Phát triển hoạt động thanh toán quốc tế tại Ngân hàng thương mại cổ phần các Doanh nghiệp ngoài Quốc doanh Việt Nam

BC TTCN: Đề tài: Phát triển hoạt động thanh toán quốc tế tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần các Doanh nghiệp ngoài Quốc doanh Việt Nam LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan chuyên đề này là công trình nghiên cứu của riêng em. Các kết quả, dữ liều và số liệu nêu trong chuyên đề là hoàn toàn có thực và có nguồn gốc rõ ràng, do tôi đã tìm tòi và thu thập được trong quá trình thực tập tại ngân hàng. Ký tên SV. Đỗ Mạnh Hùng DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT VPBANK: Ngân hàng Thương mại Cổ phần các Doanh ngh

doc62 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1482 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phát triển hoạt động thanh toán quốc tế tại Ngân hàng thương mại cổ phần các Doanh nghiệp ngoài Quốc doanh Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iệp ngoài Quốc doanh Việt Nam TTQT: Thanh toán Quốc tế NHTM: Ngân hàng Thương mại XK: Xuất khẩu NK: Nhập khẩu XNK: Xuất nhâp khẩu DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU Bảng 1: Các phương thức trong thanh toán quốc tế Trang 12 Bảng 2: Kết quả kinh doanh Trang 34 Bảng 3: Các chỉ tiêu về tài sản Trang 34 Bảng 4: Chỉ tiêu các hoạt động TTQT 2004- 2007 Trang 36 Bảng 5: Thị phần thanh toán XNK của VPBANK Trang 37 Bảng 6: Kim ngạch hanh toán XK tại VPBANK Trang 37 Bảng 7: Thanh toán XK tại VPBANK Trang 38 Bảng 8: Thanh toán NK tại VPBANK Trang 39 Bảng 9: Kim ngạch thanh toán NK tại VPBANK Trang 40 LỜI MỞ ĐẦU Lý do chọn đề tài: Trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn về đời sống kinh tế xã hội. Cùng với sự chuyển mình mạnh mẽ của đất nước, ngành ngân hàng Việt Nam cũng đang có những bước tiến mới. Tuy nhiên cùng với quá trình mở cửa hội nhập nền kinh tế, việc hoàn thành quá trình ra nhập WTO đã và đang đặt ra cho đất nước ta nói chung và ngành ngân hàng nói riêng những vận hội và thách thức to lớn. Cụ thể, đối với Việt Nam, việc gia nhập WTO tạo ra thời cơ và nhiều thách thức đối với hoạt động kinh doanh và đầu tư, đặt các ngân hàng của Việt Nam vào trong một cuộc cạnh tranh mới khốc liệt hơn rất nhiều trên trường quốc tế. Để chuẩn bị cho cuộc cạnh tranh mới này, toàn hệ thống ngân hàng đã, đang và sẽ phải tiếp tục đẩy mạnh quá trình hiện đại hóa và lành mạnh hóa toàn hệ thống nhằm nâng cao chất lượng phục vụ, chiếm lĩnh thị trường quốc tế hay trong nước ngay cả khi cạnh tranh phải đối mặt với các đối thủ mạnh hàng đầu thế giới. Muốn vậy thì phải chú trọng,quan tâm và phát triển dịch vụ thanh toán quốc tế, hoàn thiện và hiện đại hóa trong lĩnh vực thanh toán quốc tế. Sở dĩ phải như vậy là vì: Ngay nay, xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra hết sức mạnh mẽ ở khắp mọi nơi, mọi lĩnh vực của đời sống trên toàn thế giới. Các tổ chức kinh tế và chính trị lớn ngày càng mở rộng quy mô và ngày càng có nhiều thành viên tham gia. Giao thương hàng hóa và dịch vụ giữa các quốc gia, các vùng miền và các châu lục trên thế giới ngày càng phát triển và mở rộng. Kéo theo đó là hoạt động XNK tăng, các doanh nghiệp sẽ đẩy mạnh hoạt động XNK và như vậy tất yếu nhu cầu về dịch vụ thanh toán quốc tế ngày càng tăng cao, góp phần quan trọng đẩy mạnh giao thương quốc tế và ngày càng chiếm một mức độ quan trọng trong các lĩnh vực hoạt động của các ngân hàng. Trong những năm đổi mới, đặc biết là những năm gần đây, khi quá trình gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO đã hoàn thành thì hoạt động XNK của Việt Nam đã được đổi mới và đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ như: chính sách Nhà nước độc quyền về ngoại thương được bãi bỏ, Nhà nước khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất và kinh doanh hàng XK, giảm mạnh việc quản lý theo hạn ngạch, thu hẹp tối thiểu diện mặt hàng cấm nhập, cấm xuất, bãi bỏ các thủ tục phiền hà trong XNK, xuất nhập cảnh tham quan du lịch, môi giới, hợp tác và liên doanh, xoá bỏ chế độ thu bù chênh lệch ngoại thương…Tất cả những thành tựu đó cũng góp phần thúc đẩy hoạt động thanh toán quốc tế của các NHTM phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, trong hoạt động ngoại thương, những Nhà XK, Nhà NK của Việt Nam luôn gặp bất lợi về vấn đề thanh toán, Việt Nam vẫn còn là một nước nhập siêu nên trong NK thường phải sử dụng thư tín dụng trả ngay, trong khi đó, các Nhà XK hầu như không được thực hiện thanh toán bằng thư tín dụng trả ngay, nhiều khi hàng được xuất trước khi mở L/C (do hàng hoá XK của Việt Nam toàn là hàng nông sản), rủi ro mà các nhà xuất nhập khẩu của Việt Nam phải đón nhận sẽ là rất lớn. Hoặc trong các phương thức khác như điện chuyển tiền hay nhờ thu cũng gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu cũng như nhập khẩu và ngay cả chính bản thân các ngân hàng của Việt Nam. Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động thanh toán quốc tế đối với sự phát triển của các ngân hàng nói riêng và đối với sự phát triển của nền kinh tế trong tiến trình hội nhập và phát triển nói chung, cộng với quá trình thực tập và tìm hiểu tại ngân hàng VPBANK, là một sinh viên chuyên ngành Kinh doanh Quốc tế thuộc khoa Kinh tế và Kinh doanh Quốc tế thuộc trường Đại học Kinh tế Quốc dân nên em quyết định chọn đề tài: “Phát triển hoạt động thanh toán tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần các Doanh nghiệp ngoài Quốc doanh ( VPBANK )” để nghiên cứu với mục đích có thể tìm ra được một số giải pháp giúp phát triển hoạt động thanh toán quốc tế tại Ngân hàng VPBANK, hệ thống ngân hàng của Việt Nam nói riêng và cho toàn bộ nền kinh tế Việt Nam nói chung. Mục tiêu nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu và phân tích thực trạng tình hình hoạt động cung ứng và phát triển dịch vụ thanh toán quốc tế tại Ngân hàng VPBANK trong những năm qua nhằm nâng cao và phát triển hoạt động, dịch vụ này của Ngân hàng trong tương lai. Đối tương và phạm vi nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động cung ứng dịch vụ thanh toán quốc tế. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là hệ thống ngân hàng VPBANK trong khoảng thời gian từ 2004- 2007. Kết cấu của đề tài: Đề tài gồm 3 chương: Chương I: Tổng quan về hoạt động thanh toán quốc tế tại các ngân hàng thương mại trong thời kỳ hội nhập Chương II: Thực trạng hoạt động cung ứng và phát triển dịch vụ tại Ngân hàng VPBANK giai đoạn 2004- 2007. Chương III: Một số giải phát nhằm phát triển dịch vụ thanh toán quốc tế tại Ngân hàng VPBANK CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP Khái niệm và vai trò của hoạt động thanh toán quốc tế tại các ngân hàng thương mại: Khái niệm thanh toán quốc tế: Tiền tệ quốc gia ra đời là một bước tiến lớn, nó góp phần giúp cho trao đổi hàng hoá trong nước diễn ra thuận lợi và nhanh chóng hơn rất nhiều và ngược lại chính điều này tới lượt nó càng thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển hơn và kéo theo sự phát triển của toàn bộ kinh tế quốc gia. Nền kinh tế phát triển tất yếu dẫn đến sự phát triển của phân công lao động và sự phân công lao động này nhanh chóng vượt qua biên giới các quốc gia đưa đến sự chuyên môn hoá và hợp tác hoá giữa các quốc gia khác nhau trên thế giới. Sự chuyên môn hoá xuất hiện là do chính điều kiện tự nhiên và trình độ sản xuất giữa các quốc gia khác nhau. Mỗi quốc gia không thể sản xuất được tất cả các mặt hàng để đáp ứng nhu cầu của mình nên bắt buộc mỗi quốc gia phải tiến hành trao đổi những mặt hàng mình có và mua về những sản phẩm của quốc gia khác. Họat