Phát triển Thị trường cho mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Công ty Mỹ thuật Trung ương

Mục lục Trang Lời mở đầu 4 Chương 1:Tìm hiều về thị trường sản phẩm thủ công mỹ nghệ 6 Thị trường là gì? 6 Khái niệm về thị trường 6 Phân loại thị trường 7 Cấu trúc thị trường 8 1.3.1 Thị trường cạnh tranh hoàn hảo 8 1.3.2 Thị trường cạnh tranh độc quyền 9 1.3.3 Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo 9 Cung thị trường 10 Cầu thị trường 11 1.6 Sự phù hợp và mâu thuẫn cung cầu 13 1.7 Thất bại của thị trường cơ sở chính để Nhà nước can thiệp vào nền kinh tế 14 Độc quyền th

doc60 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1192 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phát triển Thị trường cho mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Công ty Mỹ thuật Trung ương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ị trường 14 Ngoại ứng 14 1.7.3 Hàng hoá công cộng 15 1.7.4 Thông tin không hoàn hảo 15 1.7.5 Bất ổn định kinh tế 16 Phát triển và mở rộng thị trường 16 2. Đặc điểm của thị trường thủ công mỹ nghệ 18 2.1 Đặc điểm về sản phẩm 18 2.2 Đặc điểm về khách hàng 20 2.3 Thủ công mỹ nghệ trong sự phát triển kinh tế 21 2.4 Sự quản lý của nhà nước đối với ngành sản xuất thủ công mỹ nghệ 22 CHƯƠNG 2: Thực trạng về thị trường tiêu thụ mặt hàng thủ công mỹ nghệ của công ty 24 1. Thực trạng chung của cả nước 24 Đối với nơi sản xuất 29 Đối với nơi tiêu thụ 32 1.2.1 Thị trường trong nước 32 1.2.2 Thị trường nước ngoài 33 Phân tích về thị phần của công ty 38 Phân tích về sản phẩm của công ty trên thị trường hiện nay 38 Phân tích về khách hàng 40 Chương 3: Phương hướng và giải pháp phát triển thị trường xuất khẩu cho công ty 44 1. Định hướng phát triển thị trường cho hàng thủ công mỹ nghệ và những vấn để đặt ra cho việc mở rộng thị trường 44 Hướng phát triển thị trường 44 1.2 Một vài kiến nghị để phát triển thị trường 45 1.3 Triển vọng các thị trường xuất khẩu của Việt Nam đến năm 2010, căn cứ để đưa ra hướng phát triển cho công ty 48 1.4 Định hướng của công ty Mỹ thuật Trung ương 51 2. Giải pháp của công ty để phát triển thị trường 53 Phần kết luận 56 Tài liệu tham khảo 59 Mục lục bảng biểu và hình vẽ trang Bảng 1: Tiến trình giảm thuế của mặt hàng gỗ gia dụng 23 Bảng 2: Sản lượng và giá trị xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ giai đoạn 1980 – 1992 25 Bảng 3: Số lượng thị trường và kim ngạch xuất nhập khẩu 26 Biểu đồ: Giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ 27 Bảng 4: Số lượng thị trường nước ngoài của sản phẩm 33 Bảng 5: Giá trị xuất khẩu một số sản phẩm năm 2002- 2003 33 Bảng 6: Giá trị xuất khẩu các sản phẩm ở một số thị trường chính năm 2002 34 Bảng 7: Tài sản và vốn của công ty năm 2002 38 Bảng 8: Ma trận tăng trưởng “sản phẩm- thị trường” 52 Phụ lục: Một số mặt hàng chính của công ty 60 Lời mở đầu Bảo tồn và phát triển làng nghề không chỉ tạo thêm nhiều việc làm, góp phần tăng thêm thu nhập, nâng cao đời sống người lao động góp cho ngân sách địa phương và Nhà nước mà còn tạo ra nguồn hàng xuất khẩu quan trọng và là nguồn thu ngoại tệ đáng kể. Thông qua những mặt hàng xuất khẩu này, chúng ta có dịp giới thiệu với bạn bè thế giới về bản sắc văn hoá của đất nước cũng như óc thẩm mỹ tinh tế và sự khéo léo, tài ba của con người Việt Nam. Chính vì thế, ngay từ sau khi đất nước thống nhất năm 1975, chúng ta đã khôi phục và phát triển các ngành nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống. Đặc biệt trong những năm 80 thế kỷ 20, với chính sách khuyến khích sản xuất, mở rộng quan hệ kinh tế thương mại với nước ngoài, chủ yếu là các nước Xã hội Chủ Nghĩa chúng ta đã đưa các ngành này đến một giai đoạn “ hoàng kim mới”. Mặc dù sản phẩm thủ công mỹ nghệ không phải là mặt hàng thiết yếu trong cuộc sống, nhưng chúng ta có thể thấy nhu cầu về mặt hàng này ngày càng tăng lên theo nhịp độ cuộc sống được cải thiện. Mặt hàng này không chỉ có mặt ở thị trường trong nước mà theo đà phát triển quan hệ thương mại, mở rộng giao lưu và du lịch giữa nước ta với nước ngoài, thị trường tiêu thụ hàng thủ công mỹ nghệ cũng ngày càng được mở rộng. Có thể thấy quá trình hội nhập kinh tế đã tạo cơ hội cho mặt hàng thủ công mỹ nghệ, nhưng bên cạnh đó cũng vẫn còn những thách thức rất lớn đối với các làng nghề, các doanh nghiệp hiện đang sản xuất kinh doanh mặt hàng này. Kinh tế làng nghề đặc biệt là đối với những làng nghề sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ luôn giữ một vị trí hết sức quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, đề cập nhiều qua các kỳ đại hội. Tại Đại hội IX định hướng phát triển kinh tế – xã hội Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ 21, Nghị quyết tiếp tục nhấn mạnh: “ phát triển mạnh các làng nghề gắn với thị trường xuất khẩu”. Xuất phát từ tầm quan trọng của sản phẩm thủ công mỹ nghệ nên trong quá trình thực tập ở công ty Mỹ thuật Trung ương tôi đã quyết định chọn đề tài: “Phát triển thị trường cho mặt hàng thủ công mỹ nghệ của công ty Mỹ thuật Trung ương” Do tính chất và đặc điểm của sản phẩm thủ công mỹ nghệ nên đề tài này chỉ muốn đi sâu nghiên cứu vào việc phát triển thị trường xuất khẩu. Từ đây có cái nhìn khái quát nhất về những thuận lợi và những khó khăn còn tồn tại của mặt hàng để từ đó đưa ra những phương hướng, giải pháp phát triển thị trường cho công ty nói riêng và các doanh nghiệp trong nước nói chung. Bài viết được kết cấu gồm có các phần chính sau: Chương 1: Tìm hiểu về thị trường và sản phẩm thủ công mỹ nghệ Chương 2: Thực trạng về thị trường tiêu thụ mặt hàng thủ công mỹ nghệ của công ty. Chương 3: Phương hướng và giải pháp phát triển thị trường cho công ty. Trong quá trình làm chuyên đề này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ rất tận tình của TS. Phạm Ngọc Linh và các cán bộ phòng xuất nhập khẩu của công ty Mỹ thuật Trung ương. Chương 1: Tìm hiểu về thị trường sản phẩm thủ công mỹ nghệ Thị trường là gì? Khái niệm về thị trường Có rất nhiều khái niệm khác nhau về thị trường. Chúng ta có thể gặp một số khái niệm sau: Là sự biểu thị ngắn gọn quá trình mà nhờ đó các quyết định của các hộ gia đình về việc tiêu dùng các hàng hoá khác nhau, các quyết định của các doanh nghiệp về việc sản xuất cái gì và như thế nào, các quyết định của công nhân về làm việc bao lâu và cho ai được điều hoà bởi sự điều chỉnh giá cả Thị trường là một tập hợp các dàn xếp mà thông qua đó người bán và người mua tiếp xúc với nhau để trao đổi hàng hoá và dịch vụ. Thị trường là một khuôn khổ vô hình trong đó người này tiếp xúc với người kia để trao đổi một thứ gì đó khan hiếm và trong đó họ cùng xác định giá và số lượng trao đổi. Các khái niệm trên đều xoay quanh khái niệm phổ biến sau: Thị trường là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu, giữa người mua và người bán với mục đích là trao đổi hàng hoá và dịch vụ Qua các khái niệm trên ta thấy trong một số trường hợp người mua và người bán có thể tiếp xúc trực tiếp tại các địa điểm cố định như các thị trường hàng tiêu dùng quần áo, rau quả… Trong nhiều trường hợp khác công việc giao dịch diễn ra qua điện thoại, vô tuyến hoặc các phương tiện từ xa khác như trong thị trường chứng khoán. ở thị trường hàng thủ công mỹ nghệ cũng vậy công việc giao dịch có thể diễn ra ở một số địa điểm cố định, cũng có khi giao dịch từ xa. Nhưng điều chung nhất đối với các thành viên tham gia thị trường (gồm cả thị trường thủ công mỹ nghệ) là họ đều tìm cách tối đa hoá lợi ích của mình. Người bán ( người sản xuất ) muốn tối đa hoá lợi nhuận, người mua( người tiêu dùng) muốn tối đa hoá sự thoả mãn ( lợi ích ) từ sản phẩm họ mua. Về mặt nguyên lý, sự tác động qua lại giữa người bán và người mua xác định giá của từng loại hàng hoá, dịch vụ cụ thể, đồng thời xác định cả số lượng, chất