Phát triển hoạt động môi giới của Công ty TNHH Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Việt Nam

Tài liệu Phát triển hoạt động môi giới của Công ty TNHH Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Việt Nam: ... Ebook Phát triển hoạt động môi giới của Công ty TNHH Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Việt Nam

doc80 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1230 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phát triển hoạt động môi giới của Công ty TNHH Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC D DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT CTCK : công ty chứng khóan HTQLGD: Hệ thống quản lý giao dịch HĐQT: Hội đồng quản trị NHNN&PTNN VN : Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam NHCĐTT: Ngân Hàng Chỉ Định Thanh Toán NHNN: Ngân Hàng Nhà Nước TTCK: Thị Trường Chứng Khóan TNHH: Trách Nhiệm Hữu Hạn TTGDTPHN: Trung tâm giao dịch Thành Phố Hà Nội TP. HCM: Thành Phố Hồ Chí Minh TS: Tiến sĩ Th.S: Thạc sĩ SGDCK: Sở giao dịch chứng khóan QĐ-UBCKNN: Quyết định ủy ban chứng khóan nhà nước VND: Việt Nam đồng LỜI MỞ ĐẦU Môi giới chứng khoán là một trong những hoạt động cơ bản và cần thiết của bất kì công ty chứng khoán nào; về bản chất đây là hoạt động có tính chất trung gian hoặc đại diện mua, bán cho khách hàng để hưởng phí hoặc hoa hồng. Môi giới chứng khoán có vai trò quan trọng giúp cho thị trường chứng khoán hoạt động an toàn, ổn định và phát triển. Thị trường chứng khoán chính thức ở Việt Nam (Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh và Trung Tâm giao dịch Thành Phố Hà Nội) đến nay mới hoạt động được gần 8 năm, đó là một khoảng thời gian còn rất ngắn nếu đem so sánh với lịch sử hàng trăm năm của Thị trường chứng khoán (TTCK) các nước phát triển hoặc hàng chục năm của những nước láng giềng. Mặc dù TTCK nước ta sau thời gian hoạt động đã đạt được một số mục tiêu cơ bản ban đầu được chính phủ đề ra nhưng sự phát triển vẫn chưa toàn diện về nhiều mặt như quy mô, cấu trúc thị trường, khung pháp lý và các tổ chức tài chính trung gian, trong đó có hoạt động của các công ty chứng khoán. Mọi hoạt động của các công ty chứng khoán Việt Nam hiện nay đều đang ở những bước đi ban đầu, và cần nhiều thời gian hơn để thúc đẩy và phát triển. Cùng với xu thế phát triển kinh tế và hội nhập vào nền kinh tế trên toàn thế giới, tất yếu sẽ thúc đẩy Thị trường chứng khoán nước ta ngày càng phát triển trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Hoạt động của các công ty chứng khoán cũng không thể nằm ngoài sự phát triển chung đó. Do đó, nghiên cứu về các hoạt động của công ty chứng khoán đặc biệt là về hoạt động môi giới là rất cần thiết để có thể tìm ra được những giải pháp khả thi phát triển hoạt động của các công ty chứng khóan, góp phần đẩy mạnh sự phát triển trong tương lai của Thị trường chứng khoán Việt Nam. Chính vì vậy, qua quá trình thực tập tại công ty TNHH Ngân Hàng Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn Việt Nam em đã chọn đề tài cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình là “Phát triển hoạt động môi giới của công ty TNHH Ngân Hàng Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn Việt Nam”. Mục tiêu nghiên cứu của chuyên đề là: Củng cố và tìm hiểu sâu hơn lý thuyết về hoạt động môi giới của công ty chứng khoán. Qua nghiên cứu kĩ về lý thuyết kết hợp với việc tìm hiểu và phân tích về thực trạng hoạt động môi giới của Công ty Chứng khoán Nông Nghiệp, bước đầu vận dụng những lý thuyết này vào thực tế để có thể đóng góp được một số ý kiến giúp hoạt động môi giới của công ty tốt hơn. Nội dung của chuyên đề được trình bày trong 3 chương: Chương 1: Tổng quan về hoạt động môi giới chứng khoán của công ty chứng khoán Chương 2: Thực trạng hiệu quả môi giới chứng khoán của Công ty TNHH Chứng khoán NHNO & PTNT Việt Nam Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả môi giới chứng khoán của Công ty TNHH Chứng khoán NHNO & PTNT Việt Nam Chương 1 TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI CHỨNG KHOÁN CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN 1.1. Khái quát chung về công ty chứng khoán 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của công ty chứng khoán 1.1.1.1. Khái niệm Sau một thời gian dài hình thành và phát triển trong nền kinh tế thị trường giờ đây thị trường chứng khoán ngày càng đóng vai trò quan trọng, trở thành nhân tố không thể thiếu đối với sự phát triển của nền kinh tế hiện đại. Đặc trưng cơ bản của thị trường chứng khoán là hoạt động theo nguyên tắc trung gian. Do vậy, để thị trường chứng khoán hoạt động một cách trật tự, công bằng và hiệu quả cần có sự tham gia của các công ty chứng khoán (CTCK). Công ty chứng khoán là một định chế tài chính trung gian thực hiện các nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán. Các CTCK có hoạt động khác hẳn so với các công ty sản xuất kinh doanh và dịch vụ thương mại thông thường do vậy mô hình tổ chức kinh doanh của các CTCK có thể được khái quát theo hai nhóm: Mô hình CTCK đa năng và Mô hình CTCK chuyên doanh. Mỗi mô hình đều có những ưu, nhược điểm nhất định. Từ những ưu, nhược điểm của hai mô hình CTCK và xuất phát từ yêu cầu phòng ngừa rủi ro, đảm bảo lợi ích cho nhà đầu tư, mô hình CTCK ở Việt Nam là sự kết hợp giữa mô hình CTCK chuyên doanh và CTCK đa năng một phần. Điều này thể hiện trong Quyết định 04/1998/QĐ-UBCK ngày 13 tháng 10 năm 1998 của UBCKNN: CTCK là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn thành lập hợp pháp tại Việt Nam, được UBCKNN cấp giấy phép thực hiện một hoặc một số loại hình kinh doanh chứng khoán. Các tổ chức tín dụng, các công ty bảo hiểm, các tổng công ty muốn tham gia kinh doanh chứng khoán phải thành lập CTCK độc lập. Ngoài ra, các cá nhân, tổ chức có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật có thể thành lập công ty TNHH hay công ty cổ phần để kinh doanh chứng khoán. Là một chế định tài chính trung gian đặc biệt song CTCK cũng là một chủ thể kinh doanh trên thị trường tài chính, CTCK có nhiều điểm tương đồng với các tổ chức tài chính trung gian nói chung. Tuy nhiên, với các hoạt động nghiệp vụ đa dạng và phức tạp của mình, CTCK cũng có những đặc điểm tạo nên sự khác biệt căn bản với các tổ chức khác. 1.1.1.2. Đặc điểm của công ty chứng khoán a. Các CTCK tạo ra cơ chế huy động vốn linh hoạt từ những người có tiền (nhà đầu tư) đến những người muốn huy động vốn thông qua hoạt động bảo lãnh phát hành và môi giới chứng khoán. Các ngân hàng, các CTCK, các quỹ đầu tư đều là các trung gian tài chính với vai trò huy động vốn. Nói cách khác, các tổ chức này có vai trò làm chiếc cầu nối, đồng thời là kênh dẫn cho vốn chảy từ một hay một số bộ phận nào đó của nền kinh tế có dư thừa vốn (vốn tạm thời nhàn rỗi) đến các bộ phận khác đang thiếu vốn (cần huy động vốn). Mặc dù có vai trò giống nhau nhưng cách thức thực hiện của các tổ chức đó lại khác nhau, các ngân hàng thường thực hiện vai trò này thông qua hoạt động nhận tiền gửi và cho vay, các quỹ đầu tư thì phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư, cổ phiếu rồi tiến hành hoạt động đầu tư vào nền kinh tế. Khác với ngân hàng và quỹ đầu tư, các CTCK lại tạo ra cơ chế huy động vốn thông qua hoạt động bảo lãnh phát hành và môi giới chứng khoán. b. Thông qua hệ thống khớp giá hoặc khớp lệnh, CTCK cung cấp cơ chế giá cả cho giao dịch. Ngành công nghiệp chứng khoán nói chung, CTCK nói riêng, thông qua các Sở giao dịch chứng khoán và thị trường OTC, có chức năng cung cấp một cơ chế giá cả nhằm giúp các nhà đầu tư có được sự đánh giá đúng thực tế và chính xác về giá trị khoản đầu tư của mình. Giá cả hay giá trị thị trường của các loại chứng khoán được công bố một cách chính xác, minh bạch nhờ hệ thống khớp giá, khớp lệnh công khai dưới sự trợ giúp của công nghệ thông tin. Các báo cáo tài chính được phát hành từng ngày và thông tin đầy đủ về giá cổ phiếu của các công ty được niêm yết trên thị trường do sở giao dịch chứng khoán công bố. Ngoài ra, các chứng khoán của nhiều công ty lớn không được niêm yết trên Sở giao dịch cũng có thể được công bố trên các tờ báo tài chính. c. Thông qua hoạt động môi giới chứng khoán, CTCK tạo tính thanh khoản cho chứng khoán . Một trong những đặc trưng cơ bản của thị trường chứng khoán là hoạt động theo nguyên tắc trung gian. Theo đó, các CTCK và nhân viên môi giới chứng khoán thực hiện các giao dịch trên thị trường chứng khoán. Mục đích của đầu tư là sinh lời do vậy các nhà đầu tư mong muốn có được khả năng chuyển tiền mặt thành chứng khoán có giá và ngược lại, từ chứng khoán ra tiền mặt một cách dễ dàng đó là sự đảm bảo vững chắc cho một môi trường đầu tư ổn định hay nói cách khác các nhà đầu tư mong muốn tạo ra tính thanh khỏan cao nhất có thể cho chứng khóan mà mình đầu tư. Chính vì vậy các CTCK ra đời đảm nhận chức năng chuyển đổi này, giúp cho nhà đầu tư hạn chế tối đa thiệt hại khi tiến hành đầu tư. d. Thông qua hoạt động tự doanh hoặc vai trò nhà tạo lập thị trường CTCK góp phần điều tiết và bình ổn thị trường. Các CTCK có khả năng can thiệp vào thị trường, góp phần điều tiết giá chứng khoán. Theo quy định, để bình ổn giá cả thị trường các CTCK bắt buộc phải dành ra một tỷ lệ giao dịch nhất định của mình để mua chứng khoán vào khi giá chứng khoán trên thị trường giảm và bán chứng khoán ra khi giá chứng khoán lên cao. 1.1.2. Các hoạt động của CTCK - Hoạt động môi giới chứng khoán: Thị trường chứng khoán ra đời xuất phát từ nhu cầu thực tế của nền kinh tế phát triển song còn mang tính tự phát. Dần dần, cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế, thị trường chứng khoán phát triển ngày càng mạnh cả về số lượng và chất lượng với số thành viên tham gia đông đảo và lượng hàng hoá phong phú, đa dạng ngày một tăng lên. Các phương thức giao dịch đầu tiên được diễn ra ngoài trời với những ký hiệu giao dịch bằng tay và có thư ký nhận lệnh của khách hàng. Từ đó có thể nói môi giới chứng khoán là một trong các hoạt động cơ bản hàng đầu của CTCK, là hoạt động đặc trưng không thể thiếu của bất kì một CTCK. Trong một môi trường tài chính còn thô sơ về mọi phương diện, sự xuất hiện và phát triển của hoạt động môi giới chứng khoán là nhân tố thúc đẩy sự phát triển và hoàn thiện của thị trường chứng khoán nói riêng và thị trường tài chính nói chung. - Hoạt động tự doanh chứng khoán: Bên cạnh việc thực hiện hoạt động môi giới chứng khoán, làm trung gian mua, bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng, CTCK còn tự tiến hành các giao dịch mua, bán chứng khoán cho chính mình tức hoạt động tự doanh chứng khoán. Tự doanh là việc công ty chứng khoán tiến hành các giao dịch mua, bán chứng khoán cho chính mình. Hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán diễn ra dựa trên cơ chế giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán hoặc thị trường OTC. Mục đích chính của hoạt động tự doanh là nhằm thu lợi nhuận cho chính công ty thông qua hoạt động mua bán chứng khoán. Hoạt động tự doanh của CTCK cũng tương tự như hoạt động kinh doanh của các công ty dịch vụ khác trong nền kinh tế. Nghiệp vụ này tiến hành song song với nghiệp vụ môi giới, nghĩa là nhân viên môi giới của công ty vừa phục vụ lệnh giao dịch cho khách hàng vừa phục vụ giao dịch cho chính mình. Để hạn chế những mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa khách hàng và công ty hầu hết ở các nước đều có quy định là khi hai lệnh giao dịch của khách hàng và công ty đến cùng một lúc thì lệnh của khách hàng luôn luôn được ưu tiên thực hiện trước rồi mới đến lệnh của công ty. Trong hoạt động môi giới chứng khoán công ty chủ yếu thu lợi từ phí giao dịch của nhà đầu tư, thì trong hoạt động tự doanh, các CTCK phải sử dụng nguồn vốn của công ty mình để kinh doanh. Vì vậy, hoạt động này đòi hỏi CTCK phải có nguồn vốn lớn và đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn, khả năng phân tích và đưa ra các quyết định đầu tư hợp lý, đặc biệt trong trường hợp CTCK đóng vai trò là các nhà tạo lập thị trường. - Hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán: là việc các công ty chứng khóan đứng ra bảo lãnh phát hành chứng khóan lần đầu hay phát hành thêm của các tổ chức phát hành. Một trong những cơ sở để thị trường chứng khoán có thể phát triển là lượng hàng hoá trên thị trường chứng khoán phải đa dạng, dồi dào, phong phú đồng thời hàng hoá đó phải đến tay nhà đầu tư một cách nhanh nhất, có hiệu quả nhất. Đó cũng chính là tiền đề cho sự xuất hiện của họat động bảo lãnh phát hành Bảo lãnh phát hành chứng khoán là việc mà các CTCK có chức năng bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện chuẩn mực các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán ra công chúng, tổ chức việc phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát hành. Thu nhập của CTCK từ hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán là phí bảo lãnh hoặc một tỷ lệ hoa hồng nhất định trên số tiền thu được từ đợt phát hành chứng khóan. Để có thể tham gia hoạt động bảo lãnh phát hành, CTCK phải có tiềm lực tài chính, có trình độ và kinh nghiệm trong việc xác định giá trị kinh doanh hay thẩm định dự án, cũng như mạng lưới phân phối đủ mạnh để có thể phân phối được hết số chứng khóan mà công ty thực hiện bảo lãnh. Đây cũng là hoạt động đòi hỏi phải có vốn pháp định cao nhất trong các loại hình hoạt động nghiệp vụ mà CTCK thực hiện. Với 3 phương thức bảo lãnh phát hành chứng khóan là bảo lãnh cam kết chắc chắn, bảo lãnh cam kết cố gắng tối đa và bảo lãnh cam kết bán tất cả hoặc không, rủi ro mà CTCK phải gánh chịu trong một đợt phát hành là khác nhau tuỳ thuộc vào phương thức bảo lãnh phát hành và năng lực của chính công ty. - Hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán: Tư vấn đầu tư chứng khoán là việc CTCK thông qua hoạt động phân tích để đưa ra các lời khuyên, phân tích các tình huống và có thể thực hiện một số công việc dịch vụ khác liên quan đến phát hành, đầu tư và cơ cấu tài chính cho khách hàng. Hoạt động này có mối liên hệ chặt chẽ với hoạt động môi giới chứng khoán và hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán. Có thể nói các hoạt động này không thể họat động tách rời nhau. Trong khi tiến hành hoạt động môi giới chứng khoán, nhân viên môi giới có thể tư vấn cho khách hàng về thời gian mua bán, nắm giữ chứng khoán, giá trị của các loại chứng khoán, các diễn biến của thị trường …Đối tượng của hoạt động tư vấn rất rộng, ngoài các nhà đầu tư có tài khoản giao dịch ở công ty còn có thể là nhà phát hành. Hoạt động tư vấn cho nhà phát hành tương đối đa dạng, từ việc phân tích tình hình tài chính đến đánh giá giá trị của doanh nghiệp, tư vấn về loại chứng khoán phát hành hay giúp công ty cơ cấu lại nguồn vốn, thâu tóm hay sáp nhập với các công ty khác. Hoạt động tư vấn phát triển là nhân tố quan trọng thúc đẩy hoạt động môi giới chứng khoán và bảo lãnh phát hành chứng khoán phát triển, là thế mạnh trong cạnh tranh giữa các CTCK. CTCK nào có được thế mạnh này thì doanh thu từ hoạt động môi giới chắc chắn sẽ là một con số khổng lồ. - Hoạt động quản lý danh mục đầu tư: Đây là hoạt động quản lý vốn uỷ thác của khách hàng để đầu tư vào chứng khoán thông qua danh mục đầu tư nhằm sinh lợi cho khách hàng trên cơ sở tăng lợi nhuận và bảo toàn vốn cho khách hàng. Quản lý danh mục đầu tư là một dạng nghiệp vụ tư vấn có tính tổng hợp có kèm theo đầu tư, khách hàng uỷ thác tiền cho công ty chứng khoán thay mặt mình quyết định đầu tư theo chiến lược hay những nguyên tắc đã được khách hàng chấp thuận hoặc yêu cầu.Có thể nêu một số bước mà CTCK phải làm khi thực hiện nghiệp vụ này như sau:Công ty