động hợp tác giữa các quốc gia do đó càng có điều kiện phát triển hơn. Điều này đòi hỏi các quốc gia phải mở rộng phạm vi trao đổi quốc tế và phải hình thành quan hệ kinh tế đối ngoại với các quốc gia khác. Quan hệ kinh tế quốc tế đó là tổng thể các quan hệ vật chất và tài chính, các quan hệ về kinh tế và khoa học công nghệ có liên quan đến tất cả các giai đoạn của quá trình tái sản xuất diễn ra giữa các quốc gia cũng như giữa các quốc gia với các tổ chức quốc tế. Trong thời đại ngày nay, khi mà trình độ quốc tế hoá đời sống kinh tế ngày càng cao thì không một quốc gia nào có thể phát triển được nếu cứ thực hiện đường lối đóng cửa, không giao lưu kinh tế với nước ngoài bất kể quốc gia đó theo chế độ chính trị nào. Các mối liên hệ kinh tế giữa các nước ngày càng mật thiết và dần dần hình thành thị trường thế giới thống nhất. Những mối quan hệ thường xuyên về các mặt kinh tế, chính trị, văn hoá giữa các nước đã làm phát sinh những quyền lợi và nghĩa vụ tiền tệ của nước này với nước khác. Việc thanh toán các nghĩa vụ tiền tệ phát sinh có liên quan tới các quan hệ kinh tế, thương mại và các mối quan hệ khác (chính trị, ngoại giao, hợp tác văn hóa, khoa học kỹ thuật…) giữa các tổ chức, các công ty, các chủ thể kinh tế khác nhau của mỗi quốc gia gọi là thanh toán quốc tế ( Nguồn: Giáo trình “Thanh toán Quốc tế trong Ngoại thương”- PGS. Đinh Xuân Trình, Đại học Ngoại thương Hà Nội, NXB Giáo Dục, 1998 ) Vai trò của hoạt động thanh toán quốc tế: Đối với nền kinh tế: Trong nền kinh tế toàn cầu nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng hiện nay, hoạt động TTQT của các ngân hàng đang đóng vai trò ngày càng quan trọng, nhất là trong linh vực kinh tế đối ngoại. Nó chính là cầu nối thúc đẩy quan hệ kinh tế đối ngoại và thương mại, thúc đẩy mở rộng giao lưu buôn bán giữa các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Thông qua nó chúng ta có thể phát huy được những lợi thế so sánh tương đối, có thể học hỏi kinh nghiệm, tiếp thu và vận dụng những công nghệ- kỹ thuật hiện đại trong mọi lĩnh vực của sản xuất và đời sống, từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất và đạt được những mục tiêu chiến lược trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Như chúng ta đã biết, TTQT phản ánh sự vận động có tính độc lập tương đối cúa giá trị trong quá trình lưu chuyển hàng hoá và tư bản giữa các quốc gia. Do đó Thanh toán quốc tế nhanh, chính xác, đúng luật sẽ giảm được thời gian chu chuyển vốn, giảm nợ và khắc phục rủi ro biến động tiền tệ, đảm bảo khả năng thanh toán của con nợ, đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển hàng hoá giữa các nước. Đồng thời việc thanh toán diễn ra tốt đẹp sẽ để lại thiện chí, uy tín và sự tin cậy giữa các bên, góp phần mở rộng và củng cố mối quan hệ hợp tác buôn bán làm ăn giữa các nước. Một điều cần lưu ý trong TTQT là chúng ta không chỉ quan tâm đến lợi ích của bản thân (cũng là mục đích chính của việc trao đổi) mà còn nên chú ý đến lợi ích của bạn hàng, có như thế mối quan hệ hợp tác làm ăn lâu dài, bền vững vì được xây dựng trên cơ sở “hai bên cùng có lợi”, nhất là trong giai đoạn cạnh tranh khốc liệt như hiện nay, việc kiếm và giữ được bạn hàng là điều rất khó. Bên cạnh đó, TTQT giúp cho quá trình thanh toán theo yêu cầu của khách hàng được tiến hành an toàn, tiện lợi và giảm bớt chi phí thay vì thanh toán bằng tiền mặt hay phải gặp mặt trực tiếp. Ngân hàng cũng luôn có trách nhiệm bảo vệ, tư vấn hướng dẫn và hỗ trợ cho khách hàng về kiến thức và kỹ thuật về thanh toán quốc tế khi giao dịch với đối tác, giảm thiểu rủi ro, tạo sự tin tưởng cho khách hàng. Mặt khác, nếu khác hàng không đủ khả năng tài chính tạm thời để thanh toán xuất nhập khẩu thì ngân hàng có thể hỗ trợ thanh toán cho khách hàng bằng việc cho vay để thanh toán, bảo lãnh thanh toán mở L/C, triết khấu chứng từ xuất khẩu, …. Qua đó, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất và tiêu dùng cho các doanh nghiệp trong nước, đẩy mạnh giao lưu buôn bán với nước ngoài, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Mặt khác, qua theo dõi hoạt động TTQT tại các ngân hàng, Nhà nước có cơ sở để chỉnh lại những điểm bất hợp lý trong hệ thống pháp luật hay chính sách liên quan đến TTQT cho phù hợp với tình hình mới, tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động ngoại thương. Tóm lại, TTQT đóng vai trò trong việc phát triển ngoại thương và chúng ta cũng hiểu rằng ngoại thương là một công cụ thúc đẩy quá trình liên kết kinh tế ở trong nước với nước ngoài. Nhận thức được vai trò to lớn của TTQT đối với nền kinh tế đất nước nói chung, hoạt động kinh tế đối ngoại và ngoại thương nói riêng, Chính phủ ngày càng quan tâm hơn tới vấn đề này, tạo điều kiện cho quá trình TTQT được mở rộng, tiến hành thuận lợi, nhanh chóng bằng việc cải cách hệ thống Ngân hàng cho phép nhiều Ngân hàng tham gia hoạt động đối ngoại, thực hiện TTQT cũng như đề ra những quyết định kịp thời tháo gỡ những vướng mắc trong nghiệp vụ để thanh toán quốc tế phát triển cả về nội dung lẫn hình thức và trở thành công cụ đắc lực thúc đẩy kinh tế đối ngoại của đất nước. Đối với các ngân hàng và các doanh nghiệp: Trong một phạm vi nhỏ, đối với các doanh nghiệp tham gia XNK thì TTQT là khâu kết thúc của một hợp đồng ngoại thương, nó khép lại một chu trình mua bán hàng hoá, dịch vụ. Đây là một nghiệp vụ tổng hợp rất phức tạp. Rủi ro đến với nó có thể xảy ra bất cứ lúc nào, thậm chí còn nằm ngoài dự kiến của doanh nghiệp. Bởi vì, mặc dù việc thanh toán theo giá cả quốc tế đã được hai bên tham gia nhất trí áp dụng nhưng giao dịch ngoại thương diễn ra chịu sự chi phối của nhiều yếu tố trên thị trường trong nước và ngoài nước như chính sách XNK, quản lý ngoại hối, tỷ giá, thuế…Do đó yêu cầu đặt ra cho TTQT là phải đảm bảo an toàn cho các hợp đồng XNK, thu hồi đầy đủ, đúng hạn tiền hàng để tiếp tục guồng máy sản xuất kinh doanh tạo ra lợi nhuận. Trong hoạt động kinh doanh của đơn vị XNK, kết quả thanh toán thể hiện hiệu quả kinh tế về mặt tài chính, là một chỉ tiêu để đánh giá tình hình kinh doanh lỗ hay lãi, phát triển, chững lại hay đang suy thoái, để từ đó doanh nghiệp có những quyết định đúng đắn trong hoạt động tiếp theo của mình. Đối với các ngân hàng, hoạt động TTQT làm tăng tính thanh khoản của ngân hàng. Chẳng hạn như khi ngân hàng bảo lãnh thanh toán nhập khẩu cho một doanh nghiệp, ngân hàng sẽ yêu cầu khách hàng ký quỹ một khoản tiền tỷ lệ tương ứng với giá trị hàng hóa mà ngân hàng sẽ bảo lãnh hoặc sẽ thanh toán. Khoản tiền này tương đối ổn định và phát sinh thường xuyên trong công việc TTQT của các ngân hàng. Kỳ hạn thanh toán nước ngoài chua đến hạn cũng là một nguồn tiền tạo tính thanh khoản cho các ngân hàng. Do công việc TTQT đòi hỏi tính nhanh chóng, kịp thời, chính xác nên đòi hỏi các ngân hàng cũng phải cải tiến, ứng dụng các công nghệ mới, tiên tiến đáp ứng ngày càng tốt hơn các tiêu chí nói trên. Mặt khác, TTQT là một nghiệp vụ đòi hỏi trình độ nghiệp vụ cao, giỏi chuyên môn, giỏi ngoại ngữ và nắm chắc luật và các thông lệ trong nước cũng như quốc tế. Do đó đòi hỏi cán bộ TTQT của các ngân hàng phải không ngừng học hỏi, trau dồi kiến thức, nâng cao trình độ, nghiệp vụ để đáp ứng tốt các yêu cầu mới trong TTQT …. Khi các ngân hàng tự hoàn thiện mình về cả con người, công nghệ và cả nghiệp vụ thì trên cơ sở đó nâng cao uy tín của ngân hàng, tạo niềm tin cho khách hàng, khẳng định ưu thế và tăng khả năng cạnh tranh cho các ngân hàng. Từ đó, tăng thêm các nghiệp vụ kinh doanh, thu hút thêm nhiều khách hàng và mở rộng quy mô kinh doanh. Như vậy, hoạt động