Phát triển sản Xuất lúa và những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh Xuất khẩu gạo của Việt Nam

lời mở đầu * * * Gạo là lương thực quan trọng, là nhu cầu thiết yếu để duy trì sự sống cho hơn nửa dân số thế giới. Gạo thuộc vấn đề chiến lược hàng đầu là quốc sách của hàng loạt nước có tập quán tiêu dùng gạo nhất là để đảm bảo an toàn lương thực. Nhiều năm qua, gạo chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Thái Lan, đồng thời gạo cũng là một trong những vũ khí quan trọng trong chính sách đối ngoại của nước Mỹ. Từ năm 1989 Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo thứ 3 sau Thái

doc29 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1441 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phát triển sản Xuất lúa và những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh Xuất khẩu gạo của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lan và Mỹ. Đây là sự kiện đặc biệt quan trọng với nước ta cũng làm nhiều nước ngỡ ngàng vì nhiều năm Việt Nam là nước nhập khẩu gạo, luôn thiếu lương thực. Trong 12 năm qua từ 1989-2000, tổng lượng xuất khẩu gạo của ta đạt trên 30 triệu tấn với tổng kim ngạch tương ứng khoảng trên 7 tỷ USD bình quân xuất khẩu gần 2,7 triệu tấn/năm. Kim ngạch xuất khẩu gạo nhiều năm chiếm 15% tổng kim ngạch xuất khẩu quốc gia, đứng thứ 2 chỉ sau dầu mỏ. Tuy nhiên, để phát triển hơn nữa trong tương lai, nhiều vấn đề kinh tế xuất khẩu gạo đang cần phải được nghiên cứu và giải quyết, nhằm đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu gạo, khai thác triệt để hơn nữa tiềm năng của đất nước. Đề tài "Phát triển sản xuất lúa và những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu gạo của Việt Nam" đã được người viết luận văn chọn để nghiên cứu. Kết cấu luận văn: Ngoài lời mở đầu, kết luận và phụ lục, luận văn cơ bản gồm 3 chương Chương I : Cơ sở khoa học của việc đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu gạo. Chương II : Thực trạng sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thời gian qua. Chương III : Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam Chương I Cơ sở khoa học của việc đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu gạo 1. Vị trí của lúa gạo trong nền kinh tế thế giới và Việt Nam 1.1 Lúa gạo trong nền kinh tế thế giới Theo đà phát triển của sức sản xuất và phân công lao động quốc tế, nhu cầu của con người ngày càng phong phú, đa dạng. Tuy nhiên nhu cầu về ăn và mặc vẫn là nhu cầu cần thiết hơn cả, trong đó nhu cầu về ăn uống lại đóng vai trò số 1 trong đời sống hàng ngày. Bởi vậy, lương thực trở thành yếu tố được chú trọng hàng đầu. Thực tế trong nhiều thập kỷ qua, thế giới luôn quan tâm, lo lắng đến vấn đề lương thực như một đề tài thời sự cấp bách. Nhiều sách báo, nhiều tổ chức và cá nhân, nhiều cuộc hội thảo quốc gia và quốc tế thường xuyên đề cập đến chương trình an ninh lương thực quốc gia và toàn cầu. Lương thực luôn là mối quan tâm lớn của cả loài người do nguy cơ nạn đói nghiêm trọng đang đe doạ nhiều dân tộc. Theo số liệu của Liên hợp quốc, hiện nay trên thế giới có khoảng trên 800 triệu người ở những nước nghèo nhất là ở Châu Phi thường xuyên bị thiếu lương thực trong đó khoảng 200 triệu là trẻ em. Trung bình hàng năm thế giới có gần 13 triệu trẻ em dưới 5 tuổi bị chết do thiếu dinh dưỡng tối thiểu vì nạn đói nghiêm trọng. Do đó Hội nghị dinh dưỡng quốc tế đã đi đến kết luận rằng: giải quyết kịp thời vấn đề lương thực là trung tâm của mọi cố gắng hiện nay để phát triển kinh tế xã hội. Theo thống kê nông nghiệp của FAO, các loại cây lương thực được sản xuất và tiêu thụ trên thế giới bao gồm trước hết 5 loại cụ thể: lúa gạo, lúa mì, ngô, lúa mạch và kê... Trong đó lúa gạo và lúa mì là 2 loại lương thực được sản xuất và tiêu dùng nhiều nhất. Với nhu cầu trung bình hiện nay trên thế giới về lúa gạo, mức tiêu thụ gạo bình quân đầu người là 120-130kg/năm, thì sản lượng lúa gạo hiện nay trên thế giới có thể duy trì sự sống cho khoảng 3.008 triệu người chiếm gần 53% dân số thế giới . Tuy sản lượng lúa gạo thấp hơn lúa mì một chút, nhưng căn cứ vào tỷ lệ hư hao trong khâu thu hoạch, lưu thông và chế biến, căn cứ vào giá trị dinh dưỡng của mỗi loại, riêng lúa gạo đang nuôi sống hơn một nửa dân số thế giới.Gần nửa dân số còn lại được đảm bảo bằng lúa mì và các loại lương thực khác. Điều này chỉ rõ vị trí của lúa gạo trong cơ cấu lương thực thế giới và trong đời sống kinh tế quốc tế 1.2 Vị trí của lúa gạo trong nền kinh tế nước ta Việt Nam là một trong những nước có nghề truyền thống trồng lúa nước cổ xưa nhất thế giới. Nông nghiệp trồng lúa vừa đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, vừa là cơ sở kinh tế sống còn của đất nước. Dân số nước ta năm 2000 là gần 80 triệu người, trong đó dân số ở nông thôn chiếm 80% và lực lượng lao động trong nghề trồng lúa chiếm 72% lực lượng lao động cả nước. Điều đó cho thấy lĩnh vực nông nghiệp trồng lúa thu hút đại bộ phận lực lượng lao động cả nước đóng vai trò rất lớn trong nền kinh tế quốc dân. Bên cạnh đó, ưu thế lớn của nghề trồng lúa còn thể hiện rõ ở diện tích canh tác trong tổng diện tích đất nông nghiệp cũng như tổng diện tích trồng cây lương thực: Ngành trồng trọt chiếm 4/5 diện tích đất canh tác trong khi đó lúa giữ vị trí độc tôn, là gần 85% diện tích lương thực. Như vậy bên cạnh sự thu hút về nguồn lực con người thì sự thu hút nguồn lực đất đai cũng lại khẳng định rõ vị trí của lúa gạo trong nền kinh tế quốc dân. Xuất phát từ thực tiễn đó. Đảng và Nhà nước ta luôn nhấn mạnh vị trí của lúa gạo Việt Nam : Lúa gạo đóng vai trò quyết định vấn đề cung cấp lương thực cho cả nước và do đó chi phối sâu sắc sự phát triển kinh tế quốc dân. Từ đó, chính phủ đã đề ra các chính sách phát triển nông nghiệp nói chung và lúa gạo nói riêng, như: Chính sách đầu tư vật chất kỹ thuật thích đáng về thuỷ lợi, giống lúa, thâm canh quảng canh lúa qua từng thời kỳ. Lúa gạo đã được đưa vào1 trong 3 chương trình kinh tế lớn của quốc gia(như văn kiện đại hội Đảng toàn quốc tháng 12/86 đã nêu). Nhờ đó, từ năm 1989 đến nay kim ngạch xuất khẩu gạo đã không ngừng tăng, mang lại nguồn thu ngoại tệ lớn, góp phần không nhỏ cho công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước, nhân dân phấn khởi xã hội ổn định. 2. Nhu cầu gạo của thị trường thế giới 2.1 Mức tiêu thụ gạo của thế giới Mức tiêu thụ gạo của toàn cầu hiện nay luôn luôn phụ thuộc sâu sắc vào tình hình canh tác và khả năng cung cấp của các nước sản xuất lúa gạo, trong đó các nước đang phát triển chiếm khoảng 96% tổng sản lượng lúa gạo thế giới. Trong 10 năm qua (1990-1999) mức tiêu thụ gạo của thế giới, theo thống kê của FAO từ 350 triệu tấn gạo lên 393 triệu tấn tăng 8% trong khi đó mức tăng dân số trong 10 năm là 12%. Theo ý kiến của các nhà chuyên môn, để đảm bảo tình hình tiêu thụ ổn định, mức tăng sản xuất hàng năm phải từ 1,5 đến 2 lần mức tăng dân số. Như vậy mức tiêu thụ gạo của thế giới tăng quá chậm chạp do bị khống chế bởi khả năng sản xuất. Xét theo từng châu lục, theo ước tính của FAO mức tiêu thụ gạo theo từng khu vực cụ thể như sau: Bảng 1: Tình hình tiêu thụ gạo theo các khu vực trong năm 1999 (triệu tấn) Khu vực Sản lượng gạo Mức tiêu thụ gạo Tỷ lệ về tiêu thụ (%) - Toàn cầu 393,0 393,0 100,00 - Châu á 357,5 355,5 90,46 - Châu Mỹ 21,6 18,8 4,59 - Châu Phi 9,3 13,8 3,81 - Châu Âu 3,9 4,5 1,13 - Châu Đại Dương 0,7 0,4 0,01 Nguồn: Thống kê FAO năm 1999 Điểm bao trùm nhất là lượng tiêu thụ gạo tập trung tại Châu á chiếm trên 90% tổng lượng tiêu thụ toàn cầu (về sản xuất, khu vực này chiếm 91,5% tổng sản lượng lúa gạo thế giới). Đây là khu vực sản xuất đồng thời cũng là khu vực tiêu thụ hầu hết lúa gạo thế giới. Tất cả các châu lục khác: Châu Mỹ, Châu Phi, Châu Âu và Châu Đại Dương xem như không đáng kể. Do vậy khu vực Châu á thực sự là thị