chứng khoán Nhận yêu cầu quản lý Ký hợp đồng quản lý Thực hiện hợp đồng quản lý Thanh lý hợp đồng Khách hàng Trong hoạt động quản lý danh mục đầu tư, CTCK sẽ nhận được phí quản lý bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định trên số lợi nhuận thu về cho khách hàng. Hoạt động này cũng góp phần tăng uy tín và phát triển các hoạt động khác như lưu ký, thanh toán, tư vấn. Ngoài các hoạt động trên, CTCK còn thực hiện các hoạt động khác có tính chất phụ trợ, góp phần thu hút khách hàng, tối đa hoá lợi ích của khách hàng như: + Lưu ký chứng khoán: Là việc lưu giữ chứng khoán của khách hàng thông qua các tài khoản lưu ký chứng khoán. Đây là quy định có tính chất bắt buộc trong giao dịch chứng khoán bởi vì giao dịch chứng khoán trên thị trường tập trung là hình thức giao dịch ghi sổ. Khách hàng phải mở tài khoản lưu ký chứng khoán tại CTCK (nếu chứng khoán phát hành dưới hình thức ghi sổ) hoặc ký gửi các chứng khoán (nếu chứng khoán phát hành dưới hình thức chứng chỉ vất chất). Khi thực hiện dịch vụ lưu ký chứng khoán cho khách hàng, CTCK sẽ thu được các khoản thu phí lưu ký chứng khoán, phí rút và phí chuyển nhượng chứng khoán. Lưu ký chứng khoán có mối quan hệ chặt chẽ, không thể tách rời đối với hoạt động môi giới chứng khoán. + Quản lý thu nhập của khách hàng (quản lý cổ tức): Xuất phát từ việc lưu ký chứng khoán cho nhà đầu tư, CTCK sẽ theo dõi tình hình thu lãi, cổ tức của chứng khoán và đứng ra làm dịch vụ thu nhận và chi trả cổ tức cho khách hàng thông qua tài khoản của khách hàng. + Dịch vụ hỗ trợ tín dụng: Ngoài hoạt động môi giới chứng khoán, CTCK còn triển khai các dịch vụ hỗ trợ tín dụng nhằm tăng khả năng kinh doanh chứng khoán cho nhà đầu tư là khách hàng của CTCK như dịch vụ cho vay cầm cố chứng khoán, dịch vụ cho vay bảo chứng, dịch vụ cho vay chiết khấu chứng khoán… Hoạt động của CTCK có thể do từng bộ phận hoặc các phòng ban độc lập trong CTCK đảm nhận nhưng giữa các hoạt động này luôn có mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ, thống nhất, hỗ trợ nhau cùng phát triển. Một CTCK có thể được phép thực hiện một số hoặc tất cả các hoạt động trên tuỳ thuộc vào quy định của pháp luật và điều kiện kinh doanh của mỗi công ty nhưng đều nhằm mục đích tối đa hoá lợi nhuận, phù hợp với định hướng phát triển của công ty, thoả mãn cao nhất lợi ích cho khách hàng, đồng thời nâng cao chất lượng cho hoạt động chính mà công ty đã xác định. 1.2. Hoạt động môi giới chứng khoán của CTCK 1.2.1.Tính tất yếu khách quan hoạt động môi giới của công ty chứng khoán Thị trường chứng khoán là sản phẩm của nền kinh tế thị trường nhưng là một sản phẩm bậc cao. Nó chỉ hình thành và phát triển khi nền kinh tế thị trường đã phát triển đến trình độ nhất định. Nói như vậy vì thị trường chứng khoán là nơi mua bán một loại hàng hoá đặc biệt đó chính là tài sản tài chính - là loại tài sản mang lại thu nhập thường xuyên cho người sở hữu và có thể bán đi khi chủ sở hữu cần vốn. Các loại hàng hoá trên thị truờng chứng khoán rất đa dạng, được sáng tạo ra để đáp ứng những mục đích của các chủ thể trên thị trường. Có thể nêu ra đây một số hàng hoá cơ bản trên thị trường chứng khoán như: Cổ phiếu là một giấy chứng nhận (hoặc ở dạng ghi sổ) cấp cho cổ đông để chứng nhận số cổ phần mà cổ đông đó đã mua ở một công ty cổ phần, chứng thực về việc đóng góp vào công ty cổ phần đó, đem lại cho người sở hữu nó quyền chiếm hữu một phần lợi nhuận dưới hình thức lãi cổ phiếu (cổ tức) và quyền tham gia quản lý công ty. Khi đầu tư vào cổ phiếu nhà đầu tư có thể thu được lợi nhuận từ hai nguồn là cổ tức và lãi vốn (tức là chênh lệch giữa giá mua và bán cổ phiếu). Hai nguồn lợi tức này lại phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như: tình hình và hoạt động của công ty, tình hình thị trường, tâm lí các nhà đầu tư, bối cảnh kinh tế - xã hội, các chủ trương của nhà nước …Và rất nhiều các yếu tố đan xen ảnh hưởng khác. Trái phiếu cũng là hàng hoá cơ bản trên thị trường chứng khoán, là chứng khoán chứng nhận người sở hữu nó có quyền đòi nợ người phát hành ra nó. Có ba khoản lợi tức tiềm năng mà nhà đầu tư mong đợi khi mua trái phiếu là: khoản lãi định kì mà họ được nhận, chênh lệch giá khi bán lại (lãi vốn) và thứ ba là khoản lợi nhuận tiềm năng khi họ tái đầu tư các khoản thanh toán lãi. Ba nguồn lợi tức trên phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố lãi suất mà điều này lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như: thời hạn trái phiếu, cung cầu thị trường, khả năng thanh toán của nhà phát hành, tâm lý của nhà đầu tư… những yếu tố này lại thay đổi thường xuyên do nhiều yếu tố khác chi phối. Trái phiếu hiện nay cũng phát triển với nhiều đặc tính mới như: trái phiếu có quyền mua lại quy định rằng nhà phát hành có quyền mua lại trái phiếu trước khi đáo hạn hay trái phiếu chuyển đổi nghĩa là sau một khoảng thời gian nhất định thì nhà phát hành có thể mua lại … Khi nền kinh tế thị trường phát triển đến một mức cao hơn sẽ xuất hiện thêm nhiều hàng hoá mới như các công cụ phái sinh (hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn), chứng chỉ quỹ … với nhiều đặc điểm mới và sự biến động phức tạp hơn. Sự đa dạng và phong phú của hàng hoá trên thị trường chứng khoán được thể hiện rõ nét trong những phân tích trên. Đầu tư bản thân nó đã là một sự mạo hiểm nhất là đầu tư trong lĩnh vực kinh tế và điều này càng thể hiện rõ hơn trên thị trường chứng khoán. Để giảm thiểu rủi ro, các nhà đầu tư phải có khả năng phân tích và ra quyết định, không đơn thuần là mua bán cái gì, khi nào, mà còn là nên kết hợp các loại chứng khoán nào với nhau để đạt được tốt nhất mục tiêu của mình. Do đó việc có trình độ và kiến thức nhất định trong lĩnh vực này là yếu tố cần thiết của các nhà đầu tư, bên cạnh đó các nhà đầu tư không thể thiếu yếu tố về bản lĩnh và thời gian cũng như công sức và tiền bạc để tiến hành tìm kiếm, thu thập, phân tích thông tin từ đó ra các quyết định thích hợp. Các nhà đầu tư còn cần phải nắm được các thủ tục giao dịch, phải tự theo dõi tài khoản của mình …Với những yêu cầu đó chắc chắn không có nhiều nhà đầu tư có thể tham gia thị trường chứng khoán. Đó chính là tiền đề và điều kiện để hoạt động môi giới chứng khoán ra đời. Với những lợi thế về nghiệp vụ chuyên môn, về tiếp cận các nguồn thông tin …thì những nhân viên môi giới có thể cung cấp cho các nhà đầu tư những thông tin cần thiết, những ý tưởng đầu tư, những lời khuyên bổ ích và giúp cho người đầu tư thực hiện các giao dịch của mình theo cách có lợi nhất. Nghề môi giới chứng khoán mới ra đời chủ yếu tồn tại dưới hình thức là các nhà môi giới cá nhân. Lúc đó, thị trường mới hình thành và hoạt động, còn sơ khai và ở dạng thị trường tự do. Các nhà đầu tư mua bán tiếp xúc trực tiếp với nhau qua một nhà môi giới cá nhân nào đó. Khi thị truờng phát triển lên, hình thành các Sở giao dịch, hàng hoá phong phú hơn, không gian mở rộng hơn thì hoạt động môi giới cá nhân không thể tiếp tục đáp ứng được nhu cầu thị trường. Điều này là tiền đề cho các công ty môi giới ra đời. Hoạt động của các nhà môi giới cá nhân không còn đáng kể và chỉ tồn tại ở thị trường tự do. Thị trường chứng khoán trong nền kinh tế thị trường đã thực sự trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn chủ yếu đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, vấn đề thị trường hoạt động an toàn, ổn định và hiệu quả càng được đặt ra bức thiết. Nó chỉ giữ được lòng tin của các nhà đầu tư khi hoạt động liên tục, công bằng và công khai, giá cả thực sự được quyết định bởi quy luật cung cầu. Điều này đòi hỏi thị trường phải được tổ chức và vận hành một cách khoa học. Một trong nhiều quy định để đảm bảo điều này là các lệnh giao dịch trên thị trường phải được tập trung tại các đầu mối là các thành viên thị trường, không ai khác là các công ty chứng khoán, từ đó tạo thuận lợi cho cơ quan quản lý trong việc kiểm soát thị trường. Điều này khẳng định tính tất yếu khách quan cho hoạt động môi giới của công ty chứng khoán 1.2.2. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động môi giới chứng khoán Môi giới chứng khoán là một hoạt động trung gian hoặc đại diện mua, bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Công ty chứng khoán đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán hoặc tại thị trường OTC mà khách hàng phải là người chịu trách nhiệm đối với kết quả giao dịch của mình. Môi giới chứng khoán là một trong những hoạt động đặc trưng và cơ bản của thị trường chứng khoán. Trên thực tế, hoạt động môi giới đã xuất hiện ở rất nhiều lĩnh vực trong hoạt động kinh tế, mà không phải chỉ trên thị trường chứng khoán mới có hoạt động môi giới. Hoạt động môi giới đã tồn tại từ rất lâu cùng với sự phát triển của xã hội con người nói chung và của nền kinh tế hàng hoá nói riêng. Bằng cách rút ngắn khoảng thời gian gặp gỡ giữa người mua và người bán, tiết kiệm chi phí giao dịch, nhất là đối với những hàng hoá mà người mua và người bán không dễ gặp được nhau, hoạt động môi giới trở thành khâu trung gian quan trọng thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hoá. Tuy nhiên, hoạt động môi giới chứng khoán trên thị trường chứng khoán không chỉ đơn thuần là hoạt động trung gian đưa sản phẩm, dịch vụ từ người bán đến người mua. Những đặc trưng riêng của một thị trường cao cấp, những sản phẩm và dịch vụ tài chính đa dạng và phức tạp đã tạo nên những đặc điểm nhất định mà chỉ hoạt động môi giới chứng khoán mới có : - Môi giới chứng khoán là sản phẩm của một thị trường cao cấp: Đỉnh cao của nền kinh tế thị trường là sự hình thành và phát triển của thị trường tài chính. Trên thị trường này, người ta mua bán các công cụ tài chính. Đó là các loại hàng hoá đặc biệt mà người mua không thể tự mình đánh giá trực tiếp chất lượng của chúng bằng giác quan như các loại hàng hoá thông thường khác. Chứng khoán là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận các quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu chứng khoán đối với tài sản hoặc vốn của tổ chức phát hành. Thu nhập mà chứng khoán mang lại cho nhà đầu tư phụ thuộc chủ yếu vào tình hình tài chính của tổ chức phát hành ra chứng khoán đó và diễn biến phức tạp của thị trường chứng khoán. Do vậy, để đánh giá được chất lượng của chứng khoán hay là khả năng đem lại nguồn lợi tài chính từ chứng khoán, cần phải có một hệ thống thu thập và xử lý thông tin cũng như những kỹ năng cần thiết để thực hiện việc đó, điều mà không phải nhà đầu tư nào cũng có thể có được. Họ phải tìm đến những chuyên gia trong lĩnh vực này, những người được trang bị đầy đủ công cụ, kỹ năng và kiến thức để phân tích, đánh giá các sản phẩm tài chính, từ đó cung cấp những ý kiến tư vấn cho khách hàng. Người bán chứng khoán cũng phải tìm đến những nhà môi giới chứng khoán để có thể bán được chứng khoán của mình một cách thuận lợi cũng như có được những lời tư vấn về thời điểm tốt nhất để bán hay ra giá bán thích hợp với chứng khoán của mình … Mặt khác, để thị trường chứng khoán có thể hoạt động lành mạnh, hiệu quả, có trật tự thì các lệnh giao dịch mua bán chứng khoán phải được tập trung vào các đầu mối lớn là các CTCK mà đại diện là nhân viên môi giới chứng khoán tại sàn giao dịch. Như vậy, môi giới chứng khoán trở thành hoạt động không thể thiếu, thành đặc trưng của thị trường chứng khoán, một thị trường cao cấp. - Môi giới chứng khoán là hoạt động khá an toàn và có thu nhập tương đối ổn định. Với hoạt động này, CTCK chỉ đóng vai trò là nhà trung gian đại diện mua bán chứng khoán cho khách hàng mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm về kết quả giao dịch của mình. Những lời khuyên, lời tư vấn của nhân viên môi giới chứng khoán chỉ dựa trên cơ sở phân tích các yếu tố lý thuyết và những diễn biến đã xảy ra trong quá khứ, nên nó có thể không hoàn toàn chính xác và khách hàng là người sẽ đưa ra quyết định cuối cùng. Nhà tư vấn cũng như CTCK không phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại kinh tế do lời tư vấn đưa ra. Nói như vậy không có nghĩa là các nhân viên môi giới sẽ tư vấn cho nhà đầu tư bất chấp kết quả giao dịch mà những gì họ đưa ra chỉ mang tính chất tham khảo mà thôi. Là trung gian đại diện mua bán chứng khoán cho khách hàng, CTCK được hưởng một tỷ lệ phần trăm hoa hồng tính trên tổng giá trị giao dịch (còn gọi là phí môi giới). Hoa hồng này sau khi trừ đi các chi phí sẽ trở thành thu nhập của CTCK. Sau khi thực hiện các giao dịch cho khách hàng, khách hàng dù có thu được lợi nhuận hay không thì CTCK cũng luôn thu được phí môi giới. Do vậy các nhà môi giới chứng khoán phải đặt vấn đề đạo đức và uy tín nghề nghiệp lên trên tránh xúi giục khách hàng mua, bán chứng khoán để kiếm hoa hồng mà phải đưa ra những lời khuyên, lời tư vấn hợp lý nhằm hạn chế đến mức thấp nhất về thiệt hại cũng như tối đa hoá lợi nhuận cho khách hàng của mình. - Hoạt động môi giới chứng khoán là một bộ phận gắn liền với các hoạt động trong CTCK nhưng có tính độc lập tương đối với các hoạt động khác và có tác động thúc đẩy các hoạt động khác phát triển. Nhân viên môi giới chứng khoán bằng sự thành thạo, khéo léo, nhanh nhẹn của mình góp phần tạo nên thành công của hoạt động môi giới chứng khoán, đồng thời có quan hệ mật thiết với đội ngũ Marketing trong công ty. Trong quá trình tư vấn cho khách hàng, nhân viên môi giới còn có thể giới thiệu với khách hàng các dịch vụ khác của công ty cũng như tư vấn cho khách hàng sử dụng các dịch vụ mà công ty cung cấp một cách hợp lý. Đó cũng là nhân tố quan trọng tạo nên hình ảnh và uy tín của công ty, tạo điều kiện cho sự phát triển của các hoạt động khác trong CTCK. 1.2.3. Quy trình thực hiện hoạt động môi giới của công ty chứng khoán Quy trình thực hiện hoạt động môi giới chứng khoán của CTCK trên Sở giao dịch bao gồm các bước sau: Bước 1: Mở tài khoản giao dịch cho khách hàng Để mua bán chứng khoán khách hàng phải thông qua một CTCK việc mở tài khoản giao dịch tại công ty đó là yêu cầu bắt buộc. Nhân viên giao dịch của công ty sẽ hướng dẫn khách hàng làm các thủ tục mở tài khoản, điền thông tin vào “tờ khai mở tài khoản” bao gồm các thông tin theo luật định và các thông tin công ty yêu cầu (nếu cần). Bộ phận quản lý khách hàng của công ty có nhiệm vụ kiểm tra tính xác thực của thông tin, đồng thời trong quá trình hoạt động của tài khoản, những thay đổi trong thông tin cũng được cập nhật và thay đổi nếu như khách hàng có yêu cầu. Sau khi mở tài khoản xong, CTCK sẽ cung cấp cho khách hàng một mã số tài khoản và mã truy nhập vào tài khoản để kiểm tra tài khoản của mình sau mỗi lần giao dịch. Bước 2: Nhận lệnh giao dịch từ khách hàng Với mỗi lần giao dịch, khách hàng phải ghi phiếu lệnh theo mẫu in sẵn. Lệnh giao dịch phải bao gồm đầy đủ các nội dung quy định do khách hàng điền như tên chủ tài khỏan, số chứng minh thư, sô hiệu tài khoản.... Đó là những điều kiện đảm bảo an toàn cho tài khoản của khách hàng, CTCK cũng sẽ tạo điều kiện cho khách hàng yên tâm khi ghi phiếu lệnh. Việc ra lệnh có thể theo hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp qua điện thoại, internet, fax, hệ thống máy tính điện tử …tuỳ thuộc vào sự phát triển của thị trường. Phiếu lệnh mua và lệnh bán thường được in bằng hai màu mực khác nhau để dễ phân biệt. Trên phiếu lệnh thường bao gồm các nội dung chủ yếu như: Phiếu lệnh Mua (buy) hay Bán (sell), đều có các thông tin về khách hàng như: Họ và tên, mã số tài khoản, số chứng minh nhân dân, số hộ chiếu … Loại chứng khoán được mua hay bán (ghi mã chứng khoán đang được niêm yết trên SGDCK); Khối lượng; Giá; Loại lệnh và định chuẩn lệnh; Số hiệu lệnh ban đầu; Thời gian nhận lệnh; Đợt giao dịch; Ngày