Phát triển CN phụ trợ thuộc ngành công nghiệp điện tử Việt Nam trong bối cảnh phát triển công nghiệp điện tử của khu vực Đông Á

Tài liệu Phát triển CN phụ trợ thuộc ngành công nghiệp điện tử Việt Nam trong bối cảnh phát triển công nghiệp điện tử của khu vực Đông Á: MỤC LỤC DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ SƠ ĐỒ Sơ đồ 1.1 : Khái niệm các ngành công nghiệp phụ trợ 7 Sơ đồ 1.2 : Quan hệ giữa công nghiệp chính và công nghiệp phụ trợ 8 Sơ đồ 1.3 : Quy trình sản xuất sản phẩm điện tử 24 Bảng 1.1 : Mức nhựa phun máy cần thiết cho sản xuất một số sản phẩm 26 Sơ đồ 1.4: Chia sẻ công nghiệp phụ trợ cho nhiều ngành khác 27 Bảng 2.1 :Phân tích SWOT cho công nghiệp điện tử của Việt Nam 36 Sơ đồ 2.1 :Giá trị nhập khẩu các hàng điện tử, máy tính ... Ebook Phát triển CN phụ trợ thuộc ngành công nghiệp điện tử Việt Nam trong bối cảnh phát triển công nghiệp điện tử của khu vực Đông Á

doc88 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1232 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phát triển CN phụ trợ thuộc ngành công nghiệp điện tử Việt Nam trong bối cảnh phát triển công nghiệp điện tử của khu vực Đông Á, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và linh kiện điện tử của VN 47 Hình 2.3: Chuỗi giá trị của một ngành công nghiệp 61 Bảng 2.2 :Phân tích SWOT cho công nghiệp phụ trợ thuộc ngành công nghiệp điện tử của Việt Nam 67 Bảng 3.1: Dự báo nhu cầu về linh kiện 69 Bảng 3.2 : Dự báo nhu cầu về phụ kiện nhựa 70 Bảng 3.3 : Dự báo nhu cầu về khuôn mẫu 71 Sơ đồ 3.1 : CSDL CNPT giúp giảm thời gian dao dịch tiếp xúc 72 Sơ đồ 3.2 : Đảm bảo đầy đủ các thông tin trong CSDL về CNPT 73 LỜI MỞ ĐẦU Thế giới ngày nay đã chuyển dần từ thời đại công nghiệp sang thời đại công nghệ, trong đó thành công thuộc về các lực lượng nắm giữ công nghệ và thông tin, do đó quá trình sản xuất công nghiệp trong các thập kỷ vừa qua cũng đã có những biến đổi hết sức sâu sắc và rõ nét. Trình độ phân công lao động quốc tế và phân chia quá trình sản xuất đã đạt đến mức rất cao. Các sản phẩm công nghiệp hầu hết không còn được sản xuất trọn bộ tại một không gian hay một địa điểm, mà được phân chia thành nhiều công đoạn, ở các châu lục, các quốc gia, các địa phương khác nhau. Khái niệm Công nghiệp phụ trợ ra đời như là một cách tiếp cận sản xuất công nghiệp mới với nội dung cơ bản là việc chuyên môn hoá sâu sắc các công đoạn của quá trình sản xuất. Đề tài: “Một số đề xuất nhằm phát triển công nghiệp phụ trợ thuộc ngành công nghiệp điện tử Việt Nam trong bối cảnh phát triển công nghiệp điện tử của khu vực Đông Á” là sự kết hợp giữa những hiểu biết lý luận về công nghiệp phụ trợ và những đặc thù của ngành công nghiệp điện tử. Qua những phân tích về công nghiệp phụ trợ trong ngành công nghiệp điện tử sẽ cho thấy những tồn tại trong sản xuất công nghiệp và chỉ ra rằng công nghiệp phụ trợ chính là mũi đột phá chiến lược giúp cho quá trình công nghiệp hóa của Việt Nam tiến nhanh thêm một bước. Trong chuyên đề này cũng mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển công nghiệp phụ trợ trong ngành công nghiệp điện tử nói riêng và những hướng gợi mở cho các ngành công nghiệp Việt Nam nói chung. Đề tài được chia làm ba chương: + Chương I: Những lý luận cơ bản về công nghiệp phụ trợ và công nghiệp phụ trợ thuộc ngành công nghiệp điện tử. + Chương II: Sự phát triển công nghiệp phụ trợ thuộc ngành công nghiệp điện tử trong những năm qua. +Chương III: Một số đề xuất nhằm phát triển công nghiệp phụ trợ thuộc ngành công nghiệp điện tử Việt Nam. Do vấn đề còn khá mới mẻ và với tr×nh ®é kiÕn thøc cßn h¹n chÕ nên chuyên đề thực tập này kh«ng thÓ tr¸nh khái nh÷ng sai sãt .KÝnh mong các thầy c« gi¸o vµ c¸c b¹n ®ãng gãp ý kiÕn ®Ó ®Ò tài cña em ®­îc hoµn thiÖn h¬n. Em xin ch©n thµnh c¶m ¬n các cán bộ trong Viện nghiên cứu Chiến lược chính sách công nghiệp thuộc bộ Công thương đã nhiệt tình giúp đỡ em trong quá trình thực tập và hoàn thành đề tài này. Và em xin đặc biệt cảm ơn thầy Nguyễn Văn Hiển đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn em trong suốt quá trình hoàn thành chuyên đề này. Sinh viªn thùc hiÖn Nguyễn Thị Ngọc Linh CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÔNG NGHIỆP PHỤ TRỢ VÀ CÔNG NGHIỆP PHỤ TRỢ THUỘC NGÀNH CÔNG NGHỆP ĐIỆN TỬ ****************** 1.1. Những lý luận cơ bản về công nghiệp phụ trợ 1.1.1. Khái niệm về công nghiệp phụ trợ Khái niệm về công nghiệp phụ trợ (hay công nghiệp hỗ trợ) đã bắt đầu xuất hiện từ những năm 1960 ở Nhật Bản, xuất phát ban đầu từ cách thức tổ chức sản xuất của người Nhật trong qúa trình xây dựng các mắt xích chuyên môn hóa của từng công đoạn sản xuất các sản phẩm và dịch vụ công nghiệp. Ở các nước khác nhau, tùy theo tình hình cụ thể và đặc thù của từng quốc gia khái niệm về công nghiệp phụ trợ hiện cũng chưa rõ ràng và có những sự khác biệt nhất định. Trong thế kỷ 20, các hoạt động sản xuất kinh doanh trong các ngành công nghiệp thường được tổ chức theo các cách thức như sau: Cách thức thứ nhất: mô hình tích hợp – liên kết theo chiều dọc của công nghệ sản xuất. Theo cách này thì trong toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh sẽ có sự tập trung kiểm soát từ khâu đầu đến khâu cuối cùng, nghĩa là từ sản xuất nguyên liệu đầu vào cho đến khi tiêu thụ các sản phẩm tiêu dùng cuối cùng, trong đó việc kiểm soát bao trùm tất cả các hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh như: kiểm soát giá cả, kiểm soát chất lượng sản phẩm, kiểm soát công nghệ, kiểm soát khối lượng sản xuất và tiêu thụ... Đây là mô hình tổ chức truyền thống và rất phổ biến ở hầu hết các ngành công nghiệp và dịch vụ trong thế kỷ 20, từ đó đã tạo nên những tổ chức, tập đoàn sản xuất công nghiệp lớn trên thế giới. Cách thức thứ hai: phân chia quá trình sản xuất thành nhiều công đoạn. Đây là cách mà các nhà lắp ráp không sở hữu các bộ phận sản xuất, cung cấp nguyện liệu thô hay các vật tư, linh kiện, sản phẩm trung gian cấu thành của quá trình sản xuất kinh doanh hoặc các công đoạn thương mại tiêu thụ các sản phẩm cuối cùng. Các nguồn lực sẽ được tập trung vào một số khâu hay công đoạn chủ yếu mà các nhà sản xuất có thế mạnh nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh, bảo vệ các bản quyền sở hữu công nghiệp và phát triển thị trường. Các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp sẽ được cung cấp bởi các đơn vị ngoài hệ thống doanh nghiệp đó, những đơn vị này được coi là những tổ chức thầu phụ của doanh nghiệp (hay còn gọi là tổ chức vệ tinh của doanh nghiệp). Liên kết theo kiểu này hiện nay ngày càng phát triển cả về chất và về lượng. Hình thức tổ chức này được gọi là tổ chức thầu phụ (vệ tinh) hay hướng thị trường. Cách thức thứ ba: tổ chức sản xuất kinh doanh mạng toàn cầu (global network) Trong vài thập kỷ gần đây, sự tác động của quá trình tự do hóa thương mại ngày càng diễn ra mạnh mẽ cùng với sự bùng nổ của công nghệ thông tin, các hoạt động kinh tế ngày càng diễn ra mạnh mẽ cùng với sự bùng nổ của công nghệ thông tin, các hoạt động kinh tế ngày càng mang tính chất toàn cầu, điều đó đã hình thành nên các tập đoàn đa quốc gia hoạt động trên thị trường toàn cầu. Trong mạng lưới sản xuất kinh doanh theo kiểu này, một tập đoàn sẽ nắm giữ vai trò trung tâm kiểm soát và điều phối các luồng hàng hóa và thông tin giữ vô số các công ty độc lập nhằm đáp ứng yêu cầu thị trường một cách hiệu quả nhất. Nhận thấy, hai cách thức tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh thứ hai và thứ ba dẫn đến quá trình sản xuất kin doanh một loại sản phẩm hàng hóa nào đó được phân chia thành rất nhiều công đoạn và phân đoạn, do vậy số lượng các tổ chức sản xuất kinh doanh hoạt động với tư cách độc lập (hoặc cùng là thành viên cấu thành của tổ chức nắm giữ vai trò chủ đạo trong quá trình) tham gia vào các công đoạn của cùng một quá trình sản xuất kinh doanh ngày càng nhiều. Tổ chức chủ đạo với vai trò tạo cung có tác động thúc đẩy các tổ chức khác hoạt động trong các công đoạn đầu ra còn ở vai trò tạo cầu có tác động lôi kéo và thu hút các tổ chức khác hoạt động trong các công đoạn đầu vào của sản phẩm cuối cùng. Tác động của các tổ chức cấu thành hoạt động trong từng công đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh tới tổ chức chủ đạo cũng giống như vậy nhưng theo chiều ngược lại. Mặt khác, hoạt động của các tổ chức cấu thành không chỉ hỗ trợ riêng cho hoạt động sản xuất kinh doanh của tổ chức chủ đạo nào đó, mà còn có thể hỗ trợ thêm cho các hoạt động của tổ chức sản xuất kinh doanh khác có liên quan. Một cách tổng thể, những tổ chức nắm giữ vai trò chủ đạo trong quá trình sản xuất kinh doanh trên có thể chỉ nắm giữ vai trò là các tổ chức hoạt động trong các phân ngành của một ngành công nghiệp nào đó. Mô hình sản xuất thứ hai và thứ ba thường phát triển ở khu vực Đông Á, đặc biệt là Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan, rồi gần đây là Trung Quốc và khu vực ASEAN. Nếu xét về tỷ lệ giá trị gia tăng trong nội bộ tổ chức thì thông thường tổ chức nào có mức độ sản xuất tích hợp theo chiều dọc cao (cách thức một) thì có giá trị gia tăng nội bộ cao hơn so với chiều ngang (cách thức hai, ba). Tuy nhiên cũng không thể phủ nhận hiệu quả của xu hướng tổ chức tổ chức sản xuất tích hợp theo chiều ngang vì cách thức này dựa trên sự phân công hợp tác sản xuất chặt chẽ, có mức độ chuyên môn hóa sâu, hoạt động và sử dụng hiệu quả nhiều nguồn lực từ tổ chức bên ngoài tổ chức chủ đạo, có khả năng xử lý linh hoạt các biến động của thị trường, thay đổi mẫu mã nhanh với chi phí giá thành thấp có khả năng cạnh tranh cao trong bối cảnh hội nhập, tự do hóa thương mại mạnh mẽ. Từ cách thức tổ chức thứ hai và thứ ba, dưới tác động của các tổ chức sản xuất chủ đạo sẽ hình thành một loạt các cơ sở sản xuất vệ tinh, có nhiệm vụ sản xuất những phụ tùng, nguyên liệu, linh phụ kiện, cấu kiện... được chuyên môn hóa cao về công nghệ sản xuất nhằm cung ứng cho nhà lắp ráp sản phẩm cuối những sản phẩm chất lượng với giá thành cạnh tranh cao. Đối với các cơ sở sản xuất vệ tinh này, trong quá trình sản xuất kinh doanh, hoàn thiện, cải tiến công nghệ sản xuất của mình sẽ trở thành nhà sản xuất, gia công các loại sản phẩm tương tự, cung ứng không chỉ riêng cho các tổ chức sản xuất chủ đạo chính của mình mà còn có thể vươn ra đáp ứng nhu cầu sản xuất của các tổ chức sản xuất khác. Vậy, công nghiệp phụ trợ (hay công nghiệp hỗ trợ) là hệ thống các nhà sản xuất sản phẩm và công nghệ sản xuất có khả năng tích hợp theo chiều ngang, cung cấp nguyên vật liệu, linh kiện, phụ tùng... cho khâu lắp ráp cuối cùng. Sơ đồ 1.1 sau đây sẽ giúp làm rõ khái niệm về công nghiệp phụ trợ Nhà lắp ráp Ngành công nghiệp phụ trợ Linh phụ kiện Cao su Lò xo Ốc vít Nhựa Điện Công nghệ - thiết bị Dập Xử lý nhiệt Cán Đúc Ép Vật liệu Nguyên liệu thô Sơ đồ 1.1 : Khái niệm các ngành công nghiệp phụ trợ Một điều rõ ràng rằng, ngành công nghiệp phụ trợ cần được xem là một cơ sở công nghệ hoạt động với nhiều chức năng để phục vụ một số lượng lớn các ngành lắp ráp chứ không nên coi nó đơn giản chỉ là ngành thu nhập ngẫu nhiên những linh kiện mà quan trọng hơn là nó còn thực hiện quá trình sản xuất hỗ trợ việc sản xuất các bộ phận nhựa và kim loại như cán, ép, dập khuôn, đúc... 1.1.2. Thành phần của công nghiệp phụ trợ và mối quan hệ với các ngành khác Công nghiệp phụ trợ có thể được chia thành hai phần chính là: Phần cứng: là các sơ sở sản xuất nguyên vật liệu và linh phụ kiện lắp ráp. Phần mềm: là các cơ sở sản xuất thiết kế sản phẩm, mua sắm, hệ thống dịch vụ công nghiệp và marketing. Mối quan hệ giữa công nghiệp chính và công nghiệp phụ trợ được minh họa bằng sơ đồ sau: Ngành ô tô Ngành công nghiệp phụ trợ Ngành xe máy Ngành điện tử Ngành điện gia dụng Ngành dệt may Ngành da giày Ngành cơ khí chế tạo Sơ đồ 1.2 : Quan hệ giữa công nghiệp chính và công nghiệp phụ trợ Sản xuất phụ trợ với những ngành công nghiệp khác nhau cũng có nhiều tầng cấp, thứ bậc khác nhau. Đồng thời giữa các nhà sản xuất phụ trợ cũng hình thành nhiều mối quan hệ hợp tác kinh doanh với thứ bậc khác nhau. Chẳng hạn, một nhà sản xuất lắp ráp A nào đó có thể có nhiều đối tượng hợp tác chuyên sản xuất và cung ứng các sản phẩm phụ trợ. Đối tượng thứ nhất là các cơ sở sản xuất tin cậy nhất được đầu tư vốn và chỉ chuyên sản xuất các sản phẩm riêng của chính hãng thiết kế đặt hàng. Đối tượng thứ hai là các cơ sở sản xuất phụ trợ nhận gia công cho chính hãng đặt hàng và cũng có thể tổ chức tổ chức sản xuất cho đối tượng khác, thường thì chính hãng chỉ quan hệ với đối tượng này theo quan hệ hợp đồng gia công. Đối tượng thứ ba là các cơ sở sản xuất các sản phẩm phụ trợ hàng loạt, mua sẵn, quan hệ với chính hãng là quan hệ mua bán thông thường. 