lượng, chủng loại sản phẩm cần sản xuất và qua đó sẽ xác định việc phân bổ và sử dụng tài nguyên khan hiếm của xã hội. Đây chính là nguyên tắc hoạt động của cơ chế thị trường. Tuy nhiên hoạt động của thực tế của thị trường rất phức tạp, phụ thuộc vào số lượng, quy mô, sức mạnh thị trường của những người bán và những người mua. Phân loại thị trường Khi xem xét về hành vi của thị trường( tức là xem xét trên giác độ cạnh tranh hay độc quyền) các nhà kinh tế phân loại thị trường gồm: thị trường cạnh tranh hoàn hảo, thị trường độc quyền, thị trường cạnh tranh không hoàn hảo( gồm cạnh tranh độc quyền và độc quyền tập đoàn) Khi nghiên cứu về thị trường các nhà kinh tế sử dụng một số tiêu thức sau để phân loại thị trường: Dựa vào số lượng người bán và người mua : Là tiêu thức rất quan trọng để xác định cấu trúc thị trường. Trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo và cạnh tranh độc quyền có rất nhiều người bán và người mua. Mỗi người trong số họ chỉ bán ( hoặc mua) một phần rất nhỏ trong lượng cung thị trường. Trong thị trường độc quyền bán thì một ngành chỉ có một người bán( người sản xuất ) duy nhất. Trong thị trường độc quyền mua chỉ có một người mua duy nhất. Trong thị trường độc quyền bán tập đoàn có một vài người bán, còn trong thị trường độc quyền mua tập đoàn chỉ có một số người mua. Loại sản phẩm: Trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo, sản phẩm đồng nhất. Trong thị trường cạnh tranh độc quyền sản phẩm khác nhau. Trong thị trường độc quyền tập đoàn, sản phẩm có thể giống nhau hoặc khác nhau một ít. Trong thị trường độc quyền sản phẩm là độc nhất Sức mạnh thị trường của người bán và người mua: Trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo, người bán và người mua đều không có ảnh hưởng gì đến giá thị trường của sản phẩm, nghĩa là họ không có sức mạnh thị trường. Trong thị trường độc quyền bán ( mua) người bán (mua) có ảnh hưởng rất lớn đến giá thị trường của sản phẩm. Trong thị trường độc quyền bán (mua) tập đoàn, người bán ( mua) có ảnh hưởng đến giá trị thị trường của sản phẩm ở một mức độ nào đó. Các trở ngại gia nhập thị trường: Trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo các trở ngại gia nhập thị trường là rất thấp. Ngược lại, trong thị trường độc quyền bán (mua) tập đoàn có những trở ngại đáng kể đối với việc gia nhập thị trường. Chẳng hạn, trong các ngành sản xuất ô tô, luyện kim…việc xây dựng nhà máy mới là rất tốn kém. Đó chính là trở ngại lớn đối với việc gia nhập thị trường. Còn trong điều kiện độc quyền thì việc gia nhập thị trường là cực kỳ khó khăn. Hình thức cạnh tranh phi giá: Trong cạnh tranh hoàn hảo không có sự cạnh tranh phi giá. Trong cạnh tranh độc quyền cũng như trong độc quyền tập đoàn, các nhà sản xuất sử dụng nhiểu hình thức cạnh tranh phi giá như quảng cáo, phân biệt sản phẩm. Các nhà độc quyền cũng quảng cáo để thu hút thêm khách hàng. Với mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam hiện nay nếu xét về những tiêu thức phân loại thị trường có thể thấy đây là một thị trường cạnh tranh. Các cấu trúc thị trường 1.3.1 Thị trường cạnh tranh hoàn hảo Là thị trường không một ai kể cả người bán và người mua có tác động và ảnh hưởng đến giá cả và sản lượng của thị trường, nghĩa là họ không có sức mạnh thị trường. Thị trường cạnh tranh hoàn hảo có đặc điểm chủ yếu sau: Tham gia thị trường có nhiều( vô số ) người mua và người bán độc lập với nhau; đều là người chấp nhận giá thị trường. Sản phẩm đồng nhất Thông tin hoàn hảo. Sự cản trở việc gia nhập hoặc rút lui khỏi thị trường bằng không. Thị trường độc quyền Độc quyền bán là một thị trường trong đó chỉ có một người bán nhưng có nhiều người mua. Thị trường này có những đặc điểm sau: Một người bán và nhiều người mua Sản phẩm là độc nhất, không có hàng thay thế gần gũi Có sức mạnh thị trường: là quyền định giá và sản lượng bán Việc gia nhập thị trường là cực kỳ khó khăn, có trở ngại rất lớn. Độc quyền mua là một thị trường trong đó có nhiều người bán nhưng chỉ có một người mua. Khi thị trường có một người mua thì thị trường có độc quyền mua. Đó là khả năng thay đổi giá của hàng hoá, cho phép người mua có thể mua hàng ở mức thấp hơn giá trong thị trường cạnh tranh Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo Cạnh tranh độc quyền có các đặc điểm sau: Một số người bán và nhiều người mua Sản phẩm được dị biệt hoá (có phân biệt), các sản phẩm này có thể thay thế cho nhau ở mức độ cao nhưng không phải là thay thế hoàn hảo. Nói cách khác, độ co giãn của cầu theo giá là cao nhưng không phải là vô cùng. Việc ra nhập và rút lui khỏi thị trường cũng tương đối dễ dàng. Hình thức cạnh tranh chủ yếu thông qua quảng cáo, nhãn mác. Hoạt động với công suất thừa, nghĩa là mức sản lượng của nó nhỏ hơn mức sản lượng tối thiểu hoá chi phí bình quân. Độc quyền tập đoàn: Có một vài người bán, nhiều người mua Sản phẩm có thể giống nhau và khác nhau. Các doanh nghiệp có quan hệ chặt chẽ với nhau, giá cả và sản lượng tương đối ổn định. Nếu doanh nghiệp giảm giá thì các doanh nghiệp khác phản ứng bằng việc giảm giá. Việc gia nhập thị trường là khó khăn. Hình thức cạnh tranh chủ yếu thông qua quảng cáo, nhãn mác. Tóm lại đối với thị trường cạnh tranh: có ưu điểm là động lực cho sự phát triển. Cạnh tranh sẽ dẫn đến giảm chi phí, tăng cung, giảm giá bán, cải tiến công nghệ, chất lượng, mẫu mã sản phẩm, người tiêu dùng luôn có lợi. Người sản xuất tham gia thị trường để kiếm lợi nhuận dễ dàng, việc phân phối tài nguyên có hiệu quả hơn. Nhược điểm : thường dẫn đến sự phá sản, đóng cửa sản xuất của hàng loạt doanh nghiệp. Thị trường độc quyền: có tiềm lực để tạo các cơ hội nghiên cứu và phát triển. Có lợi nhuận cao, tạo ra động lực trong kinh doanh. Đạt được hiệu quả kinh tế của quy mô (độc quyền tự nhiên). Nhược: không có xu hướng sản xuất sản phẩm theo mức chi phí bình quân tối thiểu do đó không có động lực giảm chi phí và cải tiến sản phẩm, có xu hướng hạn chế việc tăng trưởng kinh tế Không có xu hướng định giá theo chi phí cận biên. Cho nên giá cả và sản lượng của nhà độc quyền là không tối ưu cho xã hội và người tiêu dùng, có ảnh hưởng bất lợi tới phân phối thu nhập cũng như tiềm năng kinh tế của đất nước. Cung thị trường Khái niệm Cung là số lượng hàng hoá hoặc dịch vụ mà người bán có khả năng và sẵn sàng bán ở các mức giá khác nhau trong một thời gian nhất định. Cung gồm cung của từng cá nhân và cung của thị trường. Cung thị trường là tổng hợp các mức cung của từng cá nhân lại với nhau. Cung thể hiện mục đích bán hàng của nhà sản xuất. Các yếu tố xác định cung Cũng tương tự như cầu, ngoài chịu ảnh hưởng của giá còn rất nhiều yếu tố khác để xác định cung về hàng hoá và dịch vụ (công nghệ, giá của các yếu tố đầu vào …) Công nghệ Công nghệ là một yếu tố quan trọng góp phần năng cao năng suất, giảm chi phí loa động trong qua trình chế tạo sản phẩm. Sự cải tiến công nghệ làm cho đường cung dịch chuyển về phía phải, nghĩa là làm tăng khả năng cung lên. Với công nghệ hiện đại - tự động hoá, năng suất lao động tăng nhiều hơn so với lao động thủ công và cung tăng nhiều lên. Giá của các yếu tố đầu vào Nếu giá của các yếu tố đầu vào giảm sẽ dẫn đến giá thành sản xuất giảm và cơ hội kiếm lợi nhuận sẽ cao lên do đó các nhà sản xuất có xu hướng sản xuất nhiều lên. Chính sách thuế Chính sách thuế của Chính phủ có ảnh hưởng quan trọng đến quyết định sản xuất của các hãng do đó ảnh hưởng đến việc cung sản phẩm. Mức thuế cao sẽ làm cho phần thu nhập còn lại cho người sản xuất ít đi và họ không có ý muốn cung hàng hoá. Ngược lại, nếu mức thuế thấp sẽ khuyến khích các hãng mở rộng sản xuất của mình. Số lượng người sản xuất Số lượng người sản xuất càng nhiều thì cung càng lớn. Các kỳ vọng Mọi người đều mong đợi về sự thay đổi giá của các hàng hoá, gía của các yếu