giao dịch; Ký tên khách hàng; Ký tên nhân viên nhận lệnh và kiểm soát; Ký tên trưởng phòng giao dịch. Khi nhận được lệnh, nhân viên môi giới phải kiểm tra tính chính xác và tính khả thi của các thông số trên lệnh. Nếu là lệnh mua, nhân viên môi giới phải kiểm tra số tiền trên tài khoản của khách hàng, nếu là lệnh bán, nhân viên mô giới phải kiểm tra số chứng khoán hiện có của khách hàng để đảm bảo rằng các giao dịch sẽ được thực hiện không vi phạm quy định của cơ quan quản lý. Bước 3: Chuyển phiếu lệnh đến phòng giao dịch CTCK Phòng giao dịch có trách nhiệm kiểm tra các thông số trên phiếu lệnh, nếu thấy hợp lý thì chuyển lệnh đó đến người môi giới tại SGDCK và ghi thời gian c._.huyển lệnh vào phiếu lệnh. Bước 4: Chuyển lệnh đến người môi giới tại SGDCK Phiếu lệnh được chuyển tới nhà môi giới tại Sàn giao dịch, nội dung bao gồm các thông số: Mua/bán chứng khoán; loại chứng khoán; số lượng; loại lệnh và định chuẩn lệnh; số hiệu lệnh; thời gian; mã số tài khoản của khách hàng. Bước 5: Chuyển lệnh đến bộ phận khớp lệnh Trên Sàn giao dịch, nhà môi giới tại Sàn sau khi nhận được lệnh từ CTCK phải chuyển lệnh tới bộ phận nhận lệnh và khớp lệnh của SGDCK để tham gia đấu giá. Lệnh chuyển ngoài các thông số bắt buộc như bước 4 còn có mã số (số hiệu) nhà môi giới tại Sàn. Bước 6: Khớp lệnh và thông báo kết quả giao dịch Đến giờ ra giá chốt giao dịch, SGDCK sẽ thông báo kết quả giao dịch của từng loại chứng khoán niêm yết trên SGDCK. Đồng thời kết quả giao dịch sẽ được chuyển đến trung tâm lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán cũng như tại các CTCK thành viên thông qua bảng giá trực tuyến đều có ở các công ty chứng khóan. Bước 7: Báo kết quả giao dịch về CTCK Nhà môi giới tại Sàn sau khi có được kết quả giao dịch sẽ báo về cho Phòng giao dịch của CTCK với các nội dung chính gồm: số hiệu nhà môi giới tại Sàn; Số hiệu lệnh; Đã mua /bán; Mã chứng khoán; Số lượng; Giá; Thời gian. Phòng giao dịch sẽ ghi vào phiếu lệnh của những khách hàng có giao dịch ở phần kết quả giao dịch nội dung: số lượng, giá cả và thời gian. Bước 8: Xác nhận giao dịch và làm thủ tục thanh toán Phòng giao dịch sẽ chuyển các phiếu lệnh đã thực hiện giao dịch đến Phòng thanh toán (thường là bộ phận Kế toán). Cuối buổi giao dịch, Phòng thanh toán căn cứ vào các kết quả giao dịch lập báo cáo kết quả giao dịch và chuyển kết quả đó đến trung tâm lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán để tiến hành quá trình thanh toán. Đồng thời, sau khi có kết quả giao dịch, CTCK gửi cho khách hàng một phiếu xác nhận đã thi hành xong lệnh. Xác nhận này có vai trò như một hoá đơn hẹn ngày thanh toán với khách hàng. Bước 9: Thanh toán và hoàn tất giao dịch Trung tâm lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán tiến hành so khớp kết quả giao dịch do SGDCK cung cấp và báo cáo kết quả giao dịch của các CTCK để tiến hành thanh toán bù trừ. Trong thời gian T +3 ngày, trung tâm lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán sẽ thực hiện việc chuyển quyền sở hữu chứng khoán từ người bán sang người mua và các Ngân hàng chỉ định thanh toán sẽ tiến hành thanh toán bù trừ tiền từ người mua sang người bán thông qua hệ thống tài khoản của các CTCK tại ngân hàng. Việc bù trừ các kết quả giao dịch sẽ kết thúc bằng việc in ra các chứng từ thanh toán. Các chứng từ này được gửi cho các CTCK và là cơ sở để thực hiện thanh toán và giao nhận giữa các CTCK. Do đặc điểm là trong giao dịch chứng khoán, các chứng khoán được lưu ký 2 cấp. Tức là các khách hàng có chứng khoán sẽ lưu ký chứng khoán tại CTCK hoặc NHTM được phép thực hiện nghiệp vụ lưu ký, sau đó các CTCK sẽ tái lưu ký số chứng khoán trên vào trung tâm lưu ký và thanh toán bù trừ số chứng khoán của SGDCK. Vì vậy, sau khi các CTCK hoàn tất các thủ tục thanh toán bù trừ tại SGDCK, CTCK sẽ thanh toán tiền và chứng khoán cho khách hàng thông qua tài khoản mà khách hàng mở tại CTCK. 1.2.4. Vai trò và chức năng của hoạt động môi giới chứng khoán • Chức năng: - Cung cấp thông tin và tư vấn cho khách hàng Các bản báo cáo nghiên cứu và những khuyến nghị đầu tư được công ty chứng khoán thông qua các nhân viên môi giới cung cấp cho khách hàng. Nguồn quan trọng nhất của các báo cáo nghiên cứu này là từ bộ phận nghiên cứu trong công ty.Việc thu thập và xử lý thông tin đòi hỏi khoản đầu tư lớn cho hệ thống thiết bị và nhân lực mà chỉ có công ty mới có đủ khả năng tài chính để trang trải. Hàng tuần, bộ phận nghiên cứu của các công ty môi giới cung cấp cho các nhà môi giới một khối lượng thông tin nghiên cứu lớn là kết quả tổng hợp và phân tích của công ty, kèm theo đó là những khuyến nghị cụ thể các loại chứng khoán cần mua bán. Nhân viên môi giới sẽ sử dụng những thông tin này để cung cấp và tư vấn cho khách hàng của mình theo những yêu cầu cụ thể của khách hàng. Hàng ngày, người môi giới tiếp cận với mạng thông tin cung cấp các tin tức tài chính liên tục được cập nhật về lãi suất, tin kinh tế và thông tin thị trường. Họ có thể là những người luôn nhận được thông tin mới nhất về cổ phiếu của khách hàng. Nhờ nguồn thông tin được thu thập và xử lý này, người môi giới có đủ tri thức để trở thành nhà tư vấn tài chính riêng của khách hàng. Ngoài việc đề xuất với khách hàng những chứng khoán và dịch vụ đơn thuần, người môi giới có thể giới thiệu với khách hàng những chứng khoán mới phát hành và những công cụ đầu tư khác. - Cung cấp các dịch vụ tài chính, giúp khách hàng thực hiện giao dịch theo yêu cầu và vì lợi ích của họ. Khách hàng gửi tới người môi giới các đơn đặt hàng và thông qua họ thực hiện giao dịch. Quá trình này là một chuỗi các công việc: hướng dẫn khách hàng mở tài khoản tại công ty, tiến hành giao dịch, xác nhận giao dịch, thanh toán và chuyển kết quả giao dịch cho khách hàng. Không chỉ có vậy, sau khi giao dịch được thực hiện, người môi giới còn phải tiếp tục chăm sóc tài khoản của khách hàng, tiếp tục đưa ra những khuyến cáo và cung cấp thông tin… Tuỳ theo sự phát triển của thị trường mà hai chức năng trên được triển khai hoạt động theo các mức độ khác nhau như hàng hoá trên thị trường có đa dạng phong phú không, chủ yếu là nhà đầu tư lớn có tổ chức hay là các nhà đầu tư cá nhân, thói quen đầu tư và sử dụng các dịch vụ tài chính. Đối với các thị trường còn kém phát triển, nhà đầu tư ít, hàng hóa đơn giản thì nhu cầu về tư vấn sẽ không lớn. Ngược lại, ở những thị trường phát triển thì những dich vụ đầy đủ sẽ được ưa chuộng hơn. • Vai trò• - Giảm chi phí giao dịch: Thị trường chứng khoán cũng như bất cứ thị trường nào khác, việc giao dịch chỉ được tiến hàng khi người bán và người mua có cơ hội để gặp nhau, thẩm định chất lượng hàng hoá và thoả thuận giá cả. Tuy nhiên trên thị trường chứng khoán, để thẩm định chất lượng và giá cả hàng hoá, người ta cần một khoản chi phí lớn để phục vụ cho việc thu thập, xử lý thông tin, kỹ năng phân tích và tiến hành giao dịch trên hệ thông thị trường đấu giá tập trung. Những chi phí đó chỉ có các công ty chứng khoán hoạt động chuyên nghiệp trên quy mô lớn mới có khả năng trang trải và hưởng lợi ích kinh tế nhờ quy mô lớn. Mặt khác với hoạt động của mình làm cầu nối cho các bên mua bán gặp nhau sẽ giảm đáng kể chi phí tìm kiếm đối tác, chi phí soạn thảo và giám sát thực thi hợp đồng. - Phát triển các dịch vụ trên thị trường: Công ty chứng khoán và các nhân viên môi giới thông qua hoạt động cuả mình sẽ hiểu rõ và nắm bắt được nhu cầu của khách hàng, trên cơ sở những thông tin thu thập đó mà xây dựng nên những dịch vụ đáp ứng tốt nhất các nhu cầu của khách hàng. Qua đó sẽ làm tăng tính đa dạng của dịch vụ, thu hút được nhiều khách hàng hơn. - Góp phần hình thành nền văn hoá đầu tư: Các CTCK kết hợp với nhân viên môi giới tạo ra sự chuyên nghiệp cho thị trường chứng khoán trở thành nền văn hoá đầu tư và xây dựng được lòng tin