1.1.3. Các giai đoạn phát triển công nghiệp phụ trợ ở các nước đang phát triển Sự hình thành công nghiệp phụ trợ của các nước rất khác nhau, thường ở các nước phát triển, ngành công nghiệp phụ trợ hình thành trước hoặc đồng thời với ngành công nghiệp sản xuất chính, có vai trò quyết định tới sự thành công và uy tín của các sản phẩm công nghiệp cuối cùng. Đối với các nước NICS như Nhật Bản, Hàn Quốc... ngành công nghiệp phụ trợ hình thành trước hoặc đồng thời với việc tổ chức lắp ráp, sản xuất các sản phẩm công nghiệp cuối cùng. Đối với các nước đang phát triển như ASEAN, Việt Nam... do thiếu vốn, công nghệ và thị trường tiêu thụ, thông thường công nghiệp lắp ráp phát triển trước, ngành công nghiệp hỗ trợ hình thành theo sau với tiến trình nội địa hóa các sản phẩm được tập đoàn, công ty có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện trên lãnh thổ của nước sở tại, sau đó tùy theo trình độ phát triển và khả năng cạnh tranh của hệ thống các cơ sở sản xuất sản phẩm phụ trợ, có thể vươn ra xuất khẩu các sản phẩm phụ trợ sang các thị trường khác. Thông thường, quá trình phát triển công nghiệp phụ trợ ở các nước đang phát triển diễn ra theo năm giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất: Việc sản xuất được thực hiện dựa vào cơ sở sử dụng các cụm linh kiện nhập khẩu nguyên chiếc, số lượng các nhà cung cấp các linh kiện, các chi tiết đơn giản sản xuất trong nước có rất ít. Giai đoạn thứ hai: Nội địa hóa thông qua sản xuất tại chỗ, các nhà sản xuất lắp ráp chuyển sang sử dụng các loại linh kiện, phụ kiện sản xuất trong nước, thông thường các linh kiện, phụ kiện này là những loại thông dụng lắp lẫn, dùng chung. Tỷ lệ nội địa hóa trong các sản phẩm công nghiệp ở trong nước có tăng lên nhưng thông thường là ít tăng số lượng các nhà sản xuất phụ trợ và tính cạnh tranh trong sản xuất các sản phẩm này không cao. Giai đoạn thứ ba: Xuất hiện các nhà cung ứng các sản phẩm phụ trợ chủ chốt trong các ngành như sản xuất động cơ, hộp số đối với ngành ô tô – xe máy, chíp IC điện tử và nguyên vật liệu cao cấp... một cách độc lập và tự nguyện không theo yêu cầu của các nhà lắp ráp. Trong giai đoạn này việc gia công phát triển mạnh mẽ tại các nước sở tại. Các phụ tùng, các chi tiết có độ phức tạp cao và khối lượng hàng hóa nhập khẩu để lắp ráp giảm hẳn. Giai đoạn thứ tư: Giai đoạn tập trung của các ngành công nghiệp phụ trợ. Ở giai đoạn này hầu như tất cả các chi tiết, các phụ tùng, các loại linh kiện đã được tiến hành sản xuất ở nước sở tại, kể cả một phần các sản phẩm nguyên liệu sản xuất các linh kiện đó cũng được sản xuất tại nước sở tại.Trong giai đoạn này, số lượng nhà cung cấp các sản phẩm phụ trợ tăng lên 3-4 cơ sở cho mỗi chủng loại sản phẩm. Cạnh tranh giữa các nhà sản xuất phụ trợ trở nên gay gắt hơn cùng với xu thế chung của cạnh tranh lúc này là hạ giá thành sản xuất trong khi chất lượng sản phẩm vẫn được duy trì và phát triển. Giai đoạn thứ năm: Nghiên cứu, phát triển và xuất khẩu. Đây là giai đoạn cuối của quá trình nội địa hóa với sự chuyển dịch các thành tựu nghiên cứu , phát triển của các nhà đầu tư nước ngoài tại nước sở tại. Năng lực nghiên cứu và phát triển ở các nước sở tại cũng đã được củng cố và phát triển, bắt đầu giai đoạn sản xuất phục vụ xuất khẩu triệt để. 1.1.4. Đặc điểm của công nghiệp phụ trợ Đặc điểm: Khái niệm về ngành công nghiệp phụ trợ là một khái niệm rộng và mang tính tương đối, tuy nhiên nó có một số đặc điểm sau: Công nghiệp phụ trợ phát triển gắn kết với ngành công nghiệp hoặc sản phẩm công nghiệp cụ thể (đối tượng hỗ trợ) và có nhiều tầng cấp tích hợp theo cả chiều ngang và chiều dọc. Công nghiệp phụ trợ xuất hiện trong các hình thức tổ chức công nghiệp theo kiểu thầu phụ, nằm trong một mạng lưới tổ chức sản xuất phối hợp, thống nhất và có tính hợp tác cao giữa các doanh nghiệp chủ đạo và các doanh nghiệp phụ trợ (mối liên kết công nghiệp). Công nghiệp phụ trợ có tác động thúc đẩy những ngành công nghiệp, sản phẩm công nghiệp chính phát triển, cung cấp đầu vào theo hợp đồng hoặc theo kế hoạch cho sản xuất chính và thu hút đầu ra của các cơ sở sản xuất phụ trợ cấp dưới theo kế hoạch sản xuất chính hoặc theo hợp đồng. Đối với một ngành công nghiệp hay một sản phẩm công nghiệp cụ thể nào đó, các tổ chức hoạt động trong các ngành công nghiệp phụ trợ thường có quy mô vừa và nhỏ với mức độ chuyên môn hóa sâu, dễ thay đổi mẫu mã, dải sản phẩm hẹp, có sức sống và tính cạnh tranh cao. Từ những đặc điểm trên rút ra một số ưu điểm và nhược điểm của công nghiệp phụ trợ như sau: Ưu điểm: Các doanh nghiệp phụ trợ có trình độ chuyên môn hóa cao và phân công lao động cao sẽ giúp cho ngành công nghiệp chính phát triển nhanh và bền vững. Các doanh nghiệp phụ trợ thường được tiếp nhận các hướng dẫn kỹ thuật, thiết kế sản phẩm của các doanh nghiệp sản xuất chính,không phải lo khâu lập kế hoạch, thiết kế các sản phẩm nguyên bản. Mặt khác nhờ có được các hợp đồng thường xuyên của các hãng chính mà công việc của các doanh nghiêp phụ trợ trở nên ổn định. Các ngành công nghiệp phụ trợ thường do các doanh nghiệp vừa và nhỏ đảm nhận nên có điều kiện ứng phó nhanh và linh hoạt hơn với các biến động thường xuyên xảy ra của thị trường. Quá trình thay đổi mẫu mã, ứng dụng khoa học công nghệ vào việc đổi mới sản xuất, đáp ứng nhanh yêu cầu của thị trường sẽ diễn ra nhanh và hiệu quả hơn. Với ngành công nghiệp phụ trợ thì không nhất thiết phải đầu tư và sản xuất từ A đến Z mà vẫn có thể tổ chức sản xuất các loại sản phẩm công nghiệp có chất lượng cao. Tổng số vốn đầu tư dể sản xuất ra các sản phẩm cuối cùng được phân tán, được cấu thành từ nhiều nguồn đầu tư khác nhau, sự rủi ro được phân tán. Phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ sẽ có điều kiện thuận lợi hơn để thu hút đầu tư từ các thành phần kinh tế, nhất là từ đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các công ty đa quốc gia. Nhược điểm: Sự phát triển của công nghiệp phụ trợ bị phụ thuộc vào chiến lược phát triển sản phẩm và điều tiết thị trường của các công ty đa quốc gia, các doanh nghiệp FDI. Sự hợp tác phát triển được đặt ra với yêu cầu cao cộng với sự chia sẻ thông tin và cộng đồng trách nhiệm tương đối lớn, trong khi đó đa phần các doanh nghiệp phụ trợ là doanh nghiệp vừa và nhỏ với xuất phát điểm thấp, vốn và nhân lực còn thiéu thốn, môi trường kinh doanh chưa được minh bạch, có xu thế khép kín, thiếu hợp tác và liên kết với nhau. 1.1.5. Các loại hình công nghiệp phụ trợ Công nghiệp phụ trợ và tỷ lệ nội địa hóa dường như tách biệt nhau về hình thức nhưng nếu nhìn nhận theo mục tiêu phát triển công nghiệp nội địa thì hai vấn đề này thực chất lại là một. Tương ứng với ba hình thức của nội địa hóa sẽ có ba hình thức của công nghiệp phụ trợ. Ba hình thức nội địa hóa Ba hình thức công nghiệp phụ trợ Sản xuất nội bộ của các công ty lắp ráp. Hỗ trợ ruột. Thu mua từ các doanh nghiệp có vốn FDI tại nước sở tại. Hỗ trợ hợp đồng. Thu mua từ các doang nghiệp nội địa. Hỗ trợ thị trường. Các hình thức này được hiểu như sau: Hỗ trợ ruột: là loại hình mà một tập đoàn công nghiệp sẽ thành lập và phát triển cho mình một mạng lưới các nhà cung cấp dưới hình thức công ty mẹ - con, các công ty cung ứng chỉ thực hiện sản xuất linh kiện, phụ tùng quan trọng, hàm chứa các bí quyết công nghệ theo yêu cầu của công ty lắp ráp trong tập đoàn. Loại hình này khá phổ biến ở các nước công nghiệp, được các tập đoàn mạnh ứng dụng rất thành công. Hỗ trợ hợp đồng: là loại hình hỗ trợ được thực hiện theo cam kết giữa các nhà cung ứng với các công ty lắp ráp theo từng yêu cầu và trong từng thời điểm nhất định đối với các linh kiện ít quan trọng hơn. Hỗ trợ thị trường: là loại hình hỗ trợ mà các phụ tùng, phụ kiện có tính phổ biến không chứa đựng nhiều bí quyết công nghệ, được các nhà sản xuất bán trên thị trường, không theo một cam kết nào đối với các nhà lắp ráp. Các công ty lắp ráp cũng có thể tự do lựa chọn các sản phẩm mình càn trên thị trường, tuy nhiên, đối với các loại sản phẩm có tính hỗ trợ là đầu vào cho các ngành trung gian hay ngành sản xuất cuối cùng thì hình thức này chưa được phát triển và nhìn chung khả năng phát triển là khá thấp. 1.2. Những lý luận cơ bản về công nghiệp điện tử và công nghiệp phụ trợ cho công nghiệp điện tử 1.2.1. Những khái niệm về công nghiệp điện tử 1.2.1.1. Khái niệm chung Công nghiệp điện tử: là ngành sản xuất vật liệu, linh kiện – phụ kiện, sản xuất cấu kiện điện tử, cơ điện tử và các thiết bị. Trong sản xuất thiết bị lại có: thiết kế tổng thể thiết bị, thiết kế công nghệ mỹ thuật công nghiệp, mạch điện, thiết kế chế tạo mạch in, vỏ, đế máy và lắp ráp thiết bị. Lắp ráp là khâu cuối cùng và là một biện pháp quan trọng trong sản xuất công nghiệp điện tử. Lắp ráp thiết bị bao gồm 3 dạng chính là : lắp ráp từ các cấu kiện, lắp ráp từ các chi tiết rời trọn bộ và lắp ráp từ các linh kiện rời không đồng bộ, cụ thể : + SKD – lắp ráp từ các cấu kiện ( semi knock down) : ở dạng này đã có sự chuẩn bị đầy đủ về toàn bộ linh phụ kiện của thiết bị và được lắp ráp thành từng cụm chi tiết đã căn chỉnh. Công việc cần làm ở đây là lắp ráp các cụm đó lại, vào vỏ máy và tiến hành căn chỉnh kiểm tra toàn bộ thiết bị lần cuối. + CKD – lắp ráp từ các chi tiết rời trọn bộ(Complex knock down): toàn bộ linh phụ kiện của thiết bị đã được chuẩn bị đầy đủ và đồng bộ. Việc làm ở đây là lắp ráp từ các linh kiện rời thành các cụm chi tiết để được bộ linh kiện SKD, sau đó lắp ráp tiếp tục dạng SKD các cụm chi tiết này. + IKD – lắp ráp từ những linh kiện không đồng bộ (incomplex knock down). Ở dạng này, nhận thấy các dấu hiệu của nhà sản xuất từ chế tạo thêm những linh kiện và cấu kiện còn thiếu, sẽ tự thiết kế lại thiết bị, có thể thay đổi một phần hoặc thay đổi toàn bộ thiết kế ban đầu. Những linh kiện ngoại nhập được thay thế bằng những linh kiện nội địa (với trường hợp phải nhập chi tiết để lắp ráp ICD). Tất cả các sửa đổi và thay thế này cần phải chiếm một tỷ lệ giá trị nhất định nào đó trong toàn bộ giá trị. Khái niệm về dây chuyền lắp ráp thiết bị : đó là tổng hòa sự tương tác của 3 yếu tố : băng chuyền, quá trình lắp ráp và những thiết bị công nghệ phục vụ cho lắp ráp. Có 3 loại dây chuyền lắp ráp là : thủ công, bán tự động và tự động. 1.2.1.2. Đặc điểm của ngành công nghiệp điện tử Mặc dù ra đời chậm hơn so với các ngành khác (chỉ từ khi Thomson chứng minh được có sự hiện diện của điện tử năm 1897) từ đây nền khoa học điện tử, công nghiệp điện tử và các sản phẩm điện tử mới xuất hiện trên thị trường thế giới và phát triển một cách mạnh mẽ từ đó cho đến nay. Sự phát triển của ngành công nghiệp điện tử còn được đánh giá là nhanh và mạnh nhất trong 2 thập kỷ qua so với các ngành khác. Công nghiệp điện tử có tốc độ phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng. Do quá trình cạnh tranh vô cùng gay gắt trên thị trường, bên cạnh đó là làn sóng đổi mới công nghệ cùng với những áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới nhất vào sản xuất đã thúc đẩy công nghiệp điện tử phát triển một cách nhanh chóng cả về số lượng lẫn chất lượng. Cùng với đó là khả năng đổi mới một cách liên tục, đưa sản phẩm mới vào thị trường nhanh chóng là một trong những yếu tố mang lại ưu thế cạnh tranh vô cùng quan trọng. Thời gian để đưa sản phẩm ra thị trường cho đến ngày thay thế bởi sản phẩm khác tốt hơn ngày càng được rút ngắn. Sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông ti trong thời gian qua là kết quả từ sự tiến bộ không ngừng của các tiến bộ công nghệ trong lĩnh vực điện tử. Vì thế sự phát triển nhanh chóng cả về số lượng lấn chất lượng đa là một mục tiêu chiến lược mang tính chất quyết định của ngành công nghiệp điện tử. Công nghiệp điện tử là một ngành công nghiệp hiện đại có công nghệ phát triển với tốc độ nhanh và được ứng dụng nhiều kết quả khoa học tiên tiến. Ngành công nghiệp điện tử được xây dựng trên các thành tựu đã đạt được của rất nhiều lĩnh vực : quang học, vật lý bán dẫn, công nghệ laser .., bằng chứng là công nghệ chế tạo các mạch tích hợp lớn như bộ vi xử lý , một trong những bộ phận quan trọng nhất của các thiết bị điện tử tin học. Sản phẩm vi mạch hiện đại hay bộ vi xử lý có trên thị trường là kết quả của nhiều cải tiến liên tiếp về công nghệ trong ngành chế tạo bán dẫn, các công nghệ chế tạo bán dẫn mới nhất được đưa vào chế tạo bộ vi xử lý như: công nghệ làm tăng số lượng Transitor / chip. Công nghệ cấu trúc khoảng cách giữa các thành phần trong bộ vi xử lý, kích thước đường nối giữa các phần tử giảm xuống còn 1,13 micômet và còn có thể giảm cuống nữa trong thời gian tới. Kích thước các Transitor (phần tử cơ bản tạo nên chíp) ngày càng được giảm nhỏ về kích thức, cụ thể năm 1974, bộ xử lý Intel 8080 sản xuất theo công nghệ 6 micromet chứa 6000 transitor thì năm 2002 bộ vi xử lý Pentium 4 cũng của Intel ứng dụng công nghệ 0,13 micômet chứa tới 42000000 transitor. Sự phát triển của cac ngành khoa học khác nhau đã được ứng dụng vào trong ngành công nghiệp điện tử và đã mang lại những kết quả một cách không ngờ. Công nghiệp điện tử có giá thành sản phẩm giảm nhanh và sản phẩm nhanh chóng lạc hậu Sự phát triển không ngừng của công nghệ bán dẫn đã làm cho khả năng tích hợp và xử lý các vi mạch điện tử không ngừng tăng. Theo đạo luật More thì khả năng của bộ vi xử lý tăng gấp đôi sau 18 tháng và từ đó cho đến nay dạo luật này vẫn rất đúng đắn, chưa có một dấu hiệu nào thể hiện việc tốc độ các bộ vi xử lý sẽ giảm xuống trong thời gian tới. Song song với tăng khả năng xử lý thì giá thành chip điện tử cũng không ngừng giảm với tốc độ 25%/năm. Thực tế thị trường cho thấy từ năm 1991 cho đến nay cứ sau 12 tháng giá các bộ vi xử lý giảm 2 lần. Ví dụ : giá 1 MPS (1 triệu phép tính giây) năm 1991 là 230 USD thì năm 1997 còn 3,42 USD và hiện nay chỉ còn vài cent. Đồng thời với sự giảm giá sản phẩm điện tử là sự lạc hậu nhanh chóng của nó. Ví dụ năm 2000 bộ vi xử lý pentium III – 800 MHz của Intel xuất hiện thì cuối năm 2000 đưa ra bộ xử lý P4 tốc độ 1GHz và tháng 8 năm 2001đưa ra bộ vi xử lý Pentium 4 với tốc độ 1,8 GHz, hiện nay đã có bản lên đến hơn 3GHz. Công nghiệp điện tử là ngành có yêu cầu đầu tư lớn, thu lợi nhuận cao, cạnh tranh của thị trường gay gắt và độ rủi ro cao. Vốn đầu tư cho ngành công nghiệp điện tử là rất lớn mới có thể đáp ứng được các nhu cầu tạo ra sản phẩm đòi hỏi sự đầu tư lớn về nghiên cứu và phát triển sản phẩm, xâ dựng nhà máy đào tạo nhân lực … Nhu cầu đầu tư cho ngành là vô cùng lớn vừa để phát triển khoa học công nghệ và để xây dựng cơ sở vật chất bắt đầu nhưng nếu chỉ trông vào thị trường trong nước thì rất khó thu hồi vốn mà rủi ro khá lớn vì không có thị trường tiêu thụ và có giá thành cao. Vì thế cần phải tính đến thị trường quốc tế và liên doanh liên kết với các công ty đa quốc gia. Ngành công nghiệp điện tử tuy mang lại lợi nhuận cao nhưng cạnh tranh cũng hết sức gay gắt và khả năng rủi ro trong đầu tư cũng là khá lớn. Công nghiệp điện tử có xu hướng chuyển dịch công nghệ từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển nơi có nhân công rẻ hơn. Toàn cầu hóa kinh tế đang là xu hướng phát triển của thế giới. Theo xu hướng toàn cầu hóa, để tăng khả năng cạnh tranh và có lợi nhuận cao, các nước có nền công nghiệp điện tử phát triển dịch chuyển việc sản xuất sản phẩm có công nghệ thấp sang các nước đang phát triển có nguồn lao động dồi dào và giá nhân công rẻ hơn. Chính vì thế đã tạo được cơ hội tiếp thu, thu hút đầu tư đào tạo nguồn nhân lực nhằm phát triển sản phẩm có công nghệ cao cho các nước đang phát triển. 1.2.1.3. Phân loại ngành công nghiệp điện tử Phân chia ngành công nghiệp điện tử theo nhóm sản phẩm - Thiết bị điện tử dân dụng: theo định nghĩa của từ này là các thiết bị điện tử được sử dụng trong đời sống gia đình như radio (R), television (TV), radiocassettle (R/C), đầu video (V/C). Ở một số nước người ta coi một số loại máy tính cá nhân, máy quay video, cả máy điện thoại cúng là một thiết bị điện tử vì chúng chiếm một tỷ trọng lớn. Ở Việt Nam thiết bị điện tử dân dụng bao gồm cụ thể: R, TV, R/C và V/C. - Thiết bị điện tử công nghiệp : là thiết bị điện tử được dùng trong công nghiệp. - Thiết bị tin học : gồm cả các thiết bị ngoại vi, máy tính và các phần mềm (chương trình đảm bảo) kèm theo đó. - Thiết bị viễn thông: gồm tất cả các phương tiện điện tử dùng để liên lạc, trao đổi, truyền tin từ xa và gồm cả phần cứng lẫn phần mềm. Điện tử, viễn thông và công nghệ thông tin là ba lĩnh vực riêng biệt nhưng lại có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và thường được nghiê cứu đánh giá dưới góc độ như một ngành công nghiệp chung .Tất cả đều được trình bày cụ thể trong các tài liệu, các tạp chí chuyên ngành và đa phần được các chính phủ đề cập một cách toàn diện trong đường lối chính sách trọn gói của mình. Phân chia ngành công nghiệp điện tử theo các thành phần mang tính quản lý Xác định được các mức độ hoặc đóng gói, hoặc bắt đầu bằng các linh kiện và lắp ráp từng phần của sản phẩm và kết thúc bằng lắp ráp cuối cùng sản phẩm và hệ thống các sản phẩm. Tiến hành phân chia theo các mức độ đóng gói và theo một dây chuyền quan trọng điển hình của ngành công nghiệp điện tử. Nguyên liệu: thủy tinh, kim loại, phôi silicon, chất dẻo, hóa chất… Linh kiện: bán dẫn, bảng vi mạch, đầu ổ đĩa, bộ nối . Lắp ráp một phần: bảng vi mạch lắp ráp, ổ đĩa, moniter Sản phẩm cuối cùng: máy tính cá nhân, tivi, VCR Hệ thống: hệ thống thông tin bệnh viện, hệ thống chuyên dùng hàng không. Tuy nhiên việc phân chia như thế cũng gặp những trường hợp ngoại lệ chẳng hạn : Ổ đĩa được coi là lắp ráp toàn phần vì chúng được đưa vào máy tính cá nhân trong quá trình lắp ráp cuối cùng, nhưng cũng được lắp ráp vào hộp riêng và bán như là sản phẩm cuối cùng. Ngành điện tử, tin học, viễn thông là 3 phân ngành độc lập nhau nhưng chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Trong nội dung chuyên để này tôi chỉ nghiên cứu về ngành công nghiệp điện tử bao gồm : công nghiệp điện tử dân dụng và chuyên dụng, công nghệ thông tin, công nghiệp điện tử phục vụ bưu chính viễn thông, y tế, giao thông vận tải, an ninh quốc phòng, phục vụ cho lĩnh vực tự động hóa và nghiên cứu khoa học kỹ thuật. 1.2.1.4. Vị trí của ngành công nghiệp điện tử Công nghiệp điện tử là ngành sản xuất vật chất mang tính cơ bản của nền kinh tế quốc dân, đó là một trong những ngành chính, quan trọng của công nghiệp, vì thế sự phát triển của công nghiệp điện tử đã được coi là 1 trong những tiêu chuẩn đánh giá trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Thực tế đã cho thấy rằng công nghiệp điện tử là một ngành phát triển nhanh và mạnh nhất trong sự phát triển của khoa học công nghệ đặc biệt là trong 3 thâp kỷ qua, khi mà cả thế giới đang sống trong ‘‘xã hội điện tử’’. Chính sự phát triển này đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của các nền kinh tế khác và của cả nền kinh tế. Trong thời gian tới công nghiệp điện tử sẽ là động lực lớn để tạo ra trao đổi trong đời sống vật chất kinh tế - xã hội của toàn thế giới. Do đó công nghệ điện tử là không thể ._.thiếu và nó mang vai trò đặc biệt quan trọng trong công nghiệp giúp tối ưu hóa quá trình sản xuất, hợp lý hóa sử sụng tài nguyên và nâng cao chất lượng sản phẩm. Qua số liệu và báo cáo có thể rút ra một đánh gia mang tính chất tổng quát về những thành tựu của ngành công nghiệp điệntử: đứng thứ 3 về doanh số trao đổi (sau ngành lọc dầu và ô tô) thứ 2 về doanh số trên vốn (sau ngành luyện kim) và thứ nhất về thu hút lao động. 1.2.2. Khái niệm về công nghiệp phụ trợ cho ngành công nghiệp điện tử 1.2.2.1. Khái niệm Công nghiệp phụ trợ cho công nghiệp điện tử là ngành công nghiệp sản xuất linh kiện, vật liệu điện tử (ngoài các sản phẩm của công nghiệp bán dẫn), các bộ phận linh kiện và các vật tư khác hỗ trợ cho công nghiệp lắp ráp đến sản phẩm cuối cùng của công nghiệp điện tử. Thuật ngữ công nghiệp phụ trợ được sử dụng ở đây chỉ các nhóm ngành cơ bản dựa trên công nghệ sản xuất các linh kiện hỗ trợ như: linh kiện điện tử thụ động, cụm linh kiện, tấm đế bảng mạch, nhựa, cao su, chất dẻo, vỏ, giá đỡ, giắc nối, phích cắm, dây dẫn... Các ngành công nghiệp phụ trợ của công nghiệp điện tử bao gồm: gia công nhựa, dập khuôn, đúc kim loại, nén, nhựa, đóng gói, quá trình xử lý cao su, gia công kim loại, sơn kim loại, đúc kim loại, mạ tẩm... Ở đây cần hiểu rằng công nghiệp sản xuất linh kiện cũng là một trong những ngành công nghiệp phụ trợ tạo ngay ra các sản phẩm hoặc chuyển đổi vật liệu thô dùng trong sản xuất các sản phẩm điện, điện tử khác. 1.2.2.2. Một số nhóm phẩm điển hình của công nghiệp phụ trợ trong ngành điện tử Nhóm thiết bị thông tin liên lạc: bao gồm nhiều loại sản phẩm có tỷ lệ tăng trưởng cao trên thị trường thế giới như màn hình, máy in, máy tính cá nhân, ổ đĩa mềm, đĩa mật độ cao, ODDs, CD-ROMs..., điện thoại di động, điện thoại không dây, máy fax. Các hãng sản xuất thiết bị và linh kiện thiết bị này luôn tìm kiếm các địa điểm đầu tư tối đa nhất để xây dựng các nhà máy lắp ráp. Hầu hết các linh kiện quan trọng trong các thiết bị (chủ yếu là sản phẩm bán dẫn) đều được phát triển và sản xuất tại những nước phát triển ở Bắc Mỹ, ở Nhật Bản và Châu Âu, còn công đoạn lắp ráp thì chủ yếu lại được thực hiện ở các nước đang phát triển. Các sản phẩm hầu hết là có vòng đời ngắn nhưng chịu sự cạnh tranh rất khốc liệt, do điều này khiến các hãng thích chọn địa điểm xây dựng nhà máy có chi phí thấp và có quy mô sản xuất lớn, có hạ tầng giao thông liên lạc và điều kiện tài chính ngân hàng tốt. Nhóm các linh kiện lắp ráp đơn giản: Các bộ phận lắp ráp đơn giản bao gồm biến thế, cuộn dây, động cơ mô tô nhỏ, đầu quang và đầu từ. Chúng có nhiều loại và thường tốn nhiều nhân công để sản xuất. Mức đầu tư cần thiết cho nhà xưởng sản xuất tương đối thấp, chỉ khoảng vài triệu đến vài chục triệu USD. Các linh kiện này được sử dụng rộng rãi trong các thiết bị thông tin liên lạc, kích thước và trọng lượng nhỏ nên rất dễ cho việc vận tải hàng không, do vậy nhu cầu về chúng tăng rất nhanh và đòi hỏi chi phí thấp. Điều này đòi hỏi các hãng đi đầu về các linh kiện đó không ngừng tìm kiếm mức chi phí hiệu quả và theo đó ưu tiên lựa chọn các nước đang phát triển để đầu tư. Nhóm các bộ phận, linh kiện dạng nguyên vật liệu: triển vọng phát triển của loại này phụ thuộc tùy thuộc vào mức độ tích tụ tập trung trong công nghiệp. Các linh kiện thuộc nhóm này bao gồm điện trở, bộ nối và tụ điện. Việc xây dựng các nhà máy để sản xuất tổ hợp bao gồm cả hai công đoạn mặt trước và mặt sau (ngoại vi và phụ trợ) có thể đòi hỏi một lượng vốn đầu tư lớn hàng trăm triệu USD. Nếu so sánh với việc tiến hành xây dựng các nhà máy sản xuất linh kiện lắp ráp đơn giản thì các hãng nước ngoài vốn đã có các nhà máy ở các nước ASEAN khác như Singapore, Malaysia, Trung Quốc, Thái Lan... sẽ gặp khó khăn nếu phải đa dạng hóa đầu tư của mình. Trong khi đó nhu cầu về linh kiện trong lĩnh vực thiết bị thông tin liên lạc có tốc độ tăng trưởng rất nhanh (như điện thoại di động chẳng hạn) và đặc biệt là các linh kiện mạch gia công bề mặt, các thiết bị này chủ yếu dành để xuất khẩu được Nhật Bản đáp ứng và mới chỉ có một phần nhỏ được cung cấp bởi các nhà máy ở các nước ASEAN. 