tố đầu vào, chính sách thuế… đều có ảnh hưởng đến cung hàng hoá và dịch vụ. Nếu sự mong đợi dự đoán có thuận lợi cho sản xuât thì cung sẽ được mở rộng và ngược lại. Cầu thị trường Khái niệm Để tìm hiểu về cầu thị trường trước hết chúng ta hãy tìm hiểu thế nào là cầu. Cầu là số lượng hàng hoá hay dịch vụ mà người mua có khả năng mua và sẵn sàng mua ở các mức giá khác nhau trong một thời gian nhất định. Cầu thị trường: là tổng số lượng hàng hoá hoặc dịch vụ mà mọi người sẵn sàng và có khả năng mua ở các mức giá khác nhau trong khoảng thời gian đã cho. Cầu thị trường là tổng hợp của các cầu cá nhân lại với nhau. Cầu thể hiện mức mua sắm của người tiêu dùng. các yếu tố xác định cầu: Cầu không chỉ phụ thuộc vào giá của hàng hoá mà ngoài ra còn phụ thuộc vào rất nhiểu yếu tố khác (thu nhập của người tiêu dùng, giá của các hàng hoá liên quan …) Thu nhập của người tiêu dùng Thu nhập là một yếu tố quan trọng xác định cầu. Thu nhập ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng mua của người tiêu dùng. Khi thu nhập tăng lên thì người tiêu dùng cần nhiều hàng hoá hơn và ngược lại. Tuy nhiên phụ thuộc vào từng loại hàng hoá cụ thể mà mức độ thay đổi cầu sẽ khác nhau. Mặc dù sự tăng lên của thu nhập dẫn đến sự tăng cầu đối với hầu hết các hàng hoá, nó không dẫn đến sự tăng cầu đối với tất cả các loại hàng hoá. Những hàng hoá có cầu tăng lên khi thu nhập tăng lên được gọi là các hàng hoá thông thường. Còn các hàng hoá mà cầu giảm đi khi thu nhập tăng lên gọi là hàng hoá thứ cấp. Giá cả của các hàng hoá liên quan Cầu đối với hàng hoá không chỉ phụ thuộc vào hàng hoá, nó còn phụ thuộc vào giá của các hàng hoá liên quan. Các hàng hoá liên quan này chia làm hai loại: Hàng hoá thay thế Hàng hoá bổ sung Hàng hoá thay thế là hàng hoá có thể sử dụng thay cho hàng hoá khác. Khi giá của một loại hàng hoá thay đổi thì cầu đối với hàng hoá kia cũng thay đổi. Hàng hoá bổ sung là hàng hoá được sử dụng đồng thời với hàng hóa khác. Đối với hàng hoá bổ sung khi giá của một hàng hoá tăng lên thì cầu đối với hàng hoá bổ sung sẽ giảm đi Dân số Dân cư của một thị trường đông thì nhu cầu về một mặt hàng nào đó cũng sẽ lớn hơn. Thị trường tiêu thụ của vùng đó là lớn nếu chúng ta biết cách khai thác, kích cầu thì sẽ làm cho cầu tăng lên. Sự mâu thuẫn và phù hợp của cung và cầu a. Sự mâu thuẫn giữa cung và cầu đã dẫn đến tình trạng thiếu hụt và dư thừa của thị trường. Đó là khi giá của thị trường không bằng với mức giá cân bằng chúng sẽ hoặc là lớn hơn hoặc là nhỏ hơn mức giá đó. Với các mức giá thấp hơn giá cân bằng trên thị trường mức lợi nhuận đối với các nhà sản xuất sẽ giảm xuống và các nhà sản xuất sẽ ít có mong muốn cung cấp hàng hoá cho thị trường( Theo luật cung). Đồng thời giá thấp xuống tạo điều kiện cho người tiêu dùng có khả năng mua hàng hoá (theo luật cầu) và do đó khoảng cách giữa cung cầu càng lớn gây nên hiện tượng thiếu hụt trên thị trường. Thiếu hụt của thị trường là kết quả của việc cầu lớn hơn cung ở một mức giá nào đó. Nói cách khác nó là sự thặng dư của cầu. Với các mức giá cao hơn giá cân bằng trên thị trường người sản xuất sẽ mong muốn cung ứng nhiều hàng hoá hơn (theo luật cung). Tuy nhiên người tiêu dùng sẽ giảm bớt cầu của mình (theo luật cầu) và như vậy xuất hiện sự dư thừa trên thị trường. Sự dư thừa của thị trường là kết quả của việc cung lớn hơn cầu ở một mức giá nào đó. Nói cách khác đó là sự thặng dư của cung. Do vậy mà điều chúng ta quan sát thấy là bất cứ lúc nào giá của thị trường cao hoặc thấp hơn giá cân bằng thì sẽ xuất hiện sự dư thừa hoặc thiếu hụt trên thị trường. Và để khắc phục hiện tượng thiếu hụt hoặc dư thừa này cả người bán và người mua phải thay đổi hành vi của họ để đạt tới mức giá cân bằng. b. Sự phù hợp của cung cầu thể hiện ở trạng thái cân bằng của cung và cầu Cân bằng thị trường là một tình huống trong đó không có sức ép làm cho giá và sản lượng thay đổi. Cân bằng thị trường xuất hiện tại mức giá tại đó lượng cung và lượng cầu bằng nhau. Mức giá đó gọi là mức giá cân bằng; sản lượng đó gọi là sản lượng cân bằng. Thất bại của thị trường- cơ sở chính để nhà nước can thiệp vào nền kinh tế Độc quyền thị trường Khi thị trường chỉ do một hoặc một số ít các hãng thống trị thì nguy cơ tồn tại một thế lực độc quyền, chi phối thị trường là rất lớn. Các hãng có quyền lực độc quyền có thể tạo thêm lợi nhuận siêu ngạch cho mình bằng cách tăng giá mà không sợ có những đối thủ mới gia nhập thị trường. Để ngăn chặn nguy cơ này, chính phủ cần kiểm soát chặt chẽ thị trường để đảm bảo rằng các rào cản đối với sự gia nhập thị trường không trở thành những phương tiện khuyến khích quyền lực độc quyền Ngoại ứng Đây là trường hợp xảy ra khi tác động của một giao dịch trên thị trường có ảnh hưởng đến một đối tượng thứ ba, ngoài người bán và người mua, nhưng những tác động này không được tính đến. Trong những trường hợp như vậy, cân bằng thị trường sẽ không đạt hiệu quả xã hội, vì hoặc lợi ích biên hoặc chi phí biên của tư nhân không nhất quán với lợi ích và chi phí biên mà xã hội chấp nhận. Trong trường hợp này chính phủ phải can thiệp để buộc các bên tham gia giao dịch thị trường phải tính đến tác động mà mình gây ra cho đối tượng thứ ba, nhờ đó có thể điều chỉnh các hoạt động của thị trường đạt tới mức tối ưu xã hội. Hàng hoá công cộng Trong nhiều trường hợp, thị trường không thể cung cấp những hàng hoá hoặc dịch vụ hữu ích cho xã hội, đơn giản là vì không thể hoặc rất khó khăn để chia nhỏ hàng hoá đó thành từng đơn vị tiêu dùng. Lợi ích tiêu dùng hàng hoá này chỉ có thể được thụ hưởng chung giữa tất cả mọi người. Những hàng hoá đó gọi là hàng hoá công cộng. Đặc điểm nổi bật của chúng là cùng một lượng hàng hoá này có thể do nhiều người cùng thụ hưởng, mà không làm giảm lợi ích thụ hưởng của những người tiêu dùng hiện có. Điều này có nghĩa là các hãng tư nhân nếu sản xuất và cung ứng hàng hoá công cộng thì sẽ gặp khó khăn rất lớn trong việc tạo ra doanh thu để cung cấp chi phí. Đây được coi là luận cứ mạnh nhất, chứng minh cho sự cần thiết phải có chính phủ đứng ra cung cấp hàng hoá công cộng Thông tin không hoàn hảo Người tiêu dùng thường yêu cầu chính phủ phải can thiệp vào thị trường vì họ không có đủ thông tin về việc mua sắm hàng hoá hoặc tham gia những công việc nhất định. Đôi khi trong thị trường xuất hiện trường hợp một bên nào đó tham gia thị trường (người mua hoặc người bán) có thông tin đầy đủ về các đặc tính sản phẩm của hàng hoá hơn so với bên kia. Hiện tượng này được gọi là hiện tượng thông tin không đối xứng. Khó khăn trong việc thu thập đủ thông tin đã có ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của nhiều thị trường, khiến các nguồn lực được phân bổ quá nhiều hoặc quá ít cho thị trường đó so với mức hiệu quả xã hội. Ngoài ra, nó còn tạo động cơ cho bên có thông tin đầy đủ hơn lợi dụng lợi thế này để thu lợi cho mình trên sự thiệt thòi của bên kia. Sự can thiệp của chính phủ trong các thị trường như vậy sẽ giúp bổ sung thông tin cho thị trường, hoặc kiểm soát hành vi của những bên có lợi thế về thông tin để đảm bảo thị trường hoạt động hiệu quả hơn. Trong thị trường hàng thủ công mỹ nghệ thì thông tin cân xứng là rắt quan trọng vì cũng như nhiều thị trường khác nếu thông tin hoàn hảo thì thị trường hoạt động sẽ hiệu quả hơn. Bất ổn định kinh tế Sự vận hành mang tính chất chu kỳ của nền kinh tế đã khiến lạm phát và thất nghiệp trở thành những căn bệnh kinh niên của nền kinh tế thị trường, gây nên rất nhiều tổn thất cho xã hội. Việc chính phủ chủ động sử dụng các chính sách tài khoá và tiền tệ để cố gắng ổn định hoá nền kinh tế chính là những nỗ lực để đạt đến trạng thái toàn dụng nhân công. mặc dù các chính sách của chính phủ nhiều khi không tiêu hao nhiều nguồn lực của xã hội, nhưng đó lại là sự trợ giúp đắc lực để giúp thị trường hoạt động hiệu quả hơn. Phát triển và mở rộng thị trường Phát triển thị trường theo quan điểm Marketing hiện đại thì có nghĩa là không những mở rộng thêm thị trường mới mà còn phải tăng thị phần của sản phẩm đó trong các thị trường đã có sẵn Phát triển thị trường hàng hoá có thể thực hiện về khía cạnh mặt hàng theo chiều rộng và theo chiều sâu. Khi định hướng phát triển thị trường cho hàng hoá có thể phát triển theo chiều rộng, chiều sâu hoặc cả hai hướng cùng một lúc Phát triển hàng hoá có thể thực hiện về lượng và chất. Thứ nhất, việc đưa ra ngày càng nhiều sản phẩm dựa trên nhu cầu đa dạng mong muốn thoả mãn và khả năng thanh toán của một con người trong xã hội phát triển. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ đã cho phép các doanh nghiệp ứng dụng váo sản xuất những sản phẩm đa dạng trên để đáp ứng nhu cầu xã hội của con người. Đây là việc phát triển mặt hàng thông qua tăng cường chủng loại hàng hoá trên thị trường để phục vụ nhiều loại nhu cầu của khách hàng. Bất kỳ một doanh nghiệp nào hay một đất nước nào phát hiện, khơi gợi, nắm bắt nhu cầu và thoả mãn nhu cầu đó với chất lượng cao thì sẽ chiến thắng trên thị trường. Thứ hai, việc phát triển các mặt hàng hiện thời, đó là quá trình không ngừng hoàn thiện cải tiến chất lượng sản phẩm, dịch vụ và tăng sức cạnh tranh của các mặt hàng đang được cung cấp trên thị trường. Hình thức phát triển này là hình thức phát triển về chất của hàng hoá nhằm đáp ứng những nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao hơn của con người. Phát triển theo chiều rộng là việc thể hiện phát triển về số lượng khách hàng có cùng loại nhu cầu để bán nhiều hơn một loại sản phẩm hay dịch vụ nào đó. Đồng thời việc phát triển theo chiều rộng còn bao gồm cả việc phát triển về mặt không gian và phạm vi địa lý. Đó là việc đòi hỏi không ngừng nghiên cứu xu thế biến động của thế giới, các thị trường nước ngoài để tiến hành thâm nhập vào các thị trường đó. Phát triển theo chiều sâu về thực chất là phát triển thị trường về chất bao gồm những việc như nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, đưa ra thị trường những sản phẩm, dịch vụ có hàm lượng chất xám cao. Phát triển thị trường theo chiều sâu có thể thực hiện theo cách cắt lớp, phân đoạn thị trường để thoả mãn nhu cầu muôn hình muôn vẻ của khách hàng. Theo nội dung này, phát triển thị trường hàng hoá sẽ có tác dụng tích cực trong chiến lược hướng về xuất khẩu. Đó là việc tăng cường được số lượng thị trường nhập khẩu, tăng cường được xuất khẩu về chất lượng cũng như số lượng, thay đổi tích cực cơ cấu mặt hàng xuất khẩu. Để phát triển thị trường tiêu thụ thì cần thiết phải ngiên cứu thị trường và thăm dò thị hiếu thị trường. Một công ty trước khi sản xuất hết công suất cần phải có lời giải đáp cho 15 câu hỏi sau: quy mô của thị trường? Những khu vực thị trường cho ta những cơ hội tiêu thụ hấp dẫn nhất? Những khách hàng tiềm tàng- số lượng, phạm vi kinh doanh, loại hình? Đâu là khu vực khách hàng tiềm tàng? Những thói quen mua hàng ở mỗi khu vực thị trường? Cơ cấu định giá thông thường? Những mức giảm giá nào là thông lê? Phương pháp kinh doanh thích hợp nhất? Sự tác động của chính phủ hay những luật lệ thương mại tới thị trường? Những thời hạn thanh toán quen thuộc? Những đòi hỏi về bao bì? Thị trường có phản ánh sự tăng trưởng tương lai? Và nếu có thì mức độ? Vòng đời được dự đoán của thị trường Phạm vi thị trường có thể giành được? Và khi nào? Thời gian thông thường tối cần để giao hàng? Như vậy, phát triển thị trường cho mặt hàng thủ công mỹ nghệ tức là mở rộng thêm thị trường mới (kể cả trong nước và ngoài nước). Ngoài ra, đối với thị trường đã có sẵn thì cần phải tăng thị phần của sản phẩm lên nhiều hơn. Để làm được điều này cần phải phát triển thị trường về chất tức là nâng cao chất lượng của các mặt hàng thủ công mỹ nghệ để thoả mãn được nhu cầu của nhiều khách hàng từ khó tính đến dễ tính. Một doanh nghiệp, một cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ muốn phát triển thị trường cho hàng thủ công mỹ nghệ cũng cần phải trả lời được 15 câu hỏi nêu trên. Đặc điểm của thị trường thủ công mỹ nghệ Thị trường là một yếu tố rất quan trọng. Thị trường các yếu tố đầu vào là yếu tố quyết định của quá trình sản xuất, còn thị trường tiêu thụ lại là yếu tố quyết định cho sự tồn tại và phát triển của một làng nghề. Đặc điểm về sản phẩm Hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam bao gồm các sản phẩm làm từ gỗ, tre, song, mây, đồ thêu, thuỷ tinh, gốm sứ, sơn mài, kim hoàn… Các sản phẩm này chủ yếu được sản xuất ở các làng nghề truyền thống có từ lâu đời. Về việc cung ứng sản phẩm, ta thấy hiện nay sản phẩm có rất nhiều nhà cung ứng. Rào cản gia nhập ngành nhỏ vì vậy các doanh nghiệp có thể ra nhập thị trường dễ dàng và nếu làm ăn không có lãi các doanh nghiệp cũng tự rời bỏ ngành dễ dàng. Vì thế hiện nay có rất nhiều nhà sản xuất và kinh doanh mặt hàng này. Các hình thức tổ chức kinh doanh chủ yếu: Hộ gia đình Tổ sản xuất Hợp tác xã Doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn… Nguyên liệu đầu vào đa số là các nguyên liệu có sẵn trong tự nhiên: đất, gỗ, tre, … nên tương đối rẻ. Đây là một thuận lợi cho các nhà cung ứng có thể sản xuất ra nhiều sản phẩm hơn. Nhưng có một khó khăn cho các nhà sản xuất đó là thị trường cung ứng nguyên vật liệu nhỏ hẹp, chủ yếu tại chỗ nên sau một thời gian nguồn tài nguyên này sẽ bị cạn, phải bổ sung ở những nguồn khác, không ổn định. Công nghệ lạc hậu chủ yếu làm bằng tay nên sản phẩm làm ra năng suất thấp, lại đòi hỏi cần nhiều công sức nên cần có nhiều lao động. Công nghệ lạc hậu xuất phát từ vốn ít, mặt bằng chật hẹp, thói quen của người lao động nên sản phẩm sản xuất ra có chất lượng thấp, không đồng đều ảnh hưởng đến môi trường và sức khỏe. Ngày nay, công nghệ ngày càng được cải tiến hơn nên tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ra nhập ngành dễ dàng hơn. Tuy vậy, không thể thay thế hoàn toàn bằng công nghệ hiện đại được mà chỉ thay thế ở một số khâu sản xuất nhất định. Thuế của mặt hàng này cũng luôn được nhà nước quan tâm, ưu đãi tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà sản xuất. Mặt hàng này được áp dụng chế độ “luồng xanh” (miễn kiểm hoá) đã dẫn đến cung tăng. Vì vậy sản phẩm làm ra ngày càng nhiều và phong phú về chủng loại, mẫu mã nhưng vẫn không mất đi những nét tinh xảo trong mỗi sản phẩm. Có thể nói rằng mỗi sản phẩm làm ra đều có tính độc đáo, tính nghệ thuật rất cao. Mỗi vùng sản xuất lại có một đặc trưng riêng mà nơi khác không có. Đó là lý do có thể phân biệt được sản phẩm gốm Bát Tràng với sản phẩm của Đồng Nai… Sản phẩm đều là sự kết hợp thủ công tinh xảo với sự sáng tạo nghệ thuật. Người thợ thông qua sự sáng tạo của mình đã truyền vào mỗi sản phẩm linh hồn của cuộc sống, ở đó diễn ra tất cả các hoạt động của con người trong lao động sản xuất, là phong tục truyền thống, tín ngưỡng, tôn giáo, ước muốn của con người trong chinh phục tự nhiên. Đặc điểm về khách hàng Nước ta là một nước đông dân, như vậy nếu xét về thị trường tiêu thụ trong nước thì đây là một thị trường có nhiều người tiêu dùng. Nhưng đây là mặt hàng có nhiều hàng hoá thay thế, giá cả của các hàng hoá thay thế tương đối rẻ (đặc biệt là hàng của Trung Quốc), hợp với thu nhập của đại đa số người dân. Trong khi đó các sản phẩm của ta nếu đẹp thì giá cả tương đối cao, sản phẩm có giá thành phải chăng thì không cạnh tranh được với Trung Quốc về mẫu mã. Do vậy việc nhu cầu của khách hàng trong nước còn chưa lớn. Và nhu cầu sẽ tăng hơn khi thu nhập của người dân tăng lên. Nếu giá của sản phẩm thủ công mỹ nghệ giảm thì cầu sẽ tăng lên. nhưng giá của mặt hàng này khó có thể giảm do chưa được đầu tư nhiều công nghệ, sản phẩm chủ yếu sản xuất thủ công, hơn nữa các nguồn