của các nhà đầu tư. Ở những nền kinh tế mà môi trường đầu tư còn thô sơ thì thu nhập của gia đình sau khi đã trang trải cho những nhu cầu cơ bản của cuộc sống thường được chi tiêu cho những mục đích phi sản xuất khá cao trong khi đó vốn cho đầu tư phát triển lại thiếu trầm trọng. Khi nhân viên môi giới tiếp cận với khách hàng tiềm năng, họ mang theo những sản phẩm tài chính phù hợp với nhu cầu của khách hàng, đồng thời giải thích về những lợi ích mà sản phẩm này đem lại. Công ty và nhân viên môi giới sẽ cố gắng để thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng khi họ chấp nhận sử dụng dịch vụ của công ty, đem lại lợi ích cao nhất có thể cho khách hàng. Hoạt động này lâu ngày sẽ hình thành thói quen đầu tư vào các tài sản tài chính thay vì sử dụng tiền dư thừa một cách không kinh tế và thiếu hiệu quả. Cao hơn nữa, qua quá trình tham gia vào thị trường tài chính, họ hình thành kỹ năng dự đoán, lựa chọn và phối hợp các sản phẩm với nhau để giảm thiểu rủi ro và tối đa hoá lợi nhuận. Khi đã thành nếp suy nghĩ và hành động của cả cộng đồng, đây sẽ là khía cạnh quan trọng của nền văn hoá đầu tư. Theo thời gian, người đầu tư sẽ dần hình thành được sự tin cậy và uỷ thác cho người môi giới. Người đầu tư biết được những lợi ích mà dịch vụ này mang lại và chấp nhận trả tiền để được sử dụng dịch vụ đó. Không những thế, người đầu tư còn biết lựa chọn những người môi giới phù hợp với mình, biết phòng ngừa và phát hiện những hành vi lạm dụng của người môi giới và khi cần có thể từ bỏ người này để đến với người môi giới khác hoặc công ty khác. Hơn nữa, khi người đầu tư am hiểu họ biết được những thua lỗ nếu gặp phải là không tránh khỏi hay là thuộc trách nhiệm bản thân họ chứ không đổ hết mọi trách nhiệm cho người môi giới. Yếu tố này tạo điều kiện cho hoạt động môi giới phát triển lành mạnh. Hoạt động của công ty và nhân viên môi giới góp phần hoàn thiện môi trường pháp lý cho kinh doanh chứng khoán, bởi chính nghiệp vụ môi giới sẽ là nơi phát sinh và bộc lộ rõ những xung đột lợi ích giữa các đối tượng tham gia thị trường. Nếu môi trường pháp lý không đủ chặt chẽ thì những mâu thuẫn phát sinh sẽ tác động không tốt đến hoạt động của thị trường. Môi giới còn đưa pháp luật đến với người đầu tư, giúp họ nắm, hiểu và tuân thủ pháp luật đồng thời cũng phản ánh những bất cập của luật pháp để các cơ quan có thẩm quyền xem xét. 1.3. Hiệu quả môi giới chứng khoán 1.3.1. Hiệu quả môi giới chứng khoán “Hiệu quả” là thuật ngữ được dùng để đánh giá một trạng thái kinh tế của một chủ thể nhất định. Sau đây chúng ta sẽ cùng xem xét thế nào được coi là một nền kinh tế hiệu quả và các yếu tố cấu thành nên hiệu quả đó. Chúng ta đều biết là hiện nay khi nói đến hiệu quả, các nhà kinh tế thường nhắc đến hiệu quả pareto, mang tên nhà kinh tế xã hội học người Italia Vifredo Pareto. “Một sự phân bổ nguồn lực được gọi là đạt hiệu quả Pareto nếu như không có cách nào phân bổ lại các nguồn lực để làm cho ít nhất một người được lợi hơn mà không phải làm thiết hại đến bất kỳ ai khác”. Khái niệm Hiệu quả Pareto được dùng trong kinh tế như một tiêu chuẩn để đánh giá mức độ phân bổ nguồn lực theo các cách phân bổ khác nhau. Nếu như sự phân bổ chưa đạt hiệu quả Pareto có nghĩa là vẫn còn sự “lãng phí”. Trong nền kinh tế, Hiệu quả Pareto có ý nghĩa tương tự như mục tiêu lợi nhuận tối đa dựa trên cơ sở sử dụng hợp lý, không lãng phí các nguồn lực cho trước trong kinh doanh. Hiệu quả Pareto là trạng thái mà nền kinh tế không thể tốt hơn . Nói một cách khác, nếu một nền kinh tế chưa sản xuất hàng hoá và dịch vụ tại mức tối đa có thể từ những nguồn lực hữu hạn của nó, nó chưa đạt hiệu quả Pareto. Theo cách hiểu trên thì Hiệu quả trong nền kinh tế biểu hiện mối quan hệ giữa các đầu vào nhân tố khan hiếm với sản lượng và chất lượng của hàng hoá và dịch vụ đầu ra. Khái niệm Hiệu quả được dùng làm tiêu chuẩn để đánh giá xem chủ thể kinh tế được nghiên cứu phân bổ nguồn lực sẵn có của mình tốt đến như thế nào. Từ đó có thể hiểu Hiệu quả môi giới chứng khoán của CTCK là một thuật ngữ kinh tế biểu hiện mối quan hệ giữa đầu vào là các nguồn lực cho trước như: nguồn vốn kinh doanh, cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn nhân lực …của CTCK với chất lượng của dịch vụ đầu ra bao gồm các hoạt động môi giới chứng khoán cho khách hàng. Hiệu quả môi giới chứng khoán được sử dụng làm tiêu chuẩn để đánh giá xem CTCK đã phân bổ các nguồn lực hữu hạn cho trước của Công ty tốt đến mức như thế nào. 1.3.2. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động môi giới chứng khoán Thông qua các Báo cáo tài chính của công ty như Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh, Báo cáo luân chuyển tiền tệ, Báo cáo thường niên …có thể đánh giá một cách chính xác, đúng đắn về hiệu quả môi giới chứng khoán của một CTCK cũng như có thể thấy được hiệu quả hoạt động và tiềm năng phát triển của công ty. Do đặc thù của ngành kinh doanh chứng khoán, các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả môi giới chứng khoán cũng có sự khác biệt với các ngành sản xuất kinh doanh khác và có thể được phản ánh qua các chỉ tiêu định lượng và chỉ tiêu định tính như: * Doanh thu môi giới chứng khoán cho nhà đầu tư: Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian đại diện mua bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng, doanh thu môi giới chứng khoán cho nhà đầu tư của CTCK là toàn bộ số tiền hoa hồng môi giới mà công ty thu được. Có thể nói, doanh thu môi giới chứng khoán chính là tổng phí môi giới thực thu của CTCK từ hoạt động môi giới chứng khoán cho khách hàng. Tổng giá trị chứng khoán giao dịch của khách hàng được thể hiện thông qua số tiền hoa hồng từ hoạt động môi giới chứng khoán (phí môi giới chứng khoán) vì số tiền đó được tính trên tổng giá trị giao dịch chứng khoán của khách hàng. Doanh thu môi giới chứng khoán của CTCK phụ thuộc vào số lần giao dịch của khách hàng nếu khách hàng giao dịch nhiều thì doanh thu sẽ tăng lên. Ngược lại, khi khách hàng giao dịch ít đi hoặc không giao dịch thì doanh thu môi giới chứng khoán của CTCK cũng giảm xuống. Như vậy, doanh thu môi giới chứng khoán cho nhà đầu tư phản ánh hiệu quả môi giới chứng khoán của CTCK. Một CTCK có doanh thu môi giới chứng khoán cho nhà đầu tư cao, ổn định (so sánh với các CTCK khác trên thị trường) và tăng đều qua các năm thì công ty đó có thể được coi là công ty có hiệu quả môi giới cao. Đây là một trong những cơ sở để tiến hành phát triển và mở rộng hoạt động môi giới chứng khoán của công ty. Tổng doanh thu của CTCK bao gồm các khoản thu từ Doanh thu hoạt động kinh doanh chứng khoán và Thu lãi đầu tư, trong đó Doanh thu từ hoạt động kinh doanh chứng khoán là tổng của: - Doanh thu môi giới chứng khoán cho nhà đầu tư - Doanh thu hoạt động tự doanh chứng khoán của công ty - Doanh thu quản lý danh mục đầu tư do khách hàng ủy thác đầu tư - Doanh thu bảo lãnh phát hành, đại lý phát hành chứng khoán - Doanh thu tư vấn chứng khoán cho nhà đầu tư - Doanh thu lưu ký chứng khoán cho nhà đầu tư - Hoàn nhập dự phòng các khoản trích trước - Doanh thu về vốn kinh doanh - Doanh thu cho thuê tài sản, thiết bị, thông tin... Chỉ tiêu Cho biết đóng góp của hoạt động môi giới vào tổng doanh thu của công ty. Khi doanh thu từ môi giới chứng khoán tăng thì giá trị của chỉ tiêu trên cũng tăng lên, qua đó phản ánh hiệu quả môi giới chứng khoán được nâng cao và ngược lại. * Số lượng tài khoản giao dịch chứng khoán nhà đầu tư mở tại công ty: Khi khách hàng muốn mua hoặc bán chứng khoán thông qua CTCK nào thì khách hàng đó phải mở tài khoản giao dịch chứng khoán tại CTCK đó. Số khách hàng của một CTCK biểu hiện qua số lượng tài khoản giao dịch chứng khoán được mở tại công ty. Những công ty chứng khoán có lượng khách hàng đến giao dịch lớn thì tất nhiên sẽ có hiệu