Quá trình đô thị hóa Quận 2 - Thành phố Hồ Chí Minh và những tác động đối với kinh tế xã hội

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ___________________________ Trần Thị Bích Huyền Chuyên ngành : Địa lý học Mã số : 60 31 95 LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM THỊ XUÂN THỌ Thành phố Hồ Chí Minh – 2009 LỜI CẢM ƠN Tác giả xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, Phòng Sau Đại học, các thầy cô công tác tại Thư viện Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả trong quá trình học tập và là

pdf172 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2250 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Quá trình đô thị hóa Quận 2 - Thành phố Hồ Chí Minh và những tác động đối với kinh tế xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m luận văn. Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo đã tận tình giảng dạy suốt quá trình tác giả học sau đại học, đặc biệt gửi đến cô TS. Phạm Thị Xuân Thọ lời cảm ơn sâu sắc nhất vì cô đã tận tình hướng dẫn tác giả trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Bên cạnh đó, tác giả cũng xin cảm ơn các đơn vị: Uỷ ban nhân dân Quận 2, Phòng Thống kê, Phòng Kế hoạch Đầu tư, Phòng Nông nghiệp, Phòng Tài nguyên môi trường Quận 2 và Ủy ban nhân dân các phường trong Quận 2 đã cung cấp nguồn tư liệu quí báu, giúp tác giả hoàn thành luận văn. Sau cùng, tác giả xin gửi lời tri ân đến gia đình, toàn thể các Thầy cô trường phổ thông Sao Việt, nơi tác giả đang công tác, cùng các anh chị thành viên lớp cao học K17, những người luôn ủng hộ, động viên và giúp tác giả có thêm niềm tin, động lực trong cuộc sống, trong học tập, nhất là khi thực hiện luận văn. Tp Hồ Chí Minh, tháng 10/2009 Tác giả luận văn Trần Thị Bích Huyền DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT GDP : Tổng sản phẩm quốc nội, là giá trị của tất cả hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi một lãnh thổ hay quốc gia trong thời gian nhất định (thường là 1 năm). KCN : Khu công nghiệp KCX : Khu chế xuất Khu vực I : Nông – lâm – ngư nghiệp Khu vực II : Công nghiệp – xây dựng Khu vực III : Dịch vụ KT2 : Người dân có hộ khẩu ở quận, huyện này nhưng địa chỉ thường trú ở quận, huyện khác. Tuy nhiên, quận, huyện này vẫn chung tỉnh, thành với hộ khẩu. KT3 : Người dân có hộ khẩu ở tỉnh, thành này nhưng lại đăng ký thường trú dài hạn ở một tỉnh, thành khác. KT4 : Người dân có hộ khẩu ở tỉnh, thành này nhưng đăng kí tạm trú ngắn hạn ở một tỉnh, thành khác. Người NN : Người nước ngoài Tp. HCM : Tp. Hồ Chí Minh MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Tp. Hồ Chí Minh là thành phố năng động nhất cả nước, với nhiều chuyển biến tích cực trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội. Tốc độ phát triển kinh tế nhanh chóng của thành phố đã đẩy mạnh quá trình đô thị hóa. Đặc biệt, quá trình đô thị hóa vùng ven Tp. Hồ Chí Minh đang diễn ra rất sôi động. Quận 2 là quận vùng ven đang trong quá trình đô thị hóa mạnh mẽ. Điều này được biểu hiện qua sự gia tăng dân số, tăng tỉ lệ dân đô thị và thay đổi lớn số lượng dân cư. Trong đó, đặc biệt là sự gia tăng nhanh chóng lượng dân nhập cư cũng như các công trình công cộng. Bên cạnh đó, Quận 2 có nhiều công trình, dự án đang được tiến hành, trong đó nổi bật là dự án cầu Thủ Thiêm, nối Quận 2 với các quận nội thành…làm cho tốc độ đô thị hóa ở Quận 2 ngày càng nhanh hơn. Quá trình đô thị hóa ở Quận 2 đã và đang tạo nên những chuyển biến tích cực đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của Quận, như sự tăng trưởng nhanh chóng nền kinh tế, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư. Song quá trình này cũng có nhiều tác động tiêu cực như sự phân hóa giàu nghèo ngày càng tăng, suy thoái nhanh chóng môi trường sống…. Điều này chứng tỏ quá trình đô thị hóa mà Quận 2 đang thực hiện chưa được chặt chẽ, chi tiết và chưa tương xứng với tiềm năng phát triển của quận. Do đó,tác giả chọn đề tài: “Quá trình đô thị hóa Quận 2 – Tp. Hồ Chí Minh và những tác động đối với kinh tế – xã hội” làm đề tài luận văn tốt nghiệp với mục đích phân tích những tác động của quá trình đô thị hóa và đưa ra những giải pháp thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội, đô thị của Quận 2. 2. Mục tiêu, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu 2.1. Mục tiêu Tổng quan về cơ sở lí luận quá trình đô thị hóa và tình hình kinh tế – xã hội Quận 2. Phân tích tác động của quá trình đô thị hóa đối với kinh tế – xã hội Quận 2. Định hướng và giải pháp thúc đẩy quá trình đô thị hóa của Quận 2 nhằm hạn chế những tác động tiêu cực đến quá trình phát triển kinh tế – xã hội. 2.2. Nhiệm vụ Thu thập cơ sở lí luận liên quan đến đô thị và đô thị hóa. Tìm hiểu quá trình đô thị hóa và quá trình phát triển kinh tế – xã hội Quận 2. Tìm hiểu các giải pháp giảm thiểu các tác động tiêu cực của quá trình đô thị hóa đối với sự phát triển kinh tế – xã hội, môi trường Quận 2, Tp. Hồ Chí Minh. 2.3. Phạm vi nghiên cứu  Nội dung nghiên cứu: đô thị hóa Quận 2 và những tác động đối với kinh tế – xã hội.  Về không gian: Nghiên cứu tác động của quá trình đô thị hóa đối với kinh tế – xã hội Quận 2 nói chung và các phường trong Quận 2 nói riêng.  Về thời gian: Phân tích tác động của đô thị hóa đến kinh tế – xã hội Quận 2 từ khi mới thành lập đến nay, chú ý đến các khoảng thời gian đặc biệt như năm 1997, năm 2000, năm 2005 và năm 2007. Đây là những năm có ảnh hưởng mạnh mẽ đến quá trình đô thị hóa Quận 2. Năm 1997, Quận 2 chính thức được thành lập trên cơ sở tách ra từ Huyện Thủ Đức. Năm 2000 và 2005 là khoảng thời gian đủ để đánh giá quá trình thực hiện các kế hoạch, chủ trương, chính sách, trong đó có vấn đề đô thị hóa. Năm 2007 là khoảng thời gian 10 năm từ khi thành lập, cột mốc đánh giá tác động đô thị hóa đối với kinh tế – xã hội, môi trường Quận 2. 3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Có nhiều công trình nghiên cứu về đô thị, đô thị hóa trên thế giới, Việt Nam và Tp. Hồ Chí Minh. Một số đề tài tiêu biểu như: “Đô thị Việt Nam” của Đàm Trung Phường; “Đô thị học” của GS.TSKH. Nguyễn Thế Bá; “Quản lí đô thị” của TS. Nguyễn Ngọc Châu; “Quản lí đô thị” của Phạm Trọng Mạnh; “Kinh tế đô thị và vùng” của Trần Văn Tấn; “Phân tích dưới góc độ địa lí kinh tế – xã hội sự chuyển hóa nông thôn thành đô thị ở Hà Nội trong quá trình đô thị hóa” của TS. Đỗ Thị Minh Đức… Các đề tài nghiên cứu về chất lượng cuộc sống người dân trong quá trình đô thị hóa, có thể kể đến những nghiên cứu như: “Nghiên cứu đo đạc một số chỉ tiêu chất lượng cuộc sống năm 2002 của Tp. Hồ Chí Minh” của TS. Hồ Thiệu Hùng; “Cộng đồng dân cư ngoại thành Tp. Hồ Chí Minh trong quá trình đô thị hóa” của TS. Văn Thị Ngọc Lan; “Nghiên cứu hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp tại 5 Quận mới, các vấn đề đang đặt ra, các chính sách và biện pháp quản lí, sử dụng đất phù hợp với quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa theo mục tiêu qui hoạch” của KS. Nguyễn Thị Tuất…Đây là những nguồn tư liệu quí giá về quá trình đô thị hóa giúp tác giả tham khảo, nghiên cứu đô thị một cách sâu sắc hơn. Riêng với vấn đề đô thị hóa tại Quận 2 và tác động đối với kinh tế – xã hội thì có đề tài luận văn “Tác động của đô thị hóa đến Quận 2” của Th.s Nguyễn Thị Hồng Trang, được nghiên cứu dưới góc độ lịch sử, chủ yếu tìm hiểu về lịch sử phát triển và tác động của đô thị hóa đối với sự phát triển kinh tế Quận 2. Vì thế, tác giả đã chọn đề tài: “Quá trình đô thị hóa Quận 2 – Tp. Hồ Chí Minh và những tác động đối với kinh tế – xã hội”, nghiên cứu dưới góc độ kinh tế – xã hội trong thời kì đô thị hóa làm luận văn tốt nghiệp. 4. Hệ quan điểm nghiên cứu 4.1. Quan điểm hệ thống Đô thị hóa là một phạm trù kinh tế xã hội, là quá trình chuyển hóa và vận động phức tạp mang tính qui luật. Đô thị hóa diễn ra trong mối quan hệ chặt chẽ với sự phát triển của cách mạng khoa học kĩ thuật, làm thay đổi mạnh mẽ sự phân bố lực lượng sản xuất và phân bố dân cư, thay đổi cơ cấu nghề nghiệp, văn hóa, xã hội, kết cấu giới tính lứa tuổi của dân cư và môi trường sống. Nghiên cứu tác động của quá trình đô thị hóa đến kinh tế – xã hội cần được xem xét trên quan điểm hệ thống thuộc hệ thống kinh tế – xã hội hoàn chỉnh, luôn vận động và phát triển không ngừng. 