1.2.2.3. Quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm điện tử Trong ngành công nghiệp điện tử thì công nghiệp phụ trợ luôn chiếm một tỷ lệ lớn, trên 80% giá trị của ngành. Điều này được thể hiện rõ trong quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm điện tử gồm ba bước theo sơ đồ sau: CNPT điện tử Công nghệ chế tạo Công nghệ vật liệu Lắp cụm chi tiết Khung, vỏ Cụm chi tiết Cụm linh kiện hỗ trợ Kim loại Nhựa, chất dẻo Kính Sợi, chất kết dính Vải, cao su Vật liệu khác... Đúc, kim loại, nhựa, cao su Gia công áp lực, gia công chính xác Chế tạo cắt gọt Gia công kỹ thuật điện, điênk tử Sơn, mạ... Lắp ráp hoàn chỉnh Sơ đồ 1.3 : Quy trình sản xuất sản phẩm điện tử Ba bước công nghệ là: Công nghệ vật liệu: chủ yếu là các vật liệu cho sản xuất các thiết bị điện như máy biến thế, đồng thỏi, tôn silic, dây điện từ... Công nghệ chế tạo: sản xuất ra các linh kiện điện tử, chi tiết nhựa... Công nghệ lắp ráp cụm chi tiết: tạo ra các khung vỏ sản phẩm, bo mạch... 1.2.2.4. Mô hình chia sẻ công nghiệp phụ trợ - chia sẻ công nghiệp phụ trợ ngành điện tử cho các ngành khác Hai ngành hỗ trợ quan trọng của công nghiệp điện tử là công nghiệp nhựa và gia công cơ khí. Trên thực tế các ngành công nghiệp điện tử và công nghiệp xe máy có thể dùng chung mhững sản phẩm phụ trợ từ ngành này, đây chính là sự mở rộng theo chiều ngang để gia sản lượng đầu ra. Việc gia tăng sự đa dạng của hàng hóa và sử dụng những đặc tính lợi thế có thể bao trùm một số lĩnh vực công nghiệp sẽ tạo ra một thị trường lớn hơn cho nhà sản xuất. Chẳng hạn các nhà cung cấp linh kiện xe máy có thể cung cấp linh kiện cho công nghiệp điện tử gia dụng bởi hai ngành này có chung nhiều loại linh kiện như: các linh kiện nhựa, các linh kiện nhôm đúc, các linh kiện kim loại dập. Có thể lấy ngành công nghiệp đúc nhựa làm ví dụ. Trong ngành này các doanh nghiệp sản xuất linh kiện xe máy có thể sản xuất cả linh kiện nhựa cho các sản phẩm của công nghiệp điện tử gia dụng với cùng thiết bị máy móc. Bảng sau mô tả chi tiết mức nhựa phun cho một số sản phẩm : Sản phẩm Chi tiết 0-500 tấn 501-1000 tấn 1001-1500 tấn Xe máy Các chi tiết bên ngoài 80 – 850 tấn Ti vi Vỏ 850 – 1300 tấn Máy giặt Vỏ, thùng nước 550 – 1300 tấn Tủ lạnh Các chi tiết bên trong 150 – 550 tấn Bảng 1.1 : Mức nhựa phun máy cần thiết cho sản xuất một số sản phẩm Qua bảng thống kê nhận thấy: để sản xuất các linh kiện nhựa làm các bộ phận bên ngoài của xe máy cần từ 80 – 850 tấn nhựa phun đúc máy. Các chi tiết nhựa này cũng được sử dụng cho sản xuất ti vi, tủ lạnh, máy giặt và PC của máy in. Vỏ ti vi cần sử dụng các chi tiết nhựa phun đúc máy từ 850 –1300 tấn. Vỏ và thùng nước cho máy giặt cần từ 550 – 1300 tấn nhựa đúc. Các chi tiết bên trong của tủ lạnh cần nhựa đúc phun đúc máy khoảng 180 – 550 tấn. Vỏ cho PC của máy in từ 850 tấn... Tóm lại, một số chi tíết cho sản phẩm điện tử gia dụng có thể được sản xuất bằng chính máy nhựa phun được sử dụng để sản xuất chi tiết cho xe máy. Như vậy, nếu doanh nghiệp có máy phun nhựa để sản xuất linh kiện cho xe máy thì cũng có thể sản xuất các linh kiện cho sản phẩm điện tử gia dụng, do vậy sẽ làm gia tăng sản lượng king doanh trong khi giảm được chi phí trung bình do đầu tư vào máy móc của mỗi chi tiết. Sau đây là sơ đồ mô tả ý tưởng chia sẻ công nghiệp phụ trợ cho các ngành : Hifi, máy in Máy giặt,tủ lạnh, tivi Khung, gẩm.. Xe máy Vỏ, các chi tiết máy móc... Các SP hàng ngày Các chi tiết bên ngoài Nĩa, đĩa, chén... Hoạt động. Chịu đựng mài sát. Ít Sự chính xác. Các nguyên vật Nhiều hơn liệu chất lượng cao. hơn Sơ đồ 1.4: Chia sẻ công nghiệp phụ trợ cho nhiều ngành khác CHƯƠNG 2: SỰ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP PHỤ TRỢ THUỘC NGÀNH CÔNG NGHIỆP ĐIỆN TỬ TRONG NHỮNG NĂM QUA ***************** 2.1.Tổng quan về sự phát triển công nghiệp điện tử khu vực Đông Á và những ảnh hưởng đến công nghiệp phụ trợ điện tử Việt Nam 2.1.1. Bức tranh tổng quát về công nghiệp điện tử khu vực Đông Á Vùng Đông Á đang trở thành cứ điểm sản xuất lớn nhất thế giới trong nhiều loại sản phẩm điện tử do sự phân công lao động quốc tế. Hiện nay khu vực này sản xuất khoảng 95% máy nghe nhạc DVD, 85% máy tính sách tay, gần 100% ổ cứng máy tính, 70% máy cát sét, trên 80% máy điều hòa không khí, 60% ti vi màu và 30% xe hơi của thế giới... Khoảng 30 năm về trước, hầu hết các mặt hàng này chỉ sản xuất ở Nhật Bản nhưng sau đó chuyển sang Hàn Quốc, Đài Loan rồi sang các nước ASEAN, chủ yếu là Malaixia rồi Thái Lan, sau đó đến Trung Quốc. Do công nghệ trong lĩnh vực này cũng dễ chuyển giao nên các cứ điểm sản xuất chuyển dần sang những nơi nhân công rẻ hơn và các phí tổn khác cũng thấp do chính sách khuyến khích đầu tư trực tiếp từ nước ngoài của các nước. Hiện nay, Nhật Bản chỉ sản xuất các loại sản phẩm cao cấp còn lại thì tập trung nhập khẩu từ các cứ điểm sản xuất của doanh nghiệp Nhật hoạt động tại ASEAN và Trung Quốc. Ngoài bốn nước sản xuất nhiều sản phẩm điện tử và có thị phần đáng kể là Trung Quốc, Hàn Quốc, Malaixia và Thái lan. Riêng Trung Quốc sản xuất trên 30% tổng sản lượng thế giới, Hàn Quốc cũng sản xuất hầu hết các mặt hàng này và chiếm thị phần khoảng 5 – 10%. Thái Lan cũng là cứ điểm sản xuất quan trọng đứng đầu ASEAN trong các mặt hàng như tủ lạnh, máy giặt, máy điều hòa không khí và đứng thứ hai tong các mặt hàng khác. Malaixia đứng đầu ASEAN về ti vi màu, máy hút bụi, máy thu và phát hình, cát sét. Thái Lan và Malaixia chiếm được vị trí quan trọng hiện nay nhờ họ có chính sách khôn ngoan đón được dòng thác FDI từ Nhật Bản sau khi đồng yên lên giá đột ngột cuối năm 1985. Inđônêxia đi chậm hơn hiện nay mới chỉ sản xuất với số lượng tương đối đáng kể như: tivi màu, máy thu, tủ lạnh và máy phát hình. ASEAN và Trung Quốc đang cạnh tranh với nhau rất gay gắt tại các thị trường lớn như Nhật Bản và Mĩ. Đầu thập niên 1990, Trung Quốc hầu như không có khả năng xuất khẩu sang các thị trường đó nhưng đến khoảng năm 2000 đã chiếm lĩnh trên dưới 30% tổng nhập khẩu của Nhật trong hầu hết các hàng điện tử gia dụng. Trung Quốc cũng có những thành quả tương tự tại thị trường Mĩ với các mặt hàng như: máy thu thanh, video, đồ nhiệt điện gia dụng. Tuy nhiên Trung Quốc chiếm thị phần ngày càng lớn trong các thị trường Nhật, Mĩ là do họ thay thế vị trí của Hàn Quốc, Đài Loan hoặc Mĩ và Nhật chứ chưa đánh bật được vị trí của ASEAN. Công nghiệp điện tử của ASEAN vẫn giữ được sức cạnh tranh quốc tế nhờ thu hút hiệu quả FDI từ Nhật, chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc tế và sử dụng được mạng lưới tiếp thị quốc tế do các công ty đa quốc gia Nhật xây dựng trong nhiều năm qua. Ngoài ra, Thái Lan và Malaixia đã xây dựng được các cụm công nghiệp cho ngành điện tử với sự phát triển mạnh mẽ của các loại công nghiệp phụ trợ, chính điều đó đã tạo nên sức hấp dẫn lớn đối với các nhà điện tử. Nhu cầu thế giới, đặc biệt tại Đông Á về những mặt hàng điện tử sẽ tăng nhanh và do đó ASEAN sẽ tiếp tục là cứ điểm quan trọng của thế giới trong tương lai tới. Sự phát triển công nghiệp điện tử ở khu vực Đông Á diễn ra liên tục từ nước này sang nước khác, khởi đầu từ Nhật Bản sau đó lan nhanh cả bề rộng lẫn bề sâu sang các nước khác, điều này được giải thích qua mô hình “Đàn sếu bay” như sau: Mô hình đàn sếu bay tại khu vực Đông Á (hiệu ứng đuổi kịp) Các nước trong khu vực Đông Á được chia thành nhiều nhóm có các giai đoạn phát triển khác nhau gồm: I: Nhật Bản II: Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore. III: Malaixia, Thái Lan, Philippin, Inđônêxia. IV: Trung Quốc, Việt Nam... Một ngành công nghiệp A thường được bắt đầu phát triển tại Nhật Bản sau đó chuyển sang các nước nhóm II, III, IV... Các nước đi trước sau khi mất lợi thế so sánh trong ngành A sẽ nỗ lực chuyển dịch cơ cấu công nghiệp sang ngành B có giá trị gia tăng cao hơn và tốc độ công nghệ cao hơn. Ngành A sẽ được chuyển sang các nước khác và cơ cấu kinh tế của các nước có sự tiến triển nhanh chóng, các nước đi sau đuổi theo các nước đi trước và rút ngắn khoảng cách phát triển công nghiệp. Ví dụ: cho đến thập niên 1970 mới chỉ có Nhật Bản sản xuất tivi màu nhưng sau đó ngành này bắt đầu phát triển tại Hàn Quốc và Đài Loan từ cuối thập niên 1970, rồi tại Malaixia và Thái Lan từ cuối thập niên 1980. Sau đó là Trung Quốc trở thành nước sản xuất tivi màu nhiều nhất trên thế giới từ nửa sau thập niên 1990. Trong quá trình đuổi bắt này, lượng sản xuất tại Nhật Bản giảm nhanh và phải nhập khẩu nhiều từ các nước Đông Á. ( Năm 1990 Nhật Bản sản xuất 15 triệu tivi màu nhưng năm 2000 chỉ còn sản xuất khoảng 3 triêu chiếc, trong thời gian này nhập khẩu tăng từ 1đến 9 triệu chiếc). Từ mô hình “đàn sếu bay” cho thấy, Việt Nam cũng đang nằm trong làn sóng công nghiệp của khu vực Đông Á mà tiêu điểm của sự lan tỏa này là ngành công nghiệp điện tử. Hiện nay việc sản xuất các loại máy móc đồ điện tử, đồ điện gia dụng, nhiều ngành thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin phần cứng như điện thoại di động và các linh phụ kiện của các sản phẩm điện tử có nhu cầu ngày càng lớn trên thế giới. Mặt khác công nghệ này lại lại dễ lan nhanh từ các nước này sang nước khác nên những nước có nguồn lao động dồi dào, khéo tay và tiền lương rẻ dễ trở thành những cứ điểm có sức cạnh tranh lớn. Việt Nam rất có triển vọng canh tranh trong lĩnh vực này nhưng chưa trở thành một trong những nơi sản xuất chính tại Châu Á. Trong hơn 15 năm qua, các cứ điểm sản xuất các sản phẩm trên liên tục chuyển nhanh từ Nhật Bản sang các nước khác (theo hiệu ứng đàn sếu bay), đầu tiên là sang Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore sau đó sang Malaixia và Thái Lan và gần đây là Trung Quốc. Công nghiệp phụ trợ cho công nghiệp điện tử gồm rất nhiều chủng loại mặt hàng, những loại có hàm lượng công nghệ cao thì Nhật Bản và các nước công nghiệp mới vẫn còn duy trì cạnh tranh và triển khai phân công hàng ngang ở các nước ASEAN. Việt Nam cần nắm bắt cơ hội này, nhanh chóng phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ điện tử, trở thành cứ điểm sản xuất của khu vực để từ đó tạo đà đẩy mạnh ngành công nghiệp điện tử còn non trẻ trong nước và rút ngắn khoảng cách với các nước trong khu vực. 2.1.2.Tổng quan về ngành công nghiệp điện tử của Việt Nam Ngành công nghiệp điện tử Việt Nam đã hình thành và phát triển từ năm 1970 đến nay, xuất phát điểm từ việc lắp ráp các thiết bị điện tử dân dụng như ti vi đen trắng, radio, cassette, loa... sau đó là ti vi màu và các phương tiện điện tử khác. Khuynh hướng chính của ngành công nghiệp điện tử Việt Nam là lắp ráp dưới dạng CKD, SKD và IKD. Ngoài