quả môi giới chứng khoán cao. Khi khách hàng đã hòan toàn tin tưởng vào công ty, vào đội ngũ nhân viên môi giới của công ty họ sẽ tiếp tục tiến hành các giao dịch của mình tại công ty. Một khách hàng hài lòng với dịch vụ của công ty họ sẽ là một nhà marketing tích cực và hiệu quả nhất. Không chỉ giữ được khách hàng hiện có, CTCK còn thu hút thêm nhiều khách hàng mới nhờ uy tín của công ty và sự giới thiệu của khách hàng hiện có với các nhầ đầu tư khác. Như vậy, số lượng tài khoản giao dịch chứng khoán nhà đầu tư mở tại CTCK sẽ phản ánh quy mô khách hàng tại công ty, đồng thời nói lên hiệu quả môi giới chứng khoán của công ty đó. * Thị phần của CTCK Thị phần của một doanh nghiệp cho ta biết tỷ trọng của doanh nghiệp đó trong tổng mức tiêu thụ hay sản lượng của một thị trường. Đối với một CTCK, tỷ trọng về doanh thu hay số lượng tài khoản giao dịch mà công ty đạt được trong tổng doanh thu hay tổng số tài khoản giao dịch tính trên toàn giao dịch thị trường đựơc gọi là thị phần của CTCK. Đây là một chỉ tiêu có ý nghĩa hết sức quan trọng để đánh giá hiệu quả môi giới của một CTCK. Nó thể hiện sự tin cậy của nhà đầu tư đối với công ty trong hoạt động môi giới tốt đến đâu. * Tiền gửi của nhà đầu tư về giao dịch chứng khoán Để tài khoản của khách hàng có thể giao dịch được thì khách hàng phải có đủ một số dư tiền nhất định trong tài khoản để tiến hành mua chứng khoán. Khi đó khách hàng có thể thông qua CTCK để thực hiện giao dịch. Số lượng tài khoản mà nhà đầu tư mở tại CTCK để giao dịch là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả môi giới chứng khoán. Tuy nhiên, có nhiều nhà đầu tư mở tài khoản mà không có đủ số dư tiền nhất định để thực hiện giao dịch mua chứng khoán hoặc có những nhà đầu tư đã thôi không giao dịch tại công ty mà không đóng tài khoản. Do vậy nếu chỉ thông qua chỉ tiêu về số lượng tài khoản mà khách hàng mở tại công ty thì cũng không thể nói lên tính chính xác cao nhất về kết quả hoạt động môi giới. Chỉ tiêu tiền gửi của nhà đầu tư về giao dịch chứng khoán là một chỉ tiêu bổ sung, được tính cùng với các chỉ tiêu khác để đánh giá hiệu quả môi giới chứng khoán. * Giá trị khối lượng giao dịch chứng khoán thực hiện trong năm Một số nhà đầu tư mở tài khoản giao dịch chứng khoán tại CTCK nhưng không tiến hàng giao dịch nên hiệu quả môi giới chứng khoán của CTCK chỉ được xem là cao khi khối lượng chứng khoán được mua đi bán lại qua công ty cao. Giá trị khối lượng chứng khoán mà CTCK làm trung gian đại diện mua, bán cho khách hàng được thể hiện thông qua chỉ tiêu này. Nếu khách hàng giao dịch nhiều tại công ty, giá trị khối lượng chứng khoán giao dịch sẽ tăng lên và ngược lại. CTCK thu được phí môi giới tính trên giá trị chứng khoán giao dịch của khách hàng. Khi khách hàng giao dịch nhiều, giá trị chứng khoán giao dịch tăng, phí môi giới mà công ty thu được cũng tăng. Đây cũng là một cơ sở để đánh giá hiệu quả môi giới chứng khoán của một CTCK. Những phân tích trên cho thấy, môi giới chứng khoán đóng vai trò quan trọng, song độ rủi ro thấp và đem lại nguồn thu tương đối ổn định cho CTCK khi hoạt động này được tổ chức hợp lý, khoa học. Điều đó đòi hỏi CTCK phải có đội ngũ nhân viên môi giới đủ lớn để có thể cung cấp dịch vụ, tìm kiếm khách hàng và giúp khách hàng tham gia vào các hoạt động trên thị trường chứng khoán một cách hiệu quả. Một CTCK có đội ngũ nhân viên môi giới thiếu về số lượng, yếu về chất lượng thì rất khó có thể bảo toàn vốn cho khách hàng do không thể có những lời tư vấn giúp khách hàng lựa chọn được chứng khóan nên đầu tư, nên rất khó trong việc tăng khả năng sinh lời cho khách hàng. Muốn đạt được hiệu quả cao trong hoạt động môi giới thì đội ngũ nhân viên môi giới của CTCK phải được đảm bảo cả về số lượng lẫn trình độ chuyên môn, phẩm chất đạo đức và kinh nghiệm công tác. Chúng ta cũng có thể đánh giá hiệu quả môi giới chứng khoán thông qua chỉ tiêu về trình độ chuyên môn, số năm công tác của nhân viên môi giới, đặc biệt là qua dịch vụ tư vấn cho khách hàng. Hiệu quả môi giới chứng khoán không chỉ được phản ánh qua các chỉ tiêu như số lượng khách hàng hay doanh thu của công ty mà còn đựơc đánh giá thông qua chỉ tiêu về chất lượng dịch vụ như: * Sự hài lòng của khách hàng về chất lượng môi giới chứng khoán của CTCK Đây là chỉ tiêu không thể thống kê hay tính toán bằng các thông số nhưng lại là chỉ tiêu có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá hiệu quả môi giới chứng khoán của CTCK. Nếu khách hàng hài lòng về chất lượng môi giới chứng khoán của công ty thì hoạt động môi giới chứng khoán có thể coi là có hiệu quả. Đó là khi nhân viên môi giới trong công ty cung cấp được cho khách hàng những thông tin hữu ích, có giá trị trong việc ra quyết định mua bán chứng khoán của khách hàng, khi nhân viên môi giới thực sự chiếm được lòng tin của khách hàng, trở thành người bạn đồng hành không thể thiếu của mỗi khách hàng. Chất lượng môi giới chứng khoán còn được thể hiện thông qua thu nhập của khách hàng. Chất lượng tư vấn của nhân viên môi giới sẽ thực sự đạt hiệu quả cao khi sự tư vấn đó giúp đem lại thu nhập cho khách hàng, đồng thời hạn chế tối đa những rủi ro có thể xảy ra cho khách hàng trong đầu tư. Sự hài lòng của khách hàng còn phụ thuộc vào đạo đức nghề nghiệp, thái độ của nhân viên môi giới cũng như các dịch vụ hỗ trợ khác mà CTCK dành cho khách hàng. Tóm lại, hiệu quả hoạt động môi giới chứng khoán được đánh giá thông qua rất nhiều chỉ tiêu, bao gồm tất cả những chỉ tiêu định lượng và chỉ tiêu định tính. Các chỉ tiêu này phải được sử dụng đồng thời trong mối liên hệ lôgic chặt chẽ. Có như vậy, hiệu quả môi giới chứng khoán của CTCK mới được phản ánh chính xác, khách quan và đáng tin cậy. 1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động môi giới của công ty chứng khóan. 1.3.3.1. Các nhân tố chủ quan Vốn Bất kì doanh nghiệp nào khi bắt đầu thực hiện hoạt động kinh doanh yếu tố đầu tiên không thể thiếu là cần phải có vốn. Kinh doanh chứng khoán ở nhiều nước là ngành nghề kinh doanh có điều kiện, ngoài các điều kiện về chuyên môn còn có các điều kiện về tài chính tức là các công ty phải đáp ứng được quy định của pháp luật về tài chính cho từng hoạt động nghiệp vụ của mình gọi là vốn pháp định. Ngoài việc phải có vốn pháp định, công ty chứng khoán phải có vốn để tiến hành các hoạt động kinh doanh. Hoạt động môi giới chứng khóan đòi hỏi có rất nhiều chi phí để có thể tiến hành đạt kết quả tốt, bao gồm những bộ phận cơ bản sau: Chi phí cho máy móc thiết bị để thực hiện giao dịch hay tìm kiếm, phân tích thông tin… Chi phí xây dựng và duy trì đội ngũ nhân viên môi giới lành nghề. Chi phí tìm kiếm, phân tích thông tin, đánh giá các cơ hội đầu tư để có thể đưa ra các lời khuyến hay tư vấn có ích cho khách hàng. Chi phí cho nghiên cứu thị trường, khách hàng để xây dựng các dịch vụ thích hợp. Chi phí cho các hoạt động Marketing, quảng cáo, tìm kiếm khách hàng … Vốn điều lệ của công ty là cơ sở để làm tăng sự tin tưởng của khách hàng, các nhà đầu tư. Những công ty nhỏ, vốn ít thì khó có thể có đủ vốn để đảm bảo thực hiện tốt mọi hoạt động cũng như thực hiện đầy đủ các hoạt động của một công ty chứng khóan. Đây là yếu tố mà có sự ảnh hưởng rất lớn tới các hoạt động như Marketing hay nghiên cứu vì nếu vốn ít chi phí cho các hoạt động này sẽ bị cắt giảm và tác động trực tiếp đến hiệu quả của hoạt động môi giới. • Nhân lực Tất cả sự thành bại trong kinh doanh không thể thiếu yếu tố rất quan trọng đó là yếu tố con người. Nếu một doanh nghiệp có được một đội ngũ nhân viên với số lượng phù hợp, chuyên môn cao, tận tâm với công việc thì gần như chắc chắn doanh nghiệp đó sẽ thành công. Nghề môi giới mang những đặc thù riêng biệt do đó nó đòi hỏi ở nhân viên môi giới không chỉ những kiến thức chuyên môn, kiến thức xã hội mà cả những kỹ năng làm