TTQT có thể nói là đóng một vai trò rất quan trọng đối với cả các ngân hàng và các doanh nghiệp. Nhất là từ sau khi Việt Nam ra nhập WTO, khi mà các doanh nghiệp và các ngân hàng nước ngoài được phép hoạt động, tình hình cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt hơn thì việc đổi mới và tự hoàn thiện mình, nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp, các ngân hàng trong nước ngày càng trở nên cần thiết. Trong hình đó thì vai trò của TTQT càng trở nên quan trọng hơn bất cứ lúc nào. Nó đòi hỏi cần phải có sự đầu tư hợp lý của các doanh nghiệp và các ngân hàng nói riêng và Nhà nước nói chung. Và ngược lại, TTQT giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam mở rộng quan hệ với các doanh nghiệp nước ngoài, nâng cao uy tín của mình trên trường quốc tế. Trên cơ sở đó thực hiện các mục tiêu phát triển của doanh nghiệp và mục tiêu phát triển kinh tế của Nhà nước. Các phương thức thanh toán quốc tế và các loại dịch vụ thanh toán quốc tế chủ yếu tại các ngân hàng thương mại: Có rất nhiều phương thức TTQT được áp dụng trong hoạt động ngoại thương nhưng trong điều kiện hiện nay có ba phương thức được sử dụng phổ biến nhất ở Việt Nam cũng như trên thế giới. Đó là các phương thức: chuyển tiền, nhờ thu, tín dụng chứng từ. Ba phương thức này có thể được áp dụng tuỳ theo mức độ tin cậy giữa các bạn hàng: Bảng 1: Các phương thức trong thanh toán quốc tế Mức độ tin cậy giữa người XK và người NK Phương thức thanh toán Phí tổn Tin cậy nhiều Chuyển tiền Phí tổn thấp Tin cậy vừa Nhờ thu Phí tổn vừa Tin cậy ít Tín dụng chứng từ Phí tổn cao ( Nguồn: Giáo trình “Thanh toán Quốc tế trong Ngoại thương”- PGS. Đinh Xuân Trình, Đại học Ngoại thương Hà Nội, NXB Giáo Dục, 1998 ) Cho dù lựa chọn phương thức thanh toán nào thì cũng cần phải có sự có mặt của các NHTM. Sự có mặt của NHTM sẽ tạo điều kiện cho quá trình thanh toán được thực hiện một cách an toàn và nhanh chóng nhờ sử dụng vào uy tín, mối quan hệ của mình với các NHTM khác trên thế giới Phương thức thanh toán chuyển tiền: Khái niệm: Phương thức thanh toán chuyển tiền là phương thức thanh toán đơn giản nhất trong đó một khách hàng (người trả tìên, người mua, người NK) yêu cầu Ngân hàng phục vụ mình chuyển một số tiền nhất định cho người thụ hưởng ở một địa điểm xác định trong một thời gian gần nhất bằng phương tiện chuyển tiền do khách hàng yêu cầu. ( Nguồn: Giáo trình “Thanh toán Quốc tế trong Ngoại thương”- PGS. Đinh Xuân Trình, Đại học Ngoại thương Hà Nội, NXB Giáo Dục, 1998 ) Khi yêu cầu chuyển tiền cho người được hưởng, người chuyển tiền phải có giấy ủy nhiệm cho ngân hàng thực hiện việc chuyển tiền. Ngân hàng sau khi nhận được giấy ủy nhiệm với đầy đủ nội dung cần thiết của người chuyển tiền sẽ nhờ ngân hàng đại lý của mình ở nước ngoài chuyển trả cho người được nhận. Trong phương thực này ngân hàng chỉ là trung gian thanh toán theo ủy nhiêm và hưởng hoa hồng, không bị ràng buộc gì cả. Việc chuyển tiền coi như hoàn thành chỉ khi nào trả xong hết số tiền cho người nhận tiền (hoặc nộp tài khoản của người đó tại ngân hàng đại lý trả tiền). Trước thời gian này, số tiền trong chuyển tiền vẫn thuộc sở hữu của người chuyển tiềnm người chuyển tiền có quyền hủy bỏ lệnh chuyển tiền mà người nhận tiền không có quyền khiếu nại ngân hàng mà chỉ được khiếu nại người chuyển tiền thôi. Do đó hình thức thanh toán này thường đươc áp dụng để trả nợ, trả tiền ứng trước, trả tiền bồi thường hay những khoản chi phí mậu dịch. Có thể chuyển tiền bằng hai hình thức: - Bằng hình thức điện báo (T/T: Telegraphic transfer): Ngân hàng thực hiện việc chuyển tiền điện ra lệnh cho ngân hàng đại lý ở nước ngoài trả tiền cho người nhận. - Bằng hình thức thư (M/T: Mail transfer): Ngân hàng thực hiện việc chuyển tiền viết thư (có thể là lệnh trả tiền- Payment order, cũng có thể là giấy báo ghi Có) ra lệnh cho ngân hàng đại lý tại nước ngoài trả tiền cho người nhân. Các loại dịch vụ thanh toán bằng điện chuyển tiền quốc tế chủ yếu tại các ngân hàng thương mại là: Thanh toán bằng điện chuyển tiền trả trước: Phương thức thanh toán này qui định người mua (người NK) có nghĩa vụ thanh toán cho người bán (người XK) toàn bộ giá trị hoặc một phần giá trị của hợp đồng vào một ngày qui định trước khi giao hàng. Với người XK thì đây là hình thức thanh toán rất an toàn.Với người NK thì đây là hình thức có độ rủi ro cao vì không có gì đảm bảo việc người mua sẽ nhận được hàng, vì vậy chỉ nên áp dụng với các nhà XK (người bán) có quan hệ thường xuyên và độ tin cậy cao. Thanh toán bằng điện chuyển tiền trả sau: Trong phương thức thanh toán trả sau, người mua/người NK nhận hàng trước khi thanh toán. Việc thanh toán được thực hiện ngay khi người mua nhận được hàng hóa (còn gọi là trả tiền khi nhận hàng (Cash on delivery)). Phương thức thanh toán này có lợi cho người mua (người NK). Rủi ro thuộc về người bán (người XK).   Phương thức thanh toán ghi sổ: Về thực chất đây cũng là một phương thức trả sau. Tuy nhiên, phương thức này cho phép người mua có thể nhận hàng mà không có nghĩa vụ thanh toán hoặc chấp nhận hối phiếu ngay. Người mua tự xác định ngày thanh toán và thực hiện việc thanh toán vào thời gian đã định. Phương thức thanh toán này có lợi cho người mua (người NK). Rủi ro thuộc về người bán (người XK) nhưng được thực hiện dựa trên mối quan hệ tin tưởng nhiều hơn giữa người bán và người mua. Phương thức thanh toán nhờ thu: Khái niệm: Phương thức thanh toán nhờ thu là phương thức thanh toán mà Nhà XK sau khi giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ nào đó cho nhà NK tiến hành uỷ thác cho Ngân hàng phục vụ thu hộ tiền trên cơ sở hối phiếu hoặc các chứng từ do nhà XK lập. ( Nguồn: Giáo trình “Thanh toán Quốc tế trong Ngoại thương”- PGS. Đinh Xuân Trình, Đại học Ngoại thương Hà Nội, NXB Giáo Dục, 1998 ) Dựa trên cơ sở cách thức yêu cầu thanh toán của bên bán có thể phân biệt hai hình thức nhờ thu sau: Nhờ thu phiếu trơn (Clear collection): Là phương thức thanh toán nhờ thu trong đó bên bán uỷ thác cho Ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền từ người mua căn cứ vào hối phiếu do chính người bán lập. Các chứng từ thương mại có liên quan đã trực tiếp chuyển giao cho bên mua không qua Ngân hàng. Với phương thức này, quyền lợi của người bán không được bảo đảm, sự trả tiền và nhận hàng bị tách rời, không có sự ràng buộc lẫn nhau. Người mua có thể nhận hàng nhưng trì hoãn việc trả tiền. Ngược lại, người mua cũng có thể phải chịu tổn thất trong tường hợp thực hiện trả tiền trước. Như vậy, phương thức nhờ thu trơn chỉ được áp dụng trong trường hợp người bán và người mua tin cậy lẫn nhau hoặc có quan hệ liên doanh với nhau giữa công ty mẹ, công ty con chi nhánh của nhau. Nhờ thu kèm chứng từ(Documentary collection): Là phương thức thanh toán trong đó bên mua uỷ nhiệm cho Ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền ở người mua không chỉ căn cứ vào hối phiếu mà còn căn cứ vào chứng từ hàng hoá gửi kèm theo với điều kiện nếu người mua trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền sẽ trao bộ chứng từ cho người mua nhận hàng. Trong nhờ thu kèm chứng từ người bán uỷ thác cho Ngân hàng ngoài việc thu tiền hộ còn nhờ Ngân hàng khống chế chứng từ hàng hoá đối với người mua. Với cách này, quyền lợi của người bán được đảm bảo hơn vì sự ràng buộc giữa việc thanh toán và nhận hàng của người mua. Các dịch vụ thanh toán bằng nhờ thu kèm chứng từ trong các ngân hàng thương mại: Phương thức nhờ thu trả ngay(Docment agains payment- D/P): Phương thức này qui định người mua/người NK phải thanh toán tiền ngay khi nhận bộ chứng