trường mục tiêu rộng lớn của lúa gạo thế giới. 2.2 Tình hình nhập khẩu gạo của thế giới từ năm 1990 đến nay. Trong 10 năm qua, nhập khẩu gạo của thế giới có xu hướng tăng đáng kể từ 14,8 triệu tấn năm 1990 lên 25,7 triệu tấn năm 1999 mức tăng đạt 65%. Tuy vậy nhập khẩu gạo vẫn phụ thuộc chặt chẽ vào tình hình xuất khẩu cho nên phát triển hàng năm chưa được ổn định. Nhưng trong những năm gần đây nhập khẩu gạo có xu hướng tăng rõ rệt. Trung bình từ năm 1993 đến nay, nhập khẩu gạo của các nước đang phát triển đạt tỷ trọng trên 80% và lương nhập còn lại thuộc các nước phát triển với gần 20%. Nhìn chung, Châu á vẫn là khu vực nhập khẩu gạo lớn nhất chiếm 53% tổng nhập khẩu toàn cầu tiếp đến Châu Phi : 21% năm. Những nước nhập khẩu gạo lớn nhất trên thế giới là : Indonexia, Trung Quốc, Iran và Bangladesh... 2.3 Thị trường gạo của thế giới trong tương lai Có thể đánh giá thị trường gạo thế giới trong tương lai từ tổng thể đến bộ phận như sau: * Sản xuất lúa gạo toàn thế giới (tổng cung): Nhìn tổng quát 10 năm qua, sản xuất lúa gạo thế giới vẫn tăng khả quan từ 518 triệu tấn thóc năm 1990 lên 564 triệu tấn năm 1999, mức tăng trung bình 1,5%/năm. Trong tương lai gần tới 2005, sản lượng lúa gạo thế giới phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng trước hết đó là khả năng thực tế về sản xuất ở các nước đang phát triển Châu á. Mà khả năng đó có liên quan chặt chẽ với các chính sách phát triển sản xuất lúa gạo ở các nước naỳ. Từ nay đến năm 2005, căn cứ vào thực lực sản xuất ở các nước, sản lượng lúa gạo toàn cầu vẫn tăng rõ nét bình quân mức tăng trưởng sẽ vẫn là 1,5%/năm. Nếu không có biến động thiên tai lớn, sản xuất lúa gạo có thể đạt mức tăng trưởng cao hơn từ 1,6-2%/năm. Tiêu thụ gạo của toàn thế giới (tổng cầu): Liên hợp quốc đánh giá, số dân tăng thêm hàng năm trên thế giới duy trì ở mức cao, trung bình hàng năm khoảng 87 triệu người. Do dân số phát triển và nhu cầu lương thực tăng nhanh, nạn đói và tình trạng suy dinh dưỡng sẽ vẫn là sự thách đố đối với những nước đang phát triển nhiều như sản lượng lương thực lúa gạo tăng bình quân năm chỉ ở mức 1,5%. Trong khi đó lượng lương thực cần thiết để đáp ứng nhu cầu của con người lại tăng từ 2 đến 2,5%/năm . Nhu cầu nhập khẩu gạo: Với tình hình tiêu thụ gạo trên thế giới trong tương lai ngày càng cao thì nhu cầu nhập khẩu gạo cũng sẽ tiếp tục duy trì ở mức cao là điều tất yếu. Trong những năm gần đây, trên thực tế, nhu cầu nhập khẩu gạo thường xuyên vượt khả năng đáp ứng của các nước xuất khẩu. Liệu với nhu cầu nhập khẩu gạo như vậy thì các nước xuất khẩu có nhanh chóng đáp ứng được nhu cầu? * Khả năng xuất khẩu : Từ mức thấp 11,4 triệu tấn năm 1990 xuất khẩu gạo thế giới vẫn tăng đều và nhanh trong những năm qua. Trong 5 năm tới (2001-2005) xuất khẩu gạo thế giới vẫn có xu hướng tăng song tốc độ vẫn chậm chạp do khả năng canh tác của các nước xuất khẩu Châu á vốn dễ bị hạn chế nhưng lại là những nước đông dân như Trung Quốc, ấn Độ v.v... Như vậy khả năng xuất khẩu cho đến năm 2005 vẫn chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu nhập khẩu lớn. 3. Sự cần thiết phải xuất khẩu gạo của Việt Nam 3.1 Lợi thế của Việt Nam trong sản xuất và xuất khẩu gạo 3.1.1Điều kiện đất đai Đất đai là tư liệu sản xuất quan trọng hàng đầu của canh tác lúa gạo vì toàn bộ sản xuất thóc thu được trong quá trình sản xuất đều phải thông qua đất. Độ phì nhiêu của đất chi phối sâu sắc khả năng thâm canh và giá thành sản phẩm.Tổng diện tích tự nhiên cả nước có trên 33,1 triệu ha, trong đó đất dành để trồng lúa khoảng 4,3 triệu ha, choiếm trên 13% diện tích cả nước.Bình quân đất theo đầu người của nước ta tuy thấp nhưng quĩ đất có khả năng trồng lúa lại chiếm tỉ lệ cao trong đất có khả năng nông nghiệp. Theo khảo sát của Viện Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp thuộc Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, đất có khả năng nông