ra, còn tiến hành sản xuất, chế tạo (loạt nhỏ) các thiết bị điện tử công nghiệp, các hệ thống cân đo điện tử, điều khiển tự động, các thiết bị điện tử y tế và chuyên dụng, tiếp đó là công đoạn lắp ráp máy vi tính, gia công xuất khẩu các bảng mạch điện tử và thực hiện các dịch vụ khác. Thực hiện các chính sách đổi mới và kêu gọi những nhà đầu tư nước ngoài, diện mạo của ngành công nghiệp Việt Nam đã có sự thay đổi khi nhiều công ty nước ngoài đã đầu tư sản xuất linh phụ kiện để xuất khẩu và cung cấp cho các công ty nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam với các loại sản phẩm như: các linh kiện thụ động, các cụm chi tiết kim loại, đèn hình, nhựa, các bộ phận cho máy tính điện tử. Tốc độ tăng trưởng hàng năm của ngành đạt 20-30%/năm. Công nghiệp điện tử đã cơ bản thoả mãn nhu cầu nội địa, với doanh số đạt 1,6 tỉ USD năm 2005 cho khu vực thị trường trong nước. Sản phẩm điện tử của Việt Nam đã xuất khẩu đi 35 quốc gia, trong đó các nước ở châu Á là khu vực tiêu thụ chính (Thái Lan và Philippines là hai thị trường lớn nhất ở khu vực này). Giá trị xuất khẩu ngày càng tăng thêm,và hiện tính đến hết năm 2007 giá trị xuất khẩu đã dạt mức trên 2,1 tỷ USD. Theo kết quả khảo sát năm 2006 của Hiệp hội doanh nghiệp điện tử Việt nam, 90% lực lượng doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực sản xuất điện tử của Việt nam tập trung vào 2 trung tâm lớn: Hà Nội và các tỉnh lân cận Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh; và TP Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai. Hai trung tâm này sản xuất ra phần lớn các sản phẩm điện tử của Việt Nam, chiếm 95% kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Ngoài 2 trung tâm này, chỉ còn một số ít các doanh nghiệp điện tử nhỏ ở Đà Nẵng và Hải Phòng. Các doanh nghiệp FDI trong ngành công nghiệp điện tử thường chọn các khu công nghiệp, khu chế xuất có hạ tầng tốt và giao thông thuận tiện. Rất nhiều các doanh nghiệp tư nhân cũng đang theo xu hướng này. Các doanh nghiệp FDI định hướng xuất khẩu đều là các doanh nghiệp lớn, được đầu tư bài bản, trang thiết bị và công nghệ khá cao. Các DN này đánh giá cao các điều kiện làm việc và chất lượng nhân công trong ngành công nghiệp điện tử ở Việt Nam. Các doanh nghiệp tư nhân trong ngành đều là các doanh nghiệp nhỏ. Trừ một số rất ít như TQT (Nha Trang), CMS (Hà Nội) có công nghệ tương đối tiên tiến, các trang thiết bị và công nghệ của hệ thống doanh nghiệp này đều lạc hậu, yếu kém. So với các quốc gia láng giềng thì số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong ngành công nghiệp điện tử còn quá ít và chưa trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển của ngành. Doanh nghiệp nhà nước hầu hết có quy mô vừa với cơ sở hạ tầng tốt, trình độ công nghệ ở mức trung bình tiên tiến. Hoạt động chính của ngành công nghiệp điện tử Việt Nam hiện nay là lắp sáp sản phẩm điện tử tiêu dùng nên dẫn tới cơ cấu sản phẩm mất cân đối nghiêm trọng giữa sản phẩm điện tử tiêu dùng và điện tử chuyên dùng (với tỷ lệ 80%/20% - trong khi ở các quốc gia công nghiệp phát triển thì tỷ lệ này là 15%/85%). Công nghiệp sản xuất linh kiện phụ tùng (trừ các linh kiện xuất khẩu 100%) và công nghiệp phụ trợ ít phát triển nên dẫn tới tỉ lệ nội địa hoá các sản phẩm điện tử rất thấp, bình quân chỉ 20-30%, chủ yếu là bao bì đóng gói với các chi tiết nhựa, chi tiết kim loại. Điểm yếu của công nghiệp điện tử là công tác nghiên cứu phát triển sản phẩm còn rất hạn chế nên giá trị gia tăng của các sản phẩm tạo ra thấp, chỉ đạt từ 5-10%. Cũng theo kết quả điều tra được thì chỉ khoảng 40% các doanh nghiệp điện tử để giành hơn 1% doanh thu cho việc phát triển thương hiệu và quảng bá sản phẩm của mình. Số còn lại thường chỉ giành khoảng 0,5-1%, thậm chí ít hơn 0,5% doanh thu cho phát triển thương hiệu. Đó là một trong những nguyên nhân làm cho thương hiệu của các sản phẩm điện tử Việt Nam không được đánh giá cao và hiện đang phải cạnh tranh rất gay gắt với các thương hiệu nổi tiếng nước ngoài. Tuy nhiên, chất lượng của một số sản phẩm điện tử mang thương hiệu Việt Nam (tivi, máy vi tính) đã đạt được mức ngang bằng với khu vực, một số các sản phẩm điện tử được sản xuất bởi các công ty liên doanh hoặc các công ty 100% vốn nước ngoài đã đạt được yêu cầu sản phẩm chất lượng cao. Công nghiệp điện tử hiện nay sử dụng trên 100.000 lao động với tốc độ thu hút nguồn nhân lực là 10%/năm, công việc chủ yếu tập trung vào lĩnh vực lắp ráp các loại sản phẩm điện tử tiêu dùng và các loại linh kiện điện tử xuất khẩu. Lao động có trình độ đại học tại các doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ lệ khá cao, từ 19-63%, trong khi tại các doanh nghiệp FDI chỉ từ 4-10%. Lao động Việt nam trong ngành công nghiệp điện tử , nhất là lao động trực tiếp, nhìn chung được các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá cao về kỹ năng. 2.1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến công nghiệp phụ trợ thuộc ngành điện tử của Việt Nam Với sự phân công lao động trên toàn thế giới như hiện nay, khu vực Đông Á đang là vùng đất tốt nhất cho sự phát triển của ngành công nghiệp điện tử, mặt khác việc tiêu dùng các loại máy móc đồ điện tử gia dụng, điện tử, nhiều ngành thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin phần cứng như điện thoại di động và các linh kiện của các sản phẩm điện tử có nhu cầu ngày càng lớn trên thế giới. Công nghệ trong ngành này lại dễ lan nhanh sang các nước khác nên những nước có nguồn lực lao động dồi dào, khéo tay và nhân công rẻ dễ trở thành những cứ điểm sản xuất có sức cạnh tranh lớn. Việt Nam là một nước rất có triển vọng cạnh tranh trong lĩnh vực này nhưng vẫn chưa trở thành một trong những nơi sản xuất chính tại Châu Á. Trong 15 năm qua, các cứ điểm sản xuất các sản phẩm trên cứ liên tục chuyển nhanh (theo mô hình đàn sếu bay) từ Nhật Bản sang Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, sau đó sang Malaixia và Thái Lan và gần đây là Indonexia và Trung Quốc. Công nghiệp phụ trợ điện tử bao gồm rất nhiều chủng loại mặt hàng, những loại có hàm lượng công nghệ cao thì Nhật và các nước NICs còn duy trì cạnh tranh vì họ có công nghệ tốt và vẫn đem lại giá trị gia tăng lớn. Còn nhiều những mặt hàng khác hầu hết được triển khai phân công hàng ngang ở các nước ASEAN. Việt Nam cần nắm bắt được tình hình này nhanh chóng phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ điện tử đẩy mạnh sự phát triển của ngành công nghiệp điện tử còn non trẻ trong nước và rút ngắn khoảng cách với các nước khác trong khu vực. Những ảnh hưởng đến công nghiệp phụ trợ trong ngành điện tử của Việt Nam được tóm tắt trong bảng sau: Điểm mạnh - Có nguồn lao động dồi dào học hỏi nhanh và đội ngũ cán bộ kỹ thuật điện tử được đào tạo và có tích lũy khá về công nghiệp điện tử - Chi phí lao động tương đối thấp - Thị trường tiêu thụ nội địa tiềm năng với dân số đông - Có thế mạnh về nguồn nguyên liệu để phát triển công nghệ vật liệu điện tử Điểm yếu - Năng lực sản xuất còn hạn chế - Phụ thuộc nguồn cung cấp nguyên liệu từ bên ngoài - Sản phẩm có sức cạnh tranh yếu - Thiếu thông tin về thị trường thế giới Cơ hội - Có vị trí thuận lợi do nằm trong vòng cung Đông Á, nơi phát triển các sản phẩm điện tử của thế giới - Hệ thống pháp luật đang được hoàn thiện phù hợp với thông lệ quốc tế Thách thức -Chịu sự cạnh tranh gay gắt từ Trung Quốc và các nước ASEAN đã có nền công nghiệp điện tử phát triển - Chiếm lĩnh thị trường trong nước Bảng 2.1 :Phân tích SWOT cho công nghiệp điện tử của Việt Nam Phân tích các yếu tố điểm mạnh, điểm yếu từ môi trường bên trong và những cơ hội, thách thức từ môi trường ngoài thông qua mô hình SWOT như sau: Điểm mạnh + Việt Nam là một nước có cơ cấu dân số trẻ với trên 50% dân số dưới 35 tuổi và cũng là một quốc gia có nền chính trị xã hội ổn định. Nguồn lao động dồi dào của Việt Nam được đành giá là học hỏi nhanh và đội ngũ cán bộ KHKT - công nghệ trong ngành điện tử được đào tạo tương đối cơ bản qua nhiều năm khai thác, sử dụng và lắp ráp các thiết bị điện tử, kể cả các thiết bị điện tử hiện đại, do vậy đã tích luỹ được những kinh nghiệm về sản xuất và kinh doanh các mặt hàng liên quan đến điện tử - tin học. Như vậy, nguồn tài nguyên trí tuệ là một trong những nguồn lực cơ bản của Việt Nam trong phát triển công nghiệp điện tử. + Giá nhân công tương đối rẻ: chi phí cho lao động tương đối thấp ở Việt Nam tạo cho các doanh nghiệp chế tạo sản phẩm phụ trợ, lắp ráp hàng điện tử có lợi thế cạnh tranh so với khu vực. + Có các tài nguyên khoáng sản quan trọng cần thiết để phát triển công nghiệp vật liệu điện tử như: quặng sắt, đất hiếm, titan, rutin, barit, ilmenit... Việt Nam có thể trở thành nhà cung ứng nguyên vật liệu, hóa chất cho ngành công nghiệp điện tử của các nước dưới hình thức khai thác nguyên liệu thô, thành phẩm hoặc bán thành phẩm với giá rẻ. + Với dân số 84 triệu người, Việt Nam cũng là một thị trường tiêu thụ đầy tiềm năng. Điểm yếu + Do chưa tự cung cấp được nguyên cho mình, phải nhập khẩu từ bên ngoài nên bị phụ thuộc vào chính nguồn cung đó. Trong các sản phẩm sản xuất lắp ráp ở Việt Nam giá trị nhập khẩu các linh kiện khá lớn, trong khi giá trị gia tăng do sản xuất trong nước chiếm tỷ trọng nhỏ không đáng kể. + Năng lực sản xuất của ngành còn hạn chế: ngành công nghiệp điện tử của Việt Nam phát triển quá muộn cộng với nhiều bất lợi về năng lực thiết kế và chế tác của các công ty trong nước; mặt khác việc đầu tư vào nghiên cứu và triển khai sản phẩm ở cấp công ty hầu như không có; chưa có khả năng theo sát và đánh giá những xu hướng mới nhất trong phát triển chế tác và kỹ thuật; các công ty trong nước thì chưa có khả năng tiếp cận dễ dàng với các chi tiết kỹ thuật cập nhật và tiêu chuẩn sản phẩm điện tử thể giới. + Thiếu thông tin về thị trường thế giới là một bất lợi lớn cộng với khả năng và kinh nghiệm xúc tiến xuất khẩu yếu đã kìm hãm sự phát triển của ngành công nghiệp điện tử. + Khả năng cạnh tranh của sản phẩm chưa cao: chủng loại sản phẩm nghèo nàn, chất lượng sản phẩm thấp, giá thành thì cao do chí phí về nguyên liệu và linh kiện (chiếm 70% tổng chi phí sản xuất) tại Việt Nam cao hơn của các nước trong khu vực, chưa có thương hiệu sản phẩm điện tử mạnh. Cơ hội + Việt Nam có vị trí địa lý thuận lợi, nằm trong khu vực có nền công nghiệp phát triển nhanh và năng động, đặc biệt là đối với ngành công nghiệp điện tử. Việt Nam có cơ hội thuận lợi để thu hút vốn đầu tư, nhận chuyển giao công nghệ và học tập các kiến thức quản lý vào đào tạo nhân lực từ các nước có ngành công nghiệp điện tử phát triển trong khu vực. + Hệ thống luật pháp Việt Nam đang được tiếp tục hoàn thiện theo hướng rõ ràng và phù hợp với thông lệ quốc tế. Luật Đầu tư nước ngoài được đổi đã tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài dễ dàng tiến hành sản xuất các loại linh phụ kiện điện tử và thực hiện công nghệ lắp ráp hiện đại tại Việt Nam. Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài luôn có các thị trường xuất khẩu ổn định nên Việt nam có thể thông qua đó mà tiếp cận vào mạng lưới tiêu thụ sản phẩm điện tử trên thế giới. + Từ 1/1/2006 các cam kết AFTA về lịch trình giảm thuế trong đối với các mặt hàng điện tử đã có hiệu lực hoàn toàn. Việt Nam cũng đã gia nhập WTO vừa qua tạo điều kiện thuân lợi cho việc đưa các sản phẩm vươn ra khu vực và thế giới. + Sự quan tâm và tăng cường đầu tư của hai quốc gia hàng đầu về công nghiệp điện tử là Hoa Kỳ và Nhật Bản sẽ tạo đà kéo theo nhiều nhà đầu tư khác tham gia vào công cuộc phát triển của Việt Nam. Thách thức + Công nghiệp điện tử của Việt Nam phải chịu sự cạnh tranh gay gắt của Trung Quốc và các nước ASEAN như Singapore, Thái Lan, Malaysia là những nước có nền công nghiệp điện tử phát triển hơn. Với các cam kết AFTA và WTO, thị trường các mặt hàng điện tử của Việt Nam sẽ có nguy cơ bị thao túng bởi các mặt hàng điện tử của các nước này vì họ có lợi thế hơn khi xâm nhập vào những thị trường xuất khẩu vốn đã rất ít ỏi của Việt Nam. + Ngay trong nước, việc tái chiếm lĩnh thị trường nội địa của các doanh nghiệp trong nước cũng gặp phải khó khăn lớn do đã có sự phân công sản xuất và phân chia thị trường ở mức độ khá cao giữa các tập đoàn điện tử có thương hiệu mạnh. 2.2. Thực trạng của sự phát triển công nghiệp phụ trợ thuộc ngành điện tử Việt Nam 2.2.1. Thực trạng của công nghiệp phụ trợ Việt Nam Trong hơn 10 năm qua Việt Nam đã có những định hướng cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước phát triển công nghiệp phụ trợ. Tuy nhiên, mức độ thành công ở các ngành không đều nhau. Đến nay công nghiệp phụ trợ của Việt Nam vẫn ở trong tình trạng kém phát triển với những biểu hiện rõ ràng là chất lượng sản phẩm kém, giá thành cao và chủng loại lại rất nghèo nàn, không đáp ứng được một cách ổn định và có hiệu quả các yêu cầu của thị trường. Nhìn chung công nghiệp phụ trợ của Việt Nam vẫn đang ở trong giai đoạn sơ khai, điều này lại càng rõ nét nếu nhìn nhận từ khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ. Số lượng các doanh nghiệp phụ trợ nội địa mặc dù được tăng lên khá nhanh nhưng mới chỉ dừng lại ở khâu sản xuất các chi tiết, linh kiện, phụ kiện đơn giản và cơ cấu giá trị trong tổng giá trị nội địa hóa là rất nhỏ. Để nhận dạng công nghiệp phụ trợ Việt Nam hiện nay, có ba yếu tố sau cần phải được xem xét: Một là, tính chất và đặc thù của các sản phẩm và loại sản phẩm phụ trợ. Cũng giống như giai đoạn đầu của công nghiệp Thái Lan và một số nước ASEAN khác, các doanh nghiệp nội địa của Việt Nam chỉ có thể tập trung đầu tư và phát triển sản xuất các loại phụ tùng, linh phụ kiện có kích cỡ cồng kềnh và công nghệ sản xuất không phức tạp với mục tiêu đáp ứng nhu cầu, thậm chí là yêu cầu của các công ty lắp ráp FDI. Sau đây là một trích dẫn thực tế từ nghiên cứu của Viện chiến lược chính sách công nghiệp : Hiện tại, công ty SUZUKI Việt Nam đã tạo dựng được một hệ thống các nhà cung cấp nội địa bao gồm 11 công ty Nhật Bản, 16 công ty Việt Nam, 22 công ty Đài Loan và 7 công ty khác, tương tự như vậy với công ty Honda và VMEP. Tuy nhiên các chi tiết, các cụm chi tiết khó và động cơ các nhà lắp ráp vẫn phải nhập khẩu vì các nhà cung cấp nội địa chưa thể đảm nhận. Có một số nhà cung cấp như MAP (Machino Auto Parts Co.,Ltd), TSUKUBA, Broard Bright hay Vision... đã bắt đầu thực hiện sản xuất một số chi tiết khó nhưng với số lượng ít và chất lượng chưa thể ngang bằng với hàng nhập khẩu. (Nguồn: Viện nghiên cứu chiến lược chính sách công nghiệp, 2006) Hai là, năng lực của các nhà cung ứng (bao gồm cả doanh nghiệp nội địa và các doanh nghiệp FDI). Mặc dù các chính sách khai thông cho dòng đầu tư nước ngoài ngày càng được cải thiện, song năng lực cũng như số lượng của các doanh nghiệp cung cấp FDI vẫn chưa đủ mạnh. Trong khi đó các doanh nghiệp nội địa có trình độ công nghệ lạc hậu, năng lực quản lý và tổ chức sản xuất chưa đáp ứng được những đòi hỏi của các nhà lắp ráp FDI. Một trong những điểm yếu của các doanh nghiệp nội địa là khả năng nghiên cứu và phát triển, tất nhiên điều này cũng xuất phát một phần từ sự hạn chế về tài chính, trong khi đó các doanh nghiệp cung cấp FDI ngày càng có những bước tiến khá quan trọng trong khâu nghiên cứu và phát triển. Ba là, những yêu cầu đặt ra và chính sách thu mua từ phía các công ty lắp ráp FDI. Dù là hình thức sản xuất nào: theo dây chuyền (đối với các công ty Nhật Bản và các nước tiên tiến) hay theo công đoạn (như các công ty Trung Quốc), các công ty lắp ráp FDI đều có những yêu cầu rất khắt khe với nhà cung ứng về chất lượng, các thông số kỹ thuật của sản phẩm, nguồn nguyên vật liệu và thời hạn giao hàng. Bởi vậy, các doanh nghiệp nội địa khó có khả năng đáp ứng các yêu cầu trên một cách toàn diện. Số lượng các doanh nghiệp phụ trợ nội địa trong ngành công nghiệp xe máy là khá nhiều, nhưng số doanh nghiệp trở thành nhà cung ứng các linh kiện, phụ tùng cho các công ty lắp ráp FDI thì không đáng kể. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình ._. các ngành thâm dụng vốn và công nghệ cao như ô tô, máy bay, máy vi tính, chất bán dẫn và chế tạo máy. Vai trò chủ đạo trong chuỗi giá trị này thuộc về các công ty đa quốc gia và lợi nhuận sẽ phụ thuộc chủ yếu vào quy mô, số lượng và sự vượt trội về công nghệ. Chuỗi giá trị toàn cầu do thị trường hoặc người mua chi phối bao gồm các nhà bán lẻ lớn, các nhà marketing, các nhà sản xuất có thương hiệu mạnh có vai trò then chốt trong việc hình thành mạng lưới sản xuất tập trung xuất khẩu khác nhau trên phạm vi toàn cầu, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Mô hình này là đặc trưng của các ngành thâm dụng lao động, sản xuất hàng tiêu dùng như dệt may, da giầy, đồ chơi và điện dân dụng. Trong hệ thống này các nhà thầu của thế giới thứ ba chịu trách nhiệm sản xuất sản phẩm cuối cùng cho người tiêu dùng nước ngoài. Các nhà bán lẻ lớn hay các nhà bán buôn đặt hàng cung cấp các sản phẩm với đặc tính rõ ràng. Chuỗi giá trị toàn cầu do người mua chi phối trái ngược với chuỗi giá trị toàn cầu do nhà sản xuất chi phối là do chuỗi giá trị này được đặc trưng bởi cạnh tranh mạnh và hệ thống các nhà máy sản xuất tập trung toàn cầu với rào cản nhập ngành thấp. Các công ty có thương hiệu nổi tiếng kiểm soát hệ thống sản xuất trên phạm vi toàn cầu, hơn nữa họ còn tác động đến lợi nhuận là bao nhiêu trong mỗi giai đoạn trong chuỗi giá trị. Cũng trong chuỗi giá trị toàn cầu do người mua chi phối lợi nhuận lại phụ thuộc chủ yếu vào các giá trị gia tăng cao trong nghiên cứu và phát triển, thiết kế marketing và chiến lược kết nối các nhà sản xuất trên phạm vi toàn cầu và bán các sản phẩm ở thị trường tiêu dùng chính. Dòng chảy giá trị gia tăng toàn cầu theo đó chỉ có thể nhảy một chiều từ các quốc gia nghèo lên các quốc gia giàu chứ không có chiều ngược lại. Nếu các nước đang phát triển như Việt Nam không lựa chọn mục tiêu sống còn là phải vươn lên cạnh tranh ở hai phân khúc tạo giá trị gia tăng cao nói trên thì khoảng cách với các nước phát triển ngày càng xa. Mô hình chuỗi giá trị cũng chỉ ra rằng: ngành điện tử Việt Nam đang dừng lại ở khâu lắp ráp trong chuỗi giá trị sản phẩm điện tử của thế giới, đây là khâu mang lại giá trị gia tăng thấp nhất trong chuỗi giá trị của ngành điện tử, trong khi đó các nước đã đồng loạt tiến về thượng nguồn để tìm kiếm giá trị gia tăng cao hơn. Do vậy Việt Nam cũng cần nhanh chóng di chuyển sang các công đoạn khác mang lại giá trị cao hơn. Trong điều kiện thực tế của Việt Nam hiện nay, chưa thể ngay lập tức tham gia vào lĩnh vực nghiên cứu và phát triển - sở hữu trí tuệ, nhưng hoàn toàn có thể đua tranh với thế giới trong lĩnh vực khác, ngành điện tử Việt Nam cần tiến thêm một bước trong chuỗi giá trị đó là bước phát triển công nghiệp phụ trợ, sản xuất các loại linh kiện, phụ kiện điện tử trước khi đưa vào lắp ráp, đây chính là cách mà Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu ngành điện tử đồng thời nâng cao được giá trị gia tăng cho quốc gia. 2.2.4. Đánh giá nhu cầu mua sắm của các công ty đa quốc gia Với các công ty đa quốc gia hướng vào thị trường nội địa: Trong ngành công nghiệp điện tử các công ty Nhật Bản hoạt động tại Việt Nam cung cấp chủ yếu là ti vi và các thiết bị gia dụng như máy giặt, tủ lạnh, một số các thiết bị âm thanh như đầu DVD, thiết bị hi-fi stereo... Vì ti vi và các thiết bị gia dụng trên là những sản phẩm có nhu cầu đặc biệt cao trong thời kỳ đầu của quá trình phát triển kinh tế do nguyện vọng nâng cao mức sống của nhân dân, để đáp ứng nhu cầu này các công ty đa quốc gia thường xây dựng các nhà máy tại thị trường tiêu thụ để không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Ngoài ra, các sản phẩm này thường có khối lượng nặng và kích thước cồng kềnh nên các nhà máy cần được xây dựng gần địa điểm tiêu thụ để giảm chi phí vận chuyển. Các công ty này nhắm vào thị trường nội địa thường có động lực mạnh mẽ trong việc nội địa hóa, rất nhiều linh kiện điện tử sử dụng trong tivi và các thiết bị gia dụng rất nặng và cồng kềnh, đặc biệt là các linh kiện bằng nhựa và kim khí. Việc nhập khẩu các linh kiện này rất tốn kém, ngoài ra do đặc điểm của quá trình sản xuất nên sự tập trung các bộ phận này theo địa điểm không phải là một ưu thế. Thêm vào đó, các công ty đa quốc gia này thường có xu hướng nội địa hóa một số công đoạn sản xuất như đúc, mạ, giập... Việc thay đổi mẫu mã thường xuyên và phản hồi nhanh từ công đoạn này khiến người ta thường xây dựng các nhà máy ngay tại các địa điểm cung cấp dịch vụ. Các công ty đa quốc gia với mục tiêu xuất khẩu Các công ty đa quốc gia Nhật Bản đóng tại Việt Nam nhưng hướng vào thị trường quốc tế thường sản xuất các thiết bị máy tính ngoại vi và các thiết bị âm thanh. So với việc sản xuất ti vi và đồ gia dụng, các công ty này thường có xu hướng xây dựng các nhà máy cách xa thị trường tiêu thụ vì cầu đối với các sản phẩm này tăng chậm so với các sản phẩm ti vi và đồ gia dụng, mặt khác các sản phẩm này thường có kích thước tương đối nhỏ nên các nhà sản xuất vẫn thu được những khoản lợi sau khi đã khấu trừ chi phí vận chuyển. Một vài ý kiến cho rằng các công ty đa quốc gia đóng tại Việt Nam với mục tiêu hướng vào xuất khẩu không có động cơ nào để tiến hành nội địa hóa bởi lẽ họ hoàn toàn được miễn thuế linh kiện nếu được hưởng quy chế Doanh nghiệp sản xuất cho xuất khẩu hay đóng tại các khu chế xuất. Tuy nhiên các doanh nghiệp này vẫn tìm cách tăng tỉ lệ nội địa hóa, vì họ muốn rút ngắn thời gian thực hiện đơn đặt hàng, việc xuất khẩu sang các thị trường như Mỹ, EU, hay Nhật Bản luôn phải đảm bảo yêu cầu giao hàng nhanh, đúng và đủ. Sau đây là những ý kiến từ công ty Canon : Công ty TNHH Canon Việt Nam Không giống như các công ty đa quốc gia hướng vào xuất khẩu, Canon rất tích cực trong việc nội địa hóa các linh kiện. Theo lời của Ngài Tổng giám đốc, Canon mong muốn nội địa thật nhiều các linh phụ kiện nhằm rút ngắn thời gian thực hiện đơn đặt hàng và chi phí hậu cần. Tuy nhiên, Ông cũng chỉ ra rằng, Canon cũng cần nhập khẩu một vài linh kiện bởi năng lực hạn chế của các ngành công nghiệp phụ trợ Việt Nam (Nguồn GS.TS Kenichi Ohno - Hoàn thiện chiến lược phát triển công nghiệp ) Từ những phân tích trên có thể nhận thấy, dù các công ty trên có mục tiêu là nội địa hay quốc tế thì cũng đều có động cơ và nhu cầu nội địa hóa một số các loại linh kiện điện tử hoặc phụ tùng, đặc biệt là nột số các phụ tùng có kích cỡ cồng kềnh và khối lượng lớn như vỏ nhựa, ống kim loại, các công cụ ép, đúc... Việc sản xuất các linh kiện bằng nhựa và kim khí này không đòi hỏi công nghệ cao siêu nhưng nó lại có thể rất hữu ích cho các ngành khác. Ví dụ công nghệ sử dụng trong ngành điện tử có thể khả dụng đối với các ngành sản xuất ô tô hay xe máy... Các sản phẩm cuối cùng có thể thay đổi thường xuyên và đặc biệt nhanh đối với ngành công nghiệp điện tử. Chẳng hạn, màn hình tinh thể lỏng đã nhanh chóng qua mặt màn hình truyền thống sử dụng đèn hình, tuy nhiên các linh kiện kim khí và nhựa cũng như các công đoạn liên quan sẽ vẫn luôn cần thiết cho dù có bất cứ sự thay đổi nào về sản phẩm cuối cùng. Bởi vậy, các quốc gia có đủ công nghệ sản xuất linh phụ kiện bằng nhựa hay kim khí sẽ có khả năng bảo vệ vị trí cạnh tranh của mình như là một trung tâm sản xuất trong thời gian dài. Hiện