tài nguyên đầu vào ngày càng cạn. Nhìn chung tình hình cung ứng và tiêu thụ tương đối phù hợp. Ngày nay, có rất nhiều nhà cung ứng nhưng thị trường tiêu thụ của mặt hàng cũng lớn hơn trước rất nhiều. Khá._.ch hàng không chỉ là những thị trường truyền thống mà còn có thêm nhiều thị trường tiềm năng. Đối với thị trường thế giới thì cầu phụ thuộc nhiều vào thị hiếu tiêu dùng. Cầu đối với hàng hoá sẽ thay đổi nếu người dân ở một nước nào đó thích sử dụng hàng Trung Quốc hay hàng của các nước khác hơn. Và cầu ở đây cũng chịu ảnh hưởng của việc cung ứng. Khi đem sản phẩm ra thị trường thế giới sản phẩm này sẽ có nhiều nhà cung ứng hơn, không chỉ là các nhà cung ứng trong nước mà còn có cả các nhà cung ứng nước ngoài. Vì thế các sản phẩm sẽ phải cạnh tranh với các sản phẩm từ nhiều nước khác. Song thực tế cho thấy, cầu về sản phẩm vẫn tương đối lớn, nên chúng ta cần tìm các cách để nâng cao sức cạnh tranh và mở rộng thị trường. Nhưng thị trường nước ngoài là một thị trường rất khó tính, khắt khe. Khó khăn cho các nhà cung ứng ở chỗ sự nhạy bén và khả năng thay đổi mặt hàng để thích ứng với nhu cầu còn hạn chế. Nhiều trường hợp thay đổi nhưng phai mờ đặc tính riêng có của sản phẩm. Trong quá trình cạnh tranh này sự phát triển của các làng nghề, các cơ sở sản xuất phụ thuộc rất lớn vào thị trường và sự biến động của nó. Sản xuất càng phát triển càng thể hiện sự chi phối của quan hệ cung- cầu và quy luật cạnh tranh. Những cơ sở sản xuất có khả năng thích ứng với sự biến đổi của nhu cầu thị trường thường có tốc độ phát triển nhanh. Sản phẩm của nó có đủ sức cạnh tranh trên thị trường và luôn đổi mới cho phù hợp với nhu cầu và thị hiếu tiêu dùng của xã hội. Như vậy, rõ ràng thị trường và sự phát triển của thị trường đã tác động mạnh tới phương hướng phát triển, cách thức tổ chức sản xuất, cơ cấu sản phẩm, là động lực thúc đẩy sản xuất. Thị trường không ổn định sẽ gây ra bấp bênh trong sản xuất. Thủ công mỹ nghệ trong sự phát triển kinh tế Là ngành giữ một địa vị trọng yếu trong nền kinh tế quốc dân. Sản xuất ra vật phẩm tiêu dùng, một phần tư liệu sản xuất quan trọng cho công nghiệp và nông nghiệp. Giải quyết công ăn việc làm cho một số đông người ở thành thị và nông thôn nên làm giảm được tỷ lệ thất nghiệp và từ đó góp phần làm giảm tệ nạn xã hội. Thủ công mỹ nghệ là nhóm sản phẩm giải quyết việc làm cho hơn 1 triệu lao động tại các vùng nông thôn. Hiện nay, có khoảng 7 triệu lao động ở nông thôn chưa có việc làm( chưa kể việc mỗi năm tăng thêm 0,4 triệu lao động), nên ý nghĩa xã hội của ngành hàng này là rất lớn. Ngoài ra, mặt hàng thủ công mỹ nghệ còn thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Do đặc trưng của mặt hàng là mang đậm bản sắc dân tộc nên khi đem ra thị trường nước ngoài quảng bá sản phẩm, mặt hàng này đã góp phần giới thiệu cho bạn bè thế giới biết đến văn hoá Việt Nam, phong tục tập quán của người Việt Nam và những thắng cảnh đẹp của người Việt... Điều này đã thu hút một lượng khách du lịch vào nước ta ngày càng nhiều thúc đẩy ngày du lịch phát triển. Cũng từ việc xuất khẩu này, ngành thủ công mỹ nghệ đã làm tăng kim ngạch xuất khẩu và thu hút lượng vốn đầu tư lớn vào nước ta. Như vậy, việc xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ không những làm tăng doanh thu cho ngành hàng này mà còn kéo theo sự phát triển của rất nhiều ngành nghề khác. Việc phát triển thị trường cho mặt hàng này vừa có ý nghĩa xã hội, vừa có ý nghĩa kinh tế rất lớn. Sự quản lý của nhà nước đối với ngành thủ công mỹ nghệ Như đã nói ở trên thị trường luôn có khuyết tật và cần phải có sự can thiệp của chính phủ. Ngoài hoạt động của bàn tay vô hình, cần phải có bàn tay hữu hình để sửa chữa những khuyết tật của nền kinh tế cạnh tranh tự do. Bất kể một ngành nghề nào chính phủ cũng có những quy định riêng, những chính sách riêng để đảm bảo cho ngành hoạt động hiệu quả. Ngành thủ công mỹ nghệ cũng là một trong những ngành được chính phủ hết sức quan tâm, chú trọng. Qua các kỳ đại hội Đảng đều thấy đề cập đến việc phát triển làng nghề truyền thống, trong đó có làng nghề sản xuất thủ công mỹ nghệ. Tại đại hội IX một lần nữa nghị quyết lại nhấn mạnh hướng phát triển của thế kỷ 21 là phát triển hàng thủ công mỹ nghệ phải gắn với thị trường xuát khẩu. Vì đây là một trong những mặt hàng đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn cho đất nước. Vì thế, hàng thủ công mỹ nghệ là một mặt hàng được Nhà nước bảo hộ ở mức độ cao; đã được đưa vào danh mục loại trừ tạm thời; chẳng hạn đồ gỗ gia dụng với tiến trình giảm thuế như sau: Bảng 1: Tiến trình giảm thuế của mặt hàng gỗ gia dụng Mặt hàng 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Đồ gỗ gia dụng 40% 40% 40% 40% 30% 20% 15% 5% Nguồn: Tạp chí công nghiệp – 23/1999, trang 15 Chính phủ đã ban hành các văn bản pháp quy về`việc sản xuất và xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ. Chính phủ không chỉ quan tâm đến việc bảo tồn làng nghề mà còn có rất nhiều chính sách để phát triển các làng nghề này. Bộ thương mại đã trình Chính phủ đề án phấn đấu tăng gấp đôi số làng nghề so với năm 1999 vào năm 2006 và giải quyết việc làm cho khoảng 2 triệu lao động. Dự kiến mặt hàng thủ công mỹ nghệ năm 2000 đạt 200 triệu USD và năm 2010 sẽ đạt 500 triệu USD (số liệu năm 1999). Nhưng thực tế đến năm 2000 đã đạt được 237 triệu USD và năm 2005 phấn đấu đạt 500 triệu USD. Chương 2: Thực trạng về thị trường tiêu thụ mặt hàng thủ công mỹ nghệ của công ty. 1. Thực trạng chung của cả nước Việt Nam hiện có khoảng 1400 làng nghề truyền thống với kinh nghiệm sản xuất và chế tác các mặt hàng thủ công mỹ nghệ từ hàng ngàn năm nay. Một số phát hiện khảo cổ gần đây cho thấy Việt Nam đã có mối quan hệ giao thương khá phát triển ra thị trường khu vực và thế giới từ nhiều thế kỷ trước với những thương cảng lừng danh như: Vân Đồn, Phố Hiến… Kết quả trục vớt những tầu hàng cổ ngoài khơi cửa Hội thời gian qua đã khẳng định đồ thủ công mỹ nghệ, đặc biệt là đồ gốm sứ Việt Nam vào khoảng thế kỷ XVII đã rất tinh xảo và đặc sắc, có thể cạnh tranh với đồ sứ Trung Hoa đương đại. giai đoạn 1980- 1992 Kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ như chiếu cói, thảm đay, thảm cói, áo kimônô, khăn trải bàn thêu, áo thêu... vào thị trường Liên Xô cũ và các nước Đông âu trong thời gian 1980- 1990 là khá lớn (đặc biệt là năm 1990 kim ngạch đạt tới 135 triệu rúp ). Chính vì thế mà đã gây ra một số ảo tưởng về tính “độc đáo” và “khả năng chiếm lĩnh thị trường cao” của những mặt hàng này. Tính phi thực tế của kim ngạch đã thể hiện rõ vào năm 1991 khi Liên Xô tan rã. Vào năm đó, thị trường tiêu thụ sản phẩm dường như không còn nữa. Sản phẩm cói, đay, ngô, dừa... chỉ còn bán được cỡ 30 triệu Rúp- USD, giảm tới 80% so với năm 1990 và tiếp tục giảm trong những năm tiếp theo. Lúc này thị trường XNK chủ yếu của ta bị đột ngột thu hẹp vì khách hàng của chúng ta lúc đó chủ yếu là các nước XHCN. Việc tiếp cận với thị trường TBCN thì còn hạn chế (do sự cản trở của các chính sách xuất nhập khẩu, do sản phẩm của ta không đáp ứng được thị hiếu tiêu dùng). Sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ bước vào giai đoạn khó khăn, giảm sút nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến đời sống người lao động trong các ngành nghề này. Nhiều cơ sở sản xuất tan rã hoặc phải chuyển sang làm các nghề khác, công nhân mất việc làm hoặc bị giảm thu nhập, đời sống rất khó khăn… Sản lượng và giá trị xuất khẩu của một số mặt hàng giai đoạn này như sau: Bảng 2: Sản lượng và giá trị xuất khẩu thủ công mỹ nghệ giai đoạn 1980- 1992 Mặt hàng 1989 1990 Tăng so với năm trước (%) 1991 Tăng so với năm trước (%) 1992 Tăng so với năm trước (%) Mỹ nghệ (triệu Rúp - USD) 22 23,9 8,64 6,8 -71,55 14,3 110,29 Mây tre đan(triệu Rúp - USD) 54,4 44,0 -19,11 