dịch trong ngày, đối chiếu lập và in báo cáo, đóng nhật kí theo quy định. - Phân tích đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh để trình ban lãnh đạo chi nhánh quyết định mức trích lập quỹ dự phòng rủi ro theo các hướng dẫn của NHCT Việt Nam. - Tổ chức học tập nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ. - Đảm bảo an toàn bí mật các số liệu có liên quan theo quyết định của ngân hàng. - Làm công tác khác do giám đốc giao. b/ Phòng khách hàng 1(doanh nghiệp lớn). Chức năng : Là phòng nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với khách hàng là các doanh nghiệp lớn, để khai thác vốn bằng VND và ngoại tệ; Xử lí các nghiệp vụ liên quan đến cho vay, quản lí các sản phẩm cho vay phù hợp với chế độ, thể lệ hiện hành và hướng dẫn của NHCT. Nhiệm vụ: - Khai thác nguồn vốn bằng VND và ngoại tệ từ khách hàng là các doanh nghiệp lớn. - Tiếp thị, hỗ trợ khách hàng. - Thẩm định và tính toán hạn mức tín dụng (bao gồm:cho vay, tài trợ thương mại, bảo lãnh, thấu chi ) cho 01 khách hàng trong phạm vi được uỷ quyền của chi nhánh, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt; Quản lí các hạn mức đã đưa ra theo từng khách hàng. - Thực hiện các nghiệp vụ cho vay và xử lí giao dịch. + Nhận và xử lí đề nghị vay vốn, bảo lãnh. + Thẩm định khách hàng, dự án, phương án vay vốn, bảo lãnh. + Đưa ra các quyết định chấp thuận/ từ chối đề nghị vay vốn/ bảo lãnh trên cỏ sở các hồ sơ và việc thẩm định. + Kiểm tra giám sát các khoản vay.Phối hợp với cán bộ liên quanthwcj hiện thu nợ, thu lãi, thu phí. + Theo dõi quản lí các khoản cho vay bắt buộc. Tìm biện pháp thu hồi khoản cho vay này. + Theo dõi quản lí các khoản nợ có vấn đề, tiến hành xử lí tài sản bảo đảm của các khoản nợ có vấn đề. +Thực hiện nhiệm vụ thành viên Hội đồng tín dụng. - Nắm cập nhật phân tích toàn diện về thông tin khách hàng theo quy định. - Quản lí các khoản vay cho vay, bảo lãnh; quản lí tài sản đảm bảo. - Phân tích hoạt độngkinh tế, khả năng tài chính của khách hàng vay vốn xin bảo lãnh để phụ vụ công tác cho vay, bảo lãnh có hiệu quả. - Báo cáo, phân tích tổng hợp kế hoạch... theo khách hàng, nhóm khách hàng theo sản phẩm dịch vụ. - Theo dõi việc trích lập dự phòng rủi ro theo quy định. - Phản ánh kịp thời những vấn đề vướng mắc trong nghiệp vụ và những vấn đề mới nảy sinh, đề xuất biện pháp giải quyết trình giám đốc chi nhánh xem xét, giải quyết. - Lưu trữ hồ sơ số liệu theo quy định. - Tổ chức học tập nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ. - Làm công tác khác do giám đốc giao. c/ Phòng khách hàng 2(doanh nghiệp vừa và nhỏ). Chức năng: Là phòng nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, để khai thác vốn bằng VND và ngoại tệ; Xử lí các nghiệp vụ liên quan đến cho vay, quản lí các sản phẩm cho vay phù hợp với chế độ, thể lệ hiện hành của NHNN và hướng dẫn của NHCT. Nhiệm vụ: - Khai thác nguồn vốn bằng VND và ngoại tệ từ khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Tiếp thị, hỗ trợ khách hàng. - Thẩm định và tính toán hạn mức tín dụng (bao gồm:cho vay, tài trợ thương mại, bảo lãnh, thấu chi ) cho 01 khách hàng trong phạm vi được uỷ quyền của chi nhánh, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt; Quản lí các hạn mức đã đưa ra theo từng khách hàng. - Thực hiện các nghiệp vụ cho vay và xử lí giao dịch. + Nhận và xử lí đề nghị vay vốn, bảo lãnh. + Thẩm định khách hàng, dự án, phương án vay vốn, bảo lãnh. + Đưa ra các quyết định chấp thuận/ từ chối đề nghị vay vốn/ bảo lãnh trên cỏ sở các hồ sơ và việc thẩm định. + Kiểm tra giám sát các khoản vay. Phối hợp với cán bộ liên quanthwcj hiện thu nợ, thu lãi, thu phí. + Theo dõi quản lí các khoản cho vay bắt buộc. Tìm biện pháp thu hồi khoản cho vay này. + Theo dõi quản lí các khoản nợ có vấn đề, tiến hành xử lí tài sản bảo đảm của các khoản nợ có vấn đề. +Thực hiện nhiệm vụ thành viên Hội đồng tín dụng. - Nắm cập nhật phân tích toàn diện về thông tin khách hàng theo quy định. - Quản lí các khoản vay cho vay, bảo lãnh; quản lí tài sản đảm bảo. - Phân tích hoạt độngkinh tế, khả năng tài chính của khách hàng vay vốn xin bảo lãnh để phụ vụ công tác cho vay, bảo lãnh có hiệu quả. - Báo cáo, phân tích tổng hợp kế hoạch... theo khách hàng, nhóm khách hàng theo sản phẩm dịch vụ. - Theo dõi việc trích lập dự phòng rủi ro theo quy định. - Phản ánh kịp thời những vấn đề vướng mắc trong nghiệp vụ và những vấn đề mới nảy sinh, đề xuất biện pháp giải quyết trình giám đốc chi nhánh xem xét, giải quyết. - Lưu trữ hồ sơ số liệu theo quy định. - Tổ chức học tập nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ. - Làm công tác khác do giám đốc giao. d/ Phòng khách hàng cá nhân. Chức năng: Là phòng nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với khách hàng là cá nhân, để khai thác vốn bằng VND và ngoại tệ; Xử lí các nghiệp vụ liên quan đến cho vay, quản lí các sản phẩm cho vay phù hợp với chế độ, thể lệ hiện hành của NHNN và hướng dẫn của NHCT; quản lí hoạt động của các quỹ tiết kiệm, điểm giao dịch. Nhiệm vụ: - Khai thác nguồn vốn bằng VND và ngoại tệ từ khách hàng là cá nhân. - Tổ chức huy động vốn dân cư (băng VND và ngoại tệ). - Tiếp thị, hỗ trợ khách hàng. - Thẩm định và tính toán hạn mức tín dụng (bao gồm:cho vay, tài trợ thương mại, bảo lãnh, thấu chi ) cho 01 khách hàng trong phạm vi được uỷ quyền; Quản lí các hạn mức đã đưa ra theo từng khách hàng. - Thực hiện các nghiệp vụ cho vay và xử lí giao dịch. + Nhận và xử lí đề nghị vay vốn, bảo lãnh. + Thẩm định khách hàng, dự án, phương án vay vốn, bảo lãnh. + Đưa ra các quyết định chấp thuận/ từ chối đề nghị vay vốn/ bảo lãnh trên cỏ sở các hồ sơ và việc thẩm định. + Kiểm tra giám sát các khoản vay.Phối hợp với cán bộ liên quanthwcj hiện thu nợ, thu lãi, thu phí. + Theo dõi quản lí các khoản cho vay bắt buộc. Tìm biện pháp thu hồi khoản cho vay này. + Theo dõi quản lí các khoản nợ có vấn đề, tiến hành xử lí tài sản bảo đảm của các khoản nợ có vấn đề. - Nắm cập nhật phân tích toàn diện về thông tin khách hàng theo quy định. - Quản lí các khoản vay cho vay, bảo lãnh; quản lí tài sản đảm bảo. - Phân tích hoạt độngkinh tế, khả năng tài chính của khách hàng vay vốn xin bảo lãnh để phụ vụ công tác cho vay, bảo lãnh có hiệu quả. - Điều hành và quản lí lao độn, tài sản, tiền vốn huy động tại các quỹ tiết kiêm, điểm giao dịch. - Kiểm tra giám sát các hoạt động của quỹ tiết kiệm, điểm giao dịch. - Thực hiện nghiệp vụ về bảo hiểm nhân thọ và các loại bảo hiểm khác theo hướng dẫn của NHCT Việt Nam. - Phản ánh kịp thời những vấn đề vướng mắc trong nghiệp vụ và những vấn đề mới nảy sinh, đề xuất biện pháp giải quyết trình giám đốc chi nhánh xem xét, giải quyết. - Lưu trữ hồ sơ số liệu theo quy định. - Tổ chức học tập nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ. - Làm công tác khác do giám đốc giao. e/ Phòng tổ chức hành chính. Chức năng: Phòng tổ chức hành chính là phòng nghiệp vụ thực hiện công tác tổ chức cán bộ và đào tạo tại chi nhánh theo đúng chủ trương chính sách của nhà nước và quy định của NHCT Việt Nam. Thực hiệncông tác quản trị và văn phòng phục vụ hoạt động kinh doanh tại chi nhánh, thực hiện công tác bảo vệ, an ninh an toàn chi nhánh. Nhiệm vụ: - Thực hiện quy định của Nhà nước và của NHCT có liên quan đến chính sách cán bộ về tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế... - Thực hiện quản lí lao động, tuyển dụng lao động, điều động, sắp xếp cán bộ phù hợp với năng lực trình độ chuyên môn và yêu cầu của nhiệm vụ kinh doanh. - Thực nhiện bồi dưỡng, quy hoạch cán bộ lãnh đạo tại chi nhánh. - Xây dựng kế hoạch và tổ chức đào tạo nâng cao trình độ vè mọi mặt cho cán bộ, nhân viên chi nhánh. - Thực hiện việc mua sắm tài sản và công cụ lao động, trang thiết bị và phương tiện làm việc, văn phòng phẩm phục vụ hoạt động kinh doanh tại chi nhánh. Thực hiện theo dõi bảo dưỡng, sửa chữa tài sản, công cụ lao động uỷ quyền. - Thực hiện công tác xây dựng cơ bản, nâng cấp và sửa chữa nhà làm việc, quỹ tiết kiệm, điểm giao dịch đáp ứng yêu cầu hoạt động kinh doanh và quy chế quản lí đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước và NHCT Việt Nam. - Quản lí và sử dụng xe ôtô, sử dụng điện, điện thoại và các trang thiết bị của chi nhánh. Định kì bảo dưỡng và khám xe ôtô theo quy định, đảm bảo lái xe an toàn. Là đầu mối xây dựng nội quy quản lí, sử dụng trang thiết bị tại chi nhánh. - Tổ chức công tác văn thư, lưu trữ, quản lí hồ sơ cán bộ theo quy định của Nhà nước và của NHCT. Đánh máy, in ấn tài liệu của cơ quan khi đã được Ban giám đốc duyệt. Cung cấp tài liệu lưu trữ cho Ban giám đốc và các phòng khi cần thiết theo đúng quy định về bảo mật, quản lí an toàn hồ sơ cán bộ. - Tổ chức thực hiện công tác y tế tại chi nhánh. - Chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết để hội họp, hội thảo, sơ kết, tổng kết và Ban giám đốc tiếp khách. - Thực hiện nhiệm vụ thủ quỹ các khoản chi tiêu nội bộ cơ quan. - Tổ chức công tác bảo vệ an toàn cơ quan; phối hợp với các phóng kế toán giao dịch, tiền tệ kho quỹ bảo vệ an toàn công tác vận chuyển hàng đặc biệt;phòng cháy nổ; chống bão lụt theo đúng quy định của ngành và các cơ quan chức năng. - Lập báo cáo thuộc phạm vi trách nhiệm của phòng. - Thực hiện công tác khác do giám đốc giao. f/ Phòng tổng hợp và tiếp thị. Chức năng: Phòng tổng hợp tiếp thị là phòng nghiệp vụ tham mưu cho Giám đốc chi nhánh dự kiến kế hoạch kinh doanh, tổng hợp, phân tích đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh, thực hiện hoạt động báo cáo hàng năm của chi nhánh. Nhiệm vụ: - Tư vấn cho khách hàng về các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, tư vấn đầu tư, tư vấn dịch vụ thẻ, tư vấn dịch vụ bảo hiểm. Hướng dẫn khách hàng tới giao dịch tại chi nhánh sử dụng sản phẩm dịch vụ ngân hàng. - thực hiện nghiệp vụ đầu mối về thẻ: lắp đặt, vận hành, xử lí lỗi thẻ ATM,giải quyết các vướng mắc của khách hàng sử dụng sản phẩm thẻ, triển khai sản phẩm thẻ theo hướng dẫn của NHCT. - Thực hiện công tác tiếp thị, chính sách khách hàng... - Dự kiến kế hoạch kinh doanh, phân tích đánh giá tổng hợp báo cáo tình hình hoạt động và kết quả kinh doanh của chi nhánh; làm báo cáo theo quy định của NHCT. - Làm công tác thi đua chi nhánh. -Tổ chức học tập nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ phòng. - Làm công tác khác do giám đốc giao. Như vậy, từ năm 2003 chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình thực hiện việc đổi mới mô hình tổ chức theo quyết định số 151/QĐ-HĐQT-NHCT1 đã thu được nhiều thành tựu to lớn. Hoạt động chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình ngày càng trong sạch, vững mạnh, thi đua hoàn thànhkế hoạch kinh doanh, phục vụ tốt hơn nhu cầu đa dạng của các thành phần kinh tế trên địa bàn. g/ Phòng tài trợ thương mại. Chức năng: Là phòng nghiệp vụ tổ chức thực hiện nghiệp vụ về tài trợ thương mại tại chi nhánh theo quy định của NHCT Việt Nam. Nhiệm vụ: - Thực hiện các ngiệp vụ về tài trợ thương mại theo hạn mức được cấp. + Thực hiện các ngiệp vụ phát hành L/C nhập khẩu, thông báo và thanh toán L/C xuất khẩu. + Thực hiện các ngiệp vụ nhờ thu (nhờ thu kèm chứng từ, nhờ thu không kèm chứng từ, nhờ thu séc). + Phối hợp với các phòng khách hàng Tổng công ty, phòng khách hàng công ty vừa và nhỏ để thực hiện nghiệp