nghiệp nước ta có trên 10 triệu, đất có khả năng trồng lúa có 8,5 triệu ha. Như vậy tài nguyên đất đai của nước ta có lợi thế đồng thời cho cả hướng thâm canh và quảng canh nhằm tăng nhanh sản lượng lúa. 3.1.2 Khí hậu Tài nguyên khí hậu đóng vai trò quan trọng trong hệ sinh thái, cung cấp nguồn năng lượng và các yếu tố khá như độ ẩm và gió mưa. Khí hậu nước có điều kiện sinh thái lý tưởng đối với cây lúa do có sự kết hợp chặt chẽ giữa các yếu tố trên. Nghiên cứu các yếu tố thuộc điều kiện sinh thái cho thấy rõ thêm, không phải vô cớ mà cây lúa là cây bản địa của Việt Nam với lịch sử nhiều ngàn năm của nghề trồng lúa. Đặc biệt ở hai châu thổ, cần có chế độ thâm canh và luân canh tối ưu để khai thác triệt để những lợi thế lí tưởng này. 3.1.3 Nước tưới tiêu: Tài nguyên nước rất dồi dào là một trong những lợi thế nổi bật của nghề trồng lúa ở Việt Nam.Số ngày mưa lí tưởng 120-140 ngày trong một năm ở hai đồng bằng lớn không chỉ cung cấp cho lúa nguồn nước trời quí giá mà còn đồng thời bồi bổ cho lúa nguồn phân đạm thiên nhiên dễ hấp thụ nhất mà nước và đạm nhân tạo không thể so sánh được. Cùng với nước mưa trời, dòng chảy mặt còn sản sinh trên lãnh thổ nước ta khoảng 300 tỉ m3 nước.Ngoài ra, hệ thống thuỷ lợi nước ta, với 10% ngân sách Nhà nước đầu tư hành năm đã đạt được thành quả bước đầu đáng mừng. Có thể nói, nước, nguồn tài sản thiên nhiên vốn quí giá cộng thêm sự chú trọng phát thuỷ lợi hơn nữa của Nhà nước trong thời gian qua, là yếu tố rất cơ bản thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu gạo tăng mạnh trong những năm gần đây 3.1.4 Nhân lực Yếu tố nhân lực không chỉ có ưu thế lớn về số lượng nhân lực mà còn có ưu thế lớn về chất lượng, về sự tinh thông, am hiểu nghề trồng lúa. Vốn và nghề cổ xưa nhất và phổ cập nhất từ thuở cộng đồng nguyên thuỷ người Việt cho đến khi ra đời nước Văn Lang và tới nay, lịch sử sản xuất lúa Việt Nam đã trải qua hơn 6.000 năm. đã được các thế hệ đúc rút và để lại nhiều tri thức và kinh nghiệm.Kho tàng kinh nghiệm đó thực sự là một lợi thế đặc biệt, nó cho phép khai thác triệt để những lợi thế thông thường của các tài sản thiên nhiên như tài sản đất, tài sản nước, tài sản khí hậu. 3.1.5 Địa lý và cảng khẩu Hầu hết khối lượng gạo trong buôn bán quốc tế bấy lâu thường được vận chuyển bằng đường biển.So với các phương thức vận tải quốc tế bằng đưòng sắt, đường hàng không, vận tải biển quốc tế thường đảm bảo tiện lợi, thông dụng vì có mức cứơc phí rẻ hơn.Do vậy riêng phương thức này đã chiếm khoảng trên 80% buôn bán quốc tế.Việt Nam có vị trí giao thông biển rất thuận lợi. Hệ thống cảng biển Việt Nam nói chung đều nằm gần sát đường hàng hải quốc tế và có thể hành trình theo tất cả các tuyến đi Đông Bắc á, Đông Nam á, Thái Bình Dương, Trung Cận Đông, Châu Âu,Châu Mỹ...Từ cảng Sài Gòn đến đường hàng hải quốc tế thường chỉ hết 3 giờ hành trình với 40 hải lý. Từ cảng Sài Gòn, nếu xuất khẩu gạo đi Singapore thường hết 2 ngày hành trình,Nhật: 6ngày, Indonesia: 3 ngày, Hàn Quốc: 5ngày,HồngKông:1 ngày,Pháp:25ngày,HàLan:34 ngày,Anh:35 ngày,Mĩ (losAngeles):25 ngày. Nói chung Việt Nam có khá nhiều lợi thế cơ bản trong sản xuất và xuất khẩu gạo 3.2Sự cần thiết phải xuất khẩu gạo đối với Việt Nam Bên cạnh những lợi thế về đất đai, khí hậu, vị trí địa lý và con người như là một tiềm năng trong sản xuất và phát triển sản xuất lúa gạo để xuất khẩu. Thì sự cần thiết phải xuất khẩu gạo đối với Việt Nam có thể qui tụ vào những lẽ cơ bản sau đây: 3.2.1 Tích luỹ vốn cho sự nghiệp đổi mới đất nước Mục tiêu chủ yếu của sự nghiệp đổi mới của Đảng và Nhà nước ta hiện nay là công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do vậy, đẩy mạnh xuất khẩu nói chung là đòi hỏi cấp bách nhằm tăng ngoại tệ, giải quyết vốn cho công nghiệp hoá. Trước tình hình đó lúa gạo đã đột phá vươn lên để giữ vị trí mặt hàng xuất khẩu lớn thứ 2 nước ta, sau dầu thô. Trong suốt 12 năm qua riêng