chưa có nhiều quốc gia có được sự tích tụ cần thiết trong việc phát triển các ngành công nghiệp này, và như vậy Việt Nam hoàn toàn có lợi thế trong khu vực nếu thành công trong việc xây dựng được các ngành công nghiệp phụ trợ như trên. 2.3.4. Đánh giá về công nghiệp phụ trợ điện tử của Việt Nam thông qua phân tích mô hình SWOT Qua mô hình SWOT sẽ cho thấy điểm mạnh, đỉểm yếu từ môi trường bên trong và những cơ hội, thách thức từ môi trường bên ngoài. Sau đây là bảng tổng kết đánh giá : Điểm mạnh -Nhận được nhiều chính sách quan tâm hỗ trợ từ phía Chính phủ và các tổ chức hỗ trợ -Số lượng các doanh nghiệp phụ trợ nội địa ngày một tăng lên Điểm yếu -Thiếu các cơ sở sản xuất nguyên vật liệu hỗ trợ -Thông tin hai chiều từ nhu cầu sản phẩm và khả năng cung cấp chưa hoạt động -Năng lực toàn ngành công nghiệp còn yếu Cơ hội -Cầu về các sản phẩm phụ trợ điện tử ngày một gia tăng -Cơ hội thu hút vốn và nhận chuyển giao công nghệ từ những nước có nền công nghiệp phụ trợ phát triển sang Việt Nam đang tăng lên Thách thức -Chiu sự khống chế của các công ty đa quốc gia -Cạnh tranh gay gắt từ Trung Quốc và các nước ASEAN có nền công nghiệp phụ trợ phát triển hơn Bảng 2.2 :Phân tích SWOT cho công nghiệp phụ trợ thuộc ngành công nghiệp điện tử của Việt Nam CHƯƠNG 3: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP PHỤ TRỢ THUỘC NGÀNH CÔNG NGHIỆP ĐIỆN TỬ VN ****************** 3.1. Dự báo nhu cầu về ngành công nghiệp phụ trợ thuộc công nghiệp điện tử Việt Nam 3.1.1. Nhu cầu về máy nguyên chiếc Hiện nay máy vi tính là một công cụ không thể thiếu trong công việc của mỗi người, số lượng tiêu thụ máy vi tính tại thị trường nội địa ngày một gia tăng. Gần đây, nhu cầu về máy vi tính xách tay tại thị trường Việt Nam bùng nổ với sự tham gia của hầu hết các nhãn hiệu lớn trên thế giới như HP, Apple, IBM, Sony, Acer, Toshiba, Ben Q, Dell... Các hãng này đã dưa vào Việt Nam một dải rộng các sản phẩm máy tính xách tay, tù các loại cấp thấp, trung bình đến các loại tiên tiến nhất như Centrino, Sonoma, Core 2 Duo... với mức giá sản phẩm từ 700USD đến vài nghìn USD. Do đó mà khách hàng có nhiều điều kiện để lựa chọn theo nhu cầu và khả năng của mình. Các mặt hàng như ti vi, đầu đọc đĩa... do liên doanh được với những hãng điện tử nổi tiếng trên thế giới như Sony, Toshiba, Samsung, JVC...nên đã sản xuất được dư thừa so với nhu cầu của thị trường. Sự ra đời của công nghệ tivi LCD và Plasma đang dần thay thế công nghệ CRT cung làm cho cầu về sản phẩm ti vi giảm. Sản phẩm điện tử sẽ mở rộng cả về số lượng và chất lượng với sản lượng ti vi sản xuất, lắp ráp khoảng 3 triệu chiếc năm 2010, trong đó nhu cầu nội địa là 1,5 triệu. Nhu cầu máy tính khoảng 2000 triệu chiếc trong đó lắp ráp trong nước chiếm khoảng 50% - 60%. Trong vài năm tới nhu cầu về máy tính xách tay cũng sẽ tăng mạnh hơn nữa... 3.1.2. Nhu cầu về linh kiện Nền tảng của công nghiệp điện tử là các linh kiện bán dẫn, chúng có tỷ trọng ngày tăng trong tổng giá trị thiết bị điện tử , chiếm khoảng 50% giá trị linh kiện nói chung. Nhật Bản và Mỹ là những nước đứng đầu thế giới về lĩnh vực cung cấp các sản phẩm bán dẫn. Việt Nam hiện chủ yếu nhập khẩu linh kiện rồi tổ chức lắp ráp và gia công thành phẩm hoặc bán thành phẩm. Một phần cung cấp cho các nhà sản xuất trong nước và một phần để xuất khẩu. Những linh kiện điện tử được xuất khẩu tới các cơ sở lắp ráp trong khu vực cho các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm điện tử hoàn chỉnh. Mục tiêu đến năm 2010 tốc độ tăng trưởng bình quân vào khoảng 20%/năm, dưới đây là nhưng con số dự báo: Đơn vị tính: triệu USD Kim ngạch 2000 2001 2002 2005 2010 Nhập khẩu 859,4 664,2 644,7 664,2 644,7 Xuất khẩu 556 1400 >3000 Bảng 3.1: Dự báo nhu cầu về linh kiện (nguồn: Viện nghiên cứu chiến lược chính sách công nghiệp) 3.1.3. Nhu cầu về phụ kiện nhựa Ngành nhựa của Việt Nam hiện nay có thể đáp ứng được nhu cầu sản xuất các linh kiện, phụ kiện bằng nhựa phục vụ cho sản xuất các sản phẩm điện tử, tuy nhiên chi phí để làm khuôn mẫu lại khá lớn, thường tốn gấp 2 đến 3 lần so với chi phí làm ở nước ngoài. Dự báo về nhu cầu phụ kiện nhựa như sau: Loại 2005 (tấn/năm) 2010 (tấn/năm) 2020 (tấn/năm) -Điện tử gia dụng: vỏ ti vi, điều hòa, máy giặt, nồi cơm điện... 2100 - 2500 2500 - 3000 4000 - 4200 -Điện tử tin học: vỏ máy tính, vỏ bàn phím, chuột máy tính, máy điện thoại, máy in... 300 - 400 1000 - 1200 2000 – 2500 -Linh kiện, phụ kiện bằng nhựa khác. 100 200 400 Bảng 3.2 : Dự báo nhu cầu về phụ kiện nhựa (nguồn: Viện nghiên cứu chiến lược chính sách công nghiệp) 3.1.4. Nhu cầu về khuôn mẫu và các chi tiết sắt thép, cơ khí Khuôn mẫu được sử dụng để sản xuất ra các sản phẩm bằng nhựa cho các nhà lắp ráp, nhu cầu đối với khuôn mẫu cho việc tạo hình các sản phẩm điện tử là khá lớn và được dự báo đến năm 2020 như sau: Loại 2005 2010 2020 Khuôn sử dụng cho đúc các linh kiện nhựa 30 45-50 70-80 Vỏ, khung sắt (tấn/năm) 1600 2000 2500 Bảng 3.3 : Dự báo nhu cầu về khuôn mẫu (nguồn: Viện nghiên cứu chiến lược chính sách công nghiệp) 3.1.5. Nhu cầu phát triển công nghiệp phụ trợ trong thời gian tới Với tốc độ phát triển nhanh của ngành công nghiệp điện tử thì khó có thể dự báo được chính xác về chủng loại nguyên liệu, linh kiện hỗ trợ cần thiết, do vậy chỉ có thể dự báo được thông qua nhu cầu thực tế của các công ty có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và các doanh nghiệp sản xuất lắp ráp sản phẩm điện tử trong nước. Các công ty này đều muốn mua nguyên liệu và phụ tùng trên thị trường nội địa với giá cả tương xứng với giá trị thực của chúng, mặt khác, các phụ tùng đặc biệt hoặc thường xuyên phải cải tiến đương nhiên phải được mua trên thị trường nội địa thay vì phải nhập khẩu. Cụ thể những linh kiện, phụ kiện cần sớm được sản xuất trong nước bao gồm: phụ tùng chi tiết nhựa và kim loại, công cụ đúc, nén, xử lý nhiệt... các loại nguyên liệu bao gói. 3.2. Đề xuất các giải pháp phát triển công nghiệp phụ trợ cho ngành công nghiệp điện tử 3.2.1. Xây dựng cơ sở dữ liệu(CSDL) công nghiệp phụ trợ Một trong những nguyên nhân làm cho công nghiệp phụ trợ của Việt Nam không phát triển được đó là do khoảng cách về thông tin, bởi vậy thiết lập một cơ sở dữ liệu về công nghiệp phụ trợ là một giải pháp quan trọng giúp giải quyết vấn đề trên, giúp cho giao dịch giữa các nhà lắp ráp FDI và các nhà cung cấp được mở rộng, đồng thời khi có một cơ sở dữ liệu tốt sẽ giúp cho cả hai đối tác tiết kiệm được thời gian và chi phí giao dịch. Sơ đồ 3.1 sau sẽ chỉ rõ sự tiết kiệm về mặt thời gian khi có một cơ sở dữ liệu tốt cho công nghiệp phụ trợ. 2 đến 3 năm Không có CSDL CNPT Tìm kiếm ban đầu Kiểm tra cơ sở sx Đánh giá mẫu Đặt hàng lần đầu Đặt hàng hàng loạt Có CSDL CNPT Tìm kiếm ban đầu Kiểm tra cơ sở sx Đánh giá mẫu Đặt hàng lần đầu Sơ đồ 3.1 : CSDL CNPT giúp giảm thời gian dao dịch tiếp xúc Tạo lập được một cơ sở dữ liệu hữu ích về công nghiệp phụ trợ là một giải pháp giúp đẩy nhanh quá trình phát triển công nghiệp phụ trợ ở mỗi ngành và mỗi địa phương. Khi đó ngành công nghiệp phụ trợ của công nghiệp điện tử cũng sẽ nhận được sự chia sẻ của các ngành khác như xe máy, cơ khí... Việc thiết lập cơ sở dữ liệu cần phải học tập từ các quốc gia đã có kinh nghiệm, đồng thời phải khuyến khích các công ty tích cực tham gia vào quá trình thiết kế này. Cơ sở dữ liệu không đơn giản là một danh bạ các công ty trong lĩnh vực phụ trợ mà nó phải chính xác, đầy đủ các thông tin cần thiết, phải có sự cam kết của các doanh nghiệp đăng ký. Nên thiết lập một cơ sở dữ liệu về công nghiệp phụ trợ với các tiêu chí như sơ đồ sau: Các tiêu chí lựa chọn nhà cung cấp Thông tin muốn có trong CSDL CNPT Năng lực sản xuất Phạm vi giao hàng Chi phí Chất lượng Chính sách của công ty Khách hàng hiện nay Các chứng chỉ liên quan Tự giới thiệu Thiết bị sản xuất Độ chính xác chế tạo Danh mục máy móc, tên nhà sx Đơn vị milimet Kinh nghiệm ISO 9000 ISO 14000 Các kỹ năng dặc biệt Số lao động Sơ đồ 3.2 : Đảm bảo đầy đủ các thông tin trong CSDL về CNPT (nguồn: Mori 2005) 3.2.2. Thu hút vốn đầu tư Đầu tư trực tiếp từ nước ngoài là nguồn lực quan trọng nhất hiện nay để phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ điện tử qua đó phát triển công nghiệp điện tử của quốc gia. Đẩy mạnh mối liên kết giữa các công ty đa quốc gia nước ngoài với các doanh nghiệp trong nước cần được ưu tiên hàng đầu. Các doanh nghiệp của Việt Nam cần phải nỗ lực hết mình trong việc cải thiện năng lực để trở thành nhà cung cấp cho các nhà sản xuất FDI hoặc cho các khách hàng nước ngoài. Chính phủ cũng cần có những chính sách để hỗ trợ cho những nỗ lực đó. Để mất niềm tin với các nhà đầu tư nước ngoài mặc dù vẫn đang có lợi thế cạnh tranh thì cũng không thể tránh được sự dịch chuyển của dòng vốn đầu tư sang các nước mới nổi lên trong khu vực. Cần phải rút kinh nghiệm từ các nước đi trước để tiết kiệm thời gian và tập trung vào cơ chế thực hiện chính sách. Đối với một số ngành công nghiệp, nhất là các ngành đòi hỏi công nghệ và thâm dụng vốn thì việc xem xét để nhìn nhận và lựa chọn cách thức sản xuất modul hay tích hợp cho Việt Nam là rất cần thiết. Để trở thành một đối tác trong sản xuất tích hợp cần có khả năng thiết kế và vận hành nhà máy đạt hiệu quả, phải biết điều chỉnh, bảo dưỡng, sửa chữa máy móc, thiết kế linh phụ kiện, đào tạo nhân công có trình độ cao, sản xuất khuôn mẫu chính xác... Điều này sẽ giúp cho nền công nghiệp trưởng thành từ nền sản xuất lắp ráp đơn giản theo đơn đặt hàng của nước ngoài thành một đối tác khó có thể thay thế trong mạng lưới sản xuất toàn cầu. Nó cũng giải quyết được mối quan hệ phụ thuộc giữa các quốc gia kém phát triển với các quốc gia đi trước, sẽ không còn là mối quan hệ một chiều mà trở thành quan hệ song phương bình đẳng vì chính các quốc gia đó cũng sẽ phụ thuộc vào các quốc gia đang sản xuất tích hợp cho mình. Nếu Việt Nam thực hiện được điều này thì quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Nhật Bản sẽ được nâng lên một tầm cao hơn. Trong số các nước ASEAN thì Thái Lan và Việt Nam được Nhật bản coi là ứng cử viên hàng đầu cho cách thức sản xuất tích hợp này. Đã đến lúc chính phủ cần đưa ra được những mục tiêu rõ ràng liên quan đến cách thức sản xuất cùng với những kế hoạch hành động thích hợp nhất là đối với một số ngành công nghiệp thâm dụng vốn và công nghệ cao mà chưa thể tự mình đứng vững. Chính phủ Nhật Bản và cộng đồng khối doanh nghiệp cũng phối hợp chủ động để hỗ trợ hợp tác kinh doanh và hỗ trợ kỹ thuật cho mục tiêu này. Với việc sản xuất tích hợp thì trong thời gian đầu các doanh nghiệp trong nước có thể bị phụ thuộc vào Nhật Bản. Ngược lại, với sự liên kết này thì Nhật bản cũng sẽ bị phụ thuộc vào Việt Nam. Khi xây dựng quan hệ đối tác chiến lưổctng ngành chế tạo , khi cần mở rộng đầu tư sang nước khác, các nhà lắp ráp Nhật Bản cũng kéo theo các nhà cung cấp Việt Nam, tương tự như một số các nhà cung cấp Thái lan đã đầu tư vào Việt Nam theo như yêu cầu của các nhà lắp ráp Nhật Bản. Trong thời gian tới đây có thể là mô hình sản xuất hiệu quả nhất để tiếp nhận vốn và chuyển giao công nghệ nhanh nhất từ các nước sang các doanh nghiệp Việt Nam. 3.2.3. Phát huy tối đa lợi thế so sánh quốc gia Chi phí nhân công: trong ngành công nghiệp điện tử, bên cạnh những đòi hỏi mới thì lợi thế vốn có vẫn là nhân tố động lực để phát triển. Ở Việt Nam chi phí tiền lương nhân công tương đối thấp là một điều kiện tốt để hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các ngành công nghiệp nói chung và ngành công nghiệp điện tử nói riêng, đặc biệt là những ngành sản xuất các linh kiện cồng kềnh, các sản phẩm điện tử gia dụng. Giá