10,8 -75,45 14,8 37,04 Thêu(triệu Rúp - USD) 44,8 50,9 13,62 8,8 -82,71 4,6 -47,73 Thảm len (nghìn m2) 255,0 163,5 -35,88 158,0 -3,36 160,0 1,26 Thảm đay (nghìn m2) 3323,0 4246,0 27,78 1198,0 -71,78 135,0 -88,73 Nguồn: Làng nghề truyền thống trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà nội- 2004 Để khắc phục hậu quả nghiêm trọng này, những cơ sở sản xuất kinh doanh muốn trụ lại để tồn tại và phát triển đã phải rất chật vật chuyển đổi, cải tiến sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm sáng tạo mẫu mã sản phẩm mới để cạnh tranh; tìm kiếm thị trường, bạn hàng mới; xây dựng quan hệ mua bán mới… Giai đoạn 1993 đến nay Mất gần 5 năm lao đao vất vả, dần dần đầu ra cho sản xuất đã được cải thiện, thị trường xuất khẩu mới từng bước được mở rộng, không những thay thế được hệ thống thị trường tiêu thụ đã mất hoặc bị thu hẹp, mà còn mở ra một giai đoạn phát triển mới với tốc độ tăng trưởng hàng năm khá cao. Theo thống kê chính thức của Hải quan, năm 1996 xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của nước ta đạt kim ngạch 78,6 triệu USD và năm 2000 tăng lên 236,8 triệu USD, tăng hơn 3 lần so với năm 1996( trong khi xuất khẩu chung của cả nước chỉ tăng gần 2 lần). Nếu phân tích sâu theo thống kê chi tiết từng nhóm hàng, thì thực tế kim nghạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ cò cao hơn. Năm 1996 xuất sang 71 thị trường đạt 144 triệu USD; năm 2000 xuất sang 119 thị trường đạt 293 triệu USD. Trong đó: Hàng gốm sứ mỹ nghệ, năm 1996 xuất sang 59 thị trường đạt kim ngạch 22,7 triệu USD, năm 2000 là 92 thị trường và 109,4 triệu USD; Hàng Mây tre đan, năm 1996 tương ứng là 56 thị trường và 37 triệu USD, năm 2000 là 76 thị trường và 67 triệu USD; Ngoài ra, các nhóm hàng đồ gỗ mỹ nghệ, hàng thêu ren, thổ cẩm, thảm các loại… cũng có bước phát triển mới. Bảng 3: Số lượng thị trường và kim ngạch xuất nhập khẩu. Năm Gốm sứ mỹ nghệ Mây tre đan Số lượng thị trường Kim ngạch xuất khẩu (tr USD ) Số lượng thị trường Kim ngạch xuất khẩu (tr USD) 1996 59 22,7 56 37 2000 92 109,4 76 67 Tỷ lệ tăng (2000/1996) 33 381,94(%) 20 81,08(%) Nguồn: Tạp chí thương mại số 32-33/2001, trang 44 Trong số liệu nêu trên, chưa kể đến nhóm hàng đồ gỗ gia dụng mà chủ yếu đều là hàng thủ công được thống kê trong nhóm mặt hàng gỗ chế biến, cũng chưa kể đến hàng trang sức, trạm bạc… được thống kê chung trong nhóm hàng kim cương, đá quý… Theo thống kê, trong 10 năm của thập niên 90, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam liên tục tăng với nhịp độ rất cao. Năm 1991 chỉ đạt mức 6,8 triệu rúp – USD, đến năm 1993 đạt được 20,5 triệu rúp – USD, năm 1996 là 124 triệu USD, năm 1999 đạt 168 triệu USD. Năm 2000 xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đạt khoảng 237 triệu USD, bằng 1/3 kim ngạch xuất khẩu gạo và vượt lên trên kim ngạch xuất khẩu điều, tiêu, cao su, rau quả, than đá, chè, lạc. Tuy hiện nay chỉ chiếm 2,5% tổng kim ngạch xuất khẩu chung nhưng kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ có ý nghĩa đột phá lớn để góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu quốc gia. Biểu đồ: Giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Nguồn: Làng nghề truyền thống trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà nội- 2004 Hiện nay, gốm hiện đại Việt Nam cũng đang rất được ưa chuộng tại thị trường Châu âu, vốn là thị trường tiêu thụ lớn nhất thế giới. Khách Châu âu khi tiếp cận với các mặt hàng gốm đất đỏ Việt Nam đã đánh giá rất cao và gọi dòng sản phẩm này là: “Sài Gòn- Italy”. Một mặt hàng khác cũng đang hứa hẹn tăng thị phần trên thị trường thế giới là đồ gỗ mỹ nghệ, dự kiến mỗi năm sẽ xuất khẩu được khoảng 40 triệu USD đến các nước như: Đài Loan, Nhật, Pháp, Italy, Tây Ban Nha… Hiệp định thương mại Việt-Mỹ được ký kết cũng góp phần mở rộng khả năng phát triển thêm thị trường Bắc Mỹ. Tuy vậy tính đến thời điểm này, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam vẫn chưa cao, chưa phản ánh đúng tiềm năng của ngành hàng này. Đến nay mặt hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu của Việt Nam đã xuất hiện trên gần 120 nước và vùng lãnh thổ ở khắp các châu lục trên thế giới. Trong đó, các thị trường có kim ngạch lớn nhất năm 2000 là: Nhật, Pháp, Đức, Anh, Đài Loan, Hà Lan, Mỹ, Hồng Kông, Hàn Quốc, Italy, Đan Mạch. Tổng kim ngạch của 15 thị trường này là 203,5 triệu USD, chiếm tỷ trọng 86% kim ngạch hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu của Việt Nam năm 2000. Thực tế cho thấy, các ngành hàng như: dệt may, giầy dép… tuy kim ngạch thống kê cao nhưng thực thu lại thấp, chỉ đạt khoảng 20% giá trị xuất khẩu do vẫn phải nhập nguyên vật liệu từ nước ngoài, phải đầu tư lớn cho dây chuyền sản xuất, khấu hao cao. Đó là chưa kể lợi nhuận thu được từ nhiều đơn hàng gia công mà các doanh nghiệp dệt may đang nhận là vô cùng thấp. Trong khi đó giá trị thực thu từ các mặt hàng thủ công mỹ nghệ là 95 đến 97% do hoàn toàn sử dụng nguyên liệu có sẵn trong nước, ít phải đầu tư vào cơ sở vật chất phục vụ cho sản xuất. Mặt khác, các công đoạn sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ lại phù hợp với nhiều đối tượng lao động khác nhau cả về tuổi tác và năng lực. Theo các con số thống kê, giá trị lợi nhuận xuất khẩu thực thu của 1 triệu USD từ hàng thủ công mỹ nghệ sẽ tương đương với 4,7 triệu USD từ dệt may. Bộ nông nghiệp phát triển nông thôn cũng đã đưa ra chỉ tiêu xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đến năm 2005 phải đạt giá trị xuất khẩu 4 triệu tấn gạo. Điều đó cho thấy vị thế của ngành hàng này đang được nâng lên trong sự phát triển chung của nền kinh tế xã hội. Hiện có một số vấn đề còn đang tồn tại khiến cho hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam chưa tiếp cận được nhiều với thị trường thế giới. Đó là giá thành của hàng Việt Nam còn cao hơn giá thành của hàng trong khu vực khoảng 10%, cao hơn hàng Trung Quốc khoảng 15%. Nguyên nhân chủ yếu không hoàn toàn từ sản xuất mà do chi phí trung gian quá cao. Do đó, điều này hoàn toàn có thể khắc phục được nếu có sự phối hợp đồng bộ của các ngành chức năng. Bộ khoa học công nghệ cũng cần phải quan tâm đúng mức hơn nữa tới vấn đề đầu tư phát triển sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ. Những thiết bị sản xuất hàng loạt chính là giải pháp hữu hiệu góp phần hạ giá thành sản phẩm, đáp ứng những yêu cầu của đông đảo bạn hàng trên thị trường thế giới. Một vấn đề khác là hoạt động xúc tiến thương mại, tiếp cận với thị trường của chúng ta còn yếu. Đối với nơi sản xuất Hàng thủ công mỹ nghệ là sản phẩm trang trí nên ngoài những đòi hỏi về tính tiện dụng còn có yêu cầu rất cao về tính độc đáo trong kiểu dáng và mẫu mã. Trong khi đó, phần lớn doanh nghiệp Việt Nam chẳng mấy quan tâm đến việc đầu tư thiết kế, thay đổi mẫu mã. Tình trạng này khiến cho hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam dần mất đi tính truyền thống, kém đa dạng mẫu mã, mất thế chủ động. Các doanh nghiệp đa số đi theo hướng làm theo đơn đặt hàng, khách hàng cung cấp mẫu, khá nhiều trường hợp khách hàng cung cấp cả nguyên vật liệu. Hiện nay, mẫu mã vẫn được coi là rất quan trọng của một cơ sở sản xuất. Bí mật mẫu mã là vấn đề được phần lớn các cơ sở sản xuất coi là cốt tử. Theo hội đồng quốc tế các hội thiết kế (ICSID) thì kiểu dáng là yếu tố vô cùng quan trọng, nó đóng góp tới 85% trong việc ra quyết định mua của khách hàng. Tuy vậy các nhà sản xuất lại chẳng mấy quan tâm việc tạo ra mẫu mới, thường là thấy mẫu nào chạy thì làm theo. Việc làm các sản phẩm truyền thống nhưng không bán được khiến các doanh nghiệp thủ công mỹ nghệ Việt Nam chuyển sang làm theo mẫu do khách đặt, thay vì đầu tư sáng tạo các mẫu mới, vừa phù hợp với tập quán sử dụng, vừa giữ được bản sắc Việt Nam. Tình trạng này khiến