kim ngạch xuất khẩu gạo đã đạt trên 7 tỷ USD... Con số đó đã nói rõ sự cần thiết của việc xuất khẩu gạo đối với công cuộc đổi mới kinh tế của đất nước. 3.2.2 Cải thiện đời sống Đối với mỗi quốc gia, việc phát triển nguồn nhân lực là nội dung lớn thuộc chiến lược con người để thực hiện thắng lợi các chiến lược kinh tế xã hội của đất nước. Dân số nước ta với 80% dân số tập trung ở nông thôn, phần lớn sinh sống bằng sản xuất lúa gạo và trồng cây lương thực. Trong khi đó đời sống ở nông thôn và thành thị có sự chênh lệch đáng kể. Đời sống của người nông thôn còn thấp, xét cả về mức thu nhập bình quân đầu người, điều kiện vật chất và cơ sở hạ tầng .v.v... Với tình trạng đó thì việc phát triển sản xuất lúa gạo và xuất khẩu gạo để nâng cao thu nhập cho nông dân góp phần xây dựng nông thôn ngày một giàu mạnh là điều thật sự cần thiết. 3.2.3 Phát huy lợi thế trong nước Sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam có những lợi thế cơ bản như lợi thế về đất đai về khí hậu, nước tưới tiêu, nguồn nhân lực, vị trí địa lý và cảng khẩu. Một chiến lược đúng đắn nhất phải là chiến lược khai thác được nhiều lợi thế nhất. Chính những lợi thế đó, từ điều kiện nhân lực đến điều kiện thiên nhiên đã làm cho sản lượng lúa tăng đều đặn trong những năm qua. Do đó, chúng ta thấy rõ hơn sự cần thiết phải xuất khẩu gạo cũng như tính đúng đắn của định hướng xuất khẩu gạo. cầu gạo thế giới vẫn diễn ra theo chiều hướng có lợi cho nhà xuất khẩu. Do vậy, định hướng xuất khẩu gạo đối với Việt Nam là điều đúng đắn. Chương II Thực trạng sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thời gian qua 1. Sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam từ năm 1989 đến nay 1.1 Tình hình sản xuất lúa gạo Bảng thống kê dưới đây sẽ chỉ ra những nét tổng thể về sản xuất lúa. Bảng 2: Tình hình sản xuất lúa nói chung của cả nước từ 1989-2000 Năm Sản lượng (ngàn tấn) Diện tích (ngàn ha) Năng suất (tạ/ha) 1989 18996 5895 32,3 1990 19225 6043 31,9 1991 19622 6303 31,1 1992 21590 6475 33,3 1993 22837 6559 34,8 1994 23528 6599 35,7 1995 24964 6766 36,9 1996 26397 7004 37,7 1997 24524 7100 38,8 1998 29146 7363 39,6 1999 31394 7648 41,0 2000 35670 7890 42,5 Nguồn : Niên giám thống kê 1999 Từ những số liệu nêu trên chúng ta thấy tình hình sản xuất lúa nước ta mở ra cục diện khả quan rõ rệt về sản lượng năng suất và diện tích, năm sau nối tiếp nhau cao hơn năm trước. - Trước hết là về sản lượng, từ 1989-2000 xu hướng tăng nhanh hơn và ổn định hơn. Trong động thái phát triển chung đó, tốc độ tăng trưởng kể từ năm 1992 càng nhanh chóng và vững chắc hơn. Năm 1992 sản lượng lúa tăng 10% so với năm trước và tiếp tục tăng trong năm năm tiếp theo. Đặc biệt là năm 2000 sản lượng lúa lại tiếp tục tăng gần 14% so với năm trước. - Về diện tích, xu hướng tăng cũng diễn ra liên tục và đều đặn qua 12 năm. Điều khác biệt so với trước đây là ở giai đoạn này từ 1989-2000 xu hướng tăng của diện tích cũng nhanh hơn so với năng suất. Đồ thị 1. Xu hướng biến động về sản lượng và diện tích (Xem phụ lục) - Về năng suất, xu hướng tăng từ 1989-2000 có thấp hơn một chút so với diện tích, năm 1990-1991 do thiên tai nên năng suất đã giảm ằ 4%. Tuy nhiên xu hướng tăng chung của cả giai đoạn từ 1989-2000 vẫn đạt 29%. Năng suất tăng ở mức cao nhất vào năm 2000 là 13,5%, bình quân tăng 3,6%/năm. Đồ thị 2. Xu hướng biến động về sản lượng và năng suất (xem phụ lục) Do đổi mới cơ chế khoán 10 trong nông nghiệp, sản lượng, diện tích năng suất lúa cả nước đã tăng 1 cách nhanh chóng kể từ năm 1989 đến nay. Và còn có thể tăng mạnh hơn nữa trong tương lai. Lúa gạo đang dần tiến tới vị trí chủ đạo đối với lương thực cũng như đối với nền kinh tế nước ta. 1.2 Tình hình xuất khẩu : 1.2.1 Số lượng và kim ngạch xuất khẩu. Do sản xuất tăng nhanh và ổn định, mức lương thực bình quân nói chung và lúa gạo nói riêng liên tiếp được cải thiện, Việt Nam không những đã tự túc