Phát triển hợp tác xã kiểu mới trong nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Nam

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hợp tác xã (HTX) là một tổ chức kinh tế mang tính xã hội và nhân văn sâu sắc. Có thể nói, ý tưởng HTX là một ý tưởng hợp tác kinh tế vĩ đại của các bậc tiền bối. Ý tưởng này đã hình thành một cách tự nhiên từ những đòi hỏi, nhu cầu thực tế của con người trong hoạt động kinh tế. Con đường hợp tác đưa nông nghiệp, nông thôn quá độ lên CNXH ở nước ta đã trải qua hơn 50 năm. Quá trình ấy đã có những biến đổi, những bước thăng trầm do những điều kiện khách quan

doc121 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1425 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Phát triển hợp tác xã kiểu mới trong nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và những nhân tố sai lầm chủ quan. Song kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX trong những năm qua, đã có nhiều đóng góp quan trọng vào quá trình phát triển KT-XH của đất nước. Thực hiện các chủ trương, chính sách đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước, đặc biệt thực hiện Nghị quyết 13 Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khoá IX) “Về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể”, phong trào phát triển HTXNN ở Quảng Nam không ngừng được củng cố và ngày càng khẳng định vai trò hết sức to lớn, nhất là trong nông nghiệp, nông thôn, không những thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế mà còn phát triển ngành nghề, giải quyết việc làm... Trong củng cố và phát triển HTX ở Quảng Nam đã khơi dậy và đáp ứng nhu cầu hợp tác đa dạng trong nhân dân, tôn trọng tính tự nguyện, tự chủ của HTX, xuất phát từ lợi ích của xã viên, người lao động, chăm lo phúc lợi tập thể, hỗ trợ giúp đỡ người nghèo, đóng góp tích cực vào xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn... Từ đó tạo được sự phát triển bền vững, cán bộ xã viên gắn bó với HTX không chỉ đơn thuần về lợi ích kinh tế mà còn thể hiện tính xã hội tốt đẹp, sâu sắc. Qua thực tiễn các HTX tiên tiến, sự kết hợp hài hoà giữa tính tự chủ của kinh tế hộ xã viên với HTX thông qua mối quan hệ dịch vụ, trợ giúp chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ mà bản thân từng hộ xã viên không thể tự làm được hoặc làm không có hiêụ quả, cả trong lĩnh vực nông nghiệp và phi nông nghiệp. Qua đó, kinh tế hộ càng phát triển đã tạo tiền đề quan trọng để tiếp tục phát triển HTX. Mối quan hệ giữa kinh tế hộ xã viên với HTX được nâng lên ở cấp độ cao hơn, HTX từng bước mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh, dich vụ... và ngày càng thể hiện rõ nét là tổ chức kinh tế, vừa có tính xã hội sâu sắc. Nhiều HTX trên địa bàn tỉnh Quảng Nam đã minh chứng bản chất tốt đẹp của một tổ chức kinh tế gần giũ với mục tiêu xây dựng CNXH ở nước ta. Có thể khẳng định rằng, sự tồn tại và phát triển của kinh tế HTX là một tất yếu khách quan trong điều kiện cơ chế thị trường khi kinh tế hộ thực sự trở thành đơn vị kinh tế tự chủ. Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu kết quả phát triển HTX trên địa bàn của tỉnh Quảng Nam vẫn còn nhiều vấn đề đáng quan tâm như: Kinh tế hộ nông dân Quảng Nam hầu hết là nhỏ bé, thiếu vốn, thiếu tư liệu sản xuất, thiếu hiểu biết về kỹ thuật canh tác và nhiều khâu của quá trình sản xuất hộ nông dân không tự làm được, năng lực nội sinh, địa vị và quyền lợi của xã viên, và người lao động; vị thế kinh tế HTX trong nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN. Để tồn tại và phát triển đòi hỏi những người sản xuất phải liên kết lại với nhau trên nguyên tắc tự nguyện, kết hợp sức mạnh tập thể và sức mạnh của từng thành viên để đứng vững trong nền kinh tế thị trường. Từ yêu cầu khách quan đó, sự tồn tại của các hình thức kinh tế hợp tác, HTX trong nông nghiệp là cần thiết. Mặt khác trước yêu cầu của sự nghiệp phát triển KT-XH của tỉnh, vai trò kinh tế HTX ngày càng giữ vị trí quan trọng trọng việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, góp phần tích cực vào việc thực hiện thắng lợi CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn, phấn đấu đưa Quảng Nam trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2015-2020. Vì vậy vấn đề cơ bản và cấp bách đặt ra đối với Quảng Nam là phải đánh giá đúng tình hình và kết quả hoạt động của các HTX, rút ra những kinh nghiệm và đề ra những giải pháp tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả kinh tế HTX kiểu mới trong nông nghiệp trong thời gian đến. Đề tài “Phát triển hợp tác xã kiểu mới trong nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Nam”, nhằm góp phần thực hiện mục các yêu cầu đặt ra đối với phát triển nông nghiệp, nông thôn của tỉnh trong quá trình đẩy mạnh CNH-HĐH. 2. Tình hình nghiên cứu Đây là mảng đề tài được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm trong quá trình thực hiện CNH-HĐH nông nghiệp và nông thôn ở nước ta. Trên phạm vị địa bàn tỉnh Quảng Nam đã có một số công trình nghiên cứu như: HTX Duy Sơn 2, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam - Những gợi mở từ thực tiễn về con đường đưa nông nghiệp, nông thôn lên CNXH của tập thể tác giả, GS.TS Lưu Văn Sùng; PGS.TS. Ngô Quang Minh; Thạc sĩ. Nguyễn Phong Duễ; TS. Ngô Huy Đức; TS. Lê Minh Quân; Nguyễn Thanh Quang PGĐ Sở NN&PTNT Quảng Nam, tháng 4/2001. Đề tài khoa học Mô hình HTX kiểu mới trong nông nghiệp ở Quảng Nam- Bước đi và giải pháp của Kỹ sư Nguyễn Cứu Quốc.v.v... Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập những khía cạnh khác nhau trên lĩnh vực này. Song, với giác độ chung trên các lĩnh vực xây dựng và phát triển mô hình HTX kiểu mới trong nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Nam chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống về chủ đề này. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích của luận văn là phân tích thực trạng tổ chức và quản lý HTXNN và đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển HTX kiểu mới trong nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. 3.2. Để thực hiện được mục đích trên luận văn có nhiệm vụ sau: - Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về HTX kiểu mới trong nông nghiệp. - Phân tích quá trình hình thành và phát triển HTX kiểu mới trong nông nghiệp tỉnh Quảng Nam những năm vừa qua (2001-2005). Đề xuất những giải pháp để phát triển HTX kiểu mới trong nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới. 4. Đối tương và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu là các HTX kiểu mới trong nông nghiệp 4.2. Phạm vi nghiên cứu các HTX kiểu mới trong nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, đề tài chú trọng sử dụng phương pháp tổng kết thực tiễn, phân tích, so sánh, điều tra khảo sát... trong đó trực tiếp trao đổi với một số cán bộ lãnh đạo của tỉnh, cán bộ quản lý HTX... Tham khảo kinh nghiệm các HTXNN điển hình trong và ngoài nước. 6. Ý nghĩa của luận văn Thông qua việc nghiên cứu về thực trạng tình hình hoạt động của các HTXNN trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, đánh giá những kết quả đã đạt được, những mặt hạn chế. Đồng thời đề xuất những giải pháp nhằm góp phần phát triển HTXNN kiểu mới đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH tỉnh Quảng Nam trong thời kỳ CNH-NĐH nông nghiệp và nông thôn. 7. Kết cấu luận văn Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục; luận văn được kết cấu 3 chương, 8 tiết. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN HỢP TÁC XÃ KIỂU MỚI TRONG NÔNG NGHIỆP 1.1. QUAN ĐIỂM VỀ HỢP TÁC XÃ KIỂU MỚI TRONG NÔNG NGHIỆP 1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin bàn về hợp tác xã nông nghiệp Lịch sử phát triển của xã hội loài người chính là lịch sử của sự phát triển LLSX, đi với nó là một QHSX phù hợp. Sự hợp tác giữa người và người không chỉ vì yêu cầu của sản xuất mà còn cả yêu cầu của cuộc sống để nương tựa nhau, hỗ trợ nhau và bảo vệ cho nhau. Trong bộ Tư bản cũng như trong nhiều tác phẩm khác của C. Mác, đối tượng nghiên cứu là phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và những QHSX và trao đổi thích ứng với phương thức sản xuất ấy. Với quan điểm triết học, nắm vững và vận dụng quy luật QHSX phải phù hợp với LLSX, C. Mác đã phân tích quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản theo 3 giai đoạn: hiệp tác giản đơn, công trường thủ công và đại công nghiệp cơ khí. Đó là ba giai đoạn phát triển có tính tuần tự của LLSX, tương ứng với nó là QHSX phù hợp, bao gồm cả quan hệ sở hữu, quan hệ phân phối và quan hệ quản lý với những hình thức tổ chức sản xuất tương ứng dựa trên chế độ hiệp tác. C. Mác đã cho rằng hình thức hiệp tác (giản đơn) là điểm xuất phát lịch sử và lôgích của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa [24, tr.468]. Sự khởi đầu này bắt nguồn từ sự mở rộng các xưởng sản xuất của những người thợ cả làm nghề thủ công có tính chất phường hội thành các công xưởng. Trong các công xưởng đó, sự hiệp tác được hiểu là sự hoạt động của một số công nhân làm việc trong cùng một thời gian, trên cùng một không gian (hoặc trên cùng một địa điểm lao động) để sản xuất ra cùng một loại hàng hóa dưới sự điều khiển của một nhà tư bản [24, tr.468]. Tuy nhiên, ngay trong giai đoạn hiệp tác đơn giản, khái niệm hiệp tác đã được mở rộng hơn, đó là hình thức lao động trong đó nhiều người làm việc theo kế hoạch bên cạnh nhau và cùng với nhau, trong cùng một quá trình sản xuất hay trong những quá trình khác nhau nhưng gắn liền với nhau [24, tr.478]. Theo tiến trình phát triển của lịch sử, LLSX không ngừng phát triển và ngày càng nâng cao thì tất yếu sẽ xuất hiện các QHSX và hình thức tổ chức sản xuất tương ứng. Chuyển sang giai đoạn công trường thủ công tư bản chủ nghĩa, tuy cơ sở kỹ thuật vẫn dựa trên công cụ và lao động thủ công nhưng do qui mô sản xuất tăng lên nhờ sự hiệp tác của nhiều ngành nghề khác nhau, tất yếu xuất hiện các hình thức phân công và hiệp tác lao động với trình độ và qui mô lớn hơn mà C. Mác đã khái quát thành ba loại: phân công lao động chung, phân công lao động đặc thù, phân công lao động cá biệt, tức là sự hiệp tác diễn ra trên ba phạm vi: xã hội, trong từng ngành và trong từng công xưởng, và như vậy sự trao đổi hàng hóa, phát triển thị trường trở thành cơ sở và động lực của sự hiệp tác trên phạm vi toàn xã hội, thúc đẩy những người sản xuất hàng hóa không chỉ hiệp tác mà còn cạnh tranh với nhau. C. Mác viết: "Sự phân công lao động trong xã hội đặt những người sản xuất hàng hóa độc lập đối diện với nhau, những người này không thừa nhận một uy lực nào khác ngoài uy lực của cạnh tranh [24, tr.517]. Và cũng chính từ sự hiệp tác trên qui mô rộng lớn dựa trên nền sản xuất hàng hóa đi đôi với những phát kiến về khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đã chuyển sang giai đoạn đại công nghiệp cơ khí dựa trên cơ sở lao động và công cụ máy móc. Về phần mình, đại công nghiệp cơ khí lại tạo cho sự hiệp tác trở thành một tất yếu kỹ thuật không thể nào cưỡng chế nổi, khi C.Mác nói là quá trình sản xuất đó không liên quan gì đến bàn tay của con người mà là dựa trên các nguyên lý của kỹ thuật học. "Nền đại công nghiệp không ngừng đảo lộn những cơ sở kỹ thuật của nền sản xuất, và cùng với chúng là những chức năng của công nhân và những sự kết hợp xã hội của quá trình lao động" [24, tr.692]. Chính trong giai đoạn đại công nghiệp cơ khí, khoa học và kỹ thuật không chỉ là cơ sở của sản xuất mà còn là điều kiện của hiệp tác và là đối tượng hiệp tác của sản xuất và kinh tế. Như vậy, cùng với sự phát triển không ngừng của LLSX mà quy mô và trình độ của sự hiệp tác cũng tăng lên, đi liền với nó là hình thức tổ chức sản xuất cũng trở nên hết sức đa dạng, đồng thời cũng chính từ qui mô, trình độ và hình thức hiệp tác không ngừng tăng lên lại thúc đẩy phát triển LLSX. Mối quan hệ tác động biện chứng đó diễn ra trong lịch sử nhân loại hàng trăm năm nay, đưa loài người bước sang nền văn minh mới với sự hiệp tác trên phạm vi toàn thế giới. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã viết: "Đại công nghiệp đã tạo ra thị trường thế giới... thị trường thế giới thúc đẩy cho thương nghiệp, hàng hải, những phương tiện giao thông tiến bộ phát triển mau chóng lạ thường, sự phát triển này lại thúc đẩy công nghiệp, thương nghiệp, hàng hải càng phát triển làm tăng tư bản của giai cấp tư sản lên" [23, tr.598]. Rõ ràng, hiệp tác là một quá trình khách quan, không ngừng phát triển, cũng giống như khoa học là một lực lượng tự nhiên, không tốn kém gì đối với nhà tư bản mà chỉ mang lại lợi ích mà thôi. Trong tác phẩm của mình, C. Mác đã chỉ ra những lợi ích của sự hiệp tác giản đơn như sau: - Sử dụng chung các tư liệu lao động - Tạo ra sức mạnh gấp bội để làm những công việc mà cá nhân riêng rẽ không thể làm nổi. - Tạo ra không khí thi đua tăng năng suất lao động. - Tạo cho đối tượng lao động được chuyển vận nhanh chóng. - Phân công chuyên môn hóa nên có thể rút ngắn thời gian tạo ra sản phẩm. - Hoàn thành công việc khẩn cấp trong một thời gian nhất định. - Mở rộng hoặc thu hẹp phạm vi không gian của lao động một cách phù hợp. - Tạo ra sức sản xuất của lao động xã hội, qua đó tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Ở trình độ cao hơn, hiệp tác có phân công sẽ tạo ra điều kiện để chuyên môn hóa công cụ và lao động, thúc đẩy sản xuất các máy móc ngày càng tinh xảo, đồng thời thúc đẩy thị trường phát triển. Tuy nhiên, để tận dụng và phát huy các lợi thế của hiệp tác cần phải có các điều kiện, trong đó C. Mác đã chỉ ra các điều kiện tiên quyết sau đây: Thứ nhất, phải có một lực lượng tư bản đủ để mua sức lao động và tư liệu lao động. C. Mác viết: "Con số những công nhân hiệp tác, hay qui mô sự hiệp tác, phụ thuộc trước hết vào đại lượng của tư bản mà một nhà tư bản riêng rẽ có thể chi ra trong việc mua sức lao động... sự tích tụ một khối lượng lớn tư liệu sản xuất vào trong tay những nhà tư bản riêng rẽ là điều kiện vật chất cho sự hiệp tác của những công nhân làm thuê và qui mô hiệp tác hoặc qui mô sản xuất phụ thuộc vào qui mô của sự tích tụ đó" [24,tr.479]. Thứ hai, phải có sự chỉ huy, quản lý với trình độ có thể đảm bảo cho quá trình sản xuất luôn suôn sẻ và đạt hiệu quả cao, và quản lý trở thành một tất yếu của lao động hiệp tác. C.Mác viết: "Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng" [24, tr.480]. Thứ ba, cần phải có những người lao động tự do, bán sức lao động cho nhà tư bản. C. Mác viết: "Hình thức tư bản của sự hiệp tác thì ngay từ đầu đã giả định phải có người lao động làm thuê tự do, bán sức lao động của mình cho nhà tư bản" [24, tr.485]. Thứ tư, đảm bảo lợi ích thỏa đáng là một điều kiện của sự hiệp tác. Nhà tư bản phát triển các hình thức hiệp tác từ thấp đến cao là nhằm thu được giá trị thặng dư cao nhất, còn người lao động làm thuê tiến hành hiệp tác lao động trước hết là vì lợi ích của bản thân và qua đó đem lại lợi ích cho nhà tư bản. C. Mác viết: "Động cơ thúc đẩy và mục đích quyết định của quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự tăng lên càng nhiều càng tốt của tư bản, tức là sự sản xuất ra giá trị thặng dư càng nhiều càng tốt" [24, tr.480]. Qua nghiên cứu lý luận "hiệp tác" trong học thuyết của C. Mác có thể rút ra một số vấn đề sau đây: Hiệp tác là một hiện tượng khách quan của xã hội loài người và đã xuất hiện rất sớm kể từ khởi đầu nền văn minh của loài người và không ngừng phát triển theo sự phát triển của LLSX, tuy nhiên mỗi chế độ xã hội khác nhau có nội dung và hình thức hiệp tác khác nhau. Hiệp tác tư bản chủ nghĩa là sự hiệp tác của những người lao động làm thuê tự do, bán sức lao động của mình cho nhà tư bản, còn hiệp tác XHCN theo C. Mác là sự hiệp tác của những người sản xuất tự do và bình đẳng liên hiệp lại để tiến hành lao động xã hội theo một kế hoạch chung và hợp lý [21, tr.86]. Hiệp tác diễn ra đồng thời với quá trình phân công lao động, do đó có các phạm vi hiệp tác khác nhau: cá biệt, đặc thù và trên toàn xã hội và còn diễn ra trên phạm vi thế giới với các hình thức hết sức đa dạng và phong phú. Hiệp tác mang lại nhiều lợi ích có thể sánh như khoa học là lực lượng tự nhiên mà nhà tư bản khai thác nó không tốn một đồng xu, do đó nó cũng có lợi nhất định cho người lao động và cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên việc khai thác lợi thế của sự hiệp tác không tốt cũng sẽ gây ra những tác hại to lớn không thể lường trước được. Để đảm bảo cho hiệp tác phát huy lợi thế, tránh sai lầm, thua thiệt cần có nhiều điều kiện, trong đó có bốn điều kiện tiên quyết: - Có đủ lượng tư bản cần thiết để mua sức lao động và tư liệu lao động; - Có sự quản lý với trình độ phù hợp với qui mô của hiệp tác; - Người lao động được tự do bán sức lao động và tham gia hiệp tác; - Đảm bảo lợi ích thỏa đáng. Phát triển lý luận về hợp tác của C. Mác, Lênin đã luận giải sự cần thiết, các tiền đề của kinh tế hợp tác và các nguyên tắc hợp tác dưới CNXH. Theo Lênin, đi lên CNXH có nghĩa là tiến tới chế độ xã hội văn minh cần cả một thời kỳ cải biến cách mạng có tính lịch sử nhằm tạo nên tiền đề cho một chế độ kinh tế mới - chế độ hợp tác kinh tế XHCN. Và khi tất cả những người lao động đã được giải phóng khỏi ách áp bức, bóc lột và tự nguyện hợp tác lao động với nhau thì sẽ có CNXH. Theo V.I. Lênin, HTX có ý nghĩa đặc biệt, nó là bước quá độ sang một chế độ mới bằng con đường đơn giản nhất dễ tiếp thu nhất đối với nông dân. Lênin viết: "Khi nhân dân lao động đã vào hợp tác xã với mức độ nhất định, thì chủ nghĩa xã hội tự nó sẽ được thực hiện". Lênin cũng nêu lên các tiền đề của chế độ hợp tác dưới CNXH bao gồm: - Tiền đề chính trị, có tính tiên quyết, đó là chính quyền thuộc về nhân dân và do chính Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo; - Tiền đề kinh tế mà cốt lõi là quan hệ kinh tế giữa các HTX với kinh tế nhà nước để thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. - Tiền đề văn hóa, xã hội tạo cho chế độ hợp tác tính nhân bản, trình độ văn minh trong lao động hợp tác và quản lý kinh tế hợp tác. Lênin rất quan tâm đến việc Nhà nước giúp đỡ tài chính cho HTX. “Một chế độ xã hội chỉ nảy sinh nếu được một giai cấp nhất định nào đó giúp đỡ về tài chính... Trong lúc này, chế độ xã hội mà chúng ta ủng hộ hơn hết là chế độ HTX.... Phải cho chế độ HTX hưởng một số đặc quyền kinh tế, tài chính, ngân hàng; sự ủng hộ mà nhà nước XHCN của chúng ta mang lại cho nguyên tắc tổ chức mới của dân cư phải là như vậy” [21]. Cũng chính Lê nin đã phát triển quan điểm mác - xít về kinh tế hợp tác và nêu lên các nguyên tắc và hình thức tổ chức kinh tế hợp tác. Nguyên tắc đầu tiên của hợp tác là tự nguyện, không cưỡng ép nông dân vào HTX bằng bất cứ hình thức nào, ngoài ra phải tôn trọng nguyên tắc cùng có lợi, quản lý dân chủ và có sự giúp đỡ của nhà nước. Bước đi của hợp tác là phải tiến hành từng bước, phù hợp với quá trình phát triển KT-XH, tức là theo qui luật QHSX phải phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX. Trong chính sách kinh tế mới (NEP) Lênin nêu ra bước đi của hợp tác là từ thương mại rồi dần đi vào sản xuất. Lênin nhấn mạnh tính thiết thực, cụ thể, phù hợp với từng ngành, từng lĩnh vực SXKD, phù hợp với phong tục, tập quán và dân trí của từng vùng. 1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác xã nông nghiệp ở nước ta Hồ Chí Minh, trong tác phẩm "Đường cách mệnh" viết năm 1927 đã để một chuyên mục viết về HTX, trong đó nêu rõ lịch sử phát triển HTX của thế giới mà đầu tiên là HTX dệt vải ở Anh năm 1761 và lan rộng ra các nước khác như Nga, Đức, Đan mạch, Nhật bản. Lý luận về hợp tác theo Hồ Chí Minh thật là đơn giản khi Người nêu ra các câu tục ngữ Việt Nam: "nhóm lại thành giàu, chia nhau thành khó", "một cây làm chẳng nên non, nhiều cây nhóm lại thành hòn núi cao". Hình thức hợp tác có 4 loại, hay 4 cách, đó là: HTX tiền bạc; HTX mua; HTX bán và HTX sinh sản nhằm mục đích giúp nhau, nhờ lẫn nhau, "làm sao cho ai trồng cây thì được ăn trái, ai muốn ăn trái thì giùm vào trồng cây". Đặc biệt Hồ Chí Minh nhấn mạnh cách tổ chức HTX đảm bảo tính đa dạng, tuỳ hoàn cảnh cụ thể mà lập HTX, không rập khuôn, nên tạo sự liên kết các HTX với nhau, đảm bảo các thành viên được hưởng lợi và bình đẳng. Khi lãnh đạo nhân dân xây dựng CHXH ở miền Bắc Chủ tịc Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến việc xây dựng củng cố HTX “ Muốn nâng cao đời sống là chỉ có một cách là tổ chức nông dân làm ăn tập thể tức là tổ chức nông dân vào HTXNN... Chúng ta phải củng cố thật tốt các tổ đổi công mà các HTX đã tuyên truyền và giáo dục nông dân, làm cho phong trào phát triển vững chắc... Tổ đổi công và HTX phát triển cái nào phải củng cố thật tốt cái ấy. Cần phải nêu cao tính chất hơn hẳn của HTX bằng chứng kết quả thiết thực làm cho thu nhập của xã viên được tăng thêm, làm cho xã viên sau khi vào HTX thu hoạch nhiều hơn hẳn khi còn ở ngoài. Như thế thì xã viên sẽ phấn khởi, sẽ gắn bó chặt ché với HTX của mình. Đó là phương pháp tuyên truyền thuyết phục tốt nhất để khuyến khích nông dân vào HTX. Phải cần kiệm xây dựng HTX vì HTX là lực lượng chính ở nông thôn. Mục đích tổ chức HTX là để tăng gia sản xuất, nâng cao đời sống của nhân dân, trước hết là của nông dân. Thế là vừa lợi riêng cho nông dân và lợi chung cho Nhà nước, hai cái lợi đó đi đôi với nhau. Vì vậy phải củng cố HTX. Về mặt vật chất phải quản lý cho tốt; về mặt tinh thần, phải giáo dục cho nông dân hiểu vì sao phải củng cố HTX. Qua nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác cho chúng ta thấy rằng. Những vấn đề lý luận về hợp tác, kinh tế hợp tác và HTX không quá phức tạp và đều bắt nguồn từ thực tế cuộc sống. Một xã hội muốn tồn tại phải có sản xuất, hoạt động kinh tế và đều là một quá trình phân công và hợp tác lao động hoặc là tự phát, hoặc là tự giác. Bản thân thị trường là một hệ thống sản xuất và trao đổi, lúc đầu mang tính tự phát và tiến dần tới tự giác khi có sự tổ chức và điều chỉnh của các chủ thể kinh doanh và đặc biệt có sự quản lý của Nhà nước. Trong thị trường có các tổ chức kinh tế như doanh nghiệp và HTX là những hệ thống phân công và hợp tác lao động một cách tự giác, tuy nhiên sự hợp tác trên trên thị trường cũng không thể loại trừ hết tính tự phát, và chính sự phân công và hợp tác sản xuất và trao đổi trên thị trường một cách tự phát, mang tính tự nhiên cũng là một ưu thế, một vẻ đẹp của thị trường. Chính sự phân công và hợp tác lao động, hợp tác kinh tế và tổ chức các hình thức hợp tác cũng đi từ tự phát đến tự giác. Trong sản xuất nông nghiệp nước ta từ xa xưa đã có sự hợp tác nào đó như đổi công, vần công, hợp tác trong chăn trả trâu bò, trong tưới tiêu nước... do các hộ nông dân tự liên kết với nhau. Sự hình thành các hình thức tổ chức hợp tác đó mang tính tự phát nhưng lại dựa trên tính tự giác của từng người nông dân. Chỉ từ sau khi có Đảng lãnh đạo thì sự hợp tác mới thực sự là tự giác, có đường lối hợp tác hóa và sự chỉ đạo thành lập các hình thức hợp tác từ thấp đến cao và tác động vào ý thức tự giác của nông dân đi vào con đường hợp tác hóa. Tất nhiên không phải mọi sự chủ động, có tổ chức tiến hành một công việc nào đó dưới một sự chỉ đạo chung nào đó đều được coi là một sự tự giác mà phải thấy rằng tự giác phải là sự thể hiện tính chủ quan trên cơ sở nhận thức và vận dụng đúng các qui luật khách quan. Cái gọi là "tự giác" mà không phù hợp với qui luật khách quan thì vô tình hay hữu ý cũng là một sự chủ quan duy ý chí, còn nguy hại hơn cả tính tự phát theo sự vận động tự nhiên của sự vật. Hợp tác là một nhu cầu khách quan của con người cả trong sản xuất và đời sống, bắt nguồn từ nhu cầu thực tiễn của con người theo qui luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX, là một qui luật phổ biến đối với mọi chế độ xã hội khác nhau. Tính tự giác và chủ động trong sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước là không ngừng tác động để thúc đẩy phát triển LLSX và tùy theo trình độ của LLSX và nhu cầu của sản xuất mà chủ động xây dựng QHSX phù hợp. Quá trình lãnh đạo xây dựng QHSX trong nông nghiệp nước ta đã trải qua nửa thế kỷ với các bước thăng trầm trong tổ chức thực tiễn, cũng là quá trình nhận thức cơ sở lý luận về HTX ngày càng tự giác hơn. 1.1.3. Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về phát triển hợp tác xã kiểu mới trong nông nghiệp 1.1.3.1. Quan điểm của Đảng qua các kỳ Đại hội (kể từ Đại hội VI đến nay) Đường lối đổi mới do Đại hội VI đề xướng đã khẳng định phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, trong đó kinh tế HTX được khẳng định cùng với kinh tế nhà nước dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân; đồng thời thừa nhận sự tồn tại của kinh tế HTX phải đi đôi với sự phát triển đa dạng của các hình thức kinh tế hợp tác từ thấp đến cao, HTX là bộ phận nòng cốt của kinh tế hợp tác. Nghị quyết 10-NQ/TW của Bộ Chính trị (khoá VI) đã khẳng định, kinh tế HTX có nhiều hình thức từ thấp đến cao, mọi tổ chức SXKD do người lao động tự nguyện góp vốn, góp sức, được quản lý theo nguyên tắc dân chủ đều là HTX. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khoá VII) tháng 6/1993 làm rõ thêm bản chất của HTX trên cơ sở phát huy tính tự chủ của kinh tế hộ, coi kinh tế hộ là bộ phận khắng khít của kinh tế HTX. Nghị quyết Hội nghị giữa nhiệm kỳ (khoá VII) tiếp tục khẳng định và phát triển quan điểm của Đảng coi kinh tế HTX với nhiều hình thức phong phú và đa dạng từ thấp đến cao, phù hợp với nguyện tác tự nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ, kết hợp với sức mạnh của hộ xã viên, làm cho kinh tế hợp tác trở thành một thành phần kinh tế vững mạnh, cùng với kinh tế quốc doanh trở thành xương sống của nền kinh tế quốc dân. Đến Đại hội VIII, quan điểm phát triển kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Quan điểm của Đảng được cụ thể hoá trong Nghị quyết 13-NQ/TW tại Hội nghị Trung ương 5 (khoá IX) đã nêu: Thứ nhất: kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX thời gian tới phải phát triển đa dạng về hình thức, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn, bao gồm nhiều hình thức sở hữu, với nhiều trình độ khác nhau, từ tổ hợp tác đến HTX và lên đến trình độ cao là liên hiệp HTX. Sở hữu trong kinh tế tập thể dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi với các thành phần kinh tế khác, không giới hạn về quy mô, lĩnh vực và địa bàn; Phân phối vừa theo lao động, vừa theo vốn góp và mức độ tham gia của dịch vụ; Nguyên tắc hoạt động: tự chủ; tự chịu trách nhiệm; Thành viên tập thể bao gồm cả thể nhân và pháp nhân... cùng góp vốn, cùng góp sức trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi và quản lý dân chủ. Thứ hai: kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX phải là một tổ chức kinh tế kết hợp hài hoà giữa lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội của các thành viên và lợi ích tập thể: Kinh tế tập thể lấy lợi ích kinh tế làm chính, bao gồm lợi ích của các thành viên và lợi ích tập thể, đồng thời coi trọng lợi ích xã hội của thành viên, góp phần xoá đói giảm nghèo, tiến lên làm giàu cho các thành viên và phát triển cộng đồng. Do vậy, khi đánh giá hiệu quả kinh tế tập thể phải trên cơ sở quan điểm toàn diện, cả kinh tế-chính trị-xã hội, cả hiệu quả của tập thể và hiệu quả của các thành viên; Thứ ba: khẳng định sự cần thiết phải tiếp tục phát triển rộng rãi các hình thức kinh tế tập thể trong tất cả các ngành, lĩnh vực và địa bàn, trong đó trọng tâm là khu vực nông nghiệp, nông thôn; Phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp, nông thôn phải đảm bảo quyền tự chủ của kinh tế hộ, trang trại; Khẳng định kinh tế tập thể tuyệt nhiên không thay thế hoặc thủ tiêu kinh tế hộ, trang trại; Gắn phát triển kinh tế tập thể với quá trình CNH-HĐH nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới; Thúc đẩy kinh tế tập thể không ngừng phát triển sức sản xuất, vươn lên cạnh tranh trong quá trình hội nghập kinh tế quốc tế. Thứ tư: tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và phát huy vai trò của các đoàn thể nhân dân trong phát triển kinh tế tập thể: Nhà nước ban hành các chính sách trợ giúp kinh tế tập thể trong quá trình xây dựng và phát triển, thông qua việc giúp đỡ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, ứng dụng KH-CN, nắm bắt thông tin, mở rộng thị trường, xây dựng các quỹ hỗ trợ phát triển, giải quyết nợ tồn đọng trước đây, khuyến khích việc tích luỹ và sử dụng có hiệu quả vốn tập thể trong HTX; Phát huy vai trò Liên minh HTX Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc tuyên truyền, vận động quần chúng tham gia kinh tế tập thể, thực hiện tốt Quy chế dân chủ cơ sở, đảm bảo công tác kiểm tra, kiểm soát của các thành viên, ngăn ngừa tham nhũng, lãng phí. Thứ năm: Nghị quyết 13/NQ/TW chỉ rõ phương châm phát triển kinh tế tập thể trong thời gian tới: Phát triển HTX phải theo phương châm tích cực, chủ động, nhưng phải vững chắc, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, đi từ thấp đến cao, đa dạng về mô hình, vì hiệu quả thiết thực, trước hết là vì sự phát triển của sức sản xuất, triệt để tôn trọng nguyên tắc tự nguyện, nhất quyết không nóng vội, chủ quan duy ý chí, áp đặt; Nhưng cũng yêu cầu cấp uỷ Đảng và chính quyền các cấp cần khắc phục sự buông lỏng lãnh đạo, bị động ngồi chờ, để mặc sự phát triển tự phát của nền kinh tế, mà chậm trể trong việc nắm bắt và đáp ứng những đòi hỏi của nhân dân về phát triển kinh tế tập thể. Nghị quyết Trung ương yêu cầu phải xác lập môi trường thể chế và tâm lý xã hội thuận lợi cho kinh tế hợp tác, HTX phát triển như: Sửa đổi bổ sung một số quy định pháp luật hiện hành về những vấn đề liên quan đến kinh tế tập thể, bảo đảm tính nhất quán giữa các luật, Luật Đất đai, Luật Ngân hàng, Luật các tổ chức Tín dụng, các Luật về Thuế, Bộ Luật Dân sự, Luật về Bảo hiểm xã hội, Pháp lệnh Cán bộ công chức... tạo điều kiện cho Luật HTX đi nhanh vào cuộc sống theo hướng giảm tối đa thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh, thành viên HTX bao gồm cả thể nhân và pháp nhân; cán bộ công chức được tham gia HTX với tư cách là xã viên; phân định rõ chức năng quản lý của Ban quản trị và chức năng điều hành của Chủ nhiệm; Chủ nhiệm có thể là xã viên hoặc ngoài HTX do ban quản trị thuê; HTX tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong lựa chọn ngành, nghề kinh doanh, chuyển dịch cơ cấu, đa dạng lĩnh vực hoạt động phù hợp với nhu cầu thị trường; Ban hành đồng bộ, kịp thời các văn bản dưới luật, sửa đổi bổ sung Điều lệ mẫu phù hợp với đặc thù của các loại hình HTX để dễ vận dụng; Hướng dẫn về tổ chức, hoạt động đối với tổ hợp tác theo Bộ luật Dân sự. Tạo lập môi trường tâm lý xã hội thuận lợi cho kinh tế hợp tác, HTX phát triển bằng việc: Tăng cường tuyên tryền chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế hợp tác, HTX và các mô hình làm ăn có hiệu quả; Biểu dương, khen thưởng những cá nhân và tập thể có thành tích và đóng góp cho kinh tế hợp tác, HTX; Đưa nội dung phát triển kinh tế hợp tác, HTX vào giảng dạy trong các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. 1.1.3.2. Chính sách Nhà nước về phát triển kinh tế hợp tác, hợp tác xã trong nền kinh tế thị trường Chính sách phát triển kinh tế hợp tác, HTX của Nhà nước qua các thời kỳ: Trước thời kỳ đổi mới, các chính sách phát triển kinh tế hợp tác, HTX của Đảng và Nhà nước được thiết kế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp; quan hệ giữa Nhà nước-HTX- xã viên không đựơc phân chia hợp lý, đặc biệt lợi ích xã viên và người lao động trong HTX ít được chú t._.rọng. Giai đoạn từ thời điểm khởi đầu công cuộc đổi mới đến trước khi có Luật HTX 1996, xu hướng chính sách lại coi trọng khuyến khích và tạo điều kiện tối đa cho lợi ích cá nhân, mở rộng quyền tự chủ cho xã viên, có phần coi nhẹ sự phát triển của HTX, thậm chí “lãng quên” việc xây dựng chính sách cho các HTX trong cơ chế kinh tế thị trường. Giai đoạn từ thời điểm Luật HTX 1996 có hiệu lực đến trước Nghị quyết 13-NQ/TW của Hội nghị Trung ương (khoá IX), các chính sách được ban hành để khuyến khích phát triển kinh tế hợp tác và HTX chưa thực sự đi vào cuộc sống, chưa được triển khai thực hiện. Nghị định 02/CP và 15/CP cho đến khi ban hành Luật HTX năm 2003 vẫn chưa có Thông tư hương dẫn thực hiện. Do vậy, sự quan tâm về chính sách thời kỳ này hầu như không mấy tác dụng đối với sự phát triển của HTX. Các HTX hầu như không được thụ hưởng chính sách gì đáng kể. Kinh tế hợp tác, HTX vẫn bị “thả lỏng, buông trôi” cả về chính sách và quản lý nhà nước. 1.1.3.3. Chính sách phát triển kinh tế hợp tác, hợp tác xã từ sau Nghị quyết 13-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 5 (khoá IX) và Luật hợp tác xã năm 2003 Từ khi Hội nghị Trung ương 5 (khoá IX) ra Nghị quyết chuyên đề về phát triển kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX, các chính sách phát triển kinh tế tập thể được quan tâm một cách toàn diện và đầy đủ hơn với sự ra đời của Luật HTX mới, cùng với quá trình chuẩn bị các chính sách cụ thể hoá và đồng bộ theo theo thần Nghị quyết và Luật HTX mới. Hướng chính của các chính sách phát triển kinh tế hợp tác, HTX như sau: * Chính sách cán bộ đào tạo nguồn nhân lực: Điểm mới trong chính sách cán bộ cho HTX đã xác định rõ hơn trách nhiệm đào tạo cán bộ cho HTX của các ngành, địa phương với sự hỗ trợ kinh phí của Nhà nước, chế độ thuê Chủ nhiệm, chế độ bảo hiểm xã hội cho cán bộ xã viên HTX. Cụ thể như sau: - Các ngành, các địa phương chủ động xây dựng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý và nghiệp vụ cho khu vực kinh tế tập thể. - Nhà nước hỗ trợ toàn bộ kinh phí đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho HTX. - Có chính thu hút cán bộ quản lý và cán bộ khoa học kỹ thuật về công tác tại HTX. - Thực hiện bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với xã viên HTX và người lao động làm việc theo hợp đồng, hưởng tiền lương, tiền công theo Bộ luật lao động; các thành viên khác không tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc thì tạo điều kiện tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện theo nhu cầu. * Chính sách đất đai: Khuyến khích và tạo điều kiện cho hộ nông dân “dồn điền, dồn thửa”, tập trung ruộng đất theo chính sách của Nhà nước để phát triển sản xuất hàng hoá, mở mang ngành nghề. - Nhà nước giao đất không thu tiền và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho HTXNN xây dựng trụ sở, làm cơ sở SX-KD... - HTX phi nông nghiệp được thuê đất dài hạn, giảm mức nộp thuế sử dụng đất cho HTXNN trong một thời gian nhất định và được nộp tiền thuê đất nhiều lần. - Đất do HTX đầu tư để khai phá, tôn tạo, khi Nhà nước chuyển sang chế độ cho thuê, cần trả lại chi phí cho HTX. * Chính sách tài chính, tín dụng: - Chính sách thu: Miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp trong hạn điền đến năm 2010 cho hộ nông dân; Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong một thời gian nhất định đối với HTX nông, lâm, ngư nghiệp mới chuyển đổi hoặc thành lập. - Thực hiện chính sách hỗ trợ đầu vào, đầu ra cho sản xuất nông nghiệp. - Khuyến