vụ chiết khấu bộ chứng từ, nghiệp vụ biên lai tín thác, bao thanh toám, bao thanh toán tuyệt đối. + Phát hành, thông báo (bao gồm cả sửa đổi bảo lãnh) bảo lãnh trong nước và ngoài nước trong phạm vi được uỷ quyền. + Làm thủ tục chuyển tiếp và phối hợp thực hiện các giao dịch vượt hạn mức theo quy định của NHCT Việt Nam. + Phối hợp với các phòng khách hàng theo dõi các khoản cho vay bắt buộc. + Thực hiện các nghiệp vụ khác theo hướng dẫn và uỷ quyền của NHCT Việt Nam trong từng thời kì. - Thực hiện nghiệp vụ mua bán ngoại tệ. + Thực hiện nghiệp vụ mua bán ngoại tệ với các tổ chức kinh tế theo quy định của NHCT. + Hướng dẫn và quản lí nghiệp vụ với các đại lí thu đổi ngoại tệ thuộc chi nhánh quản lí. - Thực hiện công tác tiếp thịđể khai thác nguồn ngoại tệ cho chi nhánh. - Tư vấn khách hàng sử dụng các sản phẩm tài trợ thương mại. - Tổng hợp báo cáo, lưu giữ tài liệu theo quy định. - Tổ chức học tập nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ. - Đảm bảo an toàn bí mật các số liệu có liên quan theo quyết định của ngân hàng. - Làm công tác khác do giám đốc giao. h/ Phòng tiền tệ kho quỹ. Chức năng: Phòng tiền tệ kho quỹ là phòng quản lí an toàn kho quỹ, quản lí quỹ tiền mặt theo quy định của NHNNvà NHCT; ứng và thu tiền cho các quỹ tiết kiệm, các điểm giao dịch trong và ngoài quầy, thu chi tiền mặt cho các doanh nghiệp có thu, chi tiền mặt lớn. Nhiệm vụ: - Quản lí an toàn kho quỹ (an toàn về tiền mặt VND và ngoại tệ, thẻ trắng, thẻ tiết kiệm, giấy tờ có giá, hồ sơ tài sản thế chấp...) theo đúng quy định của NHNN và NHCT. - Thực hiện ứng tiền và thu tiền cho các quỹ tiết kiệm, các điểm giao dịch trong và ngoài quầy ATM theo uỷ quyền kịp thời chính xác, đúng chế độ quy định. - Thu, chi tiền mặt giao dịchcó giá trị lớn. - Phối hợp với phòng kế toán giao dịch (trong quầy), tổ chức hhành chính thực hiện điều chuyển tiền giữa quỹ nghiệp vụ của chi nhánh với NHNN,các NHCT trên địa bàn, các quỹ tiết kiệm, điểm giao dịch, phòng giao dịch, ATM an toàn, đúng chế độ trên cơ sở đáp ứng đầy đủ kịp thời nhu cầu chi tại chi nhánh. - Theo dõi tình hình kho tàng, lập kế hoạch chữa cải tạo tu bổ, nâng cấp kho tiền đúng tiêu chuẩn kĩ thuật. - Tổ chức học tập nâng cao trình độ, nghiệp vụ cho cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác của phòng. - Làm các báo cáo theo quy định của NHNN và NHCT. - Làm công tác khác do giám đốc giao. i/ Phòng thông tin điện toán. Chức năng: Thực hiện công tác duy trì hệ thống, bảo trì bảo dưỡng máy tính đảm bảo thông suốt hoạt động của hệ thống mạng, máy tính của chi nhánh. Nhiệm vụ: - Thực hiện quản lí về mặt công nghệ và kĩ thuật đối với toàn bộ hệ thống mạng thông tin của chi nhánh theo thẩm quyền được giao. - Bảo trì bảo dưỡng máy tính đảm bảo thông suốt hoạt động của hệ thống mạng, máy tính của chi nhánh. -Thực hiện triển khai các hệ thống, chương trìn._.n về thoả mãn nhu cầu tiêu dùng nên cần phải khuyến khích ngân hàng mở rộng đối với thị trường này. Ngân hàng có thể gửi giấy thông báo đến các cơ quan tổ chức này nhằm vừa quảng cáo cho hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng và vừa có tác dụng giới thiệu các loại sản phẩm và dịch vụ khác đến mọi người. Đi cùng với thông báo thì ngân hàng nên có những qui định chi tiết và cụ thể để mọi người có thể nhận biết và thực hiện như: đối tượng vay vốn, điều kiện vay vốn, thủ tục sồ sơ vay vốn, lãi suất… Do ngân hàng cũng có nhiều mối quan hệ với các công ty lớn nên mối quan hệ tín dụng giữa công ty và chi nhánh cũng tương đối nhiều do đó có thể giảm thiểu được rủi ro khi ngân hàng thiết lập quan hệ cho vay tiêu dung với khách hàng là nhân viên của các cơ quan này.Ngoài ra đây cũng là cơ sở để ngân hàng có thể huy động thêm tiền gửi của dân cư. Cũng do những đối tượng này không có tài sản đảm bảo nên số tiền mà ngân hàng cho các đối tượng này vay cũng không lớn vì nếu không trả được thì ngân hàng không có bất cứ tài sản nào để xử lý. Để giải quyết khó khăn này thì ngân hàng nên xem xét phát triển cho vay thông qua người đại diện. Giải pháp này được đưa ra trên cơ sở xác định rõ trách nhiệm và quyền lợi mỗi bên ( ngân hàng, người đại diện, người vay) cũng như có dự phối hợp chặt chẽ giữa các bên trong quá trình thẩm định, giải ngân và thu nợ. Để làm được việc đó thì ngân hàng nên có các chính sách ưu đãi đối với người đại diện, từ đó tiết kiệm được thời gian chi phí cho vay và thu hồi nợ, hạn chế rủi ro. Đây là phương thức cho vay có hiệu quả do đó chi nhánh cần phải mở rộng chính sách cho vay tiêu dùng. Và việc ngân hàng đưa ra một lãi suất hợp lý và phù hợp cũng là vấn đề có ý nghĩa cho việc mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng. Nó sẽ vừa thoản mãn nhu cầu của một số lượng lớn các cán bộ công nhân viên và vừa mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. 3.2.2. Hoàn thiện quy trình cho vay tiêu dùng Hiện nay, ngân hàng công thương cũng có tài liệu công văn hướng dẫn thực hiện quy trinh cho vay tiêu dùng. Nó là các bước mà các chi nhánh phải thực hiện và tuân thủ trong hoạt động cấp tín dụng. Quy trình này bao gồm các bước, tiếp nhận hồ sơ, thẩm định, quyết định cho vay, giải ngân, thu nợ. Nhưng hiện tại các bước này thường được áp dụng chung cho toàn hệ thống vì mỗi ngân hàng lại có địa bàn hoạt động khác nhau với những điều kiện kinh tế văn hoá chính trị khác nhau nên cho dù có công văn hướng dẫn thì việc thực hiện tại chi nhánh vẫn luôn gặp khó khăn. Do đó nhiều lúc thực hiện theo công văn lại không thật sự phù hợp với chi nhánh của mình. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các cán bộ tín dụng, ngân hàng nên lập một quy trình cho vay riêng dựa trên quy trình cho vay tiêu dùng của ngân hàng công thương Việt Nam. Chi nhánh cần chú ý việc thẩm định khách hàng để có được quyết định cho vay đúng đắn nhất. Sau khi giả ngân thì cán bộ tín dụng cần giám sát chặt chẽ việc sử dụng vốn vay của khách hàng, xem ngân hàng có sử dụng vốn vay đúng như mục đích đã nêu trong hợp đồng không. Nếu có thì ngân hàng phải có biện pháp xử lý phù hợp. Đặc biệt là trong trường hợp cán bộ công nhân viên chức, những người vay không có tài sản đảm bảo thì lại cần phải theo dõi chạt chẽ hơn nữa xem xét tình hình làm việc, họ có chuyển đổi cơ quan hay không, điều này sẽ ảnh hưởng đến việc thu hồi khoản nợ. Bên cạnh đó, ngân hàng cần có sự phối hợp giữa phòng khách hàng cá nhân và phòng kiểm tra kiểm soát nội bộ để tằng cường sự kiểm tra kiểm soát. Bởi vì hiện nay phòng kiểm tra kiểm soát thường chỉ kiểm tra kiểm soát thường xuyên những khoản vay có giá trị lớn như các khoản vay cho các doanh nghiệp để kinh doanh, thực hiện dự án, tái sản xuất đầu tư còn những khoản cho vay tiêu dùng thường có giá trị nhỏ hơn (nhất là đối với những đối tượng không có tài sản đảm bảo) thì chỉ được kiểm tra một cách ngẫu nhiên, không đầy đủ và thường xuyên. Điều này chính là mối rủi ro tiềm ẩn của ngân hàng. Ngoài ra nó còn giúp ngân hàng phát hiện những cán bộ tín dụng không có đầy đủ về đạo đức nghề nghiệp gây thất thoát tài sản và uy tín của ngân hàng Vì thế việc hoàn thiện nghiệp vụ cho vay tiêu dùng một cách an toàn chặt chẽ sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các cán bộ tín dụng nói riêng và cho việc quản lý ngân hàng nói riêng. Nó còn giúp cho ngân hàng giảm thiểu và tránh được những rủi ro không đáng có. 3.2.3. Đa dạng hoá các phương thức cho vay tiêu dùng Hiện nay có 2 phương thức cho vay tiêu dùng là phương thức cho vay tiêu dùng trực tiếp và phương thức cho vay tiêu dùng gián tiếp. Tuy nhiên các ngân hàng chủ yếu sử dụng phương thức cho vay tiêu dùng trực tiếp mà phương thức cho vay tiêu dung gián tiếp chưa được chú trọng phát triển, nó se thoả mãn nhu cầu của những khách hàng muốn vay tiêu dùng nhưng lại ngại đi đến ngân hàng. Ngân hàng có thể kết hợp với các công ty, đại lý bán hàng trong việc hỗ trợ vốn tiêu dùng cho ngân hàng. Thông qua các công ty bán hàng này, ngân hàng sẽ nắm bắt được nhu cầu của khách hàng và đưa ra các thông tin về sản phẩm cho vay tiêu dùng theo phương thức này, ngân hàng sẽ tài trợ cho người tiêu dùng một phần tiền còn thiếu khi người tiêu dùng mua hàng của các công ty đại lý bán hàng. áp dụng phương thức này thì ngân hàng sẽ thu hút được một số lượng khách hàng rất lớn nữa, đây là một thị trường đầy tiềm năng nhưng chưa được các ngân hàng chú ý khai thác. Nhưng bởi vì các khoản cho vay này không trực tiếp đối với khách hàng mà thông qua các công ty đại lý bán hàng thay mặt khách hàng xem xét và đề xuất cho vay. Nhưng cũng do các công ty này và bản thân các nhân viên của công ty không có đủ trình độ chuyên môn và chỉ muốn bán thật nhiều hàng hoá dịch vụ nhằm thu lại lợi ích cho mình chứ ít nghĩ đến lợi ích cho ngân hàng nên rủi ro là không tránh khỏi. Đây cũng là một trong những khó khăn của phương thức cho vay này, do đó muốn giảm rủi ro thì ngân hàng phải lựa chọn các công ty bán hàng có uy tín để cung ứng loại hình cho vay gián tiếp này. Việc nâng cao và đa dạng hoá các loại hình sản phẩm dịch vụ của ngân hàng sẽ góp phần vào việc quảng bá, khuếch trương và giới thiệu các loại sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng cung ứng nhằm hoàn thiện hoạt động cho vay tiêu dung hơn nữa. Ngoài ra ngân hàng nên mở rộng cho vay mua sắm đồ dùng phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt theo phương thúc thấu chi thông qua các điểm bán hàng. Muốn vậy ngân hàng phải liên kết với các điểm bán hàng tiêu dùng như các siêu thị, các đại lý… Và các cá nhân muốn vay vốn theo hình thưc này cũng phải có tiền gửi tại ngân hàng và khoản tiền lương hàng tháng đều được chuyển thẳng vào đó. Đó thường là những người làm việc tại các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và được hưởng lương theo tháng. 3.2.4. Đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh Vấn đề đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh luôn là bài toán khó cho các ngân hàng . Mặc dù có sự gia tăng rất nhiều về nguồn vốn huy động nhưng vẫn không đủ để đáp ứng nguồn vốn để kinh doanh. Nếu không đủ vốn thì thì ngân hàng sẽ không đáp ứng được nhu cầu vốn vay tiêu dùng của dân cư chứ chưa nói đến là ngân hàng còn phải bảo đảm và hoàn thiện chất lượng cho vay tiêu dùng. Chính vì thế đảm bảo nguồn vốn kinh doanh cũng là một yêu cầu quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng cho vay tiêu dùng của chi nhánh. Ngân hàng có thể tăng cường các biện pháp sau; + Đẩy mạnh huy động tiền gửi dân cư, tiền tiết kiệm , kỳ phiếu, trái phiếu, tài khoản cá nhân bằng cách: Khoán chỉ tiêu huy động vốn cho cán bộ tín dụng, mở rộng mạng lưới các bàn giao dịch, tổ chức các hình thức mới như, tiết kiệm gửi góp, bậc thang, tiết kiệm có thưởng… Ngoài ra nên chú trọng phát triển nguồn tiền gửi thanh toán thông qua việc nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt. Mở rộng các hình thức mở tài khoản cá nhân, dịch vụ chuyển tiền… Vì đây chính là loại tiền gửi mà ngân hàng phải trả chi phí thấp nhất nên việc thu hút thêm được nhiều khoản tiền gửi này sẽ mang lại nhiều lợi ích cho ngân hàng. + Mở rộng hơn nữa hoạt động thu đổi, giao dịch, thanh toán ngoại tệ để huy động được tiền gửi nhiều hơn nữa của các cá nhân tổ chức khác. + Phải duy trì được mối quan hệ với các khách hàng truyền thống, khách