được lương thực trong nước mà còn dư thừa lương thực để xuất khẩu. Ngày nay Việt Nam xuất hiện trên thị trường thế giới với vị trí là nước xuất khẩu gạo thứ 2 sau Thái Lan. Trong những năm gần đây sản lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam có chiều hướng gia tăng nhanh hơn. Bảng 3. Số lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam từ năm 1989-2000 Năm Số lượng (triệutấn) Kim ngạch (triệu USD) Số lượng % thay đổi Kim ngạch % thay đổi 1989 1,425 - 321,811 - 1990 1,624 13,95 310,403 -3,35 1991 1,033 -36,39 234,491 -22,46 1992 1,946 88,38 418,400 78,43 1993 1,728 11,21 362,900 -13,26 1994 2,040 18,05 449,500 23,86 1995 2,052 0,57 539,800 20,08 1996 3,047 48,48 868,200 60,82 1997 3,600 18,14 864,700 -0,05 1998 3,750 4,16 1.024,000 18,84 1999 4,550 21,4 1.035,000 10,5 2000 4,780 5,1 1.040,000 5,0 Nguồn: Niên giám thống kê & Bộ Thương mại Kể từ năm 1989 đến nay lượng gạo xuất khẩu tăng bình quân 17%/năm. Mặc dầu có một vài năm kim ngạch xuất khẩu giảm nhưng phần lớn không phải do sự suy giảm số lượng gạo xuất khẩu mà do giá gạo trên thị trường thế giới giảm. Có thể nói xuất khẩu gạo trong những năm qua có những bước phát triển mạnh mẽ. Đến năm 2000 nước ta đã xuất khẩu 4,7 triệu tấn gạo, kim ngạch đã đạt trên 1tỷ USD. Trong vòng 12 năm qua (1989-2000) Việt Nam đã xuất khẩu gần 30 triệu tấn gạo với kim ngạch đạt trên 7 tỷ USD. Kim ngạch xuất khẩu gạo đã góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy nền kinh tế nông nghiệp nói riêng cũng như tăng trưởng kinh tế quốc dân nói chung trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay. 1.2.2. Chất lượng, chủng loại gạo xuất khẩu Chất lượng gạo xuất khẩu gồm nhiều tiêu thức như hình dáng, kích cỡ, mùi vị, tỉ lệ thóc, tạp chất nhưng trong đó, tỉ lệ tấm đóng vai trò quan trọng thường được quan tâm tới. Bảng dưới đây phản ánh chất lượng gạo theo tỉ lệ tấm của một số cấp loại gạo điển hình của Việt Nam. Bảng 4. Chất lượng gạo Việt Nam qua các năm Cấp loại gạo (% tấm) 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 5% 3,3 6,0 18,5 25,7 42,3 30,6 42,4 48,5 51,2 50,7 52,4 15% 13,1 30,0 20,8 25,6 23,6 22,3 25,5 28,3 30,1 32,5 33,5 35% 16,0 19,0 23,0 9,2 9,9 4,4 4,0 3,8 3,5 3,4 3,2 Nguồn : Vụ XNK Bộ Thương mại Xét về tỷ lệ tấm, chất lượng gạo Việt Nam đã có sự thay đổi rõ rệt, cấp loại gạo 5% tấm tăng từ 3,3% lên trên 52% trong tổng lượng gạo xuất khẩu. Cấp gạo chất lượng cao tỉ lệ tấm thấp hiện nay chiếm từ 55-60% tổng lượng gạo xuất khẩu. Còn gạo chất lượng thấp có tỉ lệ tấm cao đã giảm từ 92% nay chỉ còn chiếm 5% tổng lượng gạo xuất khẩu. Về chủng loại, gạo xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu vẫn là gạo tẻ thường hạt dài. Trong khi đó gạo đặc sản truyền thống vẫn chưa được chú trọng phát triển. Hiện nay ta mới chỉ đang xuất khẩu một số gạo Tám thơm, Nàng Hương, chợ Đào với một số lượng nhỏ và không đều đặn qua hàng năm. Đẩy mạnh việc xuất khẩu gạo đặc sản sẽ đem lại sự tăng kim ngạch xuất khẩu một cách đáng kể vì nhu cầu gạo đặc sản rất lớn trong tương lai. 1.2.3 Thị trường và giá cả Thái Lan và Mỹ là những nước xuất khẩu gạo truyền thống từ nhiều thập kỷ nay. Do vậy họ đã thiết lập được mối quan hệ lâu dài và ổn định về thị trường và khách hàng tiêu thụ bằng một hệ thống chính sách cụ thể đối với từng khu vực và từng nước tiêu thụ gạo của mình. Việt Nam chỉ thực sự là nước xuất khẩu gạo lớn từ năm 1989. Từ thực tế đó, việc thâm nhập và mở rộng thị trường của Việt Nam trong những năm đầu đã gặp không ít gian nan vì thường phải đụng đến những khu vực thị trường quen thuộc của các nước xuất khẩu truyền thống, đặc biệt của Thái Lan. Sau những khó khăn trong việc thâm nhập và mở rộng thị trường qua những năm đầu tiến hành xuất khẩu gạo. Hiện nay gạo Việt Nam đã có thị trường xuất khẩu trên 80 quốc gia ở khắp các châu lục. Nhưng nói chung tỷ trọng xuất khẩu của gạo Việt Nam vào thị trường Châu á