từ. Phương thức nhờ thu trả chậm (Docment agains acceptance- D/A): Phương thức này cho phép người mua không phải thanh toán ngay nhưng phải ký chấp nhận thanh toán trên hối phiếu có kỳ hạn, được ký phát bởi người bán/người XK. Thông thường hối phiếu đã chấp nhận sẽ được giữ tại nơi an toàn của ngân hàng nhờ thu (ngân hàng người NK) cho đến ngày đáo hạn. Tới ngày này, người mua phải thực hiện thanh toán như đã chấp nhận. Phương thức thanh toán bằng thư tín dụng chứng từ: Khái niệm: Phương thức tín dụng chứng từ là một sự thoả thuận mà trong đó Ngân hàng (Ngân hàng phát hành) đáp ứng nhu cầu của khách hàng (người xin mở L/C- Nhà NK) cam kết hay cho phép Ngân hàng khác chi trả hoặc chấp thuận những yêu cầu của người hưởng lợi khi những điều kiện quy định trong thư tín dụng được thực hiện đúng và đầy đủ. ( Nguồn: Giáo trình “Thanh toán Quốc tế trong Ngoại thương”- PGS. Đinh Xuân Trình, Đại học Ngoại thương Hà Nội, NXB Giáo Dục, 1998 ) Những ưu điểm của phương thức thư tín dụng chứng từ: Để giải quyết mâu thuẫn giữa người mua và người bán, họ thường sử dụng bên thứ ba độc lập để đảm bảo cho quyền lợi của cả hai bên, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình trao đổi hàng hoá.Trong khi các phương thức khác không giải quyết mâu thuẫn này một cách trọn vẹn và hợp lý thì phương thức tín dụng chứng từ có thể bảo đảm được cả quyền lợi của người mua và người bán Phương thức tín dụng chứng từ là một hình thức thanh toán không dùng tiền mặt giữa người NK và người XK, do đó đây là một phương thức an toàn tiện lợi cho các bên tham gia Trong phương thức này, ngân hàng tham gia vào quá trình thanh toán một cách chủ động vì vậy, nếu người mua không thực hiện nghĩa vụ trả tiền của mình cho người bán thì ngân hàng sẽ phải đứng ra thanh toán cho người bán (khi bộ chứng từ xuất trình hoàn hảo). Do đó phương thức này là sự cam kết thanh toán của ngân hàng đối với người bán là cơ sở chắc chắn để ngừơi bán thực hiện trao hàng cho người mua Những nhược điểm của phương thức thư tín dụng chứng từ: Bên cạnh những ứu điểm trên, phương thức này vẫn còn một số nhược điiểm sau: Phương thức tín dụng chứng từ đòi hỏi cả hai bên XK và NK phải thực hiện đúng những nguyên tắc đã được nêu ra trong thư tín dụng. Tuy nhiên những sai sót trong bộ chứng từ có thể gây ra ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình tài chính của các công ty tham gia XNK và cả các ngân hàng, bên cạnh đó, chính sự phụ thuộc vào bộ chứng từ hoàn hảo trong thanh toán khiến cho một số khách hàng mong muốn sử dụng các phương thức thanh toán khác để dễ dàng thương lượng. Những loại hình dịch vụ thanh toán bằng thư tín dụng tại các ngân hàng thương mại: Thư tín dụng hàng xuất khẩu: Trong hình thức nay, người nhập khẩu sau khi giao hàng và thực hiện đủ những yêu cầu trong L/C sẽ ra ngân hàng Xác nhận để lấy tiền, ngân hàng Xác nhận phải có trach nhiệm thanh toán cho người xuất khẩu dựa trên cơ sở L/C đã được lập. Thư tín dụng nhập khẩu: Đây thực chất là việc ngân hàng bảo lãnh thanh toán cho người nhập khẩu đối với người xuất khẩu bằng các mở một thư tín dụng (L/C). Khi người xuất khẩu thực hiện đúng các quy định trong L/C thì người phải thanh toán chính cho họ chính là ngân hàng mở L/C. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động thanh toán quốc tế tại các ngân hàng thương mại: Ngay từ khi mới ra đời, hoạt động TTQT đã có tính chất phức tạp do có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng và tác động đến hoạt động này. Các yếu tố đó bao gồm các yếu tố khách quan và yếu tố chủ quan. Các yếu tố khách quan: Các yếu tố khách quan có ảnh hưởng đến hoạt động TTQT bao gồm có: Cán cân thanh toán quốc tế: Cán cân TTQT là bảng đối chiếu giữa những khoản tiền mà nước ngoài chi trả cho một nước và những khoản tiền mà nước đó chi trả cho nước ngoài trong một thời gian nhất định. Cán cân TTQT chia làm hai loại: Cán cân TTQT trong một thời kỳ nhất định và cán cân TTQT trong một thời điểm nhất định. Nếu dư thừa cán cân TTQT sẽ dẫn đến sự ổn định của đồng bản tệ hoặc tăng giá trị đông tiền thanh toán. Ngược lai, thiếu hụt cán cân TTQT làm cho tỷ giá hối đoái mất tính ổn định, giá trị đồng bản tệ giảm đi. Như vậy, có thể thấy cán cân TTQT có vai trò đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế các nước. Tình trạng của nó sẽ ảnh hưởng đến sự thay đổi của tỷ giá hối đoái, đến tình hình ngoại hối của các nước và ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế quốc gia, mà trước hết là ảnh hưởng đến ngoại thương và hoạt động TTQT tại các ngân hàng. Chính sách thương mại quốc tế: Kinh tế đối ngoại là chiếc cầu nối giữa nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới. Chính sách thương mại của mỗi quốc gia là một hệ thống các nguyên tắc, công cụ và biện pháp thích hợp mà Nhà nước sử dụng để điều chỉnh các hoạt động thương mại của quốc gia trong một thời gian nhất định, nhằm đạt được mục tiêu đặt ra trong chiến lược phát triển ngoại thương của quốc gia đó. Nhiệm vụ của chính sách thương mại là điều chỉnh các hoạt động thương mại quốc tế theo chiều hướng có lợi cho sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung và hoạt động ngoại thương nói riêng có ảnh hưởng và tác động đến sự phát triển của nhiều lĩnh vực khác nhau như: Đầu tư quốc tế; TTQT; bảo hiểm; xuất nhập khẩu hàng hóa,… Riêng đối với hoạt động TTQT, việc mở rộng và phát triển kinh tế đối ngoại làm phát sinh nhiều nhu cầu nghiệp vụ tiền tệ đối với các quốc gia khác. Đây là điều kiện thuận lợi để mở rộng và phát triển các nghiệp vụ và hoạt động TTQT. Bên cạnh đó kinh tế ngoại thương phát triển sẽ yêu cầu nhiều hơn các loại hình dịch vụ TTQT phát triển đáp ứng với nhu cầu TTQT ngày càng đa dạng. Thêm vào đó, hoạt động TTQT của các ngân hàng thương mại là hoạt động cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Một đặc điểm quan trọng của bất cứ sản phẩm dịch vụ nào là quá trình sản xuất và tiêu dùng diễn ra đồng thời. Chính vì vậy nếu nhu cầu TTQT ít và không đa dạng thì các sản phẩm dịch vụ TTQT của ngân hàng cũng sẽ đơn giản. Do vậy mà hoạt động TTQT tại các ngân hàng thương mại không có điều kiện mở rộng và phát triển. Như vậy, khi chính sách thương mại quốc tế của quốc gia khuyên khích được kinh tế ngoại thương phát triên thì đông thời nó cũng có tác dụng thúc đẩy hoạt động TTQT phát triển. Chính sách tỷ giá hối đoái: Giá cả của một đơn vị tiền tệ nước này thể hiện bằng một số đơn vị tiền tệ của nước khác gọi là tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái còn được định ngĩa ở khía cạnh khác, đó là quan hệ so sánh sức mua giữa hai đồng tiền của hai nước với nhau. Tỷ giá hối đoái có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân, nó thực sự là một công cụ sắc bén để điều tiết kinh tế vĩ mô của bất kỳ một Nhà nước nào. Tỷ giá hối đoái lại càng đặc biệt quan trọng với các hoạt động kinh tế quốc tế, xuất nhập khẩu và TTQT. Cụ thể: Sự biến động của tỷ giá hối đoái luôn có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động ngoại thương, điều đó đồng nghĩa với việc ảnh hưởng đến hoạt động TTQT. Cụ thể, khi tỷ giá hối đoái tăng (có nghĩa là đồng tiền trong nước trở nên có giá trị tương đối tăng lên so với đồng ngoại tệ) thì khối lượng hàng hoá NK vào nước đó có xu._. hướng tăng lên còn khối lượng hàng hoá XK lại có xu hướng giảm xuống. Việc thực hiện các hoạt động ngoại thương thường đòi hỏi nhiều thời gian để hoàn tất và chính trong khoảng thời gian này, sự biến động về tỷ giá tất yếu dẫn đến việc gây thiệt hại hoặc cho người mua, hoặc cho người bán. Sự thay đổi bất thường của tỷ giá hối đoái còn