cho hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam dần mất đi tính truyền thống, kém đa dạng mẫu mã, mất thế chủ động và dần sang bị động, ngồi đợi mẫu của khách hàng. “Bán cái khách cần” không có nghĩa là bán cái họ đặt mà phải chủ động tìm ra nhu cầu tiềm ẩn của khách hàng, biến nó thành hàng hoá từ “những cái mình có”. Có thể thấy các doanh nghiệp đều đi theo khẩu hiệu “ bán cái khách hàng cần chứ không phải bán cái mình có”. Các doanh nghiệp đều rất quan tâm đến thị hiếu, nhu cầu của khách hàng. Nhưng cũng vì lý do đó mà các doanh nghiệp đều ở trong thế bị động và mất dần tính chủ động của mình. Một tình trạng chung đối với rất nhiều sản phẩm thủ công mỹ nghệ xuất khẩu của nước ta hiện nay là chưa có thương hiệu cho riêng mình. Các cơ sở sản xuất có thể dễ dàng “ăn cắp” mẫu mã của nhau cho dù không có sự đồng ý của người chủ để in catalogue chào hàng. Một mẫu mã được tung ra, chỉ vài ngày sau đã thấy xuất hiện mẫu tương tự trên thị trường. Một thực tế khác là hiện có khá nhiều doanh nghiệp sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ đã tạo được trang web để giới thiệu sản phẩm ra thị trường thế giới. Nhưng việc cập nhật mẫu mã mới thường xuyên đồng nghĩa với việc tạo điều kiện để người khác có thể bắt chước một cách dễ dàng mẫu đó. Khi thị trường xuất khẩu càng mở rộng, điều này sẽ gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp bởi tính độc đáo của sản phẩm không còn và dễ xảy ra cạnh tranh không lành mạnh. Nhiều doanh nghiệp đã nhận thức được những vấn đề nêu trên, nhưng việc đăng ký thương hiệu cho sản phẩm thủ công không hề dễ dàng. Nếu đăng ký một nhãn hiệu chung cho cả lô thì rất dễ bị làm nhái, còn đăng ký kiểu dáng cho từng sản phẩm thì doanh nghiệp không thể theo kịp hoặc tốn rắt nhiều chi phí vì hàng thủ công phải thường xuyên thay đổi mẫu mã. Vì vậy, hiện nay chỉ có một số ít các doanh nghiệp là có đăng ký nhãn hiệu, kiểu dáng cho những mặt hàng truyền thống lâu năm để xuất khẩu. Đối với các nhà quản lý hiện nay cũng chưa thực sự có biện pháp hữu hiệu để bảo hộ mẫu mã cho sản phẩm thủ công mỹ nghệ, vì việc xét duyệt đăng ký kiểu này chưa xong, cơ sở đã cho ra kiểu mới. Bên cạnh đó, vấn đề nguyên liệu đầu vào cũng là một vấn đề khó khăn. Nguồn tài nguyên thì ngày càng cạn kiệt, lại được bán thô qua Trung Quốc nên nguyên liệu vốn đã thiếu lại càng thiếu. Nguyên liệu thực vật, do được xử lý chưa tốt, thường biến dạng khi có thay đổi về thời tiết, thậm chí phát sinh mốc, mọt ngay trên đường vận chuyển. Nhiều mặt hàng về gỗ của chúng ta khi đem ra các nước châu âu( các nước có thời tiết khô) rất dễ bị nứt nẻ. Có thể nói các sản phẩm chất lượng còn kém và chưa đồng đều. Sản xuất phân tán góp phần làm cho khâu hoàn thiện sản phẩm trở nên không đồng đều, lô tốt lô xấu lẫn lộn . Hoạt động sản xuất kinh doanh còn mang tính tự phát, thiếu sự tổ chức hướng dẫn của các cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp lớn. Hiện nay, cả nước có hàng nghìn làng nghề sản xuất thủ công mỹ nghệ(riêng sản xuất đồ gỗ gia dụng có khoảng 1000 làng nghề). Các cơ sở sản xuất thì chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa hoặc là hộ sản xuất kinh doanh vốn ít, không đủ điều kiện để đổi mới công nghệ, máy móc, thiết bị; thiếu thông tin về thị trường về cả trong và ngoài nước. Công nghệ lạc hậu, vốn ít, hoạt động mang tính tự phát… đã dẫn đến một vấn đề mang tính xã hội. Tình trạng ô nhiễm môi trường khá phổ biến ở các nơi sản xuất. Vấn đề môi trường không chỉ ảnh hưởng tới những người lao động mà còn ảnh hưởng tới cả người dân sống trong vùng. Có thể thấy ở làng gốm Bát Tràng một làng sản xuất gốm khá nổi tiếng ở nước ta. Với diện tích sản xuất khoảng 43ha/164 ha của toàn xã (không gian khá chật hẹp), nhưng lại có đến 1400 lò hộp và lò ga thường xuyên hoạt động, có khoảng 2430 lao động xã và 5500- 6000 lao động từ nơi khác đến. Nhiệt độ của vùng cao, khí CO2 (một loại khí độc hại), bụi được thải ra khá nhiều gây ảnh hưởng tới sức khoẻ của người dân trong vùng. Sản xuất ra một tấn sản phẩm thì thải ra 1,4 tấn xỉ- 0,8 tấn bụi- 0,14 tấn phế phẩm. Theo ước tính mỗi ngày ở nơi đây 1,4 tấn bụi và 11,99 tấn CO2. Đối với nơi tiêu thụ Thị trường trong nước Có thể thấy thị trường trong nước hiện nay còn khá nhiều bất cập trước yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế và những đòi hỏi khắt khe của việc hình thành một thị trường lưu thông hàng hoá, dịch vụ theo hướng văn minh hiện đại phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế và khu vực, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thị trường mặt hàng thủ công mỹ nghệ trong nước còn xuất hiện những bất ổn về quan hệ cung cầu (cung lớn hơn cầu). Mặt hàng chỉ chủ yếu được tiêu thụ ở thành thị, ở các khu vực nông thôn sức mua còn kém. Và đây là mặt hàng trang trí ( không phải là mặt hàng thiết yếu) lại có nhiều hàng hoá thay thế nên đa số cầu tập chung vào những người có thu nhập cao. Hơn nữa, hàng hóa của Việt Nam lại đang phải cạnh tranh với một lượng lớn hàng hoá của Trung Quốc. Đây là những mặt hàng có chất lượng không tốt nhưng hình thức đẹp, giá rẻ, phù hợp với thu nhập của đại đa số người dân. Nhìn chung sức tiêu thụ mặt hàng này trong nước còn yếu, cần có những mục tiêu, nhiệm vụ về phát triển thị trường trong nước trong những năm tới. Để thị trường trong nước giữ vai trò quan trọng là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển và là nhân tố quyết định đẩy mạnh xuất khẩu cần phải giữ cho thị trường trong nước ổn định, văn minh phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Ngoài ra, thị trường tiêu thụ còn có thị trường du lịch. Đây cũng là một thị trường hết sức quan trọng, là một thị trường tiềm năng cần khai thác nhiều hơn. Hiện nay, lượng khách du lịch vào nước ta ngày càng đông, điều này cũng có nghĩa là cầu của mặt hàng thủ công mỹ nghệ càng tăng. Vì sản phẩm thủ công mỹ nghệ mang tính nghệ thuật cao, tính đặc thù của văn hoá Việt, nên khách du lịch rất thích để mua làm quà. Thực tế cho thấy các sản phẩm thủ công mỹ nghệ của chúng ta tiêu thụ trong nước chủ yếu là bán cho khách du lịch. 1.2.2 Thị trường nước ngoài Trước đây thị trường của chúng ta chủ yếu là các nước Đông âu, các nước Liên Xô cũ. Trong giai đoạn mở cửa hội nhập hiện nay, sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Việt Nam đã có mặt và có chỗ đứng ở nhiều nước trên thế giới. Nhưng khách hàng chủ đạo vẫn là các nhà nhập khẩu và các nhà phân phối. Bảng 4: Số lượng thị trường nước ngoài của sản phẩm Năm 1990-1997 2000 Tỷ lệ tăng 2000 so với giai đoạn trước 2002 Tỷ lệ tăng năm 2002/2000 Quốc gia 50 100 50 133 33 Nguồn: Làng nghề truyền thống trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà nội- 2004 Bảng 5: Giá trị xuất khẩu một số sản phẩm năm 2002- 2003 Mặt hàng 2002 2003 Lượng trị giá (1000 USD) Lượng trị giá (1000 USD) Gốm sứ 123480 336757 Mây tre cói 107921 Sơn mài, mỹ nghệ 50996 Thảm 5344 Thêu 52673 Nguồn: Kỷ yếu xuất nhập khẩu hàng hoá Việt Nam 2002, nhà xuất bản thống kê- 2004 Giá trị xuất khẩu của các sản phẩm trong những năm gần đây đều cao. Tiêu biểu là mặt hàng mây tre đan có tổng giá trị xuất khẩu là 107921 (1000 USD) trong đó chủ yếu là xuất sang Nhật Bản, Hồng Kông, Đài Loan…; sản phẩm gốm sứ có tổng giá trị xuất khẩu là 123480 (1000 USD); sơn mài mỹ nghệ là 50996 (1000 USD); sản phẩm thêu là 52673 (1000 USD)…. Cụ thể giá trị xuất khẩu của từng thị trường như sau Bảng 6: Giá trị xuất khẩu các sản phẩm ở một số thị trường chính năm 2002 Mây tre, cói: 107921 (1000 USD) Gốm sứ: 123480 (1000 USD) stt Thị trường Giá trị xuất khẩu (1000 USD) stt Thị trường Giá trị xuất khẩu (1000 USD) 1 Nhật Bản 23330 1 Đức 19813 2 Hồng Kông 12645 2 Pháp 12477 3 Đài Loan 10392 3 Anh 12300 4 Đức 7493 4 Mỹ 11011 5 Pháp 5806 5 Hà Lan 10451 