còn rất ít, nhất là Trung Đông, phương thức xuất khẩu phần lớn phải qua trung gian môi giới. Do vậy Việt Nam vừa chưa xây dựng được hệ thống bạn hàng tin cậy vừa giảm thu nhập xuất khẩu cho khoản hoa hồng môi giới. - Về giá cả, do có sự nâng cao về chất lượng nên khoảng cách chênh lệch giữa giá gạo Việt Nam và quốc tế ngày càng thu hẹp lại. Bảng 5: Giá gạo Việt Nam so với giá gạo quốc tế Năm (1) Giá quốc tế FOB Bangkok 5% tấm (2) Giá xuất khẩu của Việt Nam qui theo giá 5% tấm (3) Chênh lệch giá giữa (2) và (3) 1990 287 224 63 1991 290 234 56 1992 280 233 47 1993 270 232 38 1994 292 262 30 1995 328 319 19 1996 315 284 31 1997 273 244 29 1998 315 300 15 1999 248 203 45 2000 250 200 50 Nguồn : Bộ Thương mại Một trong những nguyên nhân chính của sự chênh lệch giá, điển hình là giữa gạo Việt Nam và gạo Thái Lan (quốc gia xuất khẩu gạo số 1 thế giới) là do yếu tố chất lượng. Tuy chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam hiện nay có tỉ lệ tấm tương đương với gạo Thái Lan nhưng điều đó không có nghĩa đã bằng gạo Thái về nhiều tiêu thức tổng hợp. Chất lượng vẫn là yếu tố cạnh tranh số 1, đòi hỏi chúng ta cần phấn đấu hơn nữa. Năm 1999-2000, giá gạo Việt Nam có xu hướng giảm mạnh cùng sự giảm giá gạo của thị trường thế giới do nhu cầu nhập khẩu gạo ở các nước nhập khẩu lớn tại Châu á như Indonexia, Philippin, Bangladesh giảm. Do vậy Việt Nam cần phải mở rộng thị trường xuất khẩu gạo sang những thị trường mới chưa được chú trọng nhiều trước đây như Châu Phi ... để đẩy mạnh xuất khẩu gạo, hạn chế tối đa lượng gạo tồn kho. Đồng thời tự nâng cao chất lượng gạo Việt Nam để nâng cao sức cạnh tranh với gạo Thái Lan trên thị trường có sức mua cao và khó tính như Nhật Bản, EU v.v 1.2.4. Tổ chức kênh phân phối trong nước và đầu mối xuất khẩu Hiện này, tư nhân đang đóng vai trò lớn trong lưu thông phân phối gạo xuất khẩu.Khoảng 90% gạo xay xát xuất khẩu do tư nhân thực hiện, các đơn vị xuất khẩu thuộc Nhà nước chỉ đảm nhiệm phần ít ỏi còn lại.Nguyên nhân chính của tình hình này là do vốn hạn chế, thứ đến là do bộ máy quản lý, điều hành thiếu năng động trong các đơn vị kinh doanh lương thực thuộc Nhà nước.Phần lớn lúa gạo mua bán và xay xát do tư thương thực hiện, một mặt thúc đẩy tích cực cho xuất khẩu xong mặt khác cũng dẫn đến tình trạng ép giá bán của nông dân, khó thực hiện được chủ trương của Nhà nước trong việc duy trì mức giá đảm bảo cho nông dân mức lợi nhuận 25-40% để khuyến khích người xản xuất.Bên cạnh đó, do rất nhiều cơ sở xay xát nhỏ và phân tán của tư nhân đảm nhiệm đã làm cho tiêu chuẩn chất lượng thống nhất và đồng đều của gạo xuất khẩu cũng bị hạn chế không nhỏ.Tong khi đó, các cơ sở xay xát lớn của quốc doanh chưa được khai thác triệt để, nhất là những nhà máy có công xuất lớn và công nghệ hiện đại như nhà máy xay xát Satake Sài gòn công xuất 600 tấn/ngày, nhà máy xay Cửu long công xuất 240 tấn /ngày với trang thiết bị đồng bộ các công đoạn xát, sàng, xoa, hồ tẩy, đánh bóng, đóng gói để phục vụ xuất khẩu. Kho chứa là một yếu tố quan trọng trong hệ thống kênh phân phối vận chuyển và bảo quản gạo xuất khẩu.Hiện nay tổng kho chứa lương thực chung cả nước là 2.8 triệu tấn do quốc doanh lương thực quản lý, trong đó trên 50% là kho kiên cố.Hiệu suất sử dụng kho rất thấp, thường chỉ đạt khoảng 30% tổng dung tích kho.Tuy nhiên các doanh nghiệp vẫn phải tính khấu hao vào giá thành nên làm giảm hiệu quả kinh doanh.Trên thực tế, cụm kho phục vụ xuất khẩu lại có những nhược điểm đáng kể.Các tư nhân tuy đảm nhiệm tới 90% gạo xay xát xuất khẩu nhưng hoặc sử dụng kho nhỏ gia đình hoặc thuê của quốc doanh.Do vị trí kho được tính toán, bố trí từ thời bao cấp theo phương án tự sản tự tiêu nên nhiều kho không thích hợp với cơ chế thị trường đẩy mạnh xuất khẩu hiện nay.Có những kho giờ hóa thường thừa hoặc không sử dụng hết nhưng ở những địa bàn trọng điểm, nhất là cảng khẩu thì lại thiếu kho, trước hết là những kho hiện đại đạt tiêu chuẩn kỹ thuật để bảo quản gạo xuất khẩu. Đầu mối xuất khẩu gạo trong nhiều năm qua là một trong những vấn đề thu hút sự quan tâm của Nhà nước cũng như của nhiều chuyên gia và của nhiều doanh nghiệp.Hàng loạt doanh nghiệp Nhà nước tìm mọi cách để được phép tham gia xuất khẩu gạo.Do những hoạt động tranh mua tranh bán của các doanh nghiệp này, thương nhân nước ngoài đã lợi dụng tình hình đó kìm giá, ép giá gây tổn hại cho lợi ích quốc gia trong xuất khẩu gạo.