hàng lớn, tạo được sự tin tưởng và thuận tiên cho họ khi họ sử dụng các sản phẩm và dịch vụ của ngân hàng. + Phải có sự linh hoạt trong chính sách lãi suất, hết sức nhạy cảm với sự biến động lãi suât trên thị trường đảm bảo chấp hành đúng chính sách lãi suất của bản thân ngân hàng nhưng vẫn phải có tính cạnh tranh với các ngân hàng khác. Nếu không có chính sách lãi suất hợp lý thì nó sẽ ảnh hưởng ngay đến nguồn vốn huy động của ngân hàng. Bên cạnh đó ngân hàng phải đảm bảo khả năng thanh toán nhanh, tức thời cho khách hàng khi họ có nhu cầu, đảm bảo giữ vững uy tín, tạo được sự tin tưởng cho khách hàng. 3.2.5. Đẩy mạnh hoạt động Marketing ngân hàng Marketing bao gồm hàng loạt công việc: nghiên cứu, phát hiện và thoả mãn nhu cầu của khách hàng về vốn, cũng như các dịch vụ khác của ngân hàng để nhằm tới mục đích cuối cùng là tối đa hoá lợi nhuận của ngân hàng. Sự thành công của mỗi ngân hàng phụ thuộc rất nhiều vào việc ngân hàng đó sử dụng các công cụ marketing như thế nào vào chính các hoạt động của ngân hàng. Khi thâm nhập vào một thị trường mới hay đơn giản là để duy trì và mở rộng thị trường đang khai thác. Ngoài ra ngân hàng cần nghiên cứu, điều tra về tình hình cạnh tranh trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng của các ngân hàng khác để từ đó đưa ra phương án phù hợp cho ngân hàng mình. Việc phân tích đối thủ cạnh tranh và tăng cường khả năng của bản thân ngân hàng mình là một đề tài khá mới mẻ và cần được nghiên cứu và phát triển rất nhiều. Thực tế hiện nay tuy nhu cầu của dân cư vê tiêu dùng là rất lớn nhưng số lượng khách hàng đến với ngân hàng nhằm mục đích tiêu dùng còn rất nhiều hạn chế. Nguyên nhân chủ yếu là do khách hàng vẫn chưa được biết đến các thông tin về loại hình cho vay tiêu dùng của ngân hàng, chưa nhận thức được lợi ích của hoạt động cho vay tiêu dùng. Do đó ngân hàng phải đẩy mạnh hơn nữa công tác khuếch trương, quảng cáo, giúp người dân biết đến ngân hàng, đặc biệy la biết rõ về cho vay tiêu dùng, vì đây là một lĩnh vực còn khá mới mẻ. Chính vì thế ngân hàng cần xây dựng chính sách giao tiếp – khuếch trương. Đây là những hoạt động hỗ trợ nhằm làm cho khách hàng hiểu rõ hơn và đầy đủ hơn về ngân hàng và các dịch vụ ngân hàng. Ngân hàng cần quan tâm nhiều hơn nữa đến việc sử dụng các chính sách giao tiếp khuếch trương, vì sự giao tiếp của nhân viên với khách hàng sẽ tạo nên hình ảnh của ngân hàng. Qua đó ngân hàng sẽ thực hiện công tác tuyên truyền, quảng cáo hướng dẫn nghiệp vụ cho vay tiêu dùng đến tận các nhân viên trong cơ quan, đơn vị kinh tế và sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng để cho người tiêu dùng hiểu rõ hơn về sản phẩm cho vay tiêu dùng của ngân hàng. Nó sẽ giúp ngân hàng đưa ra được một sản phẩm tốt nhất để thoả mãn nhu cầu của khách hàng đồng thời thu hút được các khách hàng tiềm năng. Thái độ phục vụ tận tình, chu đáo, cùng với sự chính xác của nhân viên sẽ tạo nên một ấn tượng tốt đẹp đối với khách hàng. Vì thế, việc tiến hành chiến lược quảng bá, tiếp thị sẽ tạo ra hiệu quả tích cực, giúp cho ngân hàng có thể mở rộng được phạm vi hoạt động của mình, mang lại nguồn thu nhập cao hơn. Chính sách khuếch trường quảng bá, không nhất thiết là một chiến dịch quảng cáo rầm rộ trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc các chương trình khuyến mại lớn. Để tiết kiệm chi phí, đồng thời tiến hành hoạt động tiếp thị quảng bá sản phẩm đạt hiệu quả nhất thì cán bộ tín dụng nên tiếp cận trực tiếp với đối tượng vay vốn, những người thực sự có nhu cầu vay vốn. Phòng marketing ngân hàng nên là những cán bộ trẻ, năng động, nhiệt tình trong công việc, từng nhóm sẽ quản lý và thực hiện một nhiệm vụ riêng. Có thể trực tiếp tiếp cận các cơ quan, công ty và thông qua ban lãnh đạo, đoàn thể công đoàn để giới thiệu về loại hình cho vay tiêu dùng. Họ có thể tổ chức các buổi hội thảo tại từng doanh nghiệp, công ty có nhu cầu vay vốn để truyền đạt những thông tin về sản phẩm dịch vụ của ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng. Bên cạnh đó ngân hàng nên cung cấp đầy đủ thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, truyền hình, đài phát thanh để tăng cường tuyên truyền về hoạt động cho vay tiêu dùng, nêu rõ những lợi ích mà khách hàng thu được từ hoạt động cho vay tiêu dùng. Thật vậy việc sử dụng một cách linh hoạt, mềm dẻo các công cụ kỹ thuật của marketinh ngân hàng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển và mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng. 3.2.6. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Trong hoạt động cho vay tiêu dùng, toàn bộ quá trình cho vay như gặp gỡ tiếp xúc khách hàng, thẩm định, ra quyết định… không có một máy móc hay một công cụ nào khác ngoài cán bọ tín dụng đảm nhiệm. Vì vậy, kết quả hoạt động cho vay tiêu dùng phụ thuộc rất lớn vào trình độ nghiệp vụ, sự năng động sáng tạo và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng. Những điều kiện cần thiết mà một cán bộ tín dụng nên có là: + Có kiến thức, trình độ, có kỹ năng chuyên môn vững vàng, có năng lực dự đoán các vấn đề liên quan đến chuyên môn nghiệp vụ. + Có phẩm chất đạo đức tốt, có uy tín trong quan hệ xã hội, khả năng giao tiếp tốt. + Có năng lực học tập, nghiên cứu, có ý thức học hỏi trau dồi kinh nghiệm, không ngừng vươn lên trong công tác. Từ đó ngân hàng có thể đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực như: - Thực hiện tốt chiến lược đào tạo cán bộ, xây dựng các chương trình đào tạo chính thức đối với các cán bộ này là vấn đề hết sức quan trọng. Nội dung của chương trình đào tạo chủ yếu này là đào tạo tại chỗ trong đó cán bộ tập