4.2. Quan điểm tổng hợp lãnh thổ Quận 2 là một bộ phận lãnh thổ của Tp. Hồ Chí Minh, với sự tương đồng và khác biệt với các lãnh thổ và các quận khác. Vì thế, quá trình đô thị hóa của Quận 2 có những nét tương đồng với quá trình đô thị hóa của Tp. Hồ Chí Minh. Nhưng bên cạnh đó cũng có những nét khác biệt. Vì vậy, nghiên cứu quá trình đô thị hóa Quận 2 phải chú ý đến quan điểm lãnh thổ. 4.3. Quan điểm lịch sử – viễn cảnh Quá trình phát triển của đô thị trong quá khứ ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế – xã hội hiện tại và tương lai. Do đó, cần phải nghiên cứu tác động của quá trình đô thị hóa đến Quận 2 trong mối liên hệ với quá khứ, hiện tại và tương lai. Từ đó thấy rõ bản chất của vấn đề đô thị hóa theo thời gian, đảm bảo được tính logic, khoa học và chính xác khi nghiên cứu. 4.4. Quan điểm sinh thái và phát triển bền vững Quá trình phát triển kinh tế và quá trình đô thị hóa có những tác động tích cực và tiêu cực đến môi trường tự nhiên. Để phát triển đô thị, kinh tế – xã hội bền vững phải chú ý sử dụng hợp lí, bảo vệ và tái tạo tài nguyên thiên nhiên. Đồng thời phải chống ô nhiễm môi trường, kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế với công bằng xã hội nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống người dân. Bảo vệ tài nguyên thiên nhiên là việc làm rất cần thiết. Do vậy, nghiên cứu tác động của quá trình đô thị hóa phải dựa trên quan điểm sinh thái và phát triển bền vững. 5. Phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp thống kê Đây là phương pháp rất quan trọng vì trên cơ sở các tài liệu thống kê kinh tế – xã hội, môi trường, tác giả có được những số liệu, dữ liệu liên quan đến nội dung nghiên cứu, từ đó rút ra được những tác động của quá trình đô thị hóa đến kinh tế – xã hội, môi trường Quận 2. 5.2. Phương pháp phân tích – tổng hợp Trên cơ sở phân tích, tổng hợp tài liệu, số liệu thống kê, tác giả rút ra những kết luận về quá trình đô thị hóa Quận 2 và những tác động của quá trình đô thị hóa đến kinh tế – xã hội. 5.3. Phương pháp bản đồ – biểu đồ Bản đồ – biểu đồ là phương pháp đặc trưng của khoa học Địa lí. Việc sử dụng phương pháp này cho phép thể hiện mối quan hệ tổng hợp, sự phân bố không gian các khu vực đô thị. Đồng thời, phương pháp này giúp cho việc đánh giá các tác động được toàn diện hơn. Các bản đồ trong đề tài được thiết kế bằng phần mềm Mapinfo 7.0 và được sửa chữa bằng phần mềm PhotoFiltre, dựa trên cơ sở các dữ liệu đã thu thập và xử lí. Ngoài ra, hệ thống bảng số liệu và biểu đồ còn thể hiện sự phát triển của các hiện tượng, đối tượng và các mối quan hệ Địa lí trong không gian. 5.4. Phương pháp nghiên cứu ngoài thực địa kết hợp phương pháp điều tra xã hội học Phương pháp thực địa là phương pháp cần thiết trong quá trình nghiên cứu các vấn đề địa lí kinh tế – xã hội. Do đó, trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu thực địa để kiểm chứng các nguồn tài liệu cũng như so sánh với các số liệu thống kê để có cái nhìn toàn diện hơn về những tác động của quá trình đô thị hóa đến kinh tế – xã hội. Bên cạnh đó, phương pháp nghiên cứu thực địa còn giúp tác giả hiểu rõ hơn về quá trình đô thị hóa và những tác động đến kinh tế – xã hội Quận 2. 6. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia làm ba chương chính: Chương 1: Cơ sở lí luận về đô thị hóa Chương 2: Quá trình đô thị hóa Quận 2, Tp. Hồ Chí Minh và những tác động đến kinh tế – xã hội. Chương 3: Định hướng phát triển đô thị, đô thị hóa ở Quận 2 và các giải pháp. Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ ĐÔ THỊ HÓA 1.1. Khái niệm 1.1.1. Đô thị Theo Bách khoa toàn thư của Liên Xô, “đô thị là một khu dân cư rộng lớn. Dân cư ở đây hoạt động chủ yếu trong các ngành công nghiệp, thương nghiệp cũng như trong lĩnh vực quản lí khoa học và văn hóa”. Ngoài ra, một số quốc gia có định nghĩa khác nhau về đô thị như sau:  Australia: đô thị dùng để chỉ các trung tâm thành phố, là những khu dân cư đông đúc với mật độ dân số trên 200 người/km2 và qui mô từ 1000 người trở lên.  Canada: đô thị là một vùng có mật độ dân số 400 người/km2 và tổng số dân phải trên 1000 người. [46]  Nhật Bản: các đô thị là các vùng cận kề nhau gồm các khu dân cư đông đúc với mật độ dân số từ 4000 người/km2. [46]  Trung Quốc: đô thị là khu thành thị, thành phố và thị trấn với mật độ dân số từ 1500 người/km2 trở lên. [46] Theo Nguyễn Đức Mậu (1962), “đô thị là một điểm quần cư có mật độ nhân khẩu cao. Người dân ở đây không có hoạt động nông nghiệp trực tiếp. Đô thị phải có kiến trúc theo một lối riêng biệt, khác hẳn với nông thôn để thỏa mãn sự tập trung cao (vận tải, điện nước, các công trình công cộng…)”. Theo nghị định số 42/2009/NĐ – CP ngày 07/05/2009 của Chính phủ về phân loại đô thị qui định rằng: đô thị bao gồm thành phố, thị xã, thị trấn được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thành lập. Đô thị ở nước ta là một điểm dân cư tập trung với các tiêu chí cụ thể sau:  Là trung tâm tổng hợp hoặc trung tâm chuyên ngành, cấp quốc gia, cấp vùng liên tỉnh, cấp tỉnh, cấp huyện hoặc là một trung tâm của vùng trong tỉnh; có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội của cả nước hoặc một vùng lãnh thổ nhất định.  Qui mô dân số toàn đô thị tối thiểu phải đạt 4 nghìn người trở lên.  Mật độ dân số phù hợp với qui mô, tính chất và đặc điểm của từng loại đô thị và được tính trong phạm vi nội thành, nội thị và khu phố xây dựng tập trung của thị trấn.  Tỉ lệ lao động phi nông nghiệp được tính trong phạm vi ranh giới nội thành, nội thị, khu vực xây dựng tập trung phải đạt tối thiểu 65% tổng số lao động.  Hệ thống công trình hạ tầng đô thị gồm hệ thống công trình hạ tầng xã hội và hệ thống công trình hạ tầng kĩ thuật:  Kiến trúc, cảnh quan đô thị: việc xây dựng phát triển đô thị phải theo qui chế quản lí kiến trúc đô thị được duyệt, có các khu đô thị kiểu mẫu, các tuyến phố văn minh đô thị, có các không gian công cộng phục vụ đời sống tinh thần của dân cư đô thị; có tổ hợp kiến trúc hoặc công trình kiến trúc tiêu biểu và phù hợp với môi trường, cảnh quan thiên nhiên. Khái niệm đô thị của các quốc gia có sự khác nhau và thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế – xã hội và dân cư của các khu vực. Phân loại đô thị Việt Nam: Đô thị được phân thành 6 loại như sau: loại đặc biệt, loại I, loại II, loại III, loại IV và loại V, được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định công nhận. Các đô thị phân loại dựa trên sự khác biệt về chức năng kinh tế, qui mô dân số, mật độ dân số, tỉ lệ lao động phi nông nghiệp, hệ thống công trình hạ tầng đô thị và kiến trúc cảnh quan đô thị. Trong đó, các chỉ tiêu về dân số là cơ sở chủ yếu để phân loại đô thị.  Đô thị loại đặc biệt là thành phố trực thuộc Trung ương có các quận nội thành, huyện ngoại thành và các đô thị trực thuộc. Đô thị loại đặc biệt đa chức năng, với qui mô dân số từ 5 triệu người trở lên, mật độ dân số khu vực nội thành từ 15000 người/km2 và tỉ lệ lao động phi nông nghiệp trên 90% tổng số lao động.  Đô thị loại I là thành phố trực thuộc Trung ương có các quận nội thành, huyện ngoại thành, có thể có các đô thị trực thuộc với qui mô dân số từ 1 triệu người trở lên, mật độ dân số tối thiểu là 12000 người/km2. Đô thị loại I là thành phố thuộc tỉnh có các phường nội thành, các xã ngoại thành với qui mô dân số từ 500000 người trở lên, mật độ dân số từ 10000 người/km2 trở lên. Tỉ lệ lao động phi nông nghiệp tại đô thị loại I phải trên 85%.  Đô thị loại II có tỉ lệ lao động phi nông nghiệp phải từ 80% trở lên. Nếu là đô thị trực thuộc Trung ương thì qui mô dân số từ 800000 người trở lên, mật độ dân số trên 10000 người/km2. Đô thị loại II thuộc tỉnh có qui mô dân số trên 300000 người với mật độ dân số từ 8000 người/km2.  Đô thị loại III là thành phố hoặc thị xã thuộc tỉnh có các phường nội thành, nội thị, các xã ngoại thành, ngoại thị. Qui mô dân số trên 150000 người, mật độ dân số từ 6000 người/km2 trở lên và tỉ lệ dân số phi nông nghiệp từ 75% trở lên.  Đô thị loại IV là thị xã thuộc tỉnh có các phường nội thị và các xã ngoại thị. Qui mô dân số từ 50000 người trở lên với mật độ dân số trên 4000 người/km2 và tỉ lệ lao động phi nông nghiệp tối thiểu là 70%.  Đô thị loại IV, đô thị loại V là thị trấn thuộc huyện có các khu phố xây dựng tập trung và có thể có các điểm dân cư nông thôn. Qui mô dân số phải từ 4000 người trở lên, mật độ dân số trên 2000 người/km2 và tỉ lệ lao động phi nông nghiệp từ 65% trở lên. Dựa trên sự phân loại này, Tp. Hồ Chí Minh được xếp vào loại đô thị đặc biệt với qui mô dân số năm 2007 trên 6,6 triệu người, tỉ lệ lao động phi nông nghiệp trên 96% và mật độ dân số nội thành đạt 31104,6 người/km2. Theo các tài liệu về đô thị, một số khái niệm có thể hiểu như sau:  Nội thành là nơi đã hoàn thành quá trình đô thị hóa, không còn các hoạt động nông nghiệp và đang từng bước nâng quá trình đô thị hóa lên chất lượng ngày càng cao.  Ngoại thành là khu vực mà quá trình đô thị hóa có thể đã hình thành phần nào đó nhưng về cơ bản, xã hội vẫn còn đậm chất nông thôn.  “Theo cấu trúc lãnh thổ hành chính đô thị, vùng ven đô được hiểu một cách thông thường nhất là vùng ven khu vực nội thị. Trong qui hoạch xây dựng, so với thực tại phát triển đô thị, vùng ven đô có thể được coi là khu vực mở rộng đô thị trong giai đoạn qui hoạch” 1. “Đây là khu vực đóng vai trò làm gạch nối giữa nội và ngoại thành, là nơi mà quá trình đô thị hóa diễn ra những chuyển động mạnh mẽ nhất” 2. 1.1.2. Đô thị hóa Đô thị hóa là quá trình tập trung dân số vào các đô thị, diễn ra trong mối quan hệ chặt chẽ với sự phát triển của cách mạng khoa học kĩ thuật, làm thay đổi sự phân bố lực lượng sản xuất; phân bố dân cư; thay đổi cơ cấu nghề nghiệp, văn hóa, xã hội, kết cấu giới tính, lứa tuổi của dân cư và môi trường sống. Đô thị hóa quá trình chuyển hóa và vận động phức tạp mang tính qui luật, diễn ra trên qui mô toàn cầu, mang tính chất đặc trưng của sự phát triển kinh tế – xã hội trong thời đại hiện nay. Ban đầu, đô thị hóa chỉ là sự mở rộng diện tích thành phố và nâng cao vai trò của thành phố trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, đô thị hóa không phải là sự tăng số lượng các đô thị, qui mô dân số đô thị cũng như ảnh hưởng của nó đối với các vùng 1 Theo KTS Đàm Quang Tuấn – Tạp chí Qui hoạch xây dựng số 23/2007 2 TS. Huỳnh Quốc Thắng, Tham luận “Vùng ven và văn hóa vùng ven trong quá trình đô thị hóa”, Hội thảo “Các xu hướng đô thị hóa và đô thị hóa vùng ven ở Đông Nam Á”, tháng 12-2008, trang 90. xung quanh. Hiện nay, đô thị hóa còn bao gồm những thay đổi đa dạng về mặt kinh tế – xã hội, gắn liền với sự phát triển công – thương nghiệp, dịch vụ và sự phân bố dân cư, phân bố sản xuất. Dựa trên những khái niệm về các khu vực trong đô thị, đô thị hóa, có thể hiểu khái niệm đô thị hóa ngoại ô: hiện tượng tương tự như việc “đô thị lấn ra” do ngoại ô có nguồn đất dồi dào. “Đô thị hóa vùng ven dùng để nói về việc khu vực nông thôn và thành thị nhập lại, pha trộn. Từ đó, có thể phát sinh những hình thức tương tác xã hội, kinh tế và môi trường hoàn toàn mới, không còn thuần đô thị hoặc thuần nông thôn nữa”3. Đô thị hóa làm thay đổi sự phân bố dân cư, từ dạng phân tán ở các vùng nông thôn sang dạng tập trung ở các đô thị, gắn với các hoạt động sản xuất phi nông nghiệp. Từ đó, tỉ lệ lao động phi nông nghiệp và vai trò của các ngành dịch vụ tăng lên. Nhờ cuộc cách mạng công nghiệp và cách mạng khoa học kĩ thuật, tỉ lệ dân cư sống trong các đô thị ngày càng tăng lên. Nhịp độ đô thị hóa cũng diễn ra nhanh chóng: dân nhập cư tăng nhanh, cơ sở hạ tầng vật chất kĩ thuật phát triển và tăng diện tích đất phi nông nghiệp. Đô thị hóa không ngừng làm thay đổi cách ứng xử và thái độ của con người đối với thiên nhiên, đồng thời làm thay đổi lối sống, cách sinh hoạt của con người trong đô thị. 1.2. Những biểu hiện cơ bản của đô thị hoá 1.2.1. Tỉ lệ dân số thành thị cao và tăng nhanh Đô thị trên thế giới đang tăng nhanh chóng cả về số lượng đô thị, số dân đô thị và tỉ lệ thị dân. Dân đô thị tại các nước phát triển đạt tỉ lệ cao như Anh 90%, Australia 91%; Nhật Bản, Hoa Kỳ: 79%, …. Ngược lại, tại các nước đang phát triển, tỉ lệ dân số đô thị thấp (Trung Quốc 44%; Sudan 41%; Thái Lan 33%; Ấn Độ 28%; Ethiopia 16%...). Một số nước NICs có tỉ lệ dân số đô thị rất cao như Singapore đạt 100%; Đài Loan 78%; Hàn Quốc 82%... Bảng 1.1. Dân số và tỉ lệ dân số đô thị thế giới và các vùng của Việt Nam năm 2007 Khu vực Dân số (nghìn người) Tỉ lệ dân số đô thị (%) Thế giới 6625000 49 Việt Nam +Đồng bằng sông Hồng +Trung du và miền núi phía Bắc 85000 19488,3 11099,4 27 26,2 15,4 3 GS. Micheal Leaf, Tham luận “Ranh giới mới của đô thị: Đô thị hóa vùng ven và tái phân định ranh giới”, Hội thảo “Các xu hướng đô thị hóa và đô thị hóa vùng ven ở Đông Nam Á”, tháng 12-2008, trang 10. +Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung +Tây Nguyên +Đông Nam Bộ +Đồng bằng sông Cửu Long 19659,9 4934,1 12455,7 17534,3 22,1 27,9 57,3 21,3 (Nguồn: Tổng cục thống kê và tính toán của tác giả từ Tổng cục thống kê) Mức độ đô thị hóa ở Việt Nam thấp hơn nhiều so với thế giới: Năm 2007, tỉ lệ dân số đô thị của Việt Nam chỉ đạt 27%, trong khi tỉ lệ dân số đô thị thế giới là 49%. Các vùng kinh tế trong nước cũng có mức độ đô thị hóa khác nhau: cao nhất là Đông Nam Bộ với tỉ lệ dân số đô thị là 57,3%; thấp nhất là Trung du và miền núi phía Bắc với tỉ lệ là 15,4%. Dân số đô thị thế giới tăng nhanh cho đến giữa thế kỷ XXI. Tỉ lệ dân số đô thị thế giới đạt hơn 50% (năm 2008) với khoảng 3,2 tỉ người. Dự báo đến năm 2015 sẽ có 4,1 tỉ dân đô thị và năm 2050 dân số đô thị sẽ là 6,4 tỉ dân, tương ứng với 55% và 70% dân số thế giới. 1.2.2. Dân cư tập trung vào các thành phố lớn và cực lớn Dân số đô thị thế giới tăng nhanh, đặc biệt tại các thành phố lớn. Số thành phố lớn và cực lớn từ đó cũng gia tăng mạnh mẽ. Đầu thế kỷ XX, toàn thế giới chỉ có 13 đô thị có số dân hơn 1 triệu dân, đến năm 1995 đã có 330 đô thị có qui mô dân số trên 1 triệu dân. Cuối thể kỷ XX, số đô thị trên 1 triệu dân đã tăng lên 400 đô thị. Vào năm 2007, số lượng đô thị có qui mô dân số trên một triệu dân trở lên có tới 476 đô thị. Đầu thế kỷ XX, không có thành phố nào trên thế giới có dân số là 10 triệu dân. Đến cuối thế kỷ XX, có khoảng 20 thành phố có qui mô dân số là 10 triệu dân. Sự gia tăng dân số đô thị tại các thành phố lớn và cực lớn là đặc điểm nổi bật của quá trình đô thị hóa hiện nay. Số lượng các đô thị lớn tăng nhanh, đặc biệt là tại các nước đang phát triển. Theo số liệu báo cáo năm 2007, thế giới có 10 siêu đô thị lớn với trên 15 triệu dân, trong đó có 8 đô thị thuộc nhóm nước đang phát triển (Mumbai – Ấn Độ; Mexico City – Mexico; Sao Paulo – Brazil; New Delhi – Ấn Độ; Thượng Hải – Trung Quốc, Concata – Ấn Độ; Jakarta – Indonesia; Dhaka – Bangladesh). Trong những năm gần đây, dân số đô thị tại các nước đang phát triển tăng nhanh hơn các nước phát triển, làm cho sự cách biệt dân số đô thị giữa hai nhóm nước có sự thay đổi rõ rệt: dân số đô thị tại các nước đang và kém phát triển chiếm hơn 75% dân số đô thị toàn thế giới (năm 2005). 1.2.3. Lãnh thổ đô thị mở rộng Quá trình đô thị hóa ngày càng phát triển. Các đô thị chiếm một diện tích không nhỏ của Trái Đất. Diện tích các đô thị hiện nay chiếm khoảng 3 triệu km2 (hơn 2% diện tích các lục địa và 13% diện tích đất có giá trị sử dụng cao – đất canh tác nông nghiệp). Hiện nay, đô thị ngày càng phát triển các tuyến đường giao thông, các khu công nghiệp, khu dân cư, khu thương mại, khu giải trí...nhằm phục vụ nhu cầu sản xuất và sinh hoạt ngày càng cao của người dân. Nhu cầu mở rộng diện tích đất ở, đất khu công nghiệp, đất công trình công cộng tăng cao. Do đó, diện tích đất đô thị không ngừng mở rộng. Đô thị phát triển phình to ra ngoài ranh giới hiện có để đáp ứng sự gia tăng dân số và sản xuất của đô thị. Thực tế, khi các đô thị phát triển, khả năng thu hút các điểm dân cư nông nghiệp và các đô thị nhỏ xung quanh càng cao. Tập hợp các vùng ảnh hưởng này làm cho đô thị có vùng ngoại ô ngày càng lớn hơn. Quá trình mở rộng lãnh thổ đô thị cũng chính là quá trình chuyển đất nông nghiệp thành đất đô thị (có khi là sự lấn chiếm đất nông nghiệp để xây dựng đô thị, các cơ sở công nghiệp dân dụng…). Hiện nay, nhu cầu sử dụng đất của dân cư thành thị những năm gần đây đã tăng lên hơn hai lần so với đầu thế kỷ XX. Đó là do nhu cầu về diện tích nhà ở, cây xanh, công viên, câu lạc bộ…ngày càng phát triển khi chất lượng cuộc sống của người dân đô thị tăng lên. Như vậy, chỉ tiêu sử dụng đất và gia tăng diện tích đất đô thị chỉ là chỉ tiêu gián tiếp, biểu hiện nét đặc trưng của quá trình đô thị hóa. Theo dự đoán, diện tích đất đô thị sẽ còn tiếp tục tăng nhanh trong khoảng 150 năm tới. Tất nhiên, sự lấn chiếm đất đai mới của các đô thị cũng gây ra nhiều hậu quả tiêu cực: giảm diện tích gieo trồng, làm suy thoái môi trường…. 1.2.4. Phổ biến rộng rãi lối sống thành thị Lối sống bao gồm những điều kiện và hình thức hoạt động sống của con người, đặc trưng của xã hội, giai cấp, tầng lớp nhất định. Đô thị hóa là quá trình có sự chuyển đổi lối sống nông thôn sang lối sống đô thị. Lối sống đô thị là lối sống hợp cư, dễ biến động và ít có sự liên kết về huyết thống, tập quán, truyền thống.... Người dân đô thị hiểu và có ý thức tôn trọng những chuẩn mực mang tính pháp lí cao. Đô thị hóa không chỉ gắn với sự phát triển công nghiệp mà còn gắn với sự phát triển các ngành dịch vụ khác như giao thông vận tải, thông tin liên lạc, tài chính – ngân hàng, khoa học giáo dục… Nhờ quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng, những khu vực ven đô dễ dàng tiếp cận các nhóm ngành dịch vụ. Từ đó, lối sống của người dân có sự thay đổi và chất lượng cuộc sống người dân được nâng cao. Quá trình đô thị hóa cũng có ảnh hưởng đến nông thôn ở những góc độ khác nhau: Về sản xuất, nông thôn gắn liền với hoạt động sản xuất nông nghiệp là chính. Nhờ áp dụng máy móc, khoa học kĩ thuật và các dịch vụ do đô thị cung cấp, các vùng nông thôn có sự thay đổi cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế: lao động trực tiếp sản xuất nông nghiệp giảm, lao động trong các ngành phi nông nghiệp tăng nhanh chóng. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế rất rõ rệt theo hướng giảm tỉ trọng nông nghiệp, tăng tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân ở vùng nông thôn. Như vậy, đô thị hóa là quá trình tiến bộ của xã hội loài người, là xu hướng tất yếu của lịch sử. Quá trình đô thị hóa thường song hành với quá trình công nghiệp hóa. Đô thị hóa có qui mô rộng khắp trên phạm vi toàn cầu, tuy nhiên có sự khác biệt về mức độ đô thị hóa giữa các nước, các khu vực trên thế giới. 1.3. Các chỉ tiêu xác định mức độ đô thị hoá 1.3.1. Tỉ lệ dân thành thị Tỉ lệ dân thành thị là chỉ tiêu cơ bản xác định mức độ đô thị hóa. Tỉ lệ dân thành thị cao và tăng nhanh, quá trình đô thị hóa càng hiệu quả. Đô thị hóa tạo ra lực hút đối với dân cư từ nơi khác và tạo quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp, nâng cao hiệu quả sản xuất. Tỉ lệ dân thành thị được tính bằng công thức: u t PU P  Trong đó: U : tỉ lệ dân thành thị (%) Pu : dân số đô thị (người) Pt : tổng dân số (người) Tỉ lệ dân cư đô thị của Việt Nam tăng liên tục, từ 20,8% năm 1995 tăng lên 27,4% năm 2007. Tuy nhiên, tỉ lệ này còn thấp so với trung bình thế giới (49% – năm 2007). Tỉ lệ dân đô thị của Tp. Hồ Chí Minh ngày càng tăng do thành phố phát triển mạnh các ngành công nghiệp – dịch vụ. Năm 1995, tỉ lệ dân đô thị đạt 71,6%; đến năm 2007 tăng lên 84,8%. quá trình đô thị hóa của thành phố có diễn ra nhanh chóng, xứng đáng với vai trò là thành phố phát triển nhất cả nước về kinh tế. Bảng 1.2. Tỉ lệ dân số đô thị Việt Nam và Tp. Hồ Chí Minh Tỉ lệ dân số đô thị (%) Năm Việt Nam Tp. Hồ Chí Minh 1995 1997 2007 20,8 22,7 27,4 74,7 83,0 85,1 (Nguồn: Tổng cục thống kê và tính toán của tác giả từ Tổng cục thống kê) Tuy nhiên, tỉ lệ dân đô thị chưa phản ánh đầy đủ mức độ đô thị hóa cũng như hiệu quả của quá trình đô thị hóa. Năm 2007, một số nước đang phát triển, tỉ lệ dân số đô thị có thể đạt rất cao như Uruguay 93%; Argentina 89%; Libi 85%, Mexico 75% .... [24]. Sự tăng nhanh dân số đô thị ở các nước đang phát triển tạo sức ép rất lớn đối với vấn đề việc làm, nhà ở, chất lượng cuộc sống… 1.3.2. Tăng tỉ lệ lao động phi nông nghiệp Gia tăng tỉ lệ lao động phi nông nghiệp là chỉ tiêu quan trọng xác định mức độ đô thị hóa. Tỉ lệ lao động phi nông nghiệp tăng do sản xuất công nghiệp – dịch vụ phát triển mạnh, làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế: giảm tỉ trọng ngành nông nghiệp và tăng tỉ trọng ngành công nghiệp – dịch vụ. Như vậy, tỉ lệ lao động phi nông nghiệp ngày càng tăng thể hiện quá trình đô thị hóa diễn ra ngày càng nhanh. Năm 2000, Tp. Hồ Chí Minh có tỉ lệ lao động phi nông nghiệp đạt 93,7%, đến năm 2007, tỉ lệ lao động phi nông nghiệp tăng lên 96,4% [24]. 1.3.3. Mật độ dân số đô thị cao Mật độ dân số đô thị phản ánh tốc độ phát triển của đô thị. Các đô thị có mật độ dân số đô thị cao chứng tỏ quá trình đô thị hóa ở khu vực đó diễn ra mạnh mẽ. Mật độ dân số đô thị được tính bằng công thức: uPM S  Trong đó: M: mật độ dân số đô thị (người/km2) Pu: dân số đô thị (người) S : diện tích đô thị (km2) Mật độ dân số của cả nước và Tp. Hồ Chí Minh năm 2007 [24; 25] được tính như sau: MVN = 23370000 21741 = 1074,9 (người/km2) MTP. HCM = 5640288 507 = 11124,8 (người/km2) Mật độ dân số đô thị ở Tp. Hồ Chí Minh cao gấp hơn 10 lần so với mật độ dân số đô thị cả nước, chứng tỏ mức độ phát triển đô thị của thành phố cao hơn nhiều so với cả nước. Tuy nhiên, mật độ dân số đô thị chưa phản ánh đầy đủ mọi mặt của quá trình đô thị hóa, nhất là đối với các nước đang phát triển. Tình trạng dân số đông do đô thị hóa tự phát khiến ở các nước này làm mật độ dân số đô thị rất cao và tăng nhanh, trong khi các điều kiện về kinh tế, cơ sở hạ tầng chưa phát triển sẽ gây ra những vấn đề về việc làm, nhà ở và khó nâng cao chất lượng cuộc sống người dân. 1.3.4. Nhịp độ đô thị hóa Nhịp độ đô thị hóa được tính bằng công thức: 2 1U UT t   Trong đó: T : nhịp độ đô thị hóa U2 : tỉ lệ dân đô thị năm sau (%) U1 : tỉ lệ dân đô thị năm trước (%) ∆t : khoảng cách giữa năm sau và năm trước Từ công thức trên, n._.hịp độ đô thị hóa của Tp. Hồ Chí Minh từ năm 1995 đến năm 2007 là 0,87. Trong khi đó, nhịp độ đô thị hóa cả nước thời gian trên đạt 0,56, thấp hơn so với thành phố. Nhịp độ đô thị hóa còn được biểu hiện qua tốc độ tăng dân số đô thị. Dân số đô thị tăng nhanh: từ 3,0 triệu người năm 1990 tăng lên 5,6 triệu người năm 2007. Tốc độ tăng dân số đô thị năm 2007 tăng 186,3% so với năm 1990. Bảng 1.3. Tốc độ tăng dân số đô thị Tp. Hồ Chí Minh Năm Tốc độ tăng dân số đô thị (%) 1990 1995 2000 2005 2007 100,0 109,8 143,8 175,6 186,3 (Nguồn: Tính toán của tác giả từ Cục thống kê Tp. HCM) Nhịp độ đô thị hóa ảnh hưởng đến diện tích đất phi nông nghiệp cũng như làm chuyển đổi mục đích sử dụng đất và sự phát triển cơ sở hạ tầng vật chất kĩ thuật. Những yếu tố này thể hiện ở Tp. Hồ Chí Minh như sau: +Diện tích đất nông nghiệp giảm nhanh chóng, trung bình mỗi năm khoảng 1000 ha, liên tục trong suốt 10 năm qua. Năm 2005, thành phố có 123,5 nghìn ha đất nông nghiệp. Đến năm 2007, diện tích đất nông nghiệp còn 111,3 nghìn ha. Diện tích đất nông nghiệp giảm nhanh, phần lớn chuyển sang đất thổ cư và đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp. Từ đó, diện tích đất phi nông nghiệp tăng lên: từ 86,1 nghìn ha tăng lên 98,3 nghìn ha, tăng 114%. Tốc độ đô thị hóa ở Tp. Hồ Chí Minh diễn ra nhanh chóng. +Hiện nay, nhiều khu dân cư mới đang xây dựng tại các quận vùng ven thành phố như khu đô thị Nam Sài Gòn, khu đô thị Thủ Thiêm… Bên cạnh đó, nhiều công trình phục vụ công cộng như các trung tâm thương mại, siêu thị, nhiều dự án cầu đường đang được hoàn thành (cầu Thủ Thiêm, cầu Phú Mĩ, cầu Nguyễn Văn Cừ…) nhằm đáp ứng cho nhu cầu người dân trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống. 1.4. Tác động của quá trình đô thị hóa đối với kinh tế – xã hội 1.4.1. Tác động tích cực  Đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế Đô thị hóa gắn liền với sự phát triển khoa học kĩ thuật, tập trung lao động, đặc biệt lao động có chất lượng cao, cơ sở hạ tầng được đầu tư phát triển hoàn chỉnh. Những yếu tố này giúp cho chi phí vận tải, chi phí sản xuất giảm đáng kể. Từ đó, hiệu quả kinh tế tăng, giúp tăng trưởng kinh tế nhanh chóng. Nhờ sự phát triển của khoa học kĩ thuật, năng suất lao động trong các ngành kinh tế tại các vùng đô thị tăng lên nhanh chóng, tạo ra khối lượng vật chất ngày càng lớn với giá trị ngày càng cao, giúp tăng nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế. Bảng 1.4. Tốc độ tăng trưởng GDP Tp. Hồ Chí Minh Năm Tốc độ tăng dân số đô thị (%) Tốc độ tăng GDP (%) 1997 100 100 2000 101 145,3 2005 102,7 313,3 2007 102,5 433,6 (Nguồn: Cục thống kê Tp. Hồ Chí Minh) Quá trình đô thị hóa ở Tp. Hồ Chí Minh giúp GDP tăng trưởng nhanh chóng: tốc độ tăng trưởng GDP năm 2007 đạt 433,6% so với năm 1997. Tốc độ tăng GDP của thành phố nhanh hơn so với tốc độ tăng dân số đô thị, cho thấy quá trình đô thị hóa giúp mang lại hiệu quả kinh tế cao, tạo điều kiện nâng cao chất lượng cuộc sống người dân. Quá trình đô thị hóa cũng góp phần làm tăng tỉ trọng GDP của thành phố so với cả nước: từ 17,1% năm 2000 tăng lên 20% năm 2007 [25], xứng đáng là trung tâm công nghiệp lớn nhất cả nước.  Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Đô thị hóa thường diễn ra song song với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quá trình này biến dân cư nông thôn trở thành dân đô thị, với sự chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp chuyển sang lao động công nghiệp và dịch vụ; biến quần cư nông thôn thành quần cư thành thị. Tác động này làm ngành nông nghiệp giảm dần tỉ trọng, tăng dần tỉ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ. Điển hình tại Tp. Hồ Chí Minh, dân số phi nông nghiệp tăng nhanh, từ 93,1% dân số năm 2001 tăng lên 96,4% dân số năm 2007. Tương ứng với sự thay đổi cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế cũng chuyển dịch: nông nghiệp từ 1,9% năm 2001 giảm còn 1,3% năm 2007; công nghiệp từ 46,2% tăng lên 46,4%, dịch vụ từ 51,9% tăng 52,3% năm 2007[25]. Hình 1.1. Biểu đồ cơ cấu kinh tế Tp. Hồ Chí Minh Trong quá trình đô thị hóa, sự chuyển dịch cơ cấu trong từng ngành cũng có sự thay đổi. Tại Tp. Hồ Chí Minh, hoạt động trồng trọt, đặc biệt là trồng lúa giảm tỉ trọng nhanh chóng: Ngành trồng trọt từ 39,3% giá trị ngành nông nghiệp năm 2000 giảm còn 27,2% giá trị vào năm 2006. Trong đó lúa từ 17,5% giá trị, đến năm 2000 giảm còn 6,8% năm 2006. Ngược lại, ngành nuôi trồng và đánh bắt thủy sản năm 2000 đạt 12,7% giá trị ngành nông nghiệp, đến năm 2006 tăng lên 30,5%[ 25]. Nhờ các thành tựu của cách mạng công nghệ, ngành công nghiệp phát triển theo hướng đầu tư vào các ngành công nghiệp hiện đại, tốn ít nguyên – nhiên liệu, nguồn lao động phổ thông. Ngành công nghiệp chế biến của Tp. Hồ Chí Minh tăng dần tỉ trọng trong giá trị sản xuất công nghiệp, từ 96,1% năm 2000 tăng lên 98% năm 2006. Các ngành dịch vụ tăng nhanh về tỉ trọng giá trị sản xuất và ngày càng đa dạng hơn, đặc biệt với các hoạt động môi giới trung gian cho các ngành khác như quảng cáo, tiếp thị, tài chính, tư vấn pháp luật… ngày càng phát triển mạnh mẽ. Bên cạnh đó, hoạt động du lịch được đầu tư phát triển nhằm đáp ứng cho nhu cầu người dân thành phố có chất lượng cuộc sống ngày càng tăng cao.  Thay đổi đặc điểm dân số Quá trình đô thị hóa làm thay đổi đặc điểm của dân số. o Gia tăng dân số và tỉ lệ thị dân Quá trình đô thị hóa tạo nên sức hút rất mạnh mẽ dân cư từ các vùng chuyển vào đô thị. Vì thế, qui mô dân số và tỉ lệ dân thành thị tăng nhanh chóng. Hình 1.2. Biểu đồ dân số và tỉ lệ dân số đô thị Tp. Hồ Chí Minh Bảng 1.5. Dân số Tp. Hồ Chí Minh giai đoạn 1997 – 2007 Năm 1997 2000 2005 2007 Dân số (nghìn người) 4852 5226 6240 6650 Tốc độ tăng (%) 100 107,7 128,6 137,0 Tỉ trọng dân số Tp.HCM so với cả nước (%) 6,5 6,7 7,5 7,8 Dân số thành thị của Tp. HCM (nghìn người) 4028,8 4380,7 5035,3 5397,7 Tốc độ tăng (%) 100 108,7 125,0 134,0 (Nguồn: Cục thống kê và tính toán của tác giả từ Cục thống kê Tp. HCM) Dân số trung bình và dân số thành thị của Tp. Hồ Chí Minh đều tăng nhanh: Dân số trung bình của Tp. Hồ Chí Minh tăng 137%; dân số thành thị tăng 134%. Dân số Tp. Hồ Chí Người % Năm Minh ngày càng chiếm tỉ trọng cao trong cơ cấu dân số cả nước: từ 6,5% năm 1997 tăng lên 7,8% năm 2007.Năm 1995, tỉ lệ dân số đô thị Tp. Hồ Chí Minh đạt 71,6%, năm 2000 tăng lên 83%, đến năm 2007 đạt 84,8%. Từ năm 1990 đến năm 2007, dân số đô thị tăng từ 3 triệu lên 5,6 triệu, tăng 186,3%[25]. Dân số tăng tạo nguồn cung cấp lao động dồi dào cho sự phát triển kinh tế. Đồng thời nguồn lao động tập trung vào các đô thị phần lớn là lao động có chất lượng cao, tạo thuận lợi cho sự phát triển các ngành sản xuất hiện đại, mang giá trị cao như tài chính, tín dụng, công nghiệp chế biến, các hoạt động khoa học công nghệ. Nguồn lao động này cũng chính là nguồn tiêu thụ sản phẩm rộng lớn, tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh chóng, hiệu quả. o Dân số tập trung cao độ Hình 1.3. Biểu đồ cơ cấu dân số Tp. Hồ Chí Minh Mật độ dân số trong quá trình đô thị hóa có xu hướng tăng nhanh do số dân nhập cư tăng, trong khi diện tích đất đai ít biến động. Diện tích đất ở tăng lên do quá trình chuyển đổi đất nông nghiệp thành đất thổ cư, nhưng vẫn không đáp ứng được nhu cầu về nhà ở của người dân cũng như sức ép gia tăng dân số khá cao ở các vùng đô thị hóa. Tại các quốc gia có trình độ đô thị hóa cao, mật độ dân số thường rất cao: Hồng Kông: 6305 người/km2, Singapore: 6785 người/km2. Thành phố Hồ Chí Minh có tốc độ đô thị hóa cao so với cả nước, được thể hiện rõ nét ở sự gia tăng nhanh chóng mật độ dân số: tăng từ 552 người/km2 vào năm 1985, lên đến 2228 người/km2 vào năm 1993 và đạt 3175 người/ km2 vào năm Năm 2007 [25], tăng gấp 6 lần so với năm 1985 và cao gấp hơn 15 lần so với cả nước (mật độ dân số cả nước đạt 257 người/km2, năm 2007). Dân số tập trung ngày càng đông là điều kiện cho các ngành sản xuất, dịch vụ được hình thành, phát triển cả về qui mô và số lượng cũng như mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn. o Thay đổi kết cấu dân số  Kết cấu theo độ tuổi: Do chất lượng cuộc sống người dân đô thị được nâng cao, tỉ lệ sinh tại các đô thị giảm xuống. Thêm vào đó, số dân nhập cư vào Tp. Hồ Chí Minh chủ yếu trong độ tuổi lao động nên tỉ lệ dân số phụ thuộc giảm mạnh, tỉ lệ dân số trong và trên tuổi lao động tăng lên. Hiện nay, phần lớn dân cư thuộc nhóm dân số trong tuổi lao động. Trong đó, tỉ lệ dân số thuộc độ tuổi từ 20 – 39 tuổi chiếm phần lớn dân số. Đây là lực lượng lao động dồi dào và là nguồn tiêu thụ rộng lớn, tạo điều kiện để phát triển kinh tế nhanh chóng. Tỉ lệ dân số thuộc nhóm trên tuổi lao động ngày càng tăng do điều kiện y tế, chất lượng cuộc sống nâng cao.  Kết cấu theo giới tính: Đô thị hóa gắn liền với quá trình dịch chuyển dân cư từ các vùng nông thôn đến thành thị, trong đó lực lượng nam giới có tính cơ động cao hơn nữ giới. Do vậy, tỉ lệ nam giới trong lao động nhập cư thường cao hơn tỉ lệ nữ. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, tại các nước đang phát triển như Việt Nam, quá trình sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế tại các thành phố diễn ra mạnh mẽ, nhu cầu lao động trong các ngành dịch vụ tăng lên, khả năng thu hút lao động nữ nhiều hơn, đặc biệt khi nhóm ngành may mặc, giày da, thực phẩm… phát triển nhanh và mạnh mẽ. Hơn nữa, do đời sống kinh tế – xã hội của các khu đô thị cao hơn, văn minh đô thị càng làm cho tuổi thọ nữ cao hơn nam. Chính vì thế, tỉ lệ nữ ở các thành phố thường cao hơn tỉ lệ nam. Tại Việt Nam, năm 2007, tỉ lệ nữ chiếm 50,8% dân số cả nước. Trong khi đó, tại Tp. Hồ Chí Minh, tỉ lệ nữ đạt 51,9% dân số.  Kết cấu lao động: Cơ cấu lao động có sự chuyển dịch rõ nét: giảm tỉ lệ dân số hoạt động nông nghiệp và tăng tỉ lệ dân hoạt động phi nông nghiệp. Tại Tp. Hồ Chí Minh, năm 1985, tỉ lệ dân số phi nông nghiệp là 83,3% dân số; năm 1993 là 87,7% dân số. Năm 2003, tỉ lệ dân số hoạt động phi nông nghiệp đạt 95,5% dân số, năm 2007 là 96,4% dân số [25]. Quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động giúp nguồn lao động trong các ngành công nghiệp – dịch vụ tăng lên, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Đây là những ngành mang lại giá trị kinh tế cao nên sự chuyển dịch cơ cấu lao động sẽ giúp kinh tế đô thị phát triển nhanh và hiệu quả hơn. Hình 1.4. Biểu đồ cơ cấu dân số theo lao động ở Tp. Hồ Chí Minh  Trình độ học vấn: Điều kiện giáo dục tại các vùng đô thị khá thuận lợi, cùng với ý thức của người dân đô thị và chủ trương phát triển giáo dục của chính quyền, số trẻ em được đến trường, tỉ lệ người dân biết chữ, số năm đến trường của người dân đều tăng. Bên cạnh đó, do điều kiện làm việc trong các ngành công nghiệp và dịch vụ cần trình độ cao, lực lượng lao động tại các đô thị phần lớn đều đạt một trình độ học vấn nhất định, chủ yếu từ cấp trung học phổ thông trở lên. Ngay cả đối với lao động nhập cư, trình độ học vấn cũng cao hơn nhưng không đều. Điều này giúp đô thị có đội ngũ lao động có chất lượng cao mà không tốn nhiều chi phí đào tạo.  Độ tuổi kết hôn: Độ tuổi kết hôn của người dân đô thị tăng lên đáng kể do sức ép của công việc và do nhận thức của người dân được nâng cao. Tác động này tạo điều kiện thuận lợi để giảm tỉ lệ sinh và nâng cao trình độ văn hóa, chất lượng cuộc sống của dân cư.  Tăng cường hiệu quả sử dụng đất Đất đô thị có giá trị rất lớn do chức năng và tính chất sử dụng cao độ của nó. Vì thế, quá trình đô thị hóa luôn gắn liền với quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất: giảm diện tích đất nông nghiệp, tăng diện tích đất đô thị, làm giá đất có sự biến động mạnh mẽ. Diện tích đất canh tác nông nghiệp của Tp. Hồ Chí Minh từ năm 1985 đến 1993 vẫn còn khá cao, khoảng hơn 112000 ha (chiếm hơn 53% diện tích toàn thành). Năm 2003, diện tích đất nông nghiệp giảm xuống nhanh chóng, còn khoảng 91000 ha (43,3% diện tích). Năm 2007, diện tích đất nông nghiệp chỉ còn 77900 ha trên tổng số 209900 ha của toàn thành phố (37,1% diện tích) [25]. Bảng 1.6. Cơ cấu sử dụng đất Tp. Hồ Chí Minh Năm Đất nông nghiệp (%) Đất phi nông nghiệp (%) 1993 53,2 46,8 2003 43,3 56,7 2007 37,1 62,9 (Nguồn: Tính toán của tác giả từ Cục thống kê Tp. Hồ Chí Minh Quá trình đô thị hóa làm cho diện tích đất phi nông nghiệp tăng lên mạnh mẽ: từ 46,8% tổng diện tích đất thành phố năm 1993, tăng lên 62,9% vào năm 2007. Nhu cầu sản xuất công nghiệp, dịch vụ, nhà ở, công trình công cộng… ở các vung đô thị tăng cao làm diện tích đất nông nghiệp giảm mạnh. Khi đất nông nghiệp được chuyển sang đất công nghiệp hay dịch vụ, giá trị sản xuất tăng lên, mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Hình 1.5. Biểu đồ cơ cấu sử dụng đất Tp. Hồ Chí Minh  Nâng cao chất lượng cuộc sống Đô thị hóa góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống người dân. o Tăng thu nhập bình quân đầu người Quá trình đô thị hóa có tác động rất mạnh mẽ đến sự tăng trưởng kinh tế, giúp tăng thu nhập bình quân đầu người, mà thu nhập bình quân đầu người lại là cơ sở nâng cao chất lượng cuộc sống người dân [25]. Năm đồng/người đồng/người Theo số liệu thống kê năm 2007, những quốc gia có trình độ đô thị hóa cao thì thu nhập bình quân đầu người cao, ví dụ như Singapore, Hoa Kỳ, Nhật Bản. Ngược lại, những quốc gia có mức độ đô thị hóa thấp thường có thu nhập bình quân đầu người thấp như Ấn Độ, Ethiopia, Việt Nam… Quá trình đô thị hóa tạo sự chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế. Hoạt động sản xuất nông nghiệp được thay thế bằng hoạt động sản xuất công nghiệp và dịch vụ, tạo ra sản phẩm có giá trị kinh tế cao hơn, đem lại hiệu quả kinh tế cao. Từ đó, thu nhập của người dân được nâng cao. Thu nhập bình quân đầu người của người dân thành thị luôn cao hơn so với nông thôn: Ở Việt Nam, năm 2002, thu nhập bình quân trung bình cả nước là 365000 đồng/người/tháng thì ở thành thị là 622000 đồng/người/tháng, cao hơn gấp 1,7 lần so với cả nước. Năm 2006, thu nhập bình quân trung bình cả nước là 636000 đồng/người/tháng, thành thị là 1058000 đồng/người/tháng, gấp 1,7 lần so với năm 2002. Ở nông thôn, thu nhập bình quân năm 2002 đạt 275000 đồng/người/tháng, thấp hơn 2,3 lần so với thành thị. Năm 2006, thu nhập ở nông thôn là 506000 đồng/người/tháng [24]. Thu nhập bình quân của thành thị luôn cao hơn so với nông thôn và cả nước. Hình 1.6. Biểu đồ so sánh thu nhập bình quân đầu người giữa nông thôn, thành thị Bảng 1.7. Tỉ lệ dân thành thị và thu nhập bình quân đầu người một số quốc gia năm 2007 Quốc gia Tỉ lệ dân thành thị (%) Thu nhập bình quân đầu người (USD/người) Singapore 100 35 162,7 Anh 80 44 693,0 Hoa Kỳ 79 45 789,9 Năm Nhật Bản 79 34254,4 Ấn Độ 28 1042,4 Ethiopia 16 245,2 Campuchia 15 597,2 Việt Nam 28 833,5 (Nguồn: Tổng cục thống kê) Năm 2000, thu nhập bình quân đầu người ở Tp. Hồ Chí Minh là 1363 USD/người/năm, đến năm 2007 đạt 2100 USD/người/năm, tăng 154%. Trong khi đó, năm 2000, thu nhập bình quân đầu người ở Việt Nam đạt khoảng 380 USD/người/năm, đến năm 2007 đạt 820 USD/người/năm, tăng 2,15 lần. Tại các vùng có mức độ đô thị hóa cao, thu nhập bình quân đầu người luôn cao hơn so với các khu vực khác. Thu nhập bình quân đầu người cao và tăng nhanh là cơ sở nâng cao chất lượng cuộc sống người dân. o Tăng chất lượng giáo dục Do chất lượng cuộc sống và nhu cầu về lực lượng lao động có trình độ chuyên môn ngày càng cao, giáo dục tại đô thị được quan tâm phát triển. Số trẻ em được đến trường tăng lên: năm 1997, số học sinh phổ thông Tp. Hồ Chí Minh là 822 839 học sinh; đến năm 2007, số học sinh phổ thông tăng 909 494 học sinh; tăng hơn 80 000 em. Số lượng trường lớp, số lượng giáo viên ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng nhằm đáp ứng mục đích phát triển kinh tế – xã hội lâu dài. Số lượng trường lớp các cấp ở Tp. Hồ Chí Minh có xu hướng tăng lên nhằm đáp ứng sự tăng nhanh về dân số. Năm 2006, số năm đi học của người dân thành phố đạt 7,66 năm, cao hơn so với cả nước là 7,3 năm. Đây là cơ sở đáp ứng cho nhu cầu nâng cao trình độ học vấn và chất lượng lao động tại đô thị. Bảng 1.8. Chỉ tiêu giáo dục ở Tp. Hồ Chí Minh 2000 – 2001 2006 – 2007 Số trường học 735 813 Số lớp học 20893 22528 Số giáo viên 30500 35100 Số học sinh 858600 909500 Tỉ lệ học sinh / giáo viên 28,2 25,9 (Nguồn: Cục thống kê và tính toán của tác giả từ Cục thống kê Tp. Hồ Chí Minh) Tỉ lệ tốt nghiệp trung học phổ thông của Tp. Hồ Chí Minh luôn cao hơn so với cả nước: năm 2004 – 2005, thành phố đạt 99,32% so với cả nước là 96%. Năm 2006 – 2007, tương ứng thành phố đạt 97,49% trong khi cả nước là 80,42%. Điều này chứng tỏ giáo dục của các đô thị lớn như Tp. Hồ Chí Minh không chỉ được đầu tư tốt hơn mà còn đạt hiệu quả cao hơn so với các khu vực khác. Chính sách xã hội hóa giáo dục tại các khu vực đô thị hóa được hưởng ứng tích cực từ các thành phần kinh tế. Nhiều trường tư thục, dân lập các cấp hình thành và phát triển, tạo điều kiện đáp ứng số lượng học sinh và nhu cầu xã hội ngày càng tăng. o Tuổi thọ dân cư cao Do chất lượng cuộc sống tăng lên nhờ sự phát triển kinh tế – xã hội, điều kiện sống của người dân ngày càng nâng cao. Các hoạt động vui chơi, giải trí, các câu lạc bộ rèn luyện thể lực và các cơ sở y tế nâng cao chất lượng, giúp cho người dân có tuổi thọ ngày càng cao hơn. Năm 2007, tuổi thọ trung bình cả nước là 71,3 tuổi còn ở Tp. Hồ Chí Minh là 75,1 tuổi, cao hơn so với cả nước. Chất lượng cuộc sống, đặc biệt là y tế của vùng đô thị lớn tốt hơn so với các khu vực khác. o Y tế Quá trình đô thị hóa góp phần làm y tế phát triển cả về số lượng và chất lượng. Số cơ sở y tế ở Tp. Hồ Chí Minh tăng nhanh: năm 2000, số bệnh viện của thành phố là 46, đến năm 2006 tăng lên 71; tăng 156%. Các bệnh viện không những gia tăng về số lượng mà chất lượng cũng tăng lên. Các bệnh viện hiện nay được trang bị các thiết bị siêu âm, xét nghiệm ngày càng hiện đại, giúp việc khám chữa bệnh dễ dàng, thuận tiện hơn. Số cán bộ công nhân viên ngành y, dược từ 14965 người năm 2000, tăng lên 16171 người năm 2007 là điều kiện giúp việc chăm sóc y tế cho người dân tốt hơn.  Tác động đến môi trường tự nhiên Do ý thức cải tạo và bảo vệ môi trường của người dân được nâng cao, hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ đời sống người dân cải thiện, hoạt động của Sở vệ sinh – môi trường ngày càng hiệu quả… giúp môi trường sống của người dân đô thị được cải thiện đáng kể, đặc biệt tại các khu dân cư mới như Nam Sài Gòn. Bên cạnh đó, quá trình qui hoạch đô thị cũng khiến cảnh quan tự nhiên thay đổi: hệ thống cây xanh, ao hồ…được điều chỉnh hợp lí, làm tăng vẻ mĩ quan đô thị. Các luật về môi trường được các cơ quan chức năng kiểm tra thường xuyên cũng góp phần nâng cao ý thức về bảo vệ môi trường của các cơ sở sản xuất. 1.4.2. Tác động tiêu cực Quá trình đô thị hóa có những tác động tích cực không thể phủ nhận. Tuy nhiên, quá trình này vẫn còn nhiều ảnh hưởng tiêu cực đối với đời sống kinh tế – xã hội – môi trường. Dân cư nông thôn tập trung vào đô thị mang theo những thói quen sinh hoạt của vùng nông thôn và lối sống nông nghiệp. Ngoài ra, nguồn lao động này chưa qua đào tạo, gây ra nhiều khó khăn đối với việc qui hoạch, phát triển đô thị cũng như phát triển kinh tế. Vấn đề này không riêng gì của các đô thị Việt Nam, mà cũng là vấn đề của đô thị nhiều nước phát triển, làm cho không gian và cấu trúc đô thị bị phá vỡ.  Tốc độ tăng trưởng kinh tế không ổn định Quá trình đô thị hóa dù có tác động giúp kinh tế phát triển nhanh chóng, nhưng lại tiềm ẩn nguy cơ làm tốc độ phát triển kinh tế không ổn định, đặc biệt đối với các nước đang phát triển. Quá trình đô thị hóa làm tăng số vốn đầu tư nước ngoài tạo điều kiện tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng nhanh, nhưng lại khiến kinh tế các khu vực này dễ bị phụ thuộc vào các nước đầu tư. Lao động là dân nhập cư tại các vùng đô thị chiếm tỉ lệ cao. Nguồn lao động này thường không ổn định. Khi các đô thị mới được hình thành tại các vùng nông thôn, những lao động này thường chọn ở lại quê hương để làm việc, dù mức lương có thấp hơn so với tại đô thị lớn. Ngoài ra, chi phí sinh hoạt tại các đô thị lớn quá đắt đỏ, khiến cuộc sống của người lao động phổ thông tại đây cũng gặp nhiều khó khăn. Điều này dẫn đến hiện tượng thiếu nguồn lao động sau những dịp nghỉ lễ, ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của các doanh nghiệp tại đô thị lớn, làm tăng trưởng kinh tế tại các đô thị không ổn định. Sản phẩm của các quốc gia đang phát triển có sức cạnh tranh kém trên thị trường thế giới do kinh tế chưa phát triển theo chiều sâu. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hóa còn chậm do khoa học kĩ thuật chưa phát triển. Tỉ lệ tăng của các ngành công nghiệp – dịch vụ chưa bao hàm các ngành có hàm lượng khoa học kĩ thuật cao. Ngành công nghiệp chủ yếu vẫn là gia công với công nghệ lạc hậu, qui mô sản xuất nhỏ, thị trường tiêu thụ còn nhiều khó khăn do thiếu cán bộ quản lí và công nhân kĩ thuật giỏi. Các ngành dịch vụ cao cấp như tài chính – ngân hàng, bưu chính – viễn thông tuy có tăng trưởng nhưng chưa thể hiện hết tiềm năng và thế mạnh. Các ngành dịch vụ cấp thấp tuy phát triển nhanh chóng nhưng do đạt giá trị thấp, chưa tạo được sức tăng trưởng kinh tế. Điều này cũng ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế của các đô thị.  