khích nhiều hình thức góp vốn bằng tiền, tài sản, giá trị quyền sử dụng đất...của thành viên để tăng thêm vốn kinh doanh cho HTX, nhưng phải công khai hoá những đóng góp của thành viên. - Xử lý dứt điểm nợ tồn đọng của HTXNN từ năm 1996 về trước; tiếp tục xem xét để xử lý nợ tồn đọng cho HTX phi nông nghiệp. - Những tài sản của HTX cũ và tài sản của Nhà nước giao cho HTX sử dụng trước đây cho phép HTX chuyển đổi để làm vốn không chia thuộc sở hữu chung. * Chính sách tín dụng: HTX là một loại hình doanh nghiệp, được vay vốn bình đẳng như doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác. Các tổ chức tín dụng tăng mức cho vay và tạo thuận lợi đối với hộ và các tổ hợp tác, HTX, liên HTX; Các HTX được vay vốn cả bằng hình thức thế chấp và tín chấp: được thế chấp hình thành từ vốn vay để vay vốn ngân hàng, được vay vốn bằng tín chấp và vay theo dự án SX-KD có hiệu quả; HTX được vay vốn từ các chương trình dự án quốc gia và các tổ chức phi chính phủ, được làm chủ một số dự án phát triển nông nghiệp, nông thôn. Xây dựng các quỹ hỗ trợ phát triển, quỹ bảo lãnh tín dụng cho kinh tế tập thể. Tăng cường quản lý và củng cố Quỹ tín dụng nhân dân, hướng dẫn nghiệp vụ và chỉ đạo chặt chẽ đối với hoạt động tín dụng nội bộ trong HTX nhằm tăng khả năng đáp ứng vốn sản xuất cho xã viên. * Chính sách hỗ trợ về khoa học-công nghệ: Nhà nước hỗ trợ cho kinh tế tập thể ứng dụng các thành tựu KH-CN, nhất là giống, công nghệ sinh học, công nghệ bảo quản, chế biến, công nghệ thông tin... qua hoạt động của hệ thống khuyến nông, khuyên lâm, khuyến ngư, khuyến công. Đầu tư tập trung để nâng cao của một số Viện, trung tâm nghiên cứu và chuyển giao KH-CN theo vùng nhằm hỗ trợ HTX và hộ nông dân. Khuyến khích cơ quan chuyển giao các thành tựu KH-CN mới cho HTX, nghiên cứu sản xuất sản phẩm mới, khai thác và sử dụng các nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước. Khuyến khích xây dựng các cơ sở chế biến nông, lâm, thuỷ sản, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, phát triển làng nghề...ở nông thôn, hướng dẫn và giúp các HTX tiểu thủ công nghiệp đổi mới công nghệ, đa dạng hoá sản phẩm, hạ giá thành, tạo sức cạnh tranh. * Chính sách hỗ trợ tiếp thị và mở rộng thị trường: Các ngành, các địa phương, các hiệp hội ngành nghề và Liên minh HTX hỗ trợ xúc tiến thương mại, cung cấp thông tin, tìm kiếm thị trường giúp đỡ các hộ, tổ hợp tác và HTX; tổ chức các hình thức giới thiệu sản phẩm ở trong và ngoài nước phù hợp với trình độ hiện tại và xu hướng phát triển của kinh tế tập thể. Thực hiện rộng rãi việc ký kết hợp đồng trực tiếp giữa doanh nghiệp chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp với nông dân qua các HTX. Các doanh nghiệp cung ứng vật tư, phân bón, thức ăn chăn nuôi, hướng dẫn quy trình kỹ thuật và thu mua sản phẩm cho HTX theo các hợp đồng dài hạn đối với những sản phẩm có khối lượng lớn, có chế độ ưu đãi các doanh nghiệp này. Khuyến khích nông dân và HTX sản xuất nguyên liệu mua cổ phần, trở thành cổ đông của các doanh nghiệp chế biến nông lâm, thuỷ sản. * Chính sách đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng: Những đổi mới về chính sách đầu tư phát triển hạ tầng cũng được quan tâm từ phía Nhà nước. Theo định hướng chính sách đã được nêu trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khoá IX). Nhà nước sẽ thực hiện chính sách hỗ trợ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông, điện, nước, công trình thuỷ lợi... trước hết cho phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH-HĐH; tạo điều kiện hình thành và phát triển các vùng sản xuất hàng hoá lớn, thúc đẩy sự hình thành và phát triển của kinh tế hợp tác, HTX. 1.2. SỰ CẦN THIẾT PHÁT TRIỂN HỢP TÁC XÃ KIỂU MỚI TRONG NÔNG NGHIỆP 1.2.1. Khái niệm, đặc trưng hợp tác xã kiểu mới trong nông nghiệp - Khái niệm hợp tác xã nông nghiệp HTXNN là một tổ chức kinh tế tập hợp đông đảo nông dân ở nông thôn lực lượng lao động chiếm tỷ trọng lớn nhất trong xã hội. Do đó có ưu thế về số lượng lao động. Lực lượng lao động ở HTXNN nếu được bồi dưỡng, tập huấn và đào tạo về khoa học, kỹ thuật và công nghệ sẽ là yếu tố cơ bản cho sự phát triển sản xuất nông nghiệp, phát triển KT-XH nông thôn. HTXNN là một tổ chức kinh tế của những người yếu thế nhất về trình độ dân trí, vốn, cơ sở vật chất - kỹ thuật so với các loại hình doanh nghiệp khác. Điều này được thể hiện rõ ở các nước đang phát triển. Đây là hạn chế lớn nhất đối với kinh doanh của loại hình tổ chức kinh tế này. Do đó vai trò của nhà nước đối với HTXNN là tất yếu về các mặt: quản lý nhà nước, giúp đỡ, hỗ trợ và tham gia quản lý HTX. HTXNN cũng không thể không liên kết, liên doanh với các tổ chức KT-XH khác trong quá trình phát triển. Đối tượng sản xuất của nông nghiệp là cây trồng, vật nuôi, nên trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình, HTXNN vừa bị chi phối bởi các quy luật kinh tế, vừa bị chi phối bởi các quy luật tự nhiên. Đặc điểm này thường làm cho các HTXNN phải chịu rủi ro lớn, hiệu quả kinh tế thấp, tích luỹ ít và chậm. Sự kiện bùng nổ dịch cúm gia cầm trên cả nước và châu Á, rét đậm và hạn hán nặng, lũ lụt... vừa qua là những ví dụ rõ nét. Tuy nhiên, nếu được đầu tư tốt và bản thân HTXNN nào năng động, sáng tạo thì sẽ có nhiều lợi thế trong việc tung ra thị trường những loại hàng hoá đặc sản có chất lượng cao và sức cạnh tranh lớn cũng như đối với việc thực hiện chuyên môn hoá, đa dạng hoá sản phẩm. - Đặc trưng của hợp tác xã kiểu mới trong nông nghiệp Từ các nội dung quy định của Luật HTX năm 2003 và các quan điểm có tính nguyên tắc trong xây dựng kinh tế tập thể đã nêu trong Nghị quyết số 13-NQ/TW Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về “tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể” có thể nêu lên những đặc trưng cơ bản của mô hình HTX kiểu mới như sau: + Về thành viên tham gia HTX Khác với HTX kiểu cũ, thành viên HTX chỉ gồm các cá nhân, HTX kiểu mới là một tổ chức kinh tế do các thành viên, bao gồm cả cá nhân, hộ gia đình và pháp nhân (người lao động, cán bộ, công chức, các hộ sản xuất, kinh doanh, trang trại, doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc các thành phần kinh tế...), cả người có ít vốn và người có nhiều vốn có nhu cầu tự nguyện cùng nhau góp vốn hoặc có thể góp sức lập ra và tự chịu trách nhiệm về các hoạt động của mình theo quy định của pháp luật về HTX, HTX không thủ tiêu tính tự chủ SX-KD của các thành viên, mà chỉ làm những gì mỗi thành viên riêng lẻ không làm được hoặc làm không có hiệu quả để hỗ trợ cho các thành viên phát triển. Thành viên tham gia HTX vẫn là những “đơn vị kinh tế tự chủ” + Về quan hệ sở hữu: Trong mô hình HTX kiểu cũ, sở hữu cá nhân không được thừa nhận, sở hữu của các hộ gia đình bị xoá bỏ chỉ thừa nhận chế độ sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất; người lao động vào HTX phải góp ruộng đất, trâu bò, công cụ sản xuất chủ yếu. Trong HTX kiểu mới, sở hữu tập thể và sở hữu cá nhân của các thành viên được phân định rõ. Sở hữu tập thể (sở hữu của HTX) bao gồm các nguồn vốn tích luỹ tái đầu tư, các tài sản do tập thể mua sắm để dùng cho hoạt động của HTX, tài sản trước đây được giao lại cho tập thể sử dụng và tài sản do Nhà nước hoặc các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tài trợ làm tài sản không chia và các quỹ không chia. Thành viên khi tham gia HTX không phải góp tư liệu sản xuất mà điều kiện tiên quyết là góp vốn theo quy định của Điều lệ HTX, có thể góp sức khi HTX yêu cầu; suất vốn góp không hạn chế, song được khống chế một tỷ lệ nhất định so với tổng số vốn góp của các thành viên (vốn Điều lệ của HTX) nhằm bảo đảm tính chất của HTX (theo Luật HTX năm 2003 thì không quá 30%). Vốn góp của thành viên được chia lãi hằng năm và được rút khi thành viên ra khỏi HTX. Thành viên có thể góp vốn bằng ngoại tệ, tài sản, quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ và các loại giấy rờ có giá khác, được quy ra tiền Việt Nam theo giá trị thị trường tại thời điểm góp và giá trị đó được ghi thành vốn góp của thành viên, còn bản thân hiện vật thuộc sở hữu tập thể HTX. Sở hữu thuộc cá nhân thành viên được tôn trọng; thành viên có toàn quyền sử dụng vốn, các phương tiện thuộc sở hữu riêng để SX-KD. Những thành viên của HTX vẫn là những chủ thể độc lập, có kinh tế riêng. Vị trí và vai trò, cũng như quyền tự chủ của kinh tế thành viên không bị mất đi mà ngược lại được hỗ trợ thêm từ phía HTX để phát triển. + Về quản lý trong HTX: Trong HTX kiểu cũ, quan hệ giữa xã viên với HTX là quan hệ phụ thuộc. Xã viên bị tách khỏi tư liệu sản xuất trở thành người lao động làm công theo sự điều hành tập trung của HTX, tính chất hợp tác đích thực trong HTX không còn. Trong các HTX kiểu mới, quan hệ HTX và các thành viên là quan hệ bình đẳng, thoả thuận, tự nguyện, cùng có lợi và cùng chịu rủi ro trong SX-KD. Đặc trưng chung của HTX kiểu mới là hoạt động SX-KD của HTX không bao trùm toàn bộ hoạt động SX-KD của thành viên như HTX kiểu cũ, mà chỉ diễn ra ở từng khâu công việc, công đoạn, nhằm hỗ trợ phát huy thế mạnh của từng thành viên và do đó cũng tạo điều kiện phát huy quyền làm chủ của thành viên. Thành viên tham gia quyết định những công việc quan trọng của HTX như sửa đổi Điều lệ HTX, tổ chức lại HTX, quyết định cơ cấu tổ chức quản lý HTX, xác định phương án SX-KD, phương án phân phối thu nhập trong HTX… Nguyên tắc bầu cử và biểu quyết được thực hiện bình đẳng, mỗi thành viên một phiếu bầu, không phân biệt vốn góp ít hay nhiều. Bộ máy quản lý HTX tổ chức gọn, nhẹ, hiệu quả. Chức năng, nhiệm vụ của Ban quản trị, Ban kiểm soát; Trưởng Ban quản trị, Chủ nhiệm HTX được xác định rõ ràng, cụ thể. Chủ nhiệm HTX được giao quyền chủ động điều hành công việc và tự chịu trách nhiệm về những quyết định của mình. + Về quan hệ phân phối: Trong các HTX kiểu cũ, chế độ phân phối mang nặng tính bình quân, chủ yếu phân phối theo công lao động, việc phân phối theo vốn góp gần như không được thực hiện (vì việc góp vốn chỉ mang tính hình thức). Vì vậy không khuyến khích người lao động hăng hái, tích cực làm việc, xã viên thiếu gắn bó với HTX, giành công sức làm kinh tế gia đình. Trong HTX kiểu mới, hình thức phân phối được thực hiện trên nguyên tắc công bằng, cùng có lợi, vừa theo lao động, vừa theo vốn góp và theo mức độ tham gia dịch vụ. Người lao động là xã viên, ngoài tiền công được nhận theo số lượng và chất lượng lao động, còn được nhận lãi chia theo vốn góp và theo mức độ sử dụng dịch vụ của HTX; lợi nhuận và vốn góp càng lớn, mức độ sử dụng dịch vụ càng nhiều, thì thu nhập càng cao. Đây là động lực khuyến khích người lao động hăng say làm việc, gắn bó với HTX. Trong quá trình phân phối, các HTX còn tạo ra được các quỹ không chia, một mặt để mở rộng SX-KD, mặt khác tạo nên phúc lợi công cộng cho mọi thành viên trong HTX được hưởng chung, kết hợp chặt chẽ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài. + Về cơ chế quản lý đối với HTX: Các HTX kiểu mới được giải phóng khỏi sự ràng buộc cứng nhắc của cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp. Nếu như trước đây, mọi hoạt động SX-KD, cũng như hạch toán lỗ lãi, phân phối, giá cả…của HTX đều theo sự chỉ huy của cơ quan quản lý cấp trên và theo kế hoạch của Nhà nước, thì nay HTX đã thực sự là một tổ chức kinh tế độc lập, tự chủ có đầy đủ tư cách pháp nhân trong cơ chế thị trường, bình đẳng trước pháp luật với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, tự quyết định, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động SX-KD, dịch vụ, liên doanh, liên kết với các tổ chức kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế khác, cũng như phân chia lỗ lãi, bảo đảm hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước và trách nhiệm đối với thành viên. Nhà nước tôn trọng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động SX-KD, dịch vụ của HTX, không còn can thiệp trực tiếp vào các hoạt động của HTX. Vai trò của Nhà nước trong việc quản lý đối với HTX được chuyển qua việc ban hành pháp luật và các chính sách khuyến khích phát triển HTX. Các nghĩa vụ đóng góp vật chất quá nặng trước kia của HTX đối với chính quyền và cộng đồng, nhất là đối với HTX ở nông thôn đã từng bước được xoá bỏ, HTX tập trung vào phục vụ và thực hiện các nghĩa vụ đối với các thành viên của chính mình là chủ yếu. + Về quy mô và phạm vi hoạt động: Hoạt động của các HTX kiểu cũ trước đây, đặc biệt là các HTX tín dụng, HTX mua bán và HTXNN, thường bị giới hạn trong địa giới hành chính xã, phường và những ngành, nghề, mặt hàng đã được phân công. Quy mô và phạm vị hoạt động của HTX kiểu mới trong nông nghiệp không còn bị giới hạn như trước. Mỗi HTX có thể hoạt động ở nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau, không giới hạn địa giới hành chính. Các HTX có thể liên kết thành liên hiệp HTX. Mỗi thành viên có thể tham gia nhiều HTX (HTX không cùng ngành nghề) nếu Điều lệ HTX không hạn chế. Không giới hạn số lượng thành viên tham gia HTX. + Về hiệu quả hoạt động của HTX: HTX là một tổ chức kinh tế tập thể gồm nhiều chủ sở hữu, hoạt động lấy lợi ích kinh tế làm chính, bao gồm cả lợi ích thành viên và lợi ích tập thể, nhưng HTX còn có vai trò quan trọng trong việc xoá đói, giảm nghèo, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, giáo dục ý thức phát triển cộng đồng…Do đó, mọi hoạt động của HTX phải được đánh giá bằng hiệu quả tổng hợp, cả về kinh tế-chính tri-xã hội; cả hiệu quả của tập thể và của các thành viên. - Về mô hình HTX: Khác với HTX kiểu cũ được áp dụng nhất loại trên cả nước theo mô hình sản xuất tập trung và chủ yếu được phát triển trong lĩnh vực sản xuất, hầu như không có loại hình HTX làm dịch vụ cho thanh viên, mô hình HTX kiểu mới trong nông nghiệp linh hoạt, đa dạng về hình thức, phù hợp với đặc điểm của từng vùng, từng ngành; với nhiều trình độ phát triển, từ thấp đến cao, từ làm dịch vụ đầu vào, đầu ra phục vụ cho hoạt động SX-KD của các thành viên, đến mở mang ngành nghề, vươn lên kinh doanh tổng hợp và hình thành các doanh nghiệp trực thuộc dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên; từ HTX phát triển thành liện hiệp HTX. Với những đặc trưng trên, HTX kiểu mới trong nông nghiệp không chỉ dừng lại chỉ sản xuất nông nghiệp mà còn cả làm dịch vụ, ngành nghề, SX-KD tổng hợp… hoàn toàn khác với mô hình HTX kiểu cũ được xây dựng trong thời kỳ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp trước đây, có các đặc trưng là tập thể hoá toàn bộ tư liệu sản xuất, không thừa nhận vai trò của kinh tế hộ, phủ nhận kinh tế hàng hoá, tổ chức hoạt động theo địa giới hành chính, sản xuất tập thể, tập trung, phân phối theo ngày công lao động, thực hiện quá nhiều trách nhiệm xã hội; mô hình HTX được áp dụng nhất loạt trong cả nước, ít chú ý đến đặc điểm của từng nơi… 1.2.2. Vai trò hợp tác xã kiểu mới trong nông nghiêp đối với sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn - Hội nghị TW5 (khoá IX) đã khẳng định: CNH- HĐH nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá quy mô lớn gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, ứng dụng thành tựu KH-CN, trước hết là công nghệ sinh học, đưa thiết bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá trên thị trường. Trên cơ sở đó, có thể nhận biết nội dung chủ yếu của CNH, HĐH nông nghiệp bao gồm: + Phát triển nông nghiệp theo hướng chuyên môn hoá, đa dạng hoá sản xuất, hình thành các vùng chuyên canh có cơ cấu hợp lý về cây trồng, vật nuôi, có sản phẩm hàng hoá quy mô lớn với chất lượng tốt, đảm bảo an ninh lương thực, đáp ứng yêu cầu công nghiệp chế biến và thị trường. + CNH, HĐH chu trình của sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp từ sản xuất, chế biến, lưu thông trên cơ sở ứng dụng các thành tựu KH-CN với nội dung và mức độ thích hợp, đổi mới công nghệ nhằm tăng năng suất sinh học, tăng năng suất lao động, đảm bảo hiệu quả sản xuất cao, tiến tới một nền nông nghiệp sản xuất hữu cơ, phát triển bền vững, bảo vệ môi trường sinh thái, tăng sản lượng nông nghiệp, phục vục công nghiệp hoá. Về CNH-HĐH nông thôn. Theo tinh thần của Hội nghị TW5 (khoá IX), CNH-HĐH nông thôn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động nông nghiệp; xây dựng kết cấu hạ tầng KT-XH, quy hoạch phát triển nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái, tổ chức lại sản xuất và xây dựng QHSX phù hợp; xây dựng nông thôn dân chủ, công bằng, văn minh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân ở nông thôn. Và theo đó có thể hiểu nội dung chủ yếu của CNH-HĐH nông thôn bao gồm: Phát triển các ngành, nghề phi nông nghiệp như công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp nông thôn, chế biến nông sản, mở mang các làng nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống... Phát triển các ngành dịch vụ cho đời sống của dân cư ở nông thôn. Mở mang các dịch vụ kinh tế và kỹ thuật như tưới tiêu, chế biến, vật tư, tín dụng, tiêu thụ sản phẩm, ứng dụng khoa học và kỹ thuật... Xây dựng kết cấu hạ tầng KT-XH nông thôn như điện, đường, trường, trạm, công trình phục vụ sản xuất chế biến, lưu thông sản phẩm công trình văn hoá tiến tới đô thị hoá nông thôn... Từ đó có thể giúp ta cảm nhận rằng CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn vừa là điều kiện, vừa là mục tiêu của phát triển HTXNN và hình thành các mô hình HTXNN phù hợp với từng giai đoạn cụ thể. - Vai trò của HTX kiểu mới: + Thúc đẩy việc ứng dụng các tiến bộ KH-CN vào sản xuất nông nghiệp, thông qua các dịch vụ kỹ thuật phòng chống dịch bệnh, các phương pháp thâm canh, sử dụng giống mới, phát triển nông nghiệp sinh thái, vườn rau sạch, nông nghiệp công nghệ cao. + Là đầu mối cung ứng tiêu liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng, vật tư nông nghiệp đồng thời thu mua nông sản hàng hoá nên thúc đẩy phát triển thị trường ở khu vực nông thôn... + Góp phần xây dựng kết cầu hạ tầng, KT-XH, xây dựng nông thôn văn minh, giàu đẹp. + Thực hiện sự phân công chuyên môn hoá, thúc đẩy kinh tế hộ phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá đồng thời tạo mối quan hệ liên kết giữa các hộ gia đình với HTX với khu vực kinh tế nhà nước, gắn kết giưã nhà nông, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học, nhà nước trong quá trình CNH-HĐH. + HTX là nơi có thể bảo vệ lợi ích cho nông dân, góp phần thực hiện công bằng xã hội đồng thời là môi trường học tập, nâng cao trình độ tổ chức, quản lý đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và yêu cầu mở cửa hội nhập. + Khôi phục, phát triển các loại ngành nghề, dịch vụ ở nông thôn, tạo việc làm cho người lao động, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. 1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển hợp tác xã kiểu mới trong nông nghiệp thời kỳ công nghiệp hoá-hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Một số yếu tố cơ bản tác động tới phát triển HTXNN và mô hình của nó trong giai đoạn hiện nay. - Yếu tố pháp lý: Đó là Luật HTX, các chính sách, văn bản liên quan và điều lệ HTX. Luật HTX là văn kiện có tính chất cơ bản và quan trọng của Nhà nước nhằm tạo điều kiện pháp lý để HTX hình thành, hoạt động và phát triển. Nội dung cơ bản của Luật HTX bao gồm: khái niệm về HTX; các nguyên tắc của HTX; các loại hình HTX; việc thành lập HTX; xã viên HTX, tổ chức, quản lý trong HTX; vốn, tài sản, phân phối thu nhập của HTX; tổ chức đại diện của các HTX. Các chính sách và văn bản liên quan đến HTX đều hướng vào mục đích hỗ trợ, hướng dẫn và quản lý HTX hoạt động có hiệu quả theo luật định. Về Điều lệ HTX, có điều lệ mẫu và điều lệ riêng của từng HTX nhằm quy định cụ thể các điều khoản đối với việc thành lập, hoạt động kinh tế, xã hội, tổ chức, quản lý... phù hợp với đặc thù của cơ sở. Có thể khẳng định, pháp lý là điều kiện tiên quyết đối với sự hình thành và phát triển HTX. Luật, các chính sách, văn bản liên quan và điều lệ HTX luôn được bổ sung, hoàn thiện để phù hợp với điều kiện phát triển chung của nền KT-XH đất nước và riêng của HTX. Và đương nhiên sẽ xuất hiện những mô hình HTX mới phù hợp hơn. - Yếu tố kinh tế: Yếu tố kinh tế bao gồm: trình độ phát triển, năng lực... của kinh tế hộ, trình độ phát triển sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp, cơ chế vận hành của nền kinh tế, trình độ phát triển kinh tế của quốc gia và thế giới, khủng hoảng kinh tế, cơ hội kinh tế, thuế, giá cả, tỷ giá, cạnh tranh trong kinh tế, lợi thế kinh doanh, đối thủ và đối tác trong kinh doanh... Tất cả những nhân tố cụ thể đó đều tác động rõ rệt đến hoạt động của HTX. Điều quan trọng là từng HTXNN cần kịp thời nắm bắt thông tin, dự báo tình hình cung cầu nông sản, lựa chọn sản phẩm thị trường cần, kinh doanh các ngành hàng được ưu đãi về thuế, linh hoạt tránh né những nhân tố bất lợi để kinh doanh có hiệu quả và nâng cao thu nhập cho xã viên. Thông thường những nhân tố kinh tế nằm ngoài tầm tay quản lý của HTX nên đòi hỏi phải có sự giúp đỡ, hỗ trợ và điều tiết kịp thời ở tầm vĩ mô của Nhà nước. - Yếu tố KH-CN: Đây là nhân tố và cũng là điều kiện quyết định trình độ về năng lực quản lý và sản xuất, năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Bản thân HTXNN cần chú trọng đầu tư về khoa học kỹ thuật nông nghiệp, quản lý kinh doanh và công nghệ sinh học. Đồng thời, Nhà nước luôn có vai trò rất lớn trong việc hướng dẫn đào tạo cán bộ, bồi dưỡng tay nghề xã viên, áp dụng KH-CN tiên tiến thông qua các hoạt động của các cơ quan chức năng với nhiều hình thức phù hợp. - Yếu tố văn hoá: Trình độ văn hoá thấp của xã viên HTXNN luôn là vật cản lớn đối với mọi yêu cầu hoạt động của nông hộ và tập thể. Điều kiện văn hoá là cơ sở để nhận thức và vận dụng các nhân tố khác tác động đến hoạt động của HTX và cuộc sống của xã viên. Tuy nhiên, nhân tố văn hóa không dừng lại ở cách hiểu thông thường, mà còn là hiểu biết về bản chất và yêu cầu đối với người thành lập, tham gia loại hình tổ chức HTX, nghĩa là khả năng của những xã viên trong việc hợp tác cùng nhau để phát triển HTX của họ, có thể coi đó là văn hóa HTX, thiếu nhân tố này thì cho dù trình độ văn hóa thông thường có cao bao nhiêu đi nữa cũng khó mà phát triển được HTX. Văn hóa HTX là văn hóa cộng đồng, văn hóa cùng chia sẻ lợi ích và trách nhiệm một cách tự nguyện, bình đẳng, là văn hóa không thủ tiêu lẫn nhau... Để có được văn hóa này cần có một quá trình giáo dục công phu, thường xuyên và lâu dài. - Yếu tố tâm lý - xã hội: Nhân tố tâm lý - xã hội thể hiện ở các khía cạnh: tâm tư, tình cảm, nguyện vọng...; dân tộc; giai cấp; tầng lớp; thế hệ, họ hàng; quan hệ đồng nghiệp, bạn bè, làng bản, cộng đồng; an ninh xã hội; nghèo đói, việc làm... Các nhân tố về mặt tâm lý - xã hội luôn ảnh hưởng đến thái độ, cách làm, kết quả, chất lượng và hiệu quả hoạt động của HTXNN cũng như tính chất, đặc trưng của mô hình HTXNN. - Yếu tố chính trị: Chính trị ở đây thường thể hiện rõ 2 yếu tố: chế độ chính trị và thái độ của nhà cầm quyền. Đổi mới hay bảo thủ; quan tâm hay thờ ơ; thực sự đầu tư, hỗ trợ hay chỉ nói mà không làm; năng động, sáng tạo, sâu sát thực tế hay trì trệ, quan liêu... Mọi thái cực và hiện tượng đó đều tuỳ thuộc vào 2 yếu tố về chính trị đã nêu hoặc tác động tích cực hay tiêu cực đến HTXNN, mô hình HTXNN cũng như đối với đối tượng khác trong xã hội. - Yếu tố môi trường quốc tế: Trong thời đại hội nhập và phát triển, sự tác động của môi trường quốc tế đối với hoạt động của HTXNN là rất nhanh