việc, những phẩm chất khác với các nghề khác. Người môi giới chứng khoán không nhất thiết phải là người có bằng cấp chuyên môn trong ngành chứng khoán mà họ có thể có chuyên môn trong các lĩnh vực khác nhưng quan trọng là họ phải say mê với chứng khoán, ham thích tìm hiểu về chứng khoán; phải có hiểu biết xã hội tương đối phong phú vì nghề môi giới đòi hỏi phải tiếp xúc với rất nhiều người với đủ ngành nghề, giai cấp, tính cách…; và đặc biệt là phải nắm vững và sử dụng thuần thục bốn kĩ năng cơ bản mà họ sẽ phải sử dụng rất nhiều trong quá trình hành nghề. Những kĩ năng này đi kèm với công việc cụ thể trong hoạt động Bán hàng, chúng không phải là những kĩ năng riêng lẻ tách rời nhau mà giữa chúng luôn có mối quan hệ tương hỗ trong quá trình làm việc. Thành thạo những kĩ năng này sẽ giúp nhân viên môi giới thuận lợi rất nhiều trong công việc và khả năng thành công của họ sẽ rất cao và qua đó đem lại lợi ích nhiều hơn cho bản thân và công ty. Những kĩ năng đó là: Kĩ năng tìm kiếm khách hàng Kĩ năng truyền đạt thông tin Kĩ năng khai thác thông tin Kĩ năng bán hàng Sự phát triển các hoạt động khác Hoạt động môi giới không thể hoạt động riêng rẽ với các hoạt động khác trong công ty. Điều này thể hiện theo hai chiều: Thứ nhất là các hoạt động khác trong công ty đều có tác động đến hoạt động môi giới. Những hoạt động như Marketing, quảng cáo sẽ tăng cường hình ảnh của công ty, thương hiệu của công ty sẽ được nhiều nhà đầu tư biết đến.Từ đó sẽ làm gia tăng lượng khách hàng cho bộ phận môi giới. Tuy những nhân viên môi giới cũng có khả năng phân tích và đưa ra các đánh giá riêng của họ, nhưng nguồn chủ yếu của các kết quả phân tích, đánh giá, các thông tin là từ bộ phận phân tích của công ty. Họ thu thập thông tin, dữ liệu hàng ngày rồi tiến hành phân tích, từ đó quyết định đưa ra các sản phẩm, dịch vụ cần thiết để nhân viên môi giới sử dụng khi làm việc với khách hàng. Để người môi giới có thể thành công trong việc phục vụ khách hàng thì công ty cần phải có các sản phẩm dịch vụ đa dạng, phong phú đáp ứng được nhu cầu của đông đảo khách hàng. Người môi giới có thể thất bại trong việc phục vụ khách hàng nếu không có những dịch vụ phù hợp. Điều này phụ thuộc vào bộ phận nghiên cứu của công ty, nếu các hoạt động nghiên cứu thị trường và khách hàng được thúc đẩy mạnh thì sẽ càng có nhiều dịch vụ được ra đời để đáp ứng nhu cầu của thị trường. Thứ hai là hoạt động môi giới tác động ngược lại tới các hoạt động khác trong công ty. Hoạt động môi giới chính là nguồn cung cấp ý tưởng cho hoạt động nghiên cứu dịch vụ mới do môi giới là bộ phận thường xuyên tiếp xúc với khách hàng nên họ hiểu được nhu cầu cũng như mục tiêu của khách hàng. Khách hàng đến với nghiệp vụ môi giới của công ty, khách hàng hài lòng thì đó sẽ là lực lượng Marketing đông đảo của công ty, giúp tăng cường hình ảnh và thương hiệu của công ty, đương nhiên khi đó các hoạt động khác cũng được hưởng lợi. 1.3.3.2. Các nhân tố khách quan Điều kiện pháp lý Để có thể tạo ra môi trường kinh doanh công bằng, công khai, có hiệu quả và bảo vệ những người đầu tư, nhất là trong hoạt động môi giới chứng khoán, các CTCK phải chịu sự quản lý và giám sát chặt chẽ từ phía các Cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán cụ thể là Uỷ Ban Chứng Khóan Nhà Nước. Các CTCK phải tuân thủ các quy định về cấp giấy phép hoạt động, các nguyên tắc tài chính, các nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp, các quy định chặt chẽ về môi giới chứng khoán, các quy định về báo cáo tài chính, về công bố thông tin, các quy định về xử lý vị phạm trong kinh doanh chứng khoán … Ngoài ra, các CTCK còn phải tuân thủ theo các quy định của tổ chức nghề nghiệp là Hiệp hội kinh doanh chứng khoán. Điều kiện pháp lý có ảnh hưởng lớn đến việc phát triển CTCK nói chung và hoạt động môi giới chứng khoán nói riêng. Một hệ thống pháp lý có tính chất khuyến khích về tổ chức, hoạt động của công ty sẽ góp phần tạo lập, ổn định hoạt động của công ty. Đồng thời tính năng kiểm soát hoạt động đối với công ty sẽ làm gia tăng lòng tin của công chúng đầu tư, từ đó sẽ thúc đẩy thị trường phát triển. Các quy định về giao dịch chứng khoán trên thị trường chứng khoán nếu được ban hành một cách khoa học, phù hợp với thông lệ quốc tế và với đặc điểm riêng trong nước sẽ góp phần thúc đẩy hoạt động đầu tư vào thị trường chứng khoán, đồng nghĩa với nó là hiệu quả môi giới chứng khoán được nâng cao. Ngược lại, một hệ thống pháp lý thiếu hòan thiện, các khâu quản lý chồng chéo lên nhau sẽ cản trở sự phát triển của thị trường chứng khoán và theo đó, hoạt động môi giới chứng khoán cũng không thể đạt hiệu quả cao được. Môi trường kinh doanh Trình độ phát triển của nền kinh tế là nền tảng có tính chất quyết định cho mọi sự phát triển của một quốc gia, là cơ sở quan trọng cho sự phát triển của các CTCK nói chung và hoạt động môi giới chứng khoán nói riêng. Trong một môi trường kinh doanh có nhiều thuận lợi, thì nhu cầu về vốn cho xây dựng và phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước và nhu cầu huy động vốn cho sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp sẽ ngày càng tăng. Đồng thời, một nền kinh tế phát triển sẽ có nhiều cơ hội tạo ra công ăn việc làm mới, giảm tỷ lệ thất nghiệp và tăng thu nhập cho dân cư. Khi thu nhập của người dân được cải thiện, trình độ dân trí được nâng cao, thì nguồn vốn nhàn dỗi trong dân chúng cũng tăng theo, tạo thuận lợi cho thị trường chứng khoán phát triển nếu tận dụng được nguồn vốn này. Với vai trò là trung gian tài chính, các CTCK chính là cầu nối giữa những người có vốn, có nhu cầu đầu tư và những người cần huy động vốn trên thị trường chứng khoán. Khi những tổ chức có nhu cầu huy động vốn ngày càng tăng và những người có nhu cầu đầu tư ngày càng nhiều, hàng hoá trên thị trường chứng khoán sẽ ngày càng phong phú, đó chính là cơ hội cho CTCK thực hiện tốt các hoạt động của mình, đặc biệt là hoạt động môi giới chứng khoán. Sự ổn định và tăng trưởng trong nền kinh tế làm tăng tính hấp dẫn của thị trường trong nước, từ đó sẽ thu hút sự chú ý của nguồn vốn đầu tư nước ngoài, đồng thời nhu cầu đầu tư ra nước ngoài của các nhà đầu tư và các doanh nghiệp trong nước cũng sẽ tăng theo, tạo điều kiện cho các hoạt động trên thị trường chứng khoán nói chung và hoạt động môi giới chứng khoán nói riêng phát triển. Trong một môi trường kinh doanh có nhiều đối thủ cạnh tranh, các CTCK đứng trước rất nhiều thách thức, nhưng đó cũng là những cơ hội để khẳng định vị trí của mình trên làng chứng khoán. Muốn vậy, CTCK phải đặc biệt chú trọng nâng cao hiệu quả các hoạt động nghiệp vụ của mình, nhất là hoạt động môi giới chứng khoán, hoạt động nghiệp vụ đặc trưng của CTCK. * Kiến thức đầu tư chứng khoán cuả công chúng Sự phát triển của nền kinh tế và khả năng tăng thu nhập, tăng tiết kiệm của công chúng chỉ là điều kiện cần. Điều kiện đủ để một thị trường chứng khoán có thể phát triển, hoạt động môi giới chứng khoán đạt hiệu quả cao chính là kiến thức đầu tư của công chúng. Nếu công chúng tham gia đầu tư chứng khóan mà không có kiến thức thì sẽ tạo ra một thị trường dễ bị thao túng và rất dễ sụp đổ do đầu tư theo tâm lý bầy đàn. Thực tế cho thấy, ở những nước có nền kinh tế phát triển, trình độ dân trí cao như Mỹ, Anh, Đức, Nhật Bản,… tỷ lệ dân cư tham gia trên thị trường chứng khoán là tương đối cao (30%-40%) nhưng chúng ta có thể thấy đây là những thị trường mà nhà đầu tư rất có bản lĩnh, họ đầu tư rất chuyên nghiệp và không dễ gì thao túng được. Trình độ hiểu biết, tính ưa thích đầu tư, khả năng chấp nhận rủi ro, khả năng tài chính của nhà đầu tư là những yếu tố mà CTCK cần xem xét khi tiến hành hoạt động môi giới chứng khoán hay một số hoạt động khác như tư vấ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34829.doc
Tài liệu liên quan