sức lao động ở Việt Nam đang được đánh giá là chỉ bằng một nửa của Trung Quốc, tuy nhiên, trong quá trình sản xuất của công nghiệp điện tử lại đòi hỏi phải có những kỹ năng và trình độ nhất định do những tiến bộ khoa học kỹ thuật. Bởi vậy cần nhanh chóng đào tạo một đội ngũ công nhân lành nghề trong lúc mà chi phí cho việc đào tạo còn thấp để vẫn duy trì được những lợi thế về tiền lương và có thể khai thác được ngay. Thể chế chính trị: với môi trường chính trị ổn định thì Việt Nam đang có một lợi thế cạnh tranh quan trọng cho công nghiệp điện tử so với các nước ASEAN khác vốn đang bị đe dọa bởi nhiều vấn đề bất ổn về chính trị, tôn giáo, sắc tộc. Mặt khác, Việt Nam cũng là một quốc gia có độ an toàn cao cho đầu tư kinh doanh so với các nước như Indonesia, Philippin... môi trường đầu tư cho ngành công nghiệp điện tử Việt Nam cũng có nhiều thuận lợi nhờ hàng loạt các biện pháp kích thích kinh tế và sự thay đổi cơ chế kiểm soát của chính phủ đã đưa ra trong thời gian gần đây. Dân số đông: xu hướng tiêu dùng các sản phẩm điện tử trong các ngành công nghiệp và trong hộ gia đình ngày càng tăng là nhân tố quan trọng để mở rộng quy mô thị trường tiêu thụ cho các sản phẩm điện tử Việt Nam. Với mức dân số cao thứ 13 trên thế giới cộng với nền kinh tế đang thay đổi từng giờ Việt Nam sẽ là một thị trường nội địa hấp dẫn đối với ngành điện tử gia dụng. Mặc dù thu nhập bình quân đầu người còn thấp về tuyệt đối nhưng tốc độ tăng lại tương đối cao, cơ cấu tiêu dùng thay đổi nhanh chóng... sẽ là các nhân tố có sức thu hút đầu tư FDI rất lớn. Vị trí đị lý: Việt Nam nằm ở khu vực Đông Á – giữa ASEAN với Trung Quốc và Nhật Bản, Hàn Quốc, vị trí thuận lợi này cũng cần phải đươc khai thác triệt để trong công nghiệp điện tử. Do thuận lợi trong việc vận chuyển các linh kiện và thiết bị từ các quốc gia khác đến nên sự phân công lao động thông thường trong công nghiệp điện tử có thể thực hiện dễ dàng, Việt Nam sẽ là địa điểm thực hiện hoạt động lắp ráp các loại linh kiện từ các quốc gia trong khu vực sau đó xuất khẩu thành phẩm sang các thị trường lân cận. Mặt khác, với chi phí vận tải thấp nên các sản phẩm điện tử lắp ráp tại Việt Nam sẽ có lợi thế cạnh tranh về giá, tuy nhiên, phương thức này chỉ thích hợp với giai đoạn đầu của quá trình phát triển. Nếu không biết sử dụng lợi thế về sức cạnh tranh và sức lan tỏa trong thu hút FDI thì lợi thế về chi phí thấp sẽ có tác dụng ngược lại, giữ chân Việt Nam nằm trong mắt xích thấp nhất của chuỗi giá trị toàn cầu. Trong những năm tiếp theo, Việt Nam nên khai thác những lợi thế này theo phương thức liên kết ngược lại, cần khuyến khích và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài để xây dựng các cơ sở công nghiệp phụ trợ ngay tại Việt Nam và cung ứng cho các cơ sở lắp ráp ở các quốc gia lân cận. Thông qua liên kết sản xuất các doanh nghiệp điện tử Việt Nam sẽ tiếp nhận được công nghệ mới và những kỹ năng cần thiết để phát triển công nghiệp điện tử quốc gia ngày một lớn mạnh. 3.2.4. Phát triển các ngành công nghiệp chế tạo cơ bản Các chuyên gia của Nhật Bàn đã nhận xét: vì muốn đi tắt đón đầu nên các nước đang phát triển thường có xu hướng bỏ qua ngành công nghiệp chế tạo cơ bản, cho đến khi đứng trước nguy cơ bị mất đi những nhà đầu tư lớn của nước ngoài thì họ mới nhận thức được tầm quan trọng của ngành này. Công nghiệp của Trung Quốc hay Việt Nam hiện tại có thể thực hiện được những chi tiết đơn giản trong công nghiệp khuôn mẫu nhưng những chi tiết đòi hỏi có độ chính xác cao chỉ có thể thực hiện được ở Nhật Bản và một số ít ở Thái Lan. Ngay cả những nước có trình độ phát triển cao như Hàn Quốc cũng gặp phải khó khăn trong ngành này. Inđônexia và Thái Lan đã thức tỉnh được điều này và nhận biết đó chính là ngành công nghiệp có vai trò then chốt nên đã có nhiều chính sách hợp lý và kịp thời. Thái Lan đã xây dựng được một khu công nghiệp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Nhật thuê để sản xuất khuôn mẫu và Indonexia cũng đang cố gắng mời các doanh nghiệp Nhật Bản trong các lĩnh vực này vào đầu tư. Theo điều tra của ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản – JBIC năm 2006 cho thấy: có khoảng 32% số công ty Nhật Bản coi Việt Nam là nước có tiềm năng để phát triển sản xuất và đã tỏ rõ sự quan tâm tới Việt Nam. Ngành công nghiệp chế tạo của Nhật Bản xác định Việt Nam được đặt ở vị trí thứ 4 trong số các nước có tiềm năng phát triển sản xuất (sau Trung Quốc, Thái Lan và Mỹ). Nếu Việt Nam chiếm lĩnh được ưu thế ở các ngành chế tạo thì trong mọi hoàn cảnh các công ty đa quốc gia sẽ khó có thể rời khỏi Việt Nam. 3.2.5. Đảm bảo nguồn nhân lực Do có dân số đông nên lực lượng lao động rất lớnnhưng đa số người lao động của Việt Nam chưa được đào tạo về tác phong, kỹ năng và kỉ luật lao động công nghiệp. Đối với ngành công nghiệp điện tử luôn đòi hỏi lao động được đào tạo ở trình độ cao bởi vậy cần sớm hình thành các giải pháp đào tạo nguồn nhân lực cho ngành này như: + Nhanh chóng hình thành quỹ hỗ trợ đào tạo nhân lực cho ngành công nghiệp điện tử, quỹ sẽ được tài trợ bởi ngân sách đầu tư phát triển của ngành và từ sự đóng góp của các doanh nghiệp điện tử Việt Nam. + Xúc tiến các chương trình hợp tác đào tạo và các chương trình nghiên cứu phát triển. Các trường đại học ở Việt Nam, các cơ quan nghiên cứu có tiềm năng khá lớn về công nghiệp điện tử mặt khác chi phí đào tạo và nghiên cứu ở Việt Nam cong ở mức độ thấp nên cần có sự phối hợp giữa các cơ quan này với các doanh nghiệp trong việc đào tạo và nghiên cứu, có như vậy mới phát huy được nội lực tạo điều kiện cho sự phát triển lâu dài và bền vững của công nghiệp điện tử Việt Nam. + Thực hiện chế độ đào tạo thường xuyên để người lao động được tiếp cận với các chi thức mới của ngành công nghiệp điện tử. Có thể đào tạo tại chỗ theo định kỳ hàng năm để nâng cao trình độ cho các cán bộ quản lý doang nghiệp và đội ngũ lao động kỹ thuật, đây cũng là bài học kinh nghiệm quý báu từ các doanh nghiệp điện tử hàng đầu Nhật Bản ở ASEAN nhằm nâng cao trình độ của nguồn nhân lực nội địa. + Khuyến khích các đối tác nước ngoài thực hiện những chương trình trao đổi vè kỹ thuật, trao đổi về nghiên cứu phát triển công nghiệp điện tử với các doanh nghiệp và các viện nghiên cứu của Việt Nam nhằm nâng cao trình độ công nghệ và quản lý để phát triển ổn định. + Chú ý đến khả năng ngoại ngữ của nguồn nhân lực bởi nó có ảnh hưởng rất lớn đến thu hút đầu tư FDI. Chính phủ cần cân nhắc để cải tiến hệ thống giáo dục gắn chặt với phát triển ngoại ngữ theo như kinh nghiệm của Phillippin, Singapore và Malaixia, đã đến lúc cần nhìn nhận và đánh gía chính sách này như một trong các công cụ quan trọng của quốc gia trong chiến lược đi tắt đón đầu để đạt được các thành tựu công nghiệp như mong đợi. 3.2.6. Phát triển ngành công nghiệp điện tử Bên cạnh các giải pháp cần tập trung thực hiện thì cần có thêm một số các giải pháp bổ trợ để thúc đầy nhanh nền công nghiệp điện tử phát triển. Lựa chọn mô hình và bước đi thích hợp cho ngành công nghiệp điện tử cũng là vấn đề đang có nhiều ý kiến khác nhau. Việt Nam bắt đầu lắp ráp công nghiệp điện tử từ những năm 1990 đến nay, là quốc gia đi sau nhưng giai đoạn 1 đã tiêu phí gần 20 năm trong khi cần bắt đầu giai đoạn 2 sớm hơn. Đã đến lúc công nghiệp điện tử Việt Nam phải chuyển sang giai đoạn sau, và trong thời điểm hiện nay cần tập trung vào giai đoạn đầu tư sản xuất các linh kiện, thiết bị và những sản phẩm đòi hỏi công nghệ cao, lao động có kỹ năng và hàm lượng nghiên cứu phát triển. Các ngành công nghiệp chế tạo là một ngành như vậy. Với những kinh nghiệm ban đầu, công nghiệp điện tử Việt Nam đã có thị trường tiêu thụ được chuyển giao và được tiếp nhận những công nghệ tương đối cao, tuy chưa có nhiều đội ngũ cán bộ lao động có kỹ năng nhưng có thể đào tạo nhanh dựa trên năng lực vốn có. Mặt khác, chỉ khi đi thẳng vào khâu sản xuất các linh kiện và sản phẩm có chất lượng cao thì mới phát huy được lợi thế của Việt Nam để cạnh tranh các sản phẩm điện tử với các nước trong khu vực. Học tập kinh nghiệm của Trung Quốc, Việt Nam cũng nên xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm chất lượng quốc tế có nhãn hiệu Việt, từng bước hình thành hệ thống phân phối loại sản phẩm điện tử Việt Nam này trên thị trường trong nước. Phát triển công nghiệp điện tử Việt Nam là vấn đề có ý nghĩa kinh tế - xã hội, được đặt trong chiến lược phát triển các ngành công nghiệp để công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế. Hơn nữa, trong tương lai không xa công nghiệp điện tử sẽ trở thành một ngành công nghiệp mũi nhọn không chỉ thỏa mãn nhu cầu của thị trường nội địa mà còn vươn ra xuất khẩu tới các thị trường khác trên thế giới. Việc học tập kinh nghiệm của những quốc gia đi trước như Nhật Bản, tập trung các nguồn lực để thực hiện các giải pháp là đòi hỏi khách quan. Đồng thời vấn đề này cũng liên quan trực tiếp và cấp thiết với các doanh nghiệp của ngành công nghiệp điện tử Việt Nam đang hoạt động và những doanh nghiệp sẽ hình thành trong tương lai, tạo nên những mối quan hệ kinh tế mới giữa Việt Nam và nền kinh tế thế giới. KẾT LUẬN Chiến lược phát triển Công nghiệp Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn đến 2020 : đã chỉ rõ tầm nhìn phát triển của công nghiệp quốc gia là Việt nam sẽ trở thành một mắt xích của công nghiệp khu vực và thế giới. Điều này được hiểu là phát triển công nghiệp Việt Nam phải đặt trong phân công khu vực, hợp tác và sản xuất toàn cầu. Như vậy, công nghiệp phụ trợ cần được xác định rõ như là một công cụ quan trọng để công nghiệp Việt Nam có thể kết nối với khu vực. Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt Quy hoạch phát triển công nghiệp phụ trợ giai đoạn đến năm 2010, định hướng tới năm 2020. Đối với ngành điện tử - tin học, từ nay đến năm 2010 tập trung đầu tư sản xuất linh kiện điện tử, vi mạch điện tử, vật liệu linh kiện từ, linh kiện thạch anh, linh kiện máy vi tính… để phát triển các thiết bị ngoại vi và máy tính cá nhân, đồ điện tử gia dụng, thiết bị nghe nhìn, các thiết bị lắp ráp đơn giản. Sau năm 2010 sẽ phát triển sản xuất linh kiện lắp ráp đồng bộ, sản xuất thiết bị điện tử y tế, kỹ thuật cao, thiết bị điện tử dùng cho cảnh báo.Về biện pháp, quy hoạch cũng đề ra nhiều giải pháp cụ thể để nhằm đạt được mục tiêu của quy hoạch. Đề tài này xin được đóng góp một phần vào cách nhìn nhận về công nghiệp phụ trợ như là một chiến lược giúp đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO GS.Trần Văn Thọ - Biến động kinh tế đông Á và con đường công nghiệp hóa VN – Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Dương Hoàng Linh – Công nghiệp phụ trợ VN, cơ hội và tiềm năng. Kenichi Ohno - Hoạch định chính sách công nghiệp ở Thái Lan, Malaysia và Nhật Bản - Nhà xuất bản Lao động xã hội. Kyoshiro Ichikawa – Báo cáo điều tra: Xây dựng và tăng cường ngành công nghiệp phụ trợ tại VN. Tạp chí công nghiệp kỳ I tháng 9/2007. Tạp chí công nghiệp kỳ I tháng 4/2007. Tài liệu môn học quản lý và phát triển kinh tế địa phương. Quyết định phê duyệt Quy hoạch phát triển công nghiệp hỗ trợ đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020. Trường đại học KTQD, Khoa khoa học quản lý - Giáo trình quản trị học – NXB Giao thông vận tải. Trang Web của tổng cục thống kê Trang Web của viện chiến lược chính sách công nghiệp: www.ips.gov.vn Chính sách công nghiệp và thương mại của VN trong bối cảnh hội nhập.NXB thống kê: www.gso.gov.vn Tài liệu của “Hội thảo quốc tế Trung Quốc 5 năm sau gia nhập WTO:Chia sẻ kinh nghiệm với VN”. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10536.doc
Tài liệu liên quan