sự sẽ được làm việc cùng với cán bộ tín dụng có kinh nghiệm và nghiệp vụ giỏi trên cơ sở một kèm một. Như vậy cán bộ tập sự sẽ thu lượm được nhiều kiến thức, thông qua quan sát học hỏi. Sau khi đạt đến một trình độ nhất định, cán bộ tập sự sẽ cho phép cho vay dưới sự kiểm soát của cán bộ tín dụng cho đến khi đủ năng lực làm việc độc lập. Ngoài việc đào tạo tại chỗ, ngân hàng cũng nên mở các lớp học ngoại ngữ, vi tính cho cán bộ công nhân viên. Ngân hàng cần phát triển hơn nữa việc đào tạo cho giao dịch đổi mới công nghệ ngân hàng. Tăng cường cử cán bộ nhân viên tham dự các khoá học về nghiệp vụ ngân hàng và ngân hàng cũng nên tạo điều kiện cho các cán bộ học lên thạc sĩ và tiến sĩ. - Nâng cao kỹ năng giao tiếp, điều tra, phân tích đánh giá cho cán bộ tín dụng là việc làm hết sức quan trọng. Đây là một kỹnăng hết sức cần thiết đối với một cán bộ tín dụng vì họ là người tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, thẩm định dự án, đề xuất với cán bộ lãnh đạo phê duyệt. Chất lượng thẩm định của cán bộ tín dụng ảnh hưởng rất lớn đến quyết định của cán bộ lãnh đạo ngân hàng. Do vậy đội ngũ cán bộ này phải có khả năng thu thập và xử lý thông tin tốt, có khả năng giao tiếp để thu hút khách hàng, có hiểu biết thực tế. Họ phải khéo léo trong việc đàm phán, thương lượng với khách hàng về các điều kiện vay vốn làm sao đảm bảo lợi ích của ngân hàng nhưng vẫn thu hút được ngân hàng. - Tăng cường giáo dục phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ tín dụng để họ làm việc với năng suất và trách nhiệm cao từ lúc cho vay đến khi thu nợ. - Bố trí sắp xếp và xử dụng cán bộ một cách hợp lý. Ngân hàng cần tìm hiểu về năng lực, sở trường của từng cán bộ tín dụng để đề bạt, bố trí, quản lý sử dụng cán bộ phù hợp, phát huy tốt khả năng của mỗi người nhằm đem lại hiệu quả cao trong công tác, ngăn ngừa rủi ro xảy ra. - Quy định thời gian cán bộ tín dụng đi cơ sở chiếm 2/3 thời gian làm việc trong tháng để nắm bắt được tình hình khách hàng vay vốn, kiểm tra sử dụng vốn vay, đôn đốc thu lãi, thu nợ và xử lý nợ kịp thời khi có các vấn đề xảy ra có nguy cơ dẫn đến rủi ro cho ngân hàng. - Công tác tuyển dụng cán bộ tín dụng cũng là một trong những vấn đề ngân hàng đặc biệt quan tâm.Ngân hàng cần đặt ra các điều kiện và yêu cầu tối thiểu về trình độ nghiệp vụ, tổ chức thi tuyển để lựa chọn những người thực sự có năng lực vào công tác. Nếu thực hiện được tốt việc tuyển dụng này, ngân hàng hoàn toàn có thể yên tâm thực hiện các mục tiêu phát triển của mình, đồng thời nguồn nhâ lực tốt sẽ tạo lợi thế cạnh tranh của ngân hàng so với ngân hàng khác trong quá trình hoạt động. Bên cạnh đó, ngân hàng nên tiến hành các cuộc thăm dò nội bộ về mức độ hài lòng của nhân viên ngân hàng về chế độ lương, thưởng điều kiện làm việc cũng như mục đích, định hướng của họ trong tương lai, nhằm giúp cho ban lãnh đạo ngân hàng có các thông tin đầy đủ và có cách nhìn nhận đúng đắn về nhân viên của mình. Ngoài ra, ngân hàng cũng nên thường xuyên tổ chức các cuộc giao lưu, văn nghệ thể thao hay các cuộc thi nghiệp vụ trong nội bộ ngân hàng nhằm tạo cơ hội cho các nhân viên trao đổi thêm kinh nghiệm nghề nghiệp và hiểu biết lẫn nhau. Đồng thời bộ phận tín dụng và các bộ phận khác cũng cần có sự phối hợp hoạt động chặt chẽ, tăng cường học hỏi giúp đỡ lẫn nhau vì mục tiêu chung của ngân hàng. 3.2.7. Tăng cường đầu tư cho cơ sở vật chất, hiện đại hoá công nghê ngân hàng Đổi mới hiện đại hoá công nghệ ngân hàng là yêu cầu cấp thiết của hầu hết các ngân hàng hiện nay nếu như họ muốn tồn tại và phát triển. Đổi mới công nghệ ngân hàng không chỉ đơn thuần là trang thiết bị kỹ thuật hiện đại mà nó phải gắn với việc đổi mới qui trình sản xuất của ngân hàng. Thời gian trước đây thì khách hàng phải tìm đến ngân hàng nhưng hiện nay ngân hàng cần chủ động tìm đến khách hàng thì đối với mỗi doanh nghiệp thì họ có rất nhiều ngân hàng để lựa chọn. Điều quan trọng là ngân hàng phải làm sao chứng minh được tính ưu việt của mình hơn các ngân hàng khác, do đó ngân hàng phải tập trung vào những vấn đề sau: + Hiện đại hoá hệ thống thanh toán, bằng việc trang bị hệ thống máy vi tính hiện đại và cải tiến thủ tục thanh toán nhằm mục tiêu thu hút thêm được nhiều thành phần kinh tế mở tài khoản và thanh toán qua ngân hàng. Việc này sẽ làm cho số dư tiền gửi tăng thêm và chi phí của ngân hàng cho loại tiền gửi này cũng giảm xuống tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng tín dụng. + Phát triển thêm các dịch vụ tiên tiến cung ứng cho khách hàng, với trang thiết bị máy móc hiện đại ngân hàng có thể phục vụ các nhu cầu của khách hàng như giao dịch qua điện thoại, qua mạng máy tính cá nhân… Để thu hút thêm khách hàng ngân hàng có thể mở dịch vụ thông tin cho khách hàng đóng vai trò như một nhà tư vấn cho khách hàng. + Ngân hàng đang định tiến hành hiện đại hoá các trang thiết bị để phục vụ cho việc thẩm định, giám sát các khoản cho vay với khách hàng. Ngân hàng đang từng bước tin học hoá các hoạt động quản lý như quản lý nhân sự, thư viện điện tử… Đầu tư vào trang thiết bị công nghệ giúp cho ngân hàng phục vụ nhu cầu của khách hàng mình nhanh chóng, tiện lợi đảm bảo tính hiệu quả cao. Điều này sẽ thu hu ts được nhiều khách hàng đến với ngân hàng. Họ sẽ không cảm thấy ngại và mất nhiều thời gian khi đến giao dịch với ngân hàng. Điều này góp phần không nhỏ vào việc mở rộng cho vay tiêu dùng của ngân hàng. Mặt khác nó còn là một trong những hình ảnh, tiêu chuẩn đầu tiên về ngân hàng khi khách hàng đên giao dịch. Vì tâm lý khách hàng là muốn giao dịch với những ngân hàng có trụ sở to lớn, bề thế, các trang thiết bị hiện