6 Tây Ban Nha 4880 6 Nhật Bản 9284 7 Mỹ 4665 7 Ôxtrâylia 6966 8 Hàn Quốc 4143 8 Hàn Quốc 4583 Sơn mài mỹ nghệ: 50996 (1000 USD) Thêu: 52673 (1000 USD) stt Thị trường Giá trị xuất khẩu (1000 USD) stt Thị trường Giá trị xuất khẩu (1000 USD) 1 Pháp 30656 1 Nhật Bản 25553 2 Hồng Kông 8720 2 Đài Loan 6774 3 Ôxtrâylia 3459 3 Mỹ 5008 4 Nhật Bản 3242 4 Hàn Quốc 3410 5 Hàn Quốc 1683 5 Đức 2986 6 Mỹ 1040 6 ý 1610 7 Thái Lan 951 7 Anh 1571 8 ý 251 8 Pháp 891 Nguồn: Kỷ yếu xuất nhập khẩu hàng hoá Việt Nam 2002, nhà xuất bản thống kê- 2004 Thị trường của mặt hàng tương đối lớn, nhưng nhìn chung có thể phân chia thành những nhóm thị trường chính như sau: Thị trường Nga và các nước SNG. Đây là thị trường truyền thống của hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam. Các nước này từng một thời là thị trường rất rộng lớn đối với Việt Nam. Từ sau 1990, do biến động kinh tế, chính trị nên việc xuất hàng qua khu vực này bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Mấy năm trở lại đây, thị trường này từng bước được khôi phục. Đây là thị trường khá dễ tính và quen thuộc đối với các sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Việt Nam, nếu được khôi phục sẽ tạo ra sức hút lớn đối với doanh nghiệp. Bởi thực tế, Việt Nam đã xuất hàng qua thị trường này từ hồi bao cấp, hầu như phía bạn không đòi hỏi gì nhiều về chất lượng kiểu dáng sản phẩm, chủ yếu là nhập hàng giá rẻ. Thị trường Nhật Bản Nhật Bản là nước có nhu cầu lớn nhất đối với mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam, trong suốt 10 năm qua. Đó là các mặt hàng đồ gỗ, gốm sứ, mây, tre, lá. Hàng năm người Nhật nhập khẩu đồ gốm sứ từ các nước khác lên tới 80 triệu USD, trong đó nhập từ Việt Nam khoảng 60 triệu USD. Ngoài ra, không ít các sản phẩm như thảm len, các loại hàng thủ công cỡ nhỏ, đồ nội thất bằng mây tre của các nước đang chiếm ưu thế trên thị trường Nhật trong những năm gần đây. Mặc dù là thị trường lớn nhưng hàng Việt Nam hiện chỉ chiếm 1,45% trong tổng kim ngạch hàng nhập khẩu của Nhật. Đây là con số khá khiêm tốn. Tuy nhiên thì hiện nay người tiêu dùng Nhật khá ưa chuộng hàng thủ công mỹ nghệ và đồ lưu liệm nhập khẩu từ Việt Nam. Và theo một số ý kiến thì hình thành “mốt” mua hàng tạp hoá của Việt Nam tại Nhật. Đây đúng là thời điểm thích hợp để các doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập vào thị trường khó tính này. Thị trường Mỹ Đến nay, hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam có mặt tại Mỹ chủ yếu qua các kênh mua hàng đơn lẻ và các cửa hàng kinh doanh bán lẻ. Các hệ thống phân phối lớn ở Mỹ chưa nhập hàng hoặc nếu có nhập hàng thì nhập qua nước thứ 3 chứ chưa quan hệ trực tiếp với các doanh nghiệp Việt Nam. Người tiêu dùng Mỹ không đòi hỏi những sản phẩm mây tre cầu kỳ hay có tính mỹ thuật cao, nhưng đặc biệt quan tâm tới tính tiện ích của sản phẩm. Các nhà nhập khẩu Mỹ cũng không thích làm ăn với các công ty thương mại đơn thuần ở các nước xuất khẩu, mà thích quan hệ trực tiếp với nhà sản xuất. Trên thực tế, nhiều công ty nhập khẩu Mỹ đến nước ta mua hàng của các công ty thương mại, nhưng sau đó lại tự tìm đến các cơ sở sản xuất để mua hàng. Thị trường Mỹ có nhu cầu rất lớn đối với mặt hàng gốm sứ và đồ dùng bằng gỗ nguyên liệu lâm sản. Xét riêng đối với hàng gốm sứ, năm 1997 Mỹ nhập khẩu 3,1 tỷ USD và dự báo hàng năm tăng từ 7%-15%. Năm 1998, Trung Quốc xuất khẩu vào thị trường Mỹ 756 triệu USD hàng gốm sứ. Trong khi đó nước ta chỉ xuất khẩu được một số chủng loại, đạt kim ngạch 2,5 triệu USD tăng gấp đôi năm 1997. Tương tự như vậy đối với mặt hàng gỗ mỹ nghệ, năm 1999 tổng giá trị nhập khẩu các loại đồ dùng làm từ gỗ, nguyên liệu lâm sản khác của Mỹ là 20,4 tỷ USD ( kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ, mây tre đan là 5,5 tỷ USD, ghế các loại có khung gỗ là 4,9 tỷ USD)… nhưng tổng giá trị nhập khẩu từ các doanh nghiệp Việt Nam chỉ ở mức 4 triệu USD ( trong đó đồ gỗ, mây, tre chiếm 2,9 triệu USD, ghế các loại có khung là 0,7 triệu USD). Nguyên nhân là mặt hàng này khi xuất sang Mỹ phải chịu mức thuế xuất nhập khẩu rất cao vì chưa được hưởng quy chế MFN. Thị trường Mỹ là một thị trường tiêu thụ lớn và có thể thu lợi ích xuất khẩu cao, nhưng chế độ mậu dịch chặt chẽ và khả năng tiếp cận thị trường bị hạn chế. Do đó, các sản phẩm của chúng ta khi xuất sang thị trường này phụ thuộc nhiều vào chính sách mậu dịch của Mỹ, nhất là việc áp dụng quy chế Tối huệ quốc đối với các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam. Trước đây để thâm nhập vào thị trường này hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam chủ yếu là phải thông qua các nước trung gian như Đài Loan, Hồng Kông …Tuy vậy, sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Việt Nam hiện nay vẫn được các doanh nghiệp nhập khẩu và người tiêu dùng Mỹ đánh giá cao về chất lượng và mẫu mă. Sau khi hiệp định Việt- Mỹ được ký kết ngày 13/7/2000, đánh dấu bước phát triển mới trong quan hệ kinh tế- thương mại giữa hai nước. Cũng từ đây các doanh nghiệp và hàng hoá của Việt Nam có điều kiện thuận lợi mở rộng thị trường, đặc biệt là thị trường Mỹ. Khi Hiệp định được thực thi, các hàng rào thuế quan và phi thuế quan được cắt giảm đáng kể. Các hàng hoá Việt Nam xuất sang thị trường Mỹ (gồm 42) mặt hàng khi đã được hưởng MFN sẽ giảm từ 35% xuống còn 4,9%. Nhưng sau khi Việt Nam và Mỹ thực hiện việc cắt giảm thuế quan và giảm thiểu các biện pháp phi thuế quan thì Việt Nam phải đối mặt với một vấn đề là sự cạnh tranh của hàng hoá cùng loại ở trên thị trường Việt Nam và thị trường Mỹ. Năm 2003, xuất khẩu hàng mây tre của Việt Nam vào thị trường Mỹ đạt 31,2 triệu USD, chiếm khoảng gần 10% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng mây tre của cả nước. Tại thị trường Mỹ, hàng mây tre của nước ta đứng thứ 8 về giá trị sau các nước Trung Quốc, Philippin, Inđônêxia, ấn Độ, Canada… Hàng mây tre của Việt Nam vào Mỹ có mức thuế 5%, một số sản phẩm được miễn thế như chiếu cói, thảm, mành làm từ song mây… Hàng mây tre của Việt Nam đang gặp phải sự cạnh tranh không nhỏ từ sản phẩm cùng loại của Philippin, Inđônêxia, Thái Lan và một số nước khác đang được hưởng mức thuế suất bằng 0. Nhìn chung hàng mây tre của Việt Nam vào Mỹ không cần phải giấy phép nhập khẩu, nhưng lại bị điều chỉnh bởi một số luật khác trong đó có Luật kiểm dịch thực vật, Luật về các loài có nguy cơ tuyệt chủng, Công ước quốc tế về động thực vật hoang dã. Các cơ quan chức năng của Mỹ có thể còn yêu cầu bên xuất khẩu phải đảm bảo rằng lô hàng xuất đi không được sản xuất từ những thực vật có nguy cơ tuyệt chủng hoặc những thực vật có chứa mầm bệnh gây hại cho nông nghiệp và môi trường sinh thái. Thị trường EU Theo đánh giá của các nhà chuyên môn, EU là thị trường có tiềm năng lớn đối với hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu của Việt Nam, trong đó tập chung vào một số loại sản phẩm chính là đồ gỗ mỹ nghệ, đồ gốm sứ, các mặt hàng mây tre đan. Những năm gần đây, kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm đồ gỗ gia dụng của nước ta tăng tới 50%/năm. EU là thị trường tiêu thụ lớn nhất các sản phẩm này của Việt Nam, trong đó Pháp đứng đầu với 29,1%; Anh 24,3%; Italia 12,6%; Hà Lan 9%; chiếm 4% là các nước Bỉ, Đan Mạch, Đức, áo, Tây Ban Nha, Thuỵ Điển… Phân tích thị phần của công ty. Công ty Mỹ thuật Trung ương kể từ ngày thành lập ngày 12/5/1978 đến nay đã nhiều năm được vinh dự là một trong 3 Công ty cấp 1 trực thuộc Bộ văn hoá- thông tin. Với các chức năng chính là: Lập dự án đầu tư, khảo sát thiết kế, sáng tác thi công các tượng đài, tranh hoành tráng, tranh nghệ thuật lịch sử, bảo tàng, sản xuất kinh doanh các mặt hàng mỹ thuật, mỹ nghệ, vật tư thiết bị chuyên ngành mỹ ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3050.doc
Tài liệu liên quan