nhạy và to lớn. Đó là sự tác động về KT-XH, KH-CN, môi trường sinh thái... Ngày nay sự biến động về kinh tế, chính trị, xã hội trong khu vực và trên thế giới ngày càng gia tăng và thêm phức tạp như khủng hoảng tiền tệ, giá cả, chiến tranh, khủng bố, biến đổi bất thường về thời tiết, khí hậu, dịch bệnh... đã và đang gây ra nhiều nguy cơ mới đối với xã hội nước ta. Do đó, đối với HTXNN cũng luôn gặp phải cơ hội và thách thức khó lường. Đặc biệt khi Việt Nam trở thành viên thư 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Trong quá trình đàm phán, Việt Nam tiếp tục mở cửa và cải cách nền kinh tế của mình, và sẽ có thêm nhiều cuộc cải cách nữa trong vòng 5 năm tới sau khi gia nhập để hoàn tất các cam kết đã ký trong Nghị định thư gia nhập WTO. Động lực chính để nước ta tìm cách gia nhập WTO là hy vọng tư cách thành viên sẽ thúc đẩy xuất khẩu của họ, nhờ cải thiện được khả năng tiếp cận thị trường quốc tế. Việt Nam cũng hy vọng như thế, nhất là mở rộng được việc bán nông sản và thuỷ sản cũng như hàng dệt may. Tư cách thành viên WTO làm tăng sức hấp dẫn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Việt Nam tận dụng lợi thế của cơ chế xử lý tranh chấp của WTO, một cơ chế áp dụng các luật lệ thương mại quốc tế. Là thành viên WTO, Việt Nam sẽ có tiếng nói trong việc xây dựng các luật lệ này. Hơn nữa, tin tưởng rằng việc Việt Nam trở thành thành viên WTO và thực thi các cam kết mở cửa sẽ là động lực tiếp tục thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước. Vì vậy, các cuộc cải cách nền kinh tế nước ta sẽ mang đến những điều chỉnh cơ cấu lớn liên quan đến hộ gia đình, doanh nghiệp... Trong khi toàn nền kinh tế có thể thu lợi lớn từ những điều chỉnh cơ cấu này nhưng có khả năng làm giảm sút thu nhập hộ nông dân, khoảng cách thu nhập giữa nông thôn- thành thị ngày càng xã hơn và có khả năng làm tăng tỷ lệ nghèo đói đang trên đà giảm. Cuộc cạnh tranh đối với những nông dân tham gia xuất khẩu nông sản và những nông dân sản xuất phục vụ cho nhu cầu của thị trường trong nước sẽ gia tăng trên mọi phương diện, có thể dẫn đến hạ giá sản phẩm. Điều đó có hại cho nông dân và có lợi cho người tiêu dùng. Tuy nhiên điều đáng lưu ý là đại bộ phận dân nghèo đang sống ở vùng nông thôn, hoặc là hộ sản xuất nhỏ hoặc là người dân không đất làm thuê. Nền kinh tế nông thôn và kế sinh nhai của người lao động phụ thuộc vào việc họ có bán được sản phẩm làm ra với một giá cả hợp lý hay không. Kinh nghiệm một số nước cho thấy, việc mở cửa thị trường không nhất thiết mang lại giá rẻ cho người nghèo thành thị; lợi nhuận dường như rơi vào túi các công ty nhập khẩu hay chế biến lớn. Hơn nữa, giá lương thực rẻ của ngày hôm nay có thể gây tác động lâu dài đến khả năng tự chủ lương thực của một quốc gia trong tương lai.  Những người lao động ở nông thôn có thế mạnh về một số sản phẩm xuất khẩu mà có thể tiếp tục duy trì hoặc mở rộng trong tương lai (như gạo, hạt tiêu, điều). Song, một số sản phẩm phục vụ cho nhu cầu thị trường trong nước sẽ gặp khó khăn vì nước ta chưa có khả năng cạnh tranh về những sản phẩm này (như đường, ngô, sản phẩm sữa và thịt). Thách thức đối với việc thực hiện cam kết về Các biện pháp Vệ sinh và Kiểm dịch động thực vất ngay sau khi Việt Nam trở thành thanh viên WTO là rất lớn. Hiệp định này đòi hỏi sự hài hoà các tiêu chuẩn quốc gia trong nông nghiệp và thuỷ hải sản. Đây là mốt thách thức lớn đặc biệt cho những người sản xuất nghèo, qui mô nhỏ, nhất là vùng sâu vùng xa, và chắc chắn phải mất một thời gian để hoàn thành. - Yếu tố môi trường sinh thái: Môi trường sinh thái luôn ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và hiệu quả kinh doanh của HTXNN. Vì vậy, việc bảo vệ môi sinh cũng như phòng tránh những yếu tố tự nhiên bất lợi là nhiệm vụ tất yếu, quan trọng và ._.ường "đầu vào", thị trường "đầu ra", thị trường địa phương, thị trường thống nhất cả nước và thị trường quốc tế. Nhà nước cần đầu tư cho việc hình thành hệ thống các cơ quan nghiên cứu, dự báo, nắm bắt nhu cầu thị trường nông sản trên thế giới và trong nước để làm nhiệm vụ tư vấn, xây dựng chiến lược phát triển sản xuất nông sản hàng hóa, tạo ra những nông sản chủ lực, đáp ứng nhu cầu xuất khẩu. Đồng thời, các cơ quan này còn phải làm tốt nhiệm vụ thông tin, tư vấn, giúp đỡ kinh tế hộ và kinh tế trang trại gia đình hình thành khả năng, thói quen của người sản xuất hàng hóa. Tốt nhất nên hình thành hệ thống mạng lưới từ các cơ quan nói trên đến người nông dân thông qua các HTXNN. Phát triển mạng lưới chợ nông thôn, các trung tâm triển lãm giới thiệu nông sản hàng hóa, đặc biệt là phát triển đa dạng các hình thức tiêu thụ nông sản. Trước hết, đó là phát huy vai trò của HTX làm dịch vụ tiêu thụ nông sản hàng hóa cho kinh tế hộ, kinh tế trang trại. 3.2.5. Đẩy mạnh liên kết giữa hợp tác xã với các doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã với các hợp tác xã trong vùng Trong điều kiện hiện nay, kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò quan trọng có tính quyết định đến sự phát triển của toàn ngành nông nghiệp. Sự tác động đó chủ yếu thông qua các hệ thống thủy nông, giao thông, cung cấp điện, cung cấp tín dụng, khuyến nông, khuyến lâm, bảo vệ thực vật, thú y, cung cấp giống, vật tư kỹ thuật, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Trong mối quan hệ này, HTX phải đóng vai trò người đại diện, là cầu nối giữa kinh tế nhà nước và kinh tế hộ. Một mặt, HTX thực hiện việc tiếp nhận sự hỗ trợ của nhà nước, triển khai chương trình dự án có liên quan đến kinh tế hộ ở địa phương. Mặt khác, HTX giúp doanh nghiệp nhà nước mở rộng phạm vi hoạt động phục vụ trực tiếp, có hiệu quả đến nông dân. Do vậy, tùy điều kiện cụ thể cần phải thiết lập các mối quan hệ liên kết, hợp tác giữa doanh nghiệp nhà nước với HTX và nông dân, trong đó doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò nòng cốt. Doanh nghiệp nhà nước tạo điều kiện cho HTX mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động dịch vụ, SX-KD như HTX làm đại lý, ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm... Thực tế của mối liên kết là lợi ích của cả 2 phía: Các HTX không dựa vào doanh nghiệp nhà nước sẽ không thể hoạt động được (như trong trường hợp dịch vụ thủy nông và điện) hoặc sẽ hoạt động không có hiệu quả (đối với các dịch vụ khác) trong điều kiện của HTXNN và tình hình thị trường hiện nay. Ngược lại các doanh nghiệp nhà nước dù là hoạt động công ích cũng phải hạch toán kinh doanh, cũng phải tuân thủ những yêu cầu của qui luật thị trường, cũng phải mở rộng kinh doanh. Trong nhiều trường hợp không có các HTX dịch vụ các doanh nghiệp nhà nước không thể hoạt động có hiệu quả. Thực tế, khi chuyển đổi sang cơ chế mới, nhiều HTX chỉ còn tồn tại hình thức hoặc lúng túng trong hoạt động đã đem lại không ít khó khăn cho hoạt động của một số doanh nghiệp nhà nước, chẳng hạn trong việc thu thủy lợi phí đối với hoạt động thủy nông; trong việc chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật nông nghiệp… Vấn đề đặt ra ở đây là để thực hiện được lợi ích của cả 2 phái thì các HTX và các doanh nghiệp cần phải tăng cường mối liên kết kinh tế với nhau trong điều kiện mới của cơ chế thị trường. Quan điểm ỷ lại theo kiểu bao cấp hoặc xoay lưng lại với nhau đều không phải là cách để các HTX và các doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Về phía HTX, một mặt, giúp cho các doanh nghiệp nhà nước thấy được yêu cầu thực tế và những điều kiện hoạt động của các hộ nông dân để cùng với HTX đảm bảo các dịch vụ đáp ứng nhu cầu của nông dân, đem lại lợi ích thiết thực cho nông dân, đồng thời qua đó thực hiện lợi ích của mình. Mặt khác, tạo điều kiện để giúp các doanh nghiệp nhà nước thực hiện tốt các hoạt động dịch vụ thông qua các hoạt động thiết thực như thu đúng, thu đủ và sòng phẳng trong quan hệ thanh toán, vận động nhân dân tham gia, bảo vệ các công trình hạ tầng (như hệ thống thủy nông, đường, điện,…). Về phía doanh nghiệp nhà nước, một mặt phải cung cấp các dịch vụ của mình phù hợp với những yêu cầu mà hợp đồng kinh tế đã ký kết, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của HTXNN trong việc cung ứng dịch vụ cho các hộ nông dân. Mặt khác, cần có sự giúp đỡ thiết thực khi cần thiết đối với người bạn hàng lâu dài của mình (trong việc thanh toán, trong việc giúp đỡ về kỹ thuật và quản lý…) tránh thái độ cửa quyền, gây khó dễ sẽ có ảnh hưởng xấu cho cả 2 bên cũng như cho cả lợi ích của các hộ nông dân. Về phía Nhà nước, việc tạo điều kiện vật chất-kỹ thuật và tài chính, đổi mới phương thức tổ chức quản lý và hạch toán kinh doanh để nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước trong các lĩnh vực đã nêu góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ, giảm chi phí sản xuất và dịch vụ giúp cho HTX có điều kiện giảm nhẹ chi phí và đóng góp các hộ nông dân là những vấn đề có ý nghĩa thiết thực và cấp bách. Thực tiễn vấn đề này, các HTXNN Quảng Nam hiện đang đẩy mạnh phong trào liên doanh, liên kết giữa các HTX với nhau và giữa HTX với các thành phần kinh tế khác và thông hợp đồng hợp tác liên doanh, liên kết đã giúp cho các HTX phát huy được tiềm năng thế mạnh sẵn có của đơn vị mình như về đất đai, mặt bằng, nhà xưởng, về nguyên liệu, lao động có điều kiện để đầu tư đổi mới cơ sở vật chất kỹ thuật tiên tiến hiện đại. Đặc biệt cũng là môi trường làm cho cán bộ quản lý HTX đổi mới tư duy kinh tế, năng động, sáng tạo hơn. Tiêu biểu các HTX như HTX Duy Sơn 2 đã tiến hành liên doanh với một số tư nhân ở thành phố Hồ Chí Minh mở xí nghiệp sản xuất đế giày, Xí nghiệp hồ mắc sợi đã liên doanh với một tư nhân ở Đài Loan thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn may công nghiệp xuất khẩu Vân Sơn, ngoài ra HTX Duy Sơn 2 còn liên kết với HTX Cơ khí Nam Phước, HTX Duy Phước mở các cơ sở mây tre xuất khẩu và may công nghiệp. Liên hiệp thương mại Quyết Thắng- Điện Bàn liên kết với HTXNN Điện Quang- Điện Bàn phát triển ngành dệt, HTX Đại Hiệp-Đại Lộc liên kết với công ty trách nhiệm hữu hạn Hải Vy- Đà Nẵng gia công chế biến mặt hàng thuỷ sản, liên kết với công ty trách nhiệm hữu hạn Hồng Hà- thành phố Hồ Chí Minh gia công mặt hàng công nghiệp… Việc tăng cường mối liên kết kinh tế giữa các HTX trong vùng cũng là một vấn đề quan trọng để phát triển các HTX. Hiện nay các HTXNN thường được tổ chức khép kín trong khuôn khổ địa giới hành chính như thôn, xã… trong khi đó nhiều hoạt động chỉ có hiệu quả khi có quy mô đủ lớn và gắn bó với toàn vùng. Vì vậy khi HTXNN phát triển thì sự liên kết giữa các HTX trong vùng vì những lợi ích chung nảy sinh tự tất yếu kinh tế - kỹ thuật như thuỷ lợi, bảo vệ thực vật… hay từ lợi ích kinh tế theo quy mô như tiêu thụ, chế biến sản phẩm nông nghiệp, cung cấp vật tư nông nghiệp… là những hướng hết sức quan trọng có ý nghĩa thiết thực và nếu biết tổ chức thì hoàn toàn có thể thực hiện được. 3.2.6. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý hợp tác xã kiểu mới trong nông nghiệp Trước nhiệm vụ to lớn của sự nghiệp CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn, trong thời gian tới phải gấp rút phát triển nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn. Bởi vì, hiện nay trình độ cán bộ HTX còn thấp nhiều so với yêu cầu, số chưa qua đào tạo chiếm tỷ lệ lớn. Theo số liệu điều tra ở 125 HTX đã chuyển đổi theo Luật HTX trên địa bàn Quảng Nam, trong số các chủ nhiệm, số có trình độ đại học chiếm tỷ lệ 8,75%, trung cấp 43,17%, sơ cấp 22,4%; trình độ tôt nghiệp trung học phổ thông 48%, trung học cơ sở 21,6%. Đây là một khó khăn lớn cho việc thực hiện chủ trương phát triển HTXNN kiểu mới. Do vậy, Uỷ ban nhân dân tỉnh và các ngành có liên quan cần có đề án cụ thể về công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ HTX. Trọng tâm là Chủ nhiệm, Kế toán trưởng và Trưởng Ban kiểm soát HTX. Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý HTXNN đồng bộ, có đủ năng lực đảm đương nhiệm vụ. Trước hết phải xây dựng quy hoạch cán bộ lấy đó làm cơ sở thực hiện công tác cán bộ HTXNN trong những năm tới, cần phân biệt rõ nghĩa vụ, quyền hạn của HTXNN với cấp ủy và chính quyền địa phương trong công tác cán bộ HTXNN. Đồng thời hoàn thiện cơ chế tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, thu hút và sử dụng đội ngũ cán bộ HTXNN. HTXNN là tổ chức được quyền tự chủ về mọi mặt hoạt động của mình theo quy định của pháp luật, trong đó có công tác cán bộ. Tuy nhiên, là tổ chức kinh tế của tầng lớp dân cư yếu thế nhất trong xã hội, HTXNN rất cần sự trợ giúp của Đảng và Nhà nước các cấp về nhiều mặt, trong đó có công tác cán bộ. Song, đó không phải là sự làm thay hay can thiệp thô bạo vào công tác cán bộ của HTXNN. Sự trợ giúp đối với công tác cán bộ của HTXNN từ phía các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương được thể hiện thông qua các hình thức tuyên truyền, giáo dục nâng cao dân trí nói chung và trình độ văn hóa, nhận thức của cán bộ HTXNN nói riêng; hỗ trợ về tài chính và tổ chức cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTX; phối hợp xây dựng quy hoạch cán bộ, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng... Đối với các cán bộ trực tiếp quản lý và tiến hành hoạt động kinh doanh trong các HTX nông nghiệp những nội dung chuyên môn sau đây có thể là những kiến thức cần thiết đáp ứng yêu cầu cụ thể đối với hoạt động của các HTX như: Những kiến thức cơ bản về kinh tế thị trường, kinh tế nông nghiệp nông thôn; Cách lập kế hoạch hoạt động kinh doanh; Cách tìm kiếm các nguồn vốn đáp ứng nhu cầu hoạt động của HTX; Cách tính toán chi phí và giá thành các dịch vụ của HTX; Phương pháp kế toán hoạt động của các HTX và cách lập các báo cáo tài chính, xác định lỗ lãi trong hoạt động kinh doanh; Cách nắm bắt cơ hội kinh doanh; Cách khai thác thị trường, phương pháp làm việc với các nhà cung cấp và các khách hàng; Những kiến thức cần thiết liên quan đến hợp đồng kinh tế và các loại Luật pháp có liên quan đến hoạt động của các HTX. Ngoài ra, những đào tạo về chuyên môn kỹ thuật có liên quan đến các dịch vụ mà HTX hoạt động nhằm bổ sung cho HTX và những người lao động và cán bộ có trình độ kỹ thuật chuyên môn phù hợp cũng rất cần thiết. Kinh nghiệm một số HTXNN ở Quảng Nam như Duy Sơn 2- Duy Xuyên; Đại Hiệp-Đại Lộc… trong những năm qua cho thấy việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý HTXNN thực sự có hiệu quả phải gắn liền với công tác quy hoạch cán bộ và thực hiện luân chuyển cán bộ. Điều đó, một mặt, làm cho các cán bộ có sự trưởng thành toàn diện và tích lũy được nhiều kinh nghiệm hơn trong thực tiễn công tác, và đó cũng là cách để rèn luyện, thử thách và lựa chọn cán bộ một cách xứng đáng. Mặt khác, thông qua cách luân chuyển cán bộ mà lợi ích đội ngũ cán bộ này được đảm bảo lâu dài, do đó họ yên tâm phấn đấu cho sự nghiệp phát triển HTX và chỉ có hoạt động tốt cho HTX họ mới có cơ hội để phát triển. Đó chính là con đường để giúp cho đội ngũ cán bộ HTX và cán bộ quản lý Nhà nước trong lĩnh vực này ở các cấp địa phương luôn được bổ sung và nâng cao về chất lượng. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTXNN phải được thực hiện theo phương châm thường xuyên, liên tục, kết hợp giữa đào tạo với bồi dưỡng, ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng các cán bộ chủ chốt của HTXNN. Đa dạng hóa hình thức, lựa chọn địa điểm đào tạo, bồi dưỡng phù hợp với nhu cầu và điều kiện thực tế của HTXNN và người học. Nâng cao năng lực của hệ thống đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTXNN. Đặc biệt cần tạo nguồn kinh phí cho đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTXNN theo 2 giai đoạn, trong giai đoạn đầu, khi HTXNN còn nghèo, ít vốn, Nhà nước nên hỗ trợ 100% kinh phí cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTXNN; trong giai đoạn 2 khi HTXNN đã phát triển, vốn của HTX đã dồi dào hơn, nguồn kinh phí cho đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTX được hình thành một phần bằng khoản đóng góp từ quỹ phát triển của HTX, phần khác bằng nguồn kinh phí của Nhà nước. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, cần mở rộng hợp tác quốc tế trong việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ HTXNN. Sắp xếp các chức danh quản lý của HTXNN, cần phân định rõ hai chức năng quản lý và chức năng điều hành HTX: chức năng quản lý do Ban quản trị hay Hội đồng quản trị thực hiện, chức năng điều hành do Ban chủ nhiệm HTX thực hiện. Tuy nhiên, trong tổ chức thực hiện trên thực tế, điều đó không có nghĩa là hai chức năng này luôn luôn phải do hai con người khác nhau thực hiện, mà tùy điều kiện cụ thể ở từng HTX, các chức năng này có thể được kiêm nhiệm, chẳng hạn, Trưởng ban quản trị kiêm Chủ nhiệm HTX, nếu Trưởng ban quản trị là người vừa có năng lực quản lý, vừa có năng lực điều hành. Hình thức tổ chức như vậy sẽ mở ra cơ hội cho các HTXNN thuê những người có năng lực phù hợp làm Chủ nhiệm HTX và các chức danh điều hành khác. Trên cơ sở phân định các chức năng như vậy, các HTXNN cần mạnh dạn thực hiện việc thuê chủ nhiệm HTX và các chức danh quản lý khác của HTX, thu hút những người có năng lực quản lý từ nơi khác đến, không nhất thiết là đảng viên tham gia vào quản lý HTX, không giới hạn việc lựa chọn cán bộ HTXNN chỉ trong nội bộ xã viên HTX. Cần coi trọng đúng mức khâu đào tạo lao động nông thôn. Hiện nay, lao động nông thôn đã qua đào tạo chiếm tỷ lệ rất thấp, lực lượng lao động trẻ ở nông thôn chưa qua đào tạo chiếm tỷ lệ rất lớn. Có nơi, lao động nông thôn chưa qua đào tạo. Bởi vậy, việc đẩy mạnh đào tạo nghề cho lao động nông thôn phải được coi là chương trình quốc gia. Trước mắt, có thể bằng ngân sách nhà nước kết hợp với các chương trình, dự án và người lao động tự đóng góp để nhanh chóng nâng cao trình độ lao động nông thôn. 3.2.7. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước nhằm hỗ trợ phát triển hợp tác xã kiểu mới trong nông nghiệp HTXNN là tổ chức kinh tế tự nguyện của nông dân, quyền quyết định cao nhất trong HTX là Đại hội xã viên. Tuy nhiên, HTX nằm trong địa bàn nên sự phát triển của HTX có ảnh hưởng đến sự phát triển KT-HX trên địa bàn. Bởi vậy, các HTX phải chịu sự lãnh đạo của Đảng và quản lý, giúp đỡ của chính quyền địa phương. Đó là đòi hỏi khách quan trong quá trình phát triển. Để giải quyết tốt mối quan hệ này, cần có cơ chế phối hợp hoạt động có hiệu quả. Tổ chức đảng thực hiện vai trò lãnh đạo thông qua chủ trương, nghị quyết và vai trò gương mẫu của người đảng viên. Chính quyền địa phương có quyền và có trách nhiệm kiểm tra, giám sát HTX trong việc tuân thủ luật pháp và các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhưng tuyệt đối không được can thiệp trực tiếp vào công việc nội bộ của HTX, không làm thay chức năng của HTX, song phải tạo điều kiện hỗ trợ, giúp đỡ cho HTX hoạt động theo pháp luật. Đối với HTX, ngoài mục tiêu kinh tế là hàng đầu còn phải đạt mục tiêu xã hội, góp phần xây dựng tính cộng đồng đoàn kết, tương trợ trong các xã viên của mình, song không thể biến nó thành tổ chức xã hội làm thay nhiệm vụ của hệ thống chính trị của địa phương. Tùy thuộc đặc điểm cụ thể của từng vùng về trình độ phát triển sản xuất hàng hóa, trình độ dân trí, tập quán... cần coi trọng việc lựa chọn các phương pháp tiến hành phù hợp trong việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa tổ chức đảng, chính quyền và HTX trên từng địa bàn nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho HTX hoạt động theo đúng Luật HTX và mang hiệu quả kinh tế, góp phần thực hiện tốt mục tiêu KT-XH của đại phương. - Các cấp uỷ Đảng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo những nội dung chủ yếu sau đây: Tiếp tục tổ chức học tập, tuyên truyền sâu rộng các quan điểm nêu trong Nghị quyết TW5 (khoá IX) trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Xây dựng chương trình hành động cấp mình sát thực, có tác dụng thực tế thúc đẩy đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế HTX. Chỉ đạo điểm, xây dựng mô hình mới, thường xuyên theo dõi, kiểm tra, uốn nắn kịp thời sai sót, tổng kết phổ biến nhân rộng các điển hình tiên tiến. Tổ chức, hướng dẫn, phát triển tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên mới trong khu vực kinh tế HTX. Phát hiện, tuyển chọn, đào tạo cán bộ quản lý và giới thiệu để xã viên bầu vào Ban quản lý những cán bộ có đức, có tài, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế HTX trong cơ chế thị trường. - UBND tỉnh và các Sở. Căn cứ nghị quyết Ban Chấp hành TW Đảng về kinh tế tập thể, UBND tỉnh, huyện cần tạo điều kiện: Thủ tục thành lập HTX, thuận lợi, nhanh chóng, kịp thời. Đối tượng tham gia làm thành viên kinh tế tập thể bao gồm cả thể nhận pháp nhân. Không hạn chế mức góp vốn và các hình thức góp vốn. Có chế độ ưu đãi về đất đai, thuế, tài chính, tín dụng, hỗ trợ khoa học công nghệ, thị trường đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Chính sách về cán bộ và đào tạo nguồn nhân lực cho kinh tế tập thể. UBND tỉnh chỉ đạo các doanh nghiệp Nhà nước trên địa bàn tỉnh, nhất là doanh nghiệp chế biến Nông- lâm -ngư- công nghiệp… chủ động xây dựng mối quan hệ, liên kết với các HTX để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển vùng nguyên liệu, cung ứng vật tư thu mua, chế biến, xuất khẩu hàng nông sản. Bảo đảm sản phẩm của người nông dân sản xuất ra không qua tầng nấc trung gian ép cấp, ép giá, xem mối quan hệ giữa doanh nghiệp Nhà nước với HTX và kinh tế hộ nông dân là nội dung xây dựng quan hệ công nông trong giai đoạn mới. Hệ thống tổ chức quản lý nhà nước đối với kinh tế hợp tác, HTX trong nông nghiệp được tổ chức từ Trung ương đến cấp huyện: Phòng chính sách nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh, Phòng chính sách nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện là những cơ quan tham mưu của Sở và Ủy ban nhân dân huyện thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với kinh tế HTXNN. Tuy nhiên, hiện nay hoạt động của hệ thống này còn thiếu sự phối hợp chặt chẽ và hiệu lực chưa cao. Ở cấp huyện, số cán bộ được phân công theo dõi thường là làm kiêm nhiệm, cán bộ vừa thiếu và không yên tâm tập trung cho nhiệm vụ tổ chức quản lý kinh tế HTX. Bởi vậy, cần bố trí đủ lực lượng cán bộ để thực hiện tốt nhiệm vụ này. Đối với Phòng nông nghiệp và phát triển nông thôn thuộc Sở nên có từ 5-7 cán bộ. Phòng nông nghiệp và phát triển nông thôn các huyện, thị nên có từ 1-2 cán bộ, các huyện miền núi, vùng sâu, vùng xa nên có từ 2-3 cán bộ chuyên trách về kinh tế HTXNN. - Thường xuyên nâng cao trình độ cán bộ quản lý nhà nước đối với kinh tế HTXNN thông qua đào tạo bồi dưỡng trong hệ thống các trường từ tỉnh đến Trung ương, kết hợp với việc tham quan học hỏi kinh nghiệm trong nước và nước ngoài. - Nhà nước cần cấp một khoản kinh phí cần thiết cho hệ thống quản lý nhà nước đối với kinh tế HTXNN. Đồng thời, cần cụ thể hóa việc hướng dẫn thi hành Nghị định số 02 ngày 2-1-1997 của Chính phủ về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân các cấp đối với kinh tế HTXNN. Cùng với hệ thống bộ máy quản lý nhà nước đối với kinh tế HTXNN, cần tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, sự phối hợp trách nhiệm của các tổ chức xã hội như Hội nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Liên minh HTX trong việc tuyên truyền vận động giúp đỡ phát triển các hình thức kinh tế HTXNN phù hợp với điều kiện thực tiễn, và nhu cầu của nông dân ở từng