gây ảnh hưởng không tốt đến việc mua bán ngoại tệ của ngân hàng. Việc cân nhắc nên mua hay bán ngoại tệ trở nên khó khăn hơn nhiều khi thị trường có nhiều biến động bất thường. Hậu quả là nguồn ngoại tệ phục vụ cho hoạt động TTQT bị xáo trộn và nhiều khi để duy trì tốt hoạt động TTQT thì ngân hàng phải chịu những thiệt thòi lớn. Vì vậy trong hoạt động ngoại thương, các bên tham gia, đặc biệt là các ngân hàng thương mại luôn phải chú ý đến yếu tố tỷ giá, cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng và dự đoán được những biến động của tỷ giá để hạn chế thấp nhất những rủi ro mà tỷ giá hối đoái gây ra, đồng thời cũng tận dụng được những biến động có lợi cho mình.Ngoại tệ mạnh là đồng tiền chủ yếu được sử dụng trong hoạt động TTQT (đa số là USD, EUR, CAD, CHF...). Tỷ giá ổn định là điều kiện đảm bảo cho việc mua bán,. trao đổi ngoại tệ của NHTM và doanh nghiệp (những doanh nghiệp thực hiện hoạt động XNK). Tình hình phát triển hoạt động thương mại dịch vụ trên thế giới: Tình hình phát triển các hoạt động thương mại, dịch vụ của các quốc gia có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động TTQT của các NHTM. Nếu hoạt động thương mại giữa các nước diễn ra thuận lợi và phát triển mạnh thì sẽ tạo ra nhiều nhu cầu TTQT. Điều này tạo cơ hội cho các NHTM mở rộng và phát triển hoạt động TTQT của mình. Ngược lại, nếu tình hình phát triển hoạt động thương mại quốc tế giữa các quốc gia còn có những hạn chế, trì trê sẽ làm giảm nhu cầu TTQT và thu hẹp hoạt động TTQT tại các NHTM. Chính vì vậy có thể nói, tình hình phát triển các hoạt động thương mại giữa các quốc gia trên thế giới là một yếu tố khách quan có ảnh hưởng lớn và trực tiếp đến hoạt động TTQT. Ngoài các yếu tố khách quan kể trên còn một số yếu tố khách quan khác cũng có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của hoạt động TTQT như: Quan hệ chính trị giữa nước NK và nước XK; Chính sách quản lý ngoại hối của Nhà nước; Các quy định trong bảo hiểm hàng hoá và vận tải hàng hoá,… Tất cả các yếu tố này hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp tác động đến hoạt động TTQT. Chính vì vậy các NHTM, các doanh nghiệp XNK và cả Nhà nước đều phải quan tâm nhận thức đầy đủ và đúng đắn về các yếu tố trên để có những chính sách phát triển hợp lý hoạt động TTQT, từ đó phát triển kinh tế ngoại thương và phát triển nền kinh tế đất nước. Các yếu tố chủ quan: Trong bất kỳ một doanh nghiệp hay một tổ chức nào thì yếu tố chủ quan luôn luôn đóng vai trò quyết định sự tồn tại và phát triển của tổ chức hay doanh nghiệp ấy. Trong các NHTM cũng vậy, các yếu tố chủ quan luôn ảnh hưởng đến tất các hoạt động kinh doanh của ngân hàng, trong đó có hoạt động TTQT. Các yếu tố chủ quan đó là: Nguồn lực của Ngân hàng thương mại: - Trình độ kỹ thuật công nghệ áp dụng: Trang thiết bị các phương tiện vật chất kỹ thuật là yếu tố có ảnh hưởng khá lớn tới chất lượng hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ cũng như tiến độ thực hiện nghiệp vụ của một nhân viên. Đặc biệt khi khoa học công nghệ ngày càng phát triển, ngày càng nhiều thiết bị thông tin liên lạc được áp dụng thì các khâu trong hoạt động TTQT nói chung và hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ nói riêng ngày càng được rút ngắn và đơn giản hoá nhờ công nghệ hiện đại. Trình độ công nghệ cao tạo điều kiện đẩy nhanh tốc độ thanh toán, rút ngắn được thời gian xử lý công việc, giảm thiểu khả năng sai sót do các thao tác thủ công…từ đó có thể nâng cao chất lượng của hoạt động TTQT và uy tín của Ngân hàng. - Năng lực của cán bộ nhân viên: Trình độ nghiệp vụ của cán bộ nhân viên trực tiếp làm nhiệm vụ TTQT là nhân tố quan trọng quyết định tới hiệu quả công việc. Nếu cán bộ nhân viên chưa thành thạo nghiệp vụ sẽ làm chậm quá trình thanh toán và tạo ra những sai sót không mong muốn (qua đó gián tiếp tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng khi thực hiện thanh toán hợp đồng ngoại thương tại ngân hàng). Trình độ của đội ngũ nhân viên thanh toán có đồng bộ thì công tác thực hiện thanh toán mới diễn ra nhanh chóng, không bị gián đoạn và tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng. Bên cạnh đó phong cách của mỗi cán bộ nhân viên trong khi thực hiện các giao dịch cũng ảnh hưởng khá lớn tới kết quả của hoạt động TTQT của mỗi ngân hàng. - Mục tiêu và chiến lược phát triển của Hội đồng Quản trị: Mục tiêu và chiến lược phát triển do Hội đồng quản trị đề ra là một trong những nguyên nhân chủ quan trực tiếp ảnh hưởng và tác động đến các lĩnh vực hoạt động của ngân hàng. Mọi chiến lược, mọi chính sách và sự tập trung đầu tư và mở rộng hay thu hẹp các lĩnh vực hoạt động của ngân hàng đều do Hội đồng quản trị quyết định. Trong khi đó, hoạt động TTQT cũng là một trong những lĩnh vực hoạt động của các NHTM. Chính vì vậy có thể nói, mục tiêu và chiến lược phát triển của Hội đồng quản trị có vai trò và ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của hoạt động TTQT. Uy tín của Ngân hàng thương mại: Hoạt động của một NHTM nói chung và hoạt động TTQT của một NHTM nói riêng phụ thuộc rất nhiều vào uy tín của ngân hàng đó ở cả trong nước và trên thế giới. Uy tín của một NHTM được thể hiện ở các mặt như: Kỹ thuật nghiệp vụ xử lý; khả năng thanh toán; thời gian thanh toán; khả năng đáp ứng các phương tiện thanh toán, sự cập nhập các dịch vụ mới và sự đa dạng về các sản phẩm dịch vụ… Một ngân hàng có uy tín khi tham gia vào hoạt động TTQT sẽ được nhiều khách hàng tin tưởng và hợp tác hơn. Vì khâu thanh toán có thể nói là một khầu quan trọng nhất trong giao dịch buôn bán hàng hóa quốc tế và nó chứa đựng rất nhiều rủi ro. Chính vì vậy mà các nhà XNK luôn luôn muốn chọn một ngân hàng có uy tín lớn để thực hiện nghiệp vụ thanh toán. Như vậy, khi một ngân hàng có uy tín lớn cả ở trong nước và quốc tế sẽ có nhiều cơ hội hợp tác với các nhà XNK trong khâu thanh toán hơn và từ đó có cơ hội để mở rộng và phát triển hoạt động TTQT hơn Mạng lưới các Ngân hàng đại lý: Mối quan hệ với các ngân hàng trên thế giới tạo rất nhiều thuận lợi cho ngân hàng trong việc thực hiện TTQT một cách nhanh chóng và hiệu quả. Nếu một Ngân hàng có mối quan hệ ngân hàng đại lý với các Ngân hàng lớn, có uy tín, chi nhánh ở khắp nơi trên thế giới thì hoạt động thanh toán có thể trở nên nhanh hơn, hiệu quả hơn và tốn ít chi phí hơn và có uy tín hơn. Đó chính là một trong những cơ sở để phát triển và mở rộng hoạt động TTQT cho chính ngân hàng Các nghiệp vụ ngân hàng khác có liên quan: Trong ngân hàng, các nghiệp vụ luôn có liên quan mật thiết và hỗ trợ cho nhau. Nghiệp vụ TTQT cũng có quan hệ mật thiết với các nghiệp vụ khác trong ngân hàng, đặc biệt là nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ và nghiệp vụ tín dụng ngoại tệ. - Nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ: Hoạt động kinh doanh ngoại tệ của NHTM không những chỉ mang lại thu nhập cho ngân hàng thông qua chênh lệch tỷ giá giữa giá mua và giá bán mà còn ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động TTQT. Các nghiệp vụ TTQT đều cần có nhiều ngoại tệ, một trong những nguồn ngoại tệ cần cho hoạt động TTQT ở đây là nguồn ngoại tệ phát sinh trong hoạt động mua bán ngoại tệ của ngân hàng. Nếu nguồn ngoại tệ này ổn định và đáp ứng đầy đủ cho hoạt động TTQT thì sẽ tạo điều kiện cho hoạt động TTQT phát triển. Ngược lại nếu nguồn ngoại tệ này không đáp ứng đủ cho hoạt động TTQT thì sẽ gầy ra không ít khó khăn và trở ngại cho hoạt động nay. - Nghiệp vụ tín dụng ngoại tệ: Bản chất của TTQT là việc thực hiện nghĩa vụ thanh toán, chi trả tiền cho nước ngoài. Vì vậy hoạt động TTQT chịu ảnh hưởng rất nhiều của hoạt động cho vay ngân hàng, đặc biệt là cho vay ngoại tệ. Đa số các hoạt động kinh doanh XNK đều dựa vào sự hỗ trợ vốn của ngân hàng. Như vậy bất kỳ một sự thắt chặt hay nới rộng hoạt động tín dụng của các ngân hàng đều có tác động tương tự đến hoạt động TTQT. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CUNG ỨNG VÀ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ THANH TOÁN QUỐC TẾ TẠI NGÂN HÀNG VPBANK Khái quát về tình hình hoạt động kinh doanh của VPBANK: Quá trình hình thành và phát triển của VPBANK: Quá trình hình thành của VPBANK: VPBANK- Tên đầy đủ là NHTM Cổ phần các Doanh nghiệp ngoài Quốc doanh Việt Nam được thành lập theo giấy phép hoạt động số 0042/NH- GP của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp ngày 12 tháng 8 năm 1993 với thời gian hoạt động là 99 năm. Ngân hàng bắt đầu hoạt động ngày 4 tháng 9 năm 1993 theo giấy phép thành lập số 1535/QĐ- UB ngày 4 tháng 9 năm 1993. Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh: Số 055689 do Sở kếhoạch và đầu tư TP.Hà Nội cấp cho đăng ký lần đầu ngày 9/9/1993, đăng ký thay đổi lần thứ 12 ngày 1/11/2006. Các chức năng hoạt động chủ yếu của VPBank bao gồm: Huy động vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, từ các tổ chức kinh tế và dân cư; Cho vay vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đối với các tổ chức kinh tế và dân cư từ khả năng nguồn vốn của ngân hàng; Kinh doanh ngoại hối; chiết khấu thương phiếu, trái phiếu và các chứng từ có giá khác; Cung cấp các dịch vụ giao dịch giữa các khách hàng và các dịch vụ ngân hàng khác theo quy định của NHNN Việt Nam. Vốn điều lệ ban đầu khi mới thành lập là 20 tỷ VND. Sau đó, do nhu cầu phát triển, theo thời gian VPBank đã nhiều lần tăng vốn điều lệ. Trụ sở chính hiện nay đặt tại: Số 8 Lê Thái Tổ- Hoàn Kiếm- Hà Nội. Địa chỉ website: http:\\www.vpb.com.vn Quá trình phát triển của VPBANK: Sau 15 năm thành lập, đến nay VPBANK đã có những bước phát triển vượt bậc cả về quy mô, số lượng, chất lượng. Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, VPBank luôn chú ý đến việc mở rộng quy mô, tăng cường mạng lưới hoạt động tại các thành phố lớn. Cuối năm 1993, Thống đốc NHNN chấp thuận cho VPBank mở Chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh. Tháng 11/1994, VPBank được phép mở thêm Chi nhánh Hải Phòng và tháng 7/1995, được mở thêm Chi nhánh Đà Nẵng. Trong năm 2004, NHNN đã có văn bản chấp thuận cho VPBank được mở thêm 3 Chi nhánh mới đó là Chi nhánh Hà Nội trên cơ sở tách bộ phận trực tiếp kinh doanh trên địa bàn Hà Nội ra khỏi Hội sở; Chi nhánh Huế; Chi nhánh Sài Gòn. Trong năm 2005, VPBank tiếp tục được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận cho mở thêm một số Chi nhánh nữa đó là Chi nhánh Cần Thơ; Chi nhánh Quảng Ninh; Chi nhánh Vĩnh Phúc; Chi nhánh Thanh Xuân; Chi nhánh Thăng Long; Chi nhánh Tân Phú; Chi nhánh Cầu Giấy; Chi nhánh Bắc Giang. Cũng trong năm 2005, NHNN đã chấp thuận cho VPBank được nâng cấp một số phòng giao dịch thành chi nhánh đó là Phòng Giao dịch Cát Linh, Phòng giao dịch Trần Hưng Đạo, Phòng giao dịch Giảng Võ, Phòng giao dịch Hai Bà Trưng, Phòng Giao dịch Chương Dương. Trong năm 2006, VPBank tiếp tục được NHNN cho mở thêm Phòng Giao dịch Hồ Gươm (đặt tại Hội sở chính của Ngân hàng) và Phòng Giao dịch Vĩ Dạ, phòng giao dịch Đông Ba (trực thuộc Chi nhánh Huế), Phòng giao dịch Bách Khoa, phòng Giao dịch Tràng An (trực thuộc Chi nhánh Hà Nội), Phòng giao dịch Tân Bình (trực thuộc Chi Nhánh Sài Gòn), Phòng Giao dịch Khánh Hội (trực thuộc Chi nhánh Hồ Chí Minh), phòng giao dịch Cẩm Phả (trực thuộc CN Quảng Ninh), phòng giao dịch Phạm văn Đồng (trực thuộc CN Thăng long), phòng giao dịch Hưng Lợi (trực thộc CN Cần Thơ). Bên cạnh việc mở rộng mạng lưới giao dịch trên đây, trong năm 2006, VPBank cũng đã mở thêm hai Công ty trực thuộc đó là Công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản VPBANK và Công ty Chứng Khoán VPBANK.  Tính đến cuối năm 2007, Hệ thống VPBank có tổng cộng 37 điểm giao dịch gồm có: Hội sở chính tại Hà Nội, 21 Chi nhánh và 16 phòng giao dịch tại các Tỉnh, Thành phố lớn của đất nước là Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Cần Thơ, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc; Bắc Giang và 2 Công ty trực thuộc. Năm 2006, VPBank sẽ mở thêm các Chi nhánh mới tại Vinh (Nghệ An); Thanh Hóa, Nam Định, Nha Trang, Bình Dương; Đồng Nai, Kiên Giang và các phòng giao dịch, nâng tổng số điểm giao dịch trên toàn Hệ thống của VPBank lên 50 chi nhánh và phòng giao dịch. Hiện tại VPBank đã có 25 Chi nhánh và 75 Phòng giao dịch hoạt động tại 34 tỉnh, thành trên cả nước ( Chưa kể gần 30 điểm giao dịch khác đang chuẩn bị khai trương ). Số lượng nhân viên của VPBank trên toàn hệ thống tính đến nay có trên 2.681 người, trong đó phần lớn là các cán bộ, nhân viên có trình độ đại học và trên đại học (chiếm 87%). Nhận thức được chất lượng đội ngũ nhân viên chính là sức mạnh của ngân hàng, giúp VPBank sẵn sàng đương đầu được với cạnh tranh, nhất là trong giai đoạn đầy thử thách sắp tới khi Việt Nam bước vào hội nhập kinh tế quốc tế. Chính vì vậy, những năm vừa qua VPBank luôn quan tâm nâng cao chất lượng công tác quản trị nhân sự. Đại hội cổ đông năm 2006 và ngày 10/2/2007, một lần nữa, VPBank khẳng định kiên trì thực hiện chiến lược ngân hàng bán lẻ. Phấn đấu trong một vài năm tới trở thành ngân hàng bán lẻ hàng đầu khu vực phía Bắc và nằm trong nhóm 5 Ngân hàng dẫn đầu các Ngân hàng TMCP trong cả nước.  Sơ đồ và cơ cấu bộ máy quản trị của VPBANK: Như vậy, trong bộ máy quản trị của VPBANK gồm năm cấp quản trị. Đứng đầu là Đại Hội Cổ Đông, tiếp theo là Hội Đồng Quản Trị, Ban Điều Hành, Các Chi Nhánh và cuối cùng là các Phòng Giao Dịch. Đại Hội Cổ Đông bao gồm tất cả những cổ đông của Ngân hàng Hội Đồng Quản Trị do Đại Hội Cổ Đông bầu ra có chức năng quản lý ngân hàng bằng việc đưa ra các nghị quyết, các đường lối chiến lược phát triển của ngân hàng, bao gồm: 01 Chủ tịch Hội Đồng Quản Trị, 01 Phó Chủ tịch Hội Đồng Quản Trị và 04 Ủy viên Hội Đồng Quản Trị. Ban Điều Hành do Hội Đồng Quản trị bầu ra có nhiệm vụ điều hành hoạt động của ngân hàng, bao gồm: 01 Tổng Giám Đốc và 03 Phó Tổng Giám Đốc Mỗi chi nhánh của VPBANK bao gồm 01 Giám đốc chi nhánh, các phó giám đốc và các cán bộ nhân viên. Các chi nhánh này đều thực hiện và cung đầy đủ các hoạt động và dịch vụ chủ yếu mà ngân hàng VPBANK đang thực hiện và cung cấp. Mỗi phòng giao dịch bao gồm 01 trưởng phòng, 01 hoắc 02 phó phòng và các nhân viên tín dụng, nhân viên kế toán giao dịch. Các chi nhánh này thường chỉ thực hiện một số hoạt động dịch vụ nhất định như cho vay, huy động vốn, mở thẻ, mở tài khoản và chuyển tiền. Mối quan hệ giữa các cấp này là mối quan hệ cấp trên với cấp dưới, cấp trên ra lệnh trực tiếp cho cấp dưới. Bên cạnh đó là các phòng ban, bộ phận chức năng, tham mưu: Ban Kiểm Soát do Đại Hội Cổ Đông bầu ra, bao gồm: 01 Trưởng Ban Kiểm Soát và 02 Kiểm Soát viên. Ban này có chức năng tham mưu cho Đại Hội Cổ Đông, cơ quan thuộc thẩm quyền cấp dưới của Ban Kiểm Soát là Phòng kiểm toán nội bộ. Có 03 cơ quan tham mưu cho Hội Đồng Quản Trị là: Văn phòng Hội Đồng Quản Trị; Hội đồng quản lý tài sản nợ, tài sản có; Hội đồng tín dụng Có 11 phòng ban, trung tâm, bộ phận tham mưu cho Ban điều hành Có 02 công ty trực thuộc VPBANK là: Công ty Quản lý tài sản VPBANK và Công ty Chứng khoán VPBANK Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng VPBANK: Các lĩnh vực kinh doanh chủ yếu của VPBANK: Kể từ khi thành lập đến nay, VPBANK đã có những thành công nhất định trong một