đại. Những hình ảnh trên sẽ tạo cho khách hàng tin tưởng vào sự an toàn, thoải mái, thuận tiện khi giao dịch. Do đó việc thường xuyên phải nâng cao cơ sở vật chất kỹ thuật trang thiết bị đối với ngân hàng là một tất yếu khách quan. 3.3. Một số kiến nghị 3.3.1. Kiến nghị đối với sự quản lý vĩ mô của nhà nước Do chính nhưng lợi ích mà thu được khi cho vay tiêu dùng được hoàn thiện và mở rộng nên nhà nước cũng cần có những nỗ lực nhằm hộ trợ cho muc tiêu phát triển tín dụng tiêu dùng, khuyến khích và tạo ra những điều kiện thuận lợi để sự phát triển của loại hình cho vay này diễn ra một cách lành mạnh tốt đẹp. + Nhà nước cần phải ổn định môi trường vĩ mô của nền kinh tế. Nhà nước cần xác định rõ chiến lược phát triển kinh tế, hướng đầu tư, có chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần một cách ổn định, lâu dài, đúng định hướng. ổn định thị trường, ổn định giá cả, duy trì tỷ lệ lạm phát ở mức hợp lý được coi là nhiệm vụ hàng đầu và thường xuyên. Chính việc nhà nước tạo ra một môi trường kinh tế chính trị – xã hội ổn định và lành mạnh sẽ tạo điều kiện cho quá trình phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập và mức sống của dân cư, khiến cho khả năng tích luỹ và tiêu dùng của công chúng ngày càng tăng lên, thúc đẩy mạnh mẽ nhu cầu về hàng hoá và tiêu dùng. Hơn nữa, việc có một môi trường ổn định cũng giúp cho các doanh nghiệp an tâm tiến hành sản xuất kinh doanh, đáp ứng các nhu cầu đa dạng phong phú về hàng hoá dịch vụ tiêu dùng của dân cư. + Nhà nước cần tiếp tục củng cố cơ cấu ngành trong nền kinh tế theo hướng ưu tiên cho các ngành công nghiệp sản xuất hàng hoá tiêu dùng và các ngành dịch vụ phục vụ đời sống của dân cư. + Nhà nước cần sớm ban hành luật tín dụng tiêu dùng, tạo điều kiện cho hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng. Nhà nước cần chỉ thị cho cơ quan lập pháp và các ban ngành có liên quan nghiên cứu về luật tín dụng tiêu dùng. Vận dụng sáng tạo của các nước khác vào điều kiện thực tế vủa Việt Nam là một việc làm cần thiết, vì các nước đi trước luôn cho ta những bài học kinh nghiệm nhưng vận dụng thế nào cho khéo thì đòi hỏi chúng ta cần nghiên cứu hơn nữa. + Đầu tư cho hệ thống giáo dục là đầu tư phát triển nhân tố con người. Vấn đề đó phải nằm trong chiến lược phát triển chung của quốc gia. Do vật muốn có một đội ngũ lao động có trình độ, đáp ứng được yêu cầu của quá trình phát triển, đặc biệt trong ngành áp dụng nhiều công nghệ tiên tiến vào bậc nhất trên thế giới như ngành ngân hàng thì cần có một đương lối chiến lược chỉ đạo của nhà nước. Do đó, nhà nước cần có khuyến khích, hỗ trợ các trường đại học trong khối kinh tế nói chung. + Nhà nước nên tiếp tục xúc tiến các chương trình phát triển kinh tế vùng sâu vùng xa, các chương trình hỗ trợ nông dân và các hộ gia đình có thu nhập thấp để giúp họ nâng cao, cải thiện mức thu nhập, thu hẹp dần hố sau ngăn cách giầu nghèo, tránh tình trạng có sự phân hoá sâu sắc giữa các tầng lớp xã hội. + Nhà nước nên hỗ trợ các ngân hàng thương mại trong việc phổ biến kiến thức, thông tin về hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng. Cụ thể, nhà nước có chỉ thị cho các cơ quan truyền hình, truyền thanh, báo chí của nhà nước quảng bá về tín dụng tiêu dùng, tạo ra các chính sách hỗ trợ, ưu tiên nhằm khuyến khích cho sự phát triển của hoạt động cho vay tiêu dùng. + Ngoài ra, các cơ quan chức năng cũng cần chấn chỉnh hoạt động của mình trong phạm vi có liên quan, như là việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản, hạn chế các sai sót, tiêu cực trong công tác này nhằm bảo vệ quyền hạn của các ngân hàng trong vấn đề liên quan đến cầm cố, thế chấp. 3.3.2. Kiến nghị đối với ngân hàng nhà nước + Ngân hàng nhà nước cần hoàn thiện các văn bản pháp qui đối với hoạt động cho vay tiêu dùng. Để hoạt động cho vay tiêu dùng phát triển và các ngân hàng thương mại dễ dàng trong việc thực hiện nghiệp vụ cho vay tiêu dùng, NHNN cần ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể trong đó quy định về các loại hình sản phẩm, dịch vụ cho vay tiêu dùng, đồng thời cũng ban hành các văn bản hỗ trợ khuyến khích đối với cho vay tiêu dùng, tạo hành lang pháp lý thông thoáng và đầy đủ để bảo vệ quyền lợi cho cả ngân hàng và khách hàng. Đồng thời tạo sự chủ động hơn nữa của ngân hàng trong phát triển cho vay tiêu dùng, giải quyết nợ quá hạn để tăng hiệu quả hoạt động của ngân hàng. + Ngân hàng nhà nước nên thành lập và phát triển hệ thống thông tin liên ngân hàng. Trong thời gian tới, ngân hàng nên cùng với ngân hàng thương mại khác cùng nhau phối hợp xây dựng và tham gia vào hệ thống nối mạng thông tin liên ngân hàng. Hệ thống này sẽ cho phép các ngân hàng có khả năng truy cập các thông tin kinh tế xã hội liên quan đến lĩnh vực ngân hàng, các thông tin về khách hàng một cách nhanh chóng nhất. + Hoạch định về chiến lược chung về cho vay tiêu dùng của các ngân hàng thương mại. Vì ngân hàng thương mại đóng vai trò to lớn trong việc định hướng chiến lược chung cho các ngân hàng thương mại thực hiện nghiệp vụ cho vay tiêu dùng nhằm tạo ra sự thống nhất và bình đẳng trong cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại trong cả nước. Hơn nữa, nhằm mục đích chung là hoạt động đồng bộ giữa các ngân hàng thương mại, tạo điều kiện cùng nhau phát triển. Việc này cũng đòi hỏi phải tăng cường sự hợp tác và trao đổi giữa các ngân hàng thương mại. 3.3.3. Kiến nghị với các cấp có liên quan Để hoạt động cho vay tiêu dùng đạt hiệu quả cao thì rất cần có sự hỗ trợ từ các cơ quan chức năng tại địa phương như UBND phường, xã, các cơ quan quản lý nơi có khách hàng vay vốn… Những cơ quan này