địa phương. - Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh, Đoàn thanh niên, Hội nông dân, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Liên đoàn lao động tỉnh, Với chức năng của mình tích cực tuyên truyền, vận động giáo dục hội viên, đoàn viên tham gia phát triển các hình thức kinh tế tập thể, phát triển đoàn viên, hội viên và tổ chức Đoàn trong khu vực kinh tế tập thể, góp phần thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, phát huy vai trò làm chủ, làm giàu chính đáng cho mình và cho cộng đồng. - Phát huy vai trò của Liên minh HTX tỉnh và các huyện thị trong việc phát triển kinh tế hợp tác và HTXNN: Liên minh HTX tỉnh phải được tăng cường, củng cố về tổ chức bộ máy đủ mạnh nhằm thực hiện tốt chức, năng nhiệm vụ được giao; có kế hoạch đào tạo bối dưỡng cán bộ, tăng cường cơ sở vật chất để nâng cao chất lượng hoạt động dịch vụ hỗ trợ. Tổng hợp tình hình kinh tế HTX, đề xuất cơ chế chính sách và các giải pháp hỗ trợ kịp thời giúp HTX phát triển để tham mưu cho Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh chỉ đạo. Tăng cường các hoạt động đối ngoại của Liên minh HTX tỉnh, tranh thủ sự hỗ trợ, tài trợ của nước ngoài, nhất là các tổ chức phi Chính phủ; tổ chức tốt các hoạt động phối hợp, liên kết trong và ngoài tỉnh để phát triển kinh tế hợp tác. Liên minh HTX tỉnh phát huy vai trò tổ chức đại diện; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát các tổ chức thành viên, đảm bảo thực hiện đúng các nguyên tắc HTX thực chất. Phối hợp các cơ quan có liên quan giải quyết đúng, kịp thời các đơn thư khiếu kiện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của xã viên HTX. - Đối với các huyện, thị: Tích cực phối hợp cùng Liên minh HTX tỉnh và các ngành đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động, hướng dẫn phát triển kinh tế HTX trong tất cả các ngành, lĩnh vực kinh tế ở các địa phương; vận động các doanh nghiệp vừa và nhỏ góp vốn thành lập HTX. Phối hợp cùng Liên minh HTX tỉnh tích cực chủ động tổ chức tổng kết đánh giá, phân loại giúp các HTX sắp xếp, đổi mới công tác quản lý và hoạt động phù hợp với từng loại hình; có biện pháp giải quyết dứt điểm những tồn tại của HTX trước đây. Thường xuyên theo dõi tình hình hoạt động của các HTX để giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho các HTX phát triển. Đề ra chương trình cụ thể sắp xếp, củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của HTX. KẾT LUẬN Bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa và thực hiện đường lối của Đảng về phát triển kinh tế tập thể, để kinh tế tập thể cùng với kinh tế nhà nước ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế đặt ra yêu cầu cấp thiết phải phát triển HTX kiểu mới trong nông nghiệp, mở rộng số lượng, nâng cao chất lượng, đồng thời đa dạng hóa các mô hình tổ chức và hoạt động của HTX. Thực tiễn hơn 20 năm xây dựng và phát triển HTXNN ở tỉnh Quảng Nam đã trải qua biết bao biến cố thăng trầm phù hợp với lịch sử của dân tộc, vừa chứa đựng những nét phổ biến phù hợp với lôgích và lịch sử của quá trình phát triển, vừa có nét riêng vận dụng phù hợp với điều kiện, đặc điểm và tình hình phát triển KT-XH, tập quán và truyền thống của địa phương, cũng như sức sáng tạo của Đảng, chính quyền và nhân dân trong tỉnh. Trên cơ sở mục tiêu và phạm vi của đề tài luận văn nghiên cứu đã được xác định: - Thông qua việc nghiên cứu các quan điểm cơ bản của C.Mác, Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; những quan điểm của Đảng ta về xây dựng, phát triển kinh tế hợp tác và HTXNN. Những vấn đề cơ bản về HTXNN và những nhân tố tác động đến quá trình phát triển HTX kiểu mới trong nông nghiệp, một số HTXNN tiên tiến trong nước, đồng thời những kinh nghiệm thực tiễn phát triển HTXNN ở nước ngoài với trình độ phát triển KT-XH khác nhau; truyền thống lịch sử, văn hoá khác nhau và hệ thống chính trị khác nhau. Luận văn đã tập trung đánh giá phong trào HTXNN trên địa bàn tỉnh Quảng Nam gắn với các mốc giai đoạn chuyển biến của của phong trào dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ, HĐND và UBND tỉnh Quảng Nam trong thời gian vừa qua. Trên cơ sở phân tích quá trình tổ chức triển khai và kết quả hoạt động SX-KD của các HTXNN sau khi chuyển đổi theo Luật HTX đến nay, Luận văn đã cho thấy con đường chuyển đổi của các HTX và hình thành các HTX kiểu mới trong nông nghiệp là cần thiết để phát triển nền nông nghiệp hàng hoá, phát triển KT-XH nông thôn theo hướng CNH-HĐH. Từ đó khẳng định những kết quả đạt được, những mặt còn hạn chế, đặc biệt tìm ra những nguyên nhân của quá trình phát triển HTXNN. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn và vận dụng những lý luận phù hợp, luận văn đã đưa ra những giải pháp cơ bản để góp phần tiếp tục đổi mới và phát triển HTX kiểu mới trong nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. Thực tiễn phát triển HTXNN ở Quảng Nam đã cho thấy, một mặt, HTXNN cũng như mô hình của nó ra đời, tồn tại và phát triển trong những điều kiện KT-XH cụ thể, có mục đích, tổ chức và phương thức hoạt động không giống với các loại hình doanh nghiệp khác, mặt khác, phương thức tiến hành xây dựng và phát triển các HTXNN tác động rất mạnh mẽ tới sự ra đời, tồn tại và phát triển của HTX. Bởi vậy, phát triển HTX kiểu mới trong nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Nam trong những năm tới không thể thoát ly đặc điểm vốn có của các HTXNN, những yêu cầu và nội dung về thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, bối cảnh và môi trường kinh doanh của thời đại, và phải luôn đổi mới để phù hợp với tình hình cụ thể ở mỗi giai đoạn. Phát triển HTXNN kiểu mới là xu hướng có tính quy luật. Tuy nhiên, để thúc đẩy quá trình phát triển đó cần phải thực hiện đồng bộ nhiều vấn đề liên quan, kết hợp ý thức tự giác, tự nguyện tổ chức và tham gia HTX của hộ nông dân với sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, đảm bảo nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi, quản lý dân chủ, trong đó Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng thông qua tạo lập môi trường pháp lý, môi trường kinh tế, cơ chế chính sách, môi trường tâm lý - xã hội cho HTX, tổng kết thực tiễn quá trình phát triển HTXNN thời gian qua để nêu gương, nhân điển hình và phát triển các mô hình HTXNN phù hợp về tổ chức, quản lý, mục tiêu và phương thức hoạt động trong điều kiện KT-XH cụ thể của từng địa phương. NHỮNG KIẾN NGHỊ Trong quá trình thực hiện Luật HTX đã góp phần hoàn thiện quan hệ sản xuất ở nông thôn, song qua thực tế Luật cũng đã bộc lộ một số nội dung cần bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp. Do HTXNN có đặc thù riêng quy định rõ các chương, điều khoản để phù hợp với đặc điểm riêng của HTX nông nghiệp. Có nhiều ý kiến đã đề nghị Quốc hội nên ban hành Luật riêng áp dụng đối với HTXNN. Các Bộ, ngành liên quan sớm ban hành và hoàn thiện các văn bản, cụ thể hoá Nghị định 02,15,16/CP của Chính phủ. Đặc biệt là Nghị định 15/CP một nghị định quan trọng nhằm khuyến khích các HTX phát triển, trên cơ sở có đầy đủ và đồng bộ các văn bản thì xây dựng HTX mới thực hiện đạt kết quả. Đề nghị Ngành ngân hàng, ngành điện quan tâm giải quyết khoản nợ HTX vay trước khi chuyển đổi như: xây dựng trạm điện, cải tạo đồng ruộng, nâng cấp kênh mương… cho HTXNN được tổ chức tín dụng nội bộ và được dùng tài sản thuộc sở hữu tập thể thế chấp khi vay vốn ngân hàng. Chính phủ giao cho các Bộ ngành liên quan cần quan tâm ưu tiên kinh phí và giao cho các trường đào tạo cán bộ quản lý nông nghiệp, các trường Đại học, Trung học Nông- Lâm ở các Tỉnh xây dựng chương trình, giáo trình đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH nông nghiệp- nông thôn hiện nay. Để khuyến khích phát triển và khôi phục làng nghề nông thôn đề nghị Nhà nước có chính sách ưu đãi về ngành nghề nông thôn như chế biến nông- lâm sản. may mặc, giày da, cơ khí nông nghiệp, sản xuất vật liệu xây dựng…đồng thời khuyến khích các cơ sở nông nghiệp dịch vụ ở thành phố liên doanh liên kết, hợp đồng gia công hỗ trợ kỹ thuật, vốn, tìm thị trường giúp các HTXNN phát triển ngành nghề tiểu thủ nông nghiệp. Ưu tiên chính sách thuế đối với các sản phẩm ngành nghề sản xuất ở nông thôn. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Báo Nhân dân, ngày 01/11/2005. Báo Doanh nghiệp và Doanh nhân, 17/4/2006 Chính phủ nước cộng hoà XHCN Việt Nam: Nghị định 16/CP ngày 21/2/1997 về xử lý công nợ đối với HTX. Chính phủ nước cộng hoà XHCN Việt Nam (21/2/1997), Nghị định 15/CP về chính sách khuyến phát triển HTX. Phạm Thị Cần, Vũ Văn Phúc, Nguyễn Văn Kỷ (2003), Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (5/4/1988), Nghị quyết Bộ Chính trị: Về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chiến lược ổn định và phát triển KT-XH đến năm 2000, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (24/5/1996), Chỉ thị số 68/CT-TW về "Phát triển kinh tế hợp tác trong các ngành, lĩnh vực kinh tế", Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001): Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị Trung ương 5, khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị lần thứ 9 BCHTW Đảng khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XIX, Tam Kỳ. Lâm Quang Huyên (2004), Kinh tế nông hộ và Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp Việt Nam, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh. Liên minh HTX tỉnh Quảng Nam (2003), Báo cáo tình hình kinh tế hợp tác - HTX tỉnh Quảng Nam, Tam Kỳ. Liên minh HTX tỉnh Quảng Nam (2000-2004), Báo cáo tổng kết phong trào thi đua khối kinh tế hợp tác và HTX tỉnh Quảng Nam, Tam Kỳ. Liên minh HTX Việt Nam (2004), Một số vấn đề cơ bản về HTX, Nxb Lao động, Hà Nội. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, T38, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, T43, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, T.45, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va. V.I.Lênin (1977), Bàn về chế độ hợp tác xã, Nxb Sự thật, Hà Nội. C. Mác, Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, T18, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. C. Mác, Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, T22, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. C. Mác, Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, T4, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. C. Mác, Ph. Ăngghen (1996), Toàn tập, T23, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1976), Về cách mạng XHCN, Nxb Sự thật, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1976), Về Kinh tế HTX, Nxb Sự thật, Hà Nội. Nguyễn Thế Nhã - Vũ Đình Thắng (2004), Giáo trình Kinh tế nông nghiệp, Nxb Thống kê, Hà Nội. Nguyễn Cứu Quốc (2005), Đề tài khoa học “Mô hình HTX kiểu mới trong nông nghiệp ở Quảng Nam- Bước đi và giải pháp”. Quốc hội nước cộng hoà XHCN Việt Nam (2003), Luật HTX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Lưu Văn Sùng - Ngô Quang Minh - Nguyễn Phong Duễ - Ngô Huy Đức - Lê Minh Quân - Nguyễn Thanh Quang (2001), HTX Duy Sơn 2: Những gợi mở từ thực tiễn về con đường đưa nông nghiệp nông thôn lên CNXH. Tỉnh uỷ Quảng Nam, Chương trình hành động thực hiện Nghị TW5 Khoá IX- “Tiếp tục đổi mới và nâng cai hiệu quả kinh tế tập thể”, Tam Kỳ. Tạp chí nghiên cứu kinh tế (1989), Hợp tác hoá trong nông nghiệp- Tình hình và kinh nghiêm nước ngoài. Tạp chí của Tổng cục Thông kê (2006), Con số và Sự kiện, (số 3). Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Nam (2005), Báo tổng kết công tác quản lý HTXNN tỉnh Quảng Nam năm 2005, Tam Kỳ. Hồ Văn Vĩnh - Nguyễn Quốc Thái (2005), Mô hình phát triển HTXNN ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2468.doc