số lĩnh vực kinh doanh chủ yếu sau: Huy động vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn của các tổ chức và cá nhân Tiếp nhận vốn uỷ thác đầu tư và phát triển của các tổ chức trong nước Vay vốn của Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng khác Cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đối với các tổ chức và cá nhân Chiết khấu thương phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá Hùn vốn, liên doanh và mua cổ phần theo pháp luật hiện hành Thực hiện dịch vụ thanh toán giữa các khách hàng Thực hiện kinh doanh ngoại tệ Huy động nguồn vốn từ nước ngoài Thanh toán quốc tế và  thực hiện các dịch vụ khác liên quan đến thanh toán quốc tế Thực hiện các dịch vụ chuyển tiền trong và ngoài nước dưới nhiều hình thức, đặc biệt chuyển tiền nhanh Western Union Các sản phẩm chủ yếu của VPBANK: Ngân hàng VPBANK cung ứng rất nhiều loại sản phẩm dịch vụ cho rất nhiều đối tượng khách hàng khác nhau, nhưng có thể chia làm hai nhóm sản phẩm chính tương ứng với hai nhóm khách hàng, đó là: Nhóm sản phẩm dành cho khách hàng cá nhân và nhóm sản phẩm dành cho khác hàng doanh nghiệp. Nhóm sản phẩm dành cho khách hàng cá nhân bao gồm các sản phẩm: Tiền gửi tiết kiệm( Tiết kiệm thường và tiết kiệm rút gốc linh hoạt), tiền gửi thanh toán( Tiền gửi thanh toán thông thường và tiền gửi lãi suất bậc thanhg), tín dụng bán lẻ( Bao gồm: Sản phẩm cho vay tín chấp đối với cán bộ quản lý; sản phẩm cho vày tín chấp đối với nhân viên; sản phẩm ôtô cá nhân thành đạt; sản phẩm ôtô cá nhân kinh doanh; cho vay hỗ trợ kinh doanh cá thể và tiêu dung; cho vay trả góp mua nhà và cho vay cầm cố cổ phiếu các NHTM) và các sản phẩm- dịch vụ khác(Bao gồm: Dịch vụ bảo lãnh; dịch vụ chuyển tiền nhanh trong nước; dịch vụ kiều hối; dịch vụ thanh toán hóa đơn Bilbox và cho vay hỗ trợ du học) Nhóm sản phẩm dành cho khách hàng doanh nghiệp bao gồm các sản phẩm: Tín dụng doanh nghiệp(Bao gồm: Sản phẩm ôtô doanh nghiệp kinh doanh; sản phẩm ôtô doanh nghiệp thành đạt; cho vay từng lần; cho vay chiết khấu chứng từ XK; cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng; cho vay hợp vốn; cho vay theo dự án đầu tư và cho vay theo hạn mức tín dụng); Dịch vụ thanh toán trong nước(Bao gồm: Mở tài khoản tiền gửi; trả lương qua tài khoản; thanh toán qua tài khoản và chuyển tiền) và dịch vụ thanh toán quốc tế(Bao gồm: Thanh toán bằng thư tín dụng L/C; thanh toán nhờ thu chứng từ và thanh toán bằng điện chuyển tiền). Các chính sách hoạt động Marketinh và phát triển của VPBANK: VPBANK luôn chú trọng việc tăng cường đẩy mạnh các chính sách và hoạt động marketing và coi đó là một yếu tố không thể thiếu được để đạt tới thành công trong kinh doanh. Các hoạt động marketing của VPBANK được thể hiện qua các hoạt động như: Tăng cường việc xây dựng thương hiệu băng cách thay đổi logo thể hiện ý chí và mục tiêu hướng tới của ngân hàng; tham gia tài trợ cho các chương trình truyền hình lớn và tham gia các hoạt động xã hội Ngoài ra VPBANK còn luôn chú trọng phát triển mạng lưới phân phối rộng khắp trên các tỉnh thành, các khu công nghiệp, khu kinh tế trọng điểm lớn trong cả nước. Hiện tại VPBANK có hơn 100i nhánh và phòng giao dịch tại 34 tỉnh thành trên cả nước. Ngoài ra VPBANK còn mở hai công ty trực thuộc phục vụ cho phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của ngân hàng đó là: Công ty quản lý tài sản VPBANK và công ty chứng khoán VPBANK. Về chính sách phát triển sản phẩm thì từ 2004 đến nay VPBANK cũng đã đưa ra nhiều sản phẩm mới có chất lượng phục vụ và hiệu quả cao như: Tiết kiệm VNĐ bù trừ trượt giá; huy đông tiết kiệm VNĐ bảo đảm bằng USD; thí điểm sản phẩm cho vay mua căn hộ chung cư thế chấp bằng chính căn hộ mua; thành lập Trung tâm thẻ và phát hành các thẻ của chính ngân hàng VPBANK; cho vay cầm cố bằng cổ phiếu các NHTM; cho vay cầm cố bằng trái phiếu chuyển đổi của các NHTM; …. Nguồn vốn và cơ cấu vốn của VPBANK: Vì mới được thành lập từ năm 1993 đến nay, lại chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ 1997- 2000 nên quy mô vốn của VPBANK còn thấp. Tuy nhiên từ năm 2004 trở lại đây quy mô về vốn của VPBANK không ngừng tăng lên, ngân hàng đã thực hiện rất nhiều biện pháp tăng vốn, trong đó có việc bán cổ phần cho ngân hang OCBC của Singapo và đưa cổ phiếu của VPBANK lên niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Bảng dưới đây thể hiện chỉ tiêu tài chính qua các năm, từ 2004 đến 2007: Bảng 2: Kết quả kinh doanh Đơn vị: Triệu VNĐ Kết quả kinh doanh ( Trong năm ) 2007 2006 2005 2004 Tổng thu nhập hoạt động 1.233.851 995.003 470.226 286.170 Tổng chi phí hoạt động (920.347) (839.195) (394.017) (226.092) Lợi nhuận trước thuế 313.504 156.808 76.209 60.078 ( Nguồn: Báo cáo thường niên- Ngân hàng VPBANK) Bảng 3: Các chỉ tiêu về tài sản Đơn vị: Triệu VNĐ Các chỉ tiêu về tài sản ( Đến 31/12 ) 2007 2006 2005 2004 Tổng tài sản có 18.214.856 10.159.301 6.093.163 4.149.288 Tiền huy động 15.355.843 9.065.194 3.178.389 3.872.813 Cho vay 13.217.426 5.031.190 3.014.209 1.865.364 Vốn cổ phần 1.041.389 750.000 309.386 198.409 ( Nguồn: Báo cáo thường niên- Ngân hàng VPBANK) Như vậy theo bảng 1 và 2 thì lợi nhuận của VPBANK liên tục tăng nhanh trong các năm từ 2004 đến 2007. Trong đó tổng thu nhập các hoạt động luôn tăng nhanh hơn tổng chi phí các hoạt động. Đi đôi với việc tăng lợi nhuận là Tổng tài sản của ngân hàng cũng tăng nhanh. Trong đó vốn huy động luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu tài sản của ngân hàng. Hiệu quả của hoạt động kinh doanh và cung ứng dịch vụ của ngân hàng VPBANK: Theo bảng và các số liệu trên thì có thể đánh giá hiệu quả kinh doanh của VPBANK là rất tốt. Lợi nhuận liên tục tăng nhanh, quy mô tài sản liên tục tăng. Ngoài ra việc liên tục mở rộng mạng lưới giao dịch rộng khắp cũng thể hiện việc kinh doanh và cung ứng dịch vụ của VPBANK đang rất có hiệu quả. Bên cạnh đó một tín hiệu cũng rất khả quan của VPBANK đó là các công ty trực thuộc như Công ty Chứng khoán VPBANK và Công ty Quản lý tài sản VPBANK cũng có những kết quả hoạt động tốt ( Lợi nhuận từ công ty Chứng khoán VPBANKđạt 38.9 tỷ đồng, từ công ty Quản lý tài sản VPBANK đạt trên 2 tỷ đồng ). Tuy nhiên trong cơ cấu nguồn vốn của VPBANK vẫn còn tỷ lệ nợ xấu và tuy rằng có xu hướng giảm trong những năm gần đây: Năm 2004 là 0.5%; năm 2005 là 0.75% và năm 2006 là 0.58% và năm 2007 là 0.49% nhưng vẫn có thể coi là còn cao và có thể ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của hệ thống. Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế của VPBANK giai đoạn 2004- 2007: Tình hình chung về hoạt động thanh toán XNK tại VPBANK: Hoạt động TTQT của VPBANK vẫn tăng trưởng đều đặn trong những năm qua. Đến cuối năm 2007, trị giá L/C NK đạt 82.4 triệu USD, tăng 21.351 triệu USD so với năm 2006 (61.049 USD ), trị giá L/C xuất thông báo là 7.16 triệu USD, tăng 1.505 USD so với năm 2006 ( 5.655 USD ). Đặc biệt doanh số chuyển tiền TTR đạt 152.623 triệu USD, tăng 72.545 triệu USD so với năm 2006 ( 80.078 USD ). Doanh số nhờ thu XNK đạt 8.174 triệu USD, tăng 3.015 USD so với năm 2006 ( 5.159 USD ) và thu phí dịch vụ luỹ kế đạt 10.541 tỷ đồng, tăng 4.419 tỷ đồng so với năm 2006 ( 6.122 tỷ đồng ). Như vậy kim ngạch thanh toán XNK của VPANK tiếp tục tăng trưởng dương trong năm 2007 vừa qua bất chấp tình hình cạnh tranh gay gắt trong lĩnh vực ngân hàng kể từ trước và sau khi Việt Nam gia nhập WTO ( 7/11/2006). Bảng dưới đây cho ta thấy tình hình tăng trưởng trong hoạt động TTQT tại ngân hàng VPBANK trong những năm 2004- 2007: Bảng 4: Chỉ tiêu các hoạt động TTQT 2004- 2007 Đơn vị: 1.000 USD Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Trị giá L/C NK trong kỳ 26.834 38.225 61.049 82.420 Trị giá L/C XK thông báo trong kỳ 6.028 6.243 5.655 7.160 Doanh số chuyển tiền TTR 29.346 44.685 80.078 152.623 Doanh số nhờ thu ( XNK ) 1.935 3.618 5.159 8.174 Tổng số phí thu được ( triệu đồng ) 3.913 4.015 6.122 10.541 (Nguồn: Báo cáo thường niên- Ngân hàng VPBANK) Từ bảng số liệu trên cho thấy, các chỉ tiêu trong TTQT của VPBANK không ngừng tăng trong các năm từ 2004- 2007 và các hoạt động TTQT chủ yếu là thanh toán L/C NK và thanh toán chuyển tiền TTR. Tổng kim ngạch thanh toán XNK các năm: 2006 là 151.941 triệu USD, chiếm 0.1809% tổng kim ngạch XNK cả nước; 2007 là 260.918 triệu USD, chiếm 0.24% tổng kim ngạch XNK cả nước. Mặc dù kim ngạch XNK của VPBANK năm 2007 có tăng tỷ trọng lớn hơn trong tổng kim ngạch XNK của cả nước so với năm 2006 nhưng con số này xem ra vẫn là nhỏ so với tổng kim ngạch XNK cả nước là 109.21 tỷ USD. Như vậy tức là thị phần thanh toán XNK của VPBANK chỉ chiếm có 0.24% của cả nước. Nếu so với các ngân hàng khác như VIETCOMBANK chẳng hạn, ngân hàng này hiện đang là một trong những ngân hàng có thị phần và doanh thu trong lĩnh vực thanh toán xuất nhập khẩu lớn nhất cả nước với doanh thu năm 2007 là hơn gần 30 tỷ USD với thị phần là 28%, gấp 116.7 lần so với 0.24% của VPBANK hay ngân hàng TECHCOMBANK cũng có kim ngạch XNK là 4.023 tỷ USD chiếm gần 3.7% thị phần thanh toán XNK cả nước. Dưới đây là bảng thị phần thanh toán XNK của VPBANK giai đoạn 2004- 2007: Bảng 5: Thị phần thanh toán XNK của VPBANK Đơn vị: % Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Xuất khẩu 0.078 0.086 0.117 0.172 Nhập khẩu o.14 0.18 0.24 0.27 Tổng 0.11 0.13 0.18 0.24 (Nguồn: Báo cáo Tổng kết công tác thanh toán quốc tế của VPBANK giai đoạn 2003- 2007 Trong năm 2007, doanh số của các hoạt động cụ thể như sau: Hoạt động huy động vốn đạt 15.355 tỷ đồng ( 959.688 triệu USD ); hoạt động tín dụng đạt 13.217 tỷ đồng ( 826.063 triệu USD ); hoạt động TTQT đạt 260.918 triệu USD; hoạt động kiều hối đạt doanh số chi trả là 29.452 triệu USD; doanh số mua và bán ngoại tệ là 784 triệu USD và doanh số. Trong đó tỷ trọng của hoạt động TTQT so với các hoạt động khác là 9.12%. Trong thời kỳ thương mại hàng hoá quốc tế phát triển như hiện nay mà tỷ trọng của hoạt động TTQT tại VPBANK chỉ chiếm chưa đầy 10% tỷ trọng trong các hoạt động thì vẫn còn là rất khiêm tốn. Khách hàng TTQT của VPBANK cũng đa phần là các doanh nghiệp nhỏ, các cá nhân. Các hình thức chính chủ yếu là chuyển tiền TTR, thanh toán L/C nhập khẩu các lô hàng có giá trị không lớn. Thanh toán XK tại VPBANK: Từ năm 2004- 2007, kim ngạch thanh toán XK của VPBANK vẫn tăng đều đặn về giá trị, mặc dù năm 2006 có giảm so với năm 2005 từ 6.243 triệu USD xuống còn 5.655 triệu USD nhưng lại tăng lên7.160 triệu USD năm 2007. ( Bảng 4) Bảng 6: Kim ngạch thanh toán XK của VPBANK Đơn vị: Triệu USD Chỉ tiêu 2004 2005 2006 2007 VPBANK 20.561 27.967 46.137 81.073 Cả nước 26,503.000 32,442.000 39,600.000 47,238.000 Thị phần của VPBANK 0.078% 0.086% 0.117% 0.172% (Nguồn: Báo cáo Tổng kết công tác thanh toán quốc tế của VPBANK giai đoạn 2003- 2007) Như vậy mặc dù tổng giá trị thanh toán XK của VPBANK có tăng trong giai đoạn này nhưng tỷ trọng trong tổng kim ngạch XK cả nước lại giảm hay nói cách khác là thị phần giảm. Trong hoạt động thanh toán XK tại VPBANK thì phương thức thanh toán bằng chuyển tiền luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất về doanh số, kế đến là trị giá L/C XK và cuối cùng là nhờ thu XK. (Bảng 5 ) Bảng 7: Thanh toán XK tại VPBANK Đơn vị: Triệu USD Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Chuyển tiền TTR 13.752 20.553 38.214 70.059 Trị giá L/C XK 6.028 6.243 5.655 7.160 Nhờ thu XK 0.781 1.171 2.268 3.854 Tổng 20.561 27.967 46.137 81.073 (Nguồn: Báo cáo Tổng kết công tác thanh toán quốc tế của VPBANK giai đoạn 2003- 2007) Các mặt hàng xuất khẩu chính được thanh toán qua VPBANK là: Gạo, thuỷ sản, hạt tiêu, hạt điều, các sản phẩm dệt may, giày dép. Tuy nhiên trong hình thức chuyển tiền TTR thì không ghi rõ mục đích cũng như các loại hàng hoá và dịch vụ thanh toán nên không thể thống kê cụ thể và không thể phân tích được. Thanh toán NK tại VPBANK: Thanh toán NK luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch thanh toán XNK qua VPBANK trong những năm qua. Khác với thanh toán XK, trong thanh toán NK thì phương thức thanh toán bằng chuyển tiền TTR chỉ chiếm tỷ trọng thứ hai, lớn nhất là thanh toán bằng L/C và nhỏ nhất là nhờ thu NK. ( bảng 6 ) Bảng 8: Thanh toán NK tại VPBANK Đơn vị: Triệu USD Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Chuyển tiền TTR 15.594 24.132 41.864 82.568 Trị giá L/C NK 26.834 38.225 61.049 82.420 Nhờ thu 1.154 2.447 2.891 4.320 Tổng 43.582 64.804 105.804 169.308 (Nguồn: Báo cáo Tổng kết công tác thanh toán quốc tế của VPBANK giai đoạn 2003- 2007) Bảng 9: Kim ngạch thanh toán NK của VPBANK Đơn vị: Triệu USD Chỉ tiêu 2004 2005 2006 2007 VPBANK 43.582 64.804 105.804 169.308 Cả nước 31,945.000 36,987.000 44,410.000 61,972.000 Thị phần của VPBANK o.14% 0.18% 0.24% 0.27% (Nguồn: Báo cáo Tổng kết công tác thanh toán quốc tế của VPBANK giai đoạn 2003- 2007) Cũng như thanh toán xuất khẩu, thanh toán nhập khẩu cũng không thể xác định được cơ cấu các mặt hàng nhập khẩu được thanh toán qua VPBANK, các loại nhập khẩu được thanh toán qua VPBANK chủ yếu là các mặt hàng tiêu dung, xăng dầu, sắt thép và máy móc thiết bị. Tuy nhiên qua các hình thức thanh toán bằng L/C và nhờ thu thì có thể nhận thấy mặt hàng được thanh toán NK qua VPBANK nhiều nhất là xăng dầu, kế đến là các mặt hàng tiêu dung, sau đó là sắt thép và cuối cùng là máy móc thiết bị. Kết hợp bảng số liệu 7 và 8 cho thấy xu hướng chung của các doanh nghiệp Việt Nam là khi XK thì thường hay chon hình thức thanh toán đơn giản, chi phí thấp mà chủ yếu là bằng điện chuyển tiền TTR. Còn khi NK thì lại thanh toán bằng L/C. Đây là một xu hướng không có lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào hoạt động giao lưu buôn bán, thương mại quốc tế. Hoạt động thanh toán quốc tế khác tại VPBANK: Ngoài hoạt động thanh toán XNK bằng các hình thức như chuyển tiền, nhờ thu và L/C thì VPBANK còn đang thử nghiệm hình thức thanh toán bằng thẻ trả trước quốc tế VPBank Platinum EMV Master Card. Đây cũng là một hình thức hứa hẹn nhiều tiềm năng phát triển và cạnh tranh gay gắt mà rất nhiều ngân hàng khác cũng đã và đang thử nghiêm thành công. Một hình thức khác liên quan đến việc hỗ trợ thanh toán đó là nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ. Có rất ít tài liệu và số liệu nói về hoạt động nay, nhưng nói chung là ngân hàng VPBANK vẫn cố gắng duy trì lượng ngoại tệ dự trữ để đáp ứng tốt nhất nhu cầu thanh toán quốc tế bằng ngoại tệ của khách hàng. Đánh giá chung về hoạt động thanh toán quốc tế của VPBANK: Những kết quả đạt được: Mặc dù kết quả hoạt động thanh toán XNK tại VPBANK trong giai đoạn vừa qua là vẫn còn khiêm tốn nhưng nhìn chung là có những tiến triển nhất định, cụ thể là: - Thứ nhất, là việc kim ngạch thanh toán XNK qua VPBANK liên tục tăng chứng tỏ ngân hàng ngày càng có được sự tin cậy từ phía khách hàng. - Thứ hai, là cùng với việc tăng kim ngạch thanh toánh XNK qua VPBANK là việc mạng lưới ngân hàng đại lý ngày càng được mở rộng khắp nơi trên thế giới, hiệu quả hoạt động cao. - Thứ ba, là trong ba phương thức TTQT chính là chuyển tiên, nhờ thu và L/C thì hình thức thanh toán bằng thư tín dụng L/C là hình thức ưu việt nhất, g._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26372.doc