phải hợp tác, cung cấp thông tin đầy đủ chính xác thì ngân hàng mới có thể đưa ra được quyết định tín dụng đúng đắn. Các cơ quan chức năng của nhà nước cũng cần chấn chỉnh hoạt động của mình trong phạm vi có liên quan như việc chứng nhận quyền sở hữu tài sản làm bảo đảm tín dụng hay quá trình xử lý các tài sản này để thu hồi nợ… Các cơ quan này cần hạn chế các sai sót tiêu cực gây bất lợi cho ngân hàng. Trong thực tế vẫn có một số cán bộ làm ăn quan liêu, cố tình gây trở ngại khó khăn khi khách hàng phải làm chứng nhận các giấy tờ để làm thủ tục vay vốn tại ngân hàng. Cần phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan trong việc xử lý tài sản thế chấp, cụ thể là giữa toà án với cơ quan thi hành án, để việc xử lý tài sản thế chấp thu hồi nợ được diễn ra thuận lợi. Nhà nước nên xoá bỏ các thủ tục rườm rà, không cần thiết để tránh tình trạng nhiều qui định chặt chẽ quá mức cần thiết trong khi một số qui định lại quá lỏng lẻo tạo khe hở cho một số cá nhân lợi dụng. 3.3.4. Kiến nghị đối với ngân hàng công thương Việt Nam + Nâng cao mức cho vay tối đa và kéo dài thời hạn cho vay với cán bộ công nhân viên. Trong thực tế, mức cho vay tối đa hiện nay còn nhỏ và chưa phù hợp vì: Nó sẽ giảm khả năng cạnh tranh của ngân hàng mình với ngân hàng đối thủ khi họ có mức cho vay tối đa lớn hơn của minh. Với khoản cho vay ít thì khó có thể phục vụ thoả mãn được các nhu cầu tiêu dùng lớn như mua sắm nhà, đất, ôtô… + Giảm bớt những thủ tục giấy tờ không cần thiết trong hồ sơ vay. Qua quá trình triển khai thực hiện công tác cho vay tiêu dùng, hồ sơ vay vốn còn có quá nhiều giấy tờ mang nặng tính hình thức, không cần thiết. + Cho phép triển khai thực hiện cho vay trả góp đối với cán bộ công nhân viên và hộ có thu nhập thấp để mua nhà ở, đất đai với thời hạn dài và sẽ dùng luôn tài sản đó làm tài sản đảm bảo. Kết luận Ta có thể thấy ở bất cứ một quốc gia nào, kể cả những quốc gia có nền kinh tế đã phát triển và các quốc gia có nền kinh tế đang phát triển thì nhiệm vụ và những hoạt động của ngân hàng luôn đóng một vai trò đặc biệt quan trong không thể thiếu trong công cuộc tăng trưởng và phát triển nền kinh tế của một nước. Nó được coi là trung gian tài chính bậc nhất trong nền kinh tế, và có tầm ảnh hưởng sâu rộng đến tất cả các ngành nghề khác. Vì thế việc cải tổ và thường xuyên nâng cao hiệu quả của ngân hàng là nhiệm vụ không chỉ đối với hệ thống ngân hàng Công Thương Viêt Nam mà nó còn là nhiệm vụ của tất cả các NHTM khác. Hiện nay hầu hết doanh thu của ngân hàng đều bắt nguồn từ các hoạt động tín dụng. Hoạt động tín dụng ngân hàng tuy là một hoạt động chứa đựng sự rủi ro cao nhưng trước thực trạng tín dụng đang đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động ngân hàng như hiện nay thì việc quan tâm để phát triển tín dụng cũng là một tất yếu. Cho nên ngoài việc phải hoàn thiện nâng cao chất lượng của các sản phẩm dịch vụ cũ thì ngân hàng cũng nên mở rộng phát triển các sản phẩm loại hình dịch vụ mới, một trong những số đó là hoạt động cho vay tiêu dùng. Chính vì nó là thì trường mới mẻ và đầy tiềm năng nên nó đòi hỏi cần nghiên cứu một cách sâu sắc và kỹ càng dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Trong quá trình nghiên cứu và thực tập tại NHCT Ba Đình em đã được các cô chú cán bộ giảng dạy giúp đỡ rất nhiều để hoàn thành chuyên đề, và phần nào phân tích đánh giá được thực trạng cho vay tiêu dùng tại chi nhánh. Nhìn chung trong những năm gần đây cho vay tiêu dùng luôn tăng trưởng đều đặn, với tốc độ khá mà chất lượng tín dụng lại rất tốt hầu như không có rủi ro. Nhưng tổng doanh số cho vay tiêu dùng vẫn chiếm một tỷ trọng khiêm tốn so với tổng dư nợ cho vay của ngân hàng. Tuy nhiên đó cũng chỉ là tình trạng chung của hầu hết các ngân hàng hiện nay. Cùng với sự kết hợp giữa lý luận và thực tiễn của mình em mong rằng bài viết sẽ có tác dụng trong việc thúc đẩy sự phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng hơn nữa của chi nhánh. Do hạn chế về nhiều mặt: thời gian nghiên cứu, tài liệu tham khảo và tiếp xúc thực tế nên bài viết không thể tránh khỏi những sai sót. Kính mong các thầy cô giáo, các cô chú, anh chị tại chi nhánh NHCT Ba Đình đóng góp ý kiến và bổ sung kiến thức để bài viêt được hoàn thiện hơn. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn thầy giáo PGS.TS. Vũ Duy Hào và các cô chú, anh chị tại chi nhánh NHCT Ba Đình đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. Danh mục tài liệu tham khảo Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ - Đại học Kinh Tế Quốc Dân. Giáo trình tín dụng ngân hàng - Học viện ngân hàng. Giáo trình Marketing ngân hàng - Học viện ngân hàng. Báo cáo thường niên Ngân hàng Công Thương Ba Đình 2003,2004,2005 Ngân hàng thương mại – Edward W.Reed and Edward K.Gill. Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại, David Cox, NXB Chính trị Quốc gia. Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính – F.S.Mishkin. Tạp chí nghiên cứu kinh tế năm 2003,2004,2005. Tạp chí ngân hàng năm 2003,2004,2005. Thời báo ngân hàng. Sổ tay tín dụng NHCT Ba Đình Công văn số 34/CV – NHNN về việc cho vay không có đảm bảo bằng tài sản đối với CBCNV và thu nợ từ tiền lương, trợ cấp và các khoản thu nhập khác. Quyết định số 049/QĐ-HĐQT-NHCT ngày 31/5/2002 của NHCT Việt Nam. Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ban hành qui định về phân loại nợ, trích lập và dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động của ngân hàng và của tổ chức tín dụng. Thông tin lấy từ các bài báo điện tử trên internet. Mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5542.doc
Tài liệu liên quan