Để khắc phục tình trạng cạnh tranh tự phát này, Bộ Thương mại đã có nhiều cố gắng trong việc nghiên cứu và nắm vững biến động cung cầu, giá cả của thị trường gạo quốc tế để quản lý chỉ đạo giá xuất khẩu trong nước, hướng dẫn các doanh nghiệp đầu mối không xuất khẩu dưới mức giá qui định.Tuy nhiên để xuất khẩu gạo có hiệu quả hơn cần có sự quan tâm chỉ đạo sát sao hơn nữa của Nhà nước và các cấp ban ngành có liên quan . 2. Những vấn đề đặt ra đối với sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam 2.1Về sản xuất Mặc dù đã đạt được một số kết quả khả quan trong sản xuất nhưng vẫn nổi lên một số vấn đề quan trọng cần giải quyết: - Một là tình hình tổn thất sau thu hoạch. Hiện nay toàn bộ hệ thống sau thu hoạch lúa ở Việt Nam chưa được tổ chức hợp lý và đồng bộ. Các khâu như gặt, đập, phơi, phân loại, vận chuyển, bảo quản xay xát, chế biến... đã và đang được thực hiện thiếu nề nếp với một trình độ yếu kém và lạc hậu chủ yếu là bằng phương pháp thủ công. Đặc biệt là ở khâu bảo quản, Việt Nam còn thiếu kho bãi, chất lượng bảo quản ở các kho còn thấp. Do vậy dẫn đến tình trạng thất thoát và tổn thất đáng kể về số lượng và chất lượng lúa gạo sau thu hoạch. Thực tế đó cho thấy việc giải quyết công nghệ sau thu hoạch đang là vấn đề bức xúc nhằm nâng cao giá trị kinh tế và giá trị dinh dưỡng cho sản phẩm. - Hai là vấn đề phát triển lúa đặc sản. Hiện nay việc thực hiện mục tiêu chiến lược đối với lúa gạo đại trà đang theo chiều hướng khả quan. Ngược lại đối với mục tiêu lúa gạo đặc sản, chúng ta đang đứng trước những thử thách đáng kể.Mặc dù nhu cầu gạo đặc sản của thế giới có hướng mở rộng và giá gạo đặc sản quý có thể gấp 2 đến 3 lần giá gạo đại trà. Trong sản xuất, năng suất lúa gạo đặc sản thấp, thường chỉ bằng 55-60% năng suất lúa đại trà .Điều quan trọng hàng đầu là chất lượng gạo đặc sản như: chợ Đào, nàng Hương, đặc biệt là tám thơm về hương thơm bị giảm sút nhiều so với chất lượng truyền thống trước đây, điều dễ làm cho người tiêu dùng nước ngoài thất vọng. Nguyên nhân chính của tình trạng này là do việc tuyển chọn giống không được đảm bảo, bản thân thóc giống bị lẫn do pha trộn. Trên thực tế, gạo đặc sản truyền thống của ta từ xưa đã nổi tiếng về chất lượng như hương thơm, độ dẻo mà gạo đặc sản Mali, Basmati của Thái Lan, ấn Độ, Pakistan không thể đạt được. Vậy mà đến nay, vì suốt một thời gian dài không được chú trọng, gạo đặc sản truyền thống Việt Nam không đảm bảo được tiêu chuẩn chất lượng quí giá ấy. Do đó, điều quan tâm trước hết hiện nay trong việc phát triển sản xuất gạo đặc sản chính là việc tuyển chọn giống và đổi mới công nghệ chế biến. Như vậy gạo đặc sản truyền thống Việt Nam mới có thể mạnh hơn hẳn để cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường thế giới. 2.2 Về thị trường - Trước hết, ở thị trường trong nước. Do mạng lưới tư thương đóng vai trò không nhỏ trong hoạt động thu mua, thúc đẩy việc lưu thông lúa gạo phục vụ tiêu dùng nội địa và xuất khẩu nên đã nảy sinh những biêủ hiện tiêu cực không nhỏ. Vì lợi nhuận, hoạt động của các tư thương thường diễn ra tình trạng cạnh tranh mua và cạnh tranh bán, đầu cơ thao túng thị trường giá cả. Trong khi đó nông dân cần đầu ra tin cậy để đảm bảo tiêu thụ ổn định sản phẩm với mức giá thoả đáng cho quyền lợi của mình. Như vậy việc đảm bảo trật tự trong toàn bộ hệ thốn._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV230.doc