Gia tăng khoảng cách giàu nghèo Trong quá trình đô thị hóa, chất lượng cuộc sống của phần lớn dân cư đô thị tuy được nâng lên nhưng lại không đều giữa các tầng lớp dân cư. Quá trình đô thị hóa khiến ngày càng nhiều lao động chuyển từ nông thôn lên thành thị để kiếm việc làm tại các nhà máy, xí nghiệp hoặc tham gia vào đội ngũ lao động tự do như bán hàng rong, làm thuê… Đa số những lao động này không có trình độ tay nghề và chuyên môn cao nên có cuộc sống không ổn định. Ngoài ra, bộ phận dân cư nằm trong diện giải tỏa, tái định cư cũng gặp khó khăn trong việc ổn định thu nhập. Mặt khác, sự phân hóa giàu nghèo còn do sự khác biệt về nghề nghiệp, như lao động trong các ngành dịch vụ, kinh doanh thường có thu nhập cao hơn các ngành khác. Trong quá trình đô thị hóa, những người biết đầu tư thường giàu lên nhanh chóng, còn những người không có vốn hoặc có vốn nhưng không biết kinh doanh (những người thuộc diện đền bù hoặc bán đất…), sau một thời gian sẽ rơi vào tình trạng tái nghèo hoặc nghèo đi. Điều này làm khoảng cách giàu nghèo tăng lên. Hiện nay, Tp. Hồ Chí Minh vẫn còn khoảng 5% dân số thành phố có mức thu nhập khoảng 350USD/người/năm. Ngược lại, một bộ phận dân cư có trình độ cao có thể đạt mức lương hàng ngàn USD mỗi tháng. Phân hóa giàu nghèo ở thành phố còn thể hiện rõ nét qua chất lượng nhà ở của người dân. Các khu dân cư mới hoặc ở các vùng trung tâm, phần lớn tầng lớp thượng lưu sống trong các khu nhà sang trọng, với giá trị lên đến hàng chục tỉ đồng. Trong khi đó, các khu vực lân cận, người dân nghèo sống trong các khu nhà ổ chuột, thể hiện rõ nét sự phân hóa giàu nghèo trong quá trình đô thị hóa. Tiện nghi sinh hoạt trong các hộ gia đình cũng phản ánh sự phân hóa giàu nghèo ngày càng lớn ở thành phố.  Sức ép lên cơ sở hạ tầng đô thị Quá trình đô thị hóa tạo sức hút mạnh mẽ dân nhập cư tới do đô thị tạo nhiều việc làm, góp phần tăng thu nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống dân cư, tạo đời sống tiện nghi… Tuy nhiên, sự nhập cư ồ ạt vào các đô thị lớn tạo sức ép lên cơ sở hạ tầng, vật chất kĩ thuật đối với đô thị các nước đang phát triển như vấn đề nhà ở, giao thông vận tải – thông tin liên lạc, điện – nước, giáo dục… cũng như gây khó khăn cho việc nâng cao chất lượng cuộc sống người dân. o Thiếu thốn nhà ở Cùng với quá trình đô thị hóa, dân số tại các đô thị ngày càng đông, gây khó khăn về vấn đề nhà ở. Bên cạnh đó, việc qui hoạch đền bù, bồi thường cho các hộ bị giải tỏa chưa hợp lí cũng làm nhiều hộ dân không có nhà ở. Ngoài ra, sau giải tỏa, việc xuất hiện nhiều khu dân cư, khu ổ chuột tự phát, tái lấn chiếm diện tích đất qui hoạch… là vấn đề mà các đô thị cần giải quyết, trong đó có Việt Nam. Do đó, khi nghiên cứu qui hoạch đô thị, cần đền bù hợp lí và tạo điều kiện cho người dân ổn định nơi cư trú. Ở Tp. Hồ Chí Minh nói riêng và các đô thị Việt Nam nói chung, bên cạnh các khu dân cư mới, hiện đại còn rất nhiều khu nhà ổ chuột nhếch nhác, đặc biệt tại các quận vùng ven và dọc theo tuyến kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè. Vì thế, Chính quyền cần có chương trình nhà ở cho người thu nhập thấp và xây dựng chính sách đền bù, giải tỏa hợp lí để người dân có thể tái định cư sau qui hoạch. Việc chuyển đổi quá trình sử dụng đất hiện nay ở các khu đô thị còn gặp nhiều bất cập: quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất chưa được quản lí chặt chẽ khiến một bộ phận dân cư sau khi qui hoạch, từ có nhà cửa chuyển thành không nhà. Điều này làm cho đô thị hóa lộ rõ mặt tiêu cực và tác động không nhỏ đến đời sống người dân. o Sức ép đối với giao thông vận tải – thông tin liên lạc Giao thông vân tải là cơ sở phát triển đô thị trong quá trình đô thị hóa. Tuy nhiên, giao thông ở các đô thị lớn và ở các nước đang phát triển gặp nhiều khó khăn do dân số tăng quá nhanh trong khi việc xây dựng cơ sở hạ tầng xây dựng chưa tương xứng. Đối với nhiều nước đang phát triển nói chung và Việt Nam, Tp. Hồ Chí Minh nói riêng, việc xây dựng nhà cửa chưa theo qui hoạch, mang tính chất tự phát gây cản trở cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng. Ví dụ: tình trạng qui hoạch chưa chi tiết khiến nhiều khu dân cư mới chưa được xây dựng hệ thống giao thông một cách đồng bộ. Vấn đề giao thông đô thị hiện nay gồm tình trạng ách tắc giao thông do đường sá hẹp, xấu; do sửa chữa thường xuyên và còn do ý thức về giao thông của người dân còn kém. Vấn đề này thể hiện rất rõ nét ở Tp. Hồ Chí Minh: Tình trạng các tuyến đường bị đào bới liên tục trong thời gian dài gây ách tắc giao thông nghiêm trọng vào các giờ cao điểm. Nguyên nhân là do hệ thống cơ sở hạ tầng như điện, nước, cáp viễn thông… vẫn chưa hoặc đang trong quá trình xây dựng xong dù cho các khu dân cư đã hoàn thành. Ở các quận vùng ven, việc hình thành các khu nhà ở tự phát trong khu dân cư mới khi hệ thống cơ sở hạ tầng chưa hoàn chỉnh cũng khiến cho quá trình qui hoạch phát triển đô thị gặp nhiều khó khăn. Tình trạng này tạo thành vòng luẩn quẩn giữa xây dựng khu dân cư và hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng tiếp diễn, ảnh hưởng đối với quá trình phát triển đô thị và nâng cao đời sống người dân. Hệ thống đường dây điện, dây cáp viễn thông và truyền hình của thành phố được thiết lập từ rất lâu. Hiện nay, nhu cầu phát triển ngày càng tăng cùng sự gia tăng dân số nhanh chóng. Bên cạnh đó, việc chuyển sang hệ thống ngầm chưa thể thực hiện do việc tháo dỡ hệ thống cũ gặp nhiều khó khăn, cũng như việc thực hiện hệ thống ngầm đồng bộ giữa các ngành chưa khả thi. Vì thế, các trụ điện, đường dây cáp, dây điện trở nên quá tải. Điều này không những làm giảm mĩ quan đô thị mà còn gây nguy hiểm rất lớn đối với người dân khi có các sự cố như sấm, sét, bão…. Quá trình đô thị hóa làm dân cư ngày càng đông, khu dân cư lại xây dựng chậm và các khu công nghiệp phân bố chưa hợp lí tạo sức ép lớn đối với giao thông vận tải, thông tin liên lạc. Vì thế, cần điều chỉnh lại sự phân bố khu dân cư – khu công nghiệp và giao thông vận tải cho phù hợp để giảm sức ép đối với cơ sở hạ tầng và nâng cao chất lượng của các hoạt động sản xuất, sinh hoạt của người dân đô thị. o Khó đáp ứng nhu cầu điện nước cho sản xuất, sinh hoạt. Nhu cầu điện nước cho sinh hoạt và sản xuất trong đô thị là rất lớn. Hiện nay, nhu cầu này đã được đáp ứng ở mức độ cao. Tuy nhiên, nhiều đô thị ở các nước đang phát triển nói chung và ở Tp. Hồ Chí Minh nói riêng, nhu cầu điện nước của người dân vẫn không được đảm bảo đầy đủ, thường xuyên. Ở Tp. Hồ Chí Minh, tình trạng mất điện luân phiên vào mùa khô vẫn chưa được cải thiện, ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống. Tình trạng thiếu nước sạch cũng như nguồn nước bị nhiễm bẩn vẫn thường xuyên xảy ra ở nhiều quận vùng ven và ngoại thành. Đối với các huyện như Cần Giờ, Nhà Bè, do chưa có đường ống, chưa được cung cấp nước ngọt nên tình trạng thiếu nước ngọt rất trầm trọng. Một vấn đề khác tồn tại trong nhiều năm qua, cho đến nay vẫn chưa được khắc phục là việc hệ thống thoát nước mưa, nước thải sản xuất và sinh hoạt hoạt động chưa hiệu quả, gây ra tình trạng ngập nước thường xuyên vào mùa mưa. Tình trạng này còn do hệ thống thoát nước của thành phố đã quá tải, các kênh thoát nước đã bị san bằng hoặc thu hẹp, làm các điểm ngập trong thành phố ngày càng tăng và nghiêm trọng hơn. Điều này chứng tỏ qui hoạch của thành phố chưa đạt hiệu quả. o Sức ép lên giáo dục Quá trình đô thị hóa cũng gây khó khăn đối với giáo dục và dân số tăng quá nhanh. Đối với các quận huyện của đô thị lớn, tình trạng thiếu phòng học, thiếu giáo viên cũng như trang thiết bị phục vụ giảng dạy vẫn còn. Trình độ dân cư, người lao động ở các đô thị chênh lệch rất lớn. Bên cạnh nguồn nhân lực có trình độ cao chiếm tỉ lệ khiêm tốn thì nguồn lao động với trình độ thấp lại khá đông. Trong đó, nhiều lao động không đủ điều kiện làm việc tại các nhà máy, xí nghiệp dẫn đến tình trạng thất nghiệp, gây ra nhiều tệ nạn xã hội. Vì thế, Chính quyền địa phương cần có chương trình đào tạo, nâng cao trình độ học vấn cho người dân, tạo việc làm cho số lao động thất nghiệp cũng như đầu tư cơ sở hạ tầng, giúp họ cải thiện chất lượng cuộc sống.  Ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên Môi trường là vấn đề đáng quan tâm trong quá trình đô thị hóa, đặc biệt với các nước đang phát triển. Hiện trạng ô nhiễm nguồn nước, không khí, đất đai đang ngày càng nghiêm trọng. Nguyên nhân của hiện trạng này là do ý thức bảo vệ môi trường của người dân, các doanh nghiệp còn thấp. Ngoài ra, do luật môi trường chưa chặt chẽ và chưa được thực thi nghiêm minh cũng khiến tình trạng môi trường suy thoái nặng nề hơn. Đối với Tp. Hồ Chí Minh, hệ thống kênh rạch trong thành phố hầu hết đều bị ô nhiễm nghiêm trọng do nguồn chất ._.4 trạm xử lí tại khu vực Thủ Thiêm, Rạch Chiếc và Cát Lái. b) Cấp điện : Xây dựng 6 trạm biến áp tại Cát Lái, Thủ Thiêm, các khu dân cư 220/110 KV, 110/22 KV có công suất 2 x 40 MVA đến 4 x 250 MVA. Trong tương lai các tuyến truyền tải điện bố trí ngầm, giai đoạn đầu giải quyết chủ yếu đi nổi. 6. Qui hoạch xây dựng đợt đầu (năm 2005) : 6.1. Phương hướng chung : Trên địa bàn quận 2, từ nay đến năm 2005 - 2010 vẫn còn tồn tại khá lớn diện tích đất sản xuất nông nghiệp tại các phường Thạnh Mỹ Lợi, Cát Lái, An Lợi Đông,... diện tích khoảng 1.500 ha - 1.700 ha. Cần tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, phúc lợi xã hội cho một số khu dân cư mới đồng thời với cải tạo, chỉnh trang các khu dân cư hiện hữu tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển. 6.2. Các chương trình và dự án đầu tư xây dựng đợt đầu : a) Về công nghiệp : Xây dựng cụm công nghiệp đợt 1 trong khu Cát Lái, khoảng 250 ha (trong đó, quận 2 tham gia đầu tư 25 ha) và cảng chung cho khu công nghiệp đặt tại bờ sông Đồng Nai với chiều dài cảng 200 - 300 m. b) Về các khu dân cư mới : Xây dựng một số khu dân cư trên địa bàn quận 2 gồm : khu phía Nam đường Hà Nội (200 ha), khu giãn dân của quận 1 (phường Bình Trưng Tây - 60 ha), khu ở biệt thự phía Bắc đường Hà Nội (phường An Phú - 24 ha), khu dãn dân Thủ Thiêm (42 ha), khu dân cư của quận 2 (phường Thạnh Mỹ Lợi - 100 ha) và một số khu nhà ở khác tại phường Bình Trưng Đông, An Phú... khoảng 40 ha. c) Công trình giáo dục - dạy nghề : Xây dựng một số trường, gồm : - Trường Phổ thông trung học Thạnh Mỹ Lợi tại trung tâm quận (3,5 ha) và chuẩn bị đất đai, thủ tục để xây dựng 2 trường mới tại phường Thảo Điền, Bình Trưng. - 3 trường Trung học cơ sở tại phường Thảo Điền, An Phú và Bình An (7,5 ha). - 6 trường Tiểu học ở các phường An Bình, Thảo Điền, An Lợi Đông, Bình Trưng Tây, Thạnh Mỹ Lợi (6,3 ha). - 9 trường mẫu giáo - mầm non tại phường Thảo Điền, Cát Lái, Bình An, An Phú, Bình Trưng Tây, Bình Khánh. - Xây dựng trung tâm dạy nghề tại phường Cát Lái (3 ha). d) Công trình y tế : - Bệnh viện 500 giường (5 ha) tại trung tâm quận; - 1 phòng khám đa khoa tại phườngThảo Điền (1 ha) và 7 trạm y tế tại các phường Cát Lái, An Lợi Đông, Bình An, Bình Trưng Đông, An Khánh. e) Cơ sở hành chánh : Trung tâm quận tại phường Thạnh Mỹ Lợi - 8 ha (trong đó có Trung tâm giáo dục chính trị) và trụ sở làm việc của 6 phường trong quận. f) Về công trình thương mại - chợ : Xây dựng các cơ sở tại các phường Thạnh Mỹ Lợi, Bình Trưng Tây, Bình Khánh, Thảo Điền. g) Công trình văn hóa, thể dục thể thao : - Xây dựng công viên văn hóa tháp truyền hình Bình Khánh 40-50 ha. - Xây dựng mới công viên và thể dục thể thao trong khu thể dục thể thao Rạch Chiếc (15 ha). - Nhà Văn hóa (3 ha) và Câu lạc bộ thể dục thể thao (1,2 ha) tại phường Thảo Điền; Nhà Văn hóa thiếu nhi tại phường An Phú (3 ha). h) Về các công trình hạ tầng kỹ thuật : - Nâng cấp đường Lương Tịnh Của, đường Trần Não. - Xây dựng mới 500 m tại phường An Khánh (nối chân cầu mới tới đường Lương Định Của). - Khôi phục, nâng cấp phà Thủ Thiêm và phà Cát Lái. - Xây dựng mới và kết hợp cải tạo nâng cấp tuyến Liên tỉnh lộ 25. - Cải tạo và nâng cấp các tuyến đường hiện hữu của Quận : Hương lộ 33, Trần Não, Lương Định Của, An Khánh - Thủ Thiêm.... - Xây dựng đoạn đầu (4,5 km) của đường vành đai thành phố (quận 7 qua Cát Lái). - Kêu gọi đầu tư để sớm xây dựng cầu qua sông Sài Gòn : cầu Phú Mỹ (quận 7 sang Cát Lái), cầu từ phường 22 - Bình Thạnh sang khu Thủ Thiêm. - Hoàn thành xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu dân cư phía Bắc đường Hà Nội (phường Thảo Điền và An Phú). - Xây dựng 2 tuyến đường cơ bản hướng Bắc Nam và Đông Tây cho khu dân cư Bình Trưng (các phường Bình Trưng Đông, Bình Trưng Tây, Cát Lái). - Hoàn thành đường ven sông Sài Gòn (đoạn qua An Lợi Đông và Thủ Thiêm). - Trạm biến áp 220/110 KV, 4 x 250 MVA (Thủ Thiêm) và 110/22 KV (Cát Lái). - Phát triển một số tuyến ống cấp nước cần thiết cho quận, 1 trạm bơm chuyển tiếp và xây dựng 1 trạm xử lí nước thải qui mô nhỏ tại phường Bình Khánh. - Đến năm 2005 - 2010 vẫn tồn tại khu nghĩa địa tại phường Bình Trưng Đông, Thạnh Mỹ Lợi, Cát Lái... (khoảng 20 ha). Điều 2. Việc quản lí theo qui hoạch trên địa bàn quận 2 cần lưu ý một số điểm sau đây : - Trong giai đoạn nay đến năm 2005 - 2010 đất nông nghiệp của quận vẫn còn tồn tại khá lớn (1.500 - 1.700 ha), cần có kế hoạch khai thác, tận dụng triệt để vào sản xuất phục vụ ổn định đời sống dân cư. - Ven sông Sài Gòn và các kênh rạch lớn : Giồng Ông Tố, Rạch Chiếc, Bà Cua, cần quản lí chặt chẽ, không để tình trạng xây dựng nhà cửa, công trình... lấn chiếm; đảm bảo khoảng cách tối thiểu tới mép nước không dưới 50 m. - Qui hoạch chi tiết sử dụng đất, các dự án đầu tư xây dựng (trong và ngoài nước), giai đoạn đầu (2005 - 2010) cần chú ý xác định ranh giới, qui mô thích hợp; hạn chế di dời, giải tỏa và gây xáo trộn với những khu dân cư đang có cuộc sống ổn định. - Cần quản lí chặt chẽ loại công nghiệp đầu tư vào khu công nghiệp Cát Lái, quản lí việc xử lí nước thải, thu gom rác... trên địa bàn quận 2 đảm bảo tốt môi trường sống, bền vững cho phát triển lâu dài. - Cần sớm cắm mốc xác định ranh giới đất đai phải dành lại cho mở đường, xây dựng giao lộ, bến xe, hành lang kỹ thuật, công trình phúc lợi công cộng (hạ tầng xã hội), công viên cây xanh.v.v.. để quản lí, tạo điều kiện cho phát triển lâu dài và có chính sách, giải pháp phù hợp thực hiện giai đoạn đầu (2005). Điều 3. Kiến trúc sư trưởng thành phố chịu trách nhiệm phê chuẩn hồ sơ thiết kế (sơ đồ, bản đồ, thuyết minh) qui hoạch chung quận 2 và phối hợp với các ban, ngành thành phố, Ủy ban nhân dân quận 2 lập và trình Ủy ban nhân dân Tp. Hồ Chí Minh ban hành điều lệ quản lí xây dựng theo qui hoạch chung của quận và nghiên cứu các chương trình đầu tư, các dự án xây dựng cụ thể nhằm thực thi có hiệu quả qui hoạch chung quận 2 được phê duyệt. Các đồ án qui hoạch chi tiết, các dự án đã được nghiên cứu, pháp lí hoá trước đây, nay không phù hợp (toàn bộ hay cục bộ từng phần) cần phải được điều chỉnh, bổ sung đầy đủ theo qui hoạch chung được duyệt này. Giao Ủy ban nhân dân quận 2 chỉ đạo Ủy ban nhân dân các phường và ban ngành trong quận, quản lí chặt chẽ việc xây dựng trên địa bàn. Trong quá trình triển khai, nếu có phát sinh những vấn đề không phù hợp, cần tập hợp để kiến nghị Ủy ban nhân dân thành phố xem xét, có quyết định điều chỉnh kịp thời qui hoạch chung quận 2 đã được phê duyệt theo quyết định này. Điều 4. Quyết định này có hiệu lực sau 15 ngày kể từ ngày ký. Điều 5. Chánh Văn phòng Ủy ban nhân dân thành phố; Kiến trúc sư trưởng thành phố; Giám đốc Sở Xây dựng; Sở Địa chính - Nhà đất; Sở Công nghiệp, Sở Giao thông công chánh; Sở Khoa học Công nghệ và Môi trường; Sở Kế hoạch và đầu tư; Công ty Điện lực; Bưu điện; Ban Quản lí các khu công nghiệp và chế xuất; Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận 2 và các ban ngành liên quan chịu trách nhiệm thi hành quyết định này./. Nơi nhận : T/M ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ - Như điều 5 K/T CHỦ TỊCH - Thường trực Thành ủy PHÓ CHỦ TỊCH - Thường trực HĐND thành phố - TTUBND.TP : CT, các PCT, UV - VPUB : CPVP, Tổ QLĐT , CN, TH - Viện Qui hoạch Xây dựng TP - Lưu Vũ Hùng Việt 1. Qui hoạch Tp. Hồ Chí Minh Áp lực thực tế và sự đòi hỏi của xã hội qua báo chí, ý kiến của các nhà khoa học về việc phải có sự thay đổi về qui hoạch ở khu vực trung tâm là không thể duy trì tình trạng quá tải này thêm được nữa. Do vậy, thành phố cố gắng hiện thực hóa việc hình thành hai đô thị vệ tinh ở hai cực của thành phố. Đó là hai thành phố vệ tinh ở hai đầu của TP. HCM là đô thị Tây Bắc Củ Chi và đô thị cảng Hiệp Phước phía nam thành phố. Hình 1.2. Đô thị Tây Bắc: Kỳ vọng năm 2020 (Nguồn: Sở qui hoạch kiến trúc Tp. HCM) Thành phố này hiện chưa có tên chính thức mà chỉ gọi là đô thị Tây Bắc vì nó nằm ở phía tây bắc của TP. HCM. Nó được hình thành bởi một quyết định ban hành vào tháng 8/2004 nhưng sau bốn năm chuyển động chậm chạp, nay thành phố muốn đẩy nhanh tiến độ thực hiện. Khu vực này có diện tích 10.000 ha bao gồm các xã Tân Thới Nhì (huyện Hóc Môn) và Tân Phú Trung, Tân An Hội, Phước Hiệp, Thái Mỹ của huyện Củ Chi, cách trung tâm Sài Gòn khoảng 30 km. Khu đô thị được chia làm chín khu chức năng chuyên biệt và hỗn hợp với mong muốn có được một thành phố mới với khoảng 300.000 dân, cùng với việc hình thành các khu công nghiệp, khu dịch vụ thương mại, khu dân cư và vui chơi giải trí. Điều đặc biệt của đô thị này là chất lượng dân cư sẽ thuộc vào loại cao với hơn 10 trường đại học và cao đẳng tập trung về đây với diện tích hơn 300 ha, chiếm 30% diện tích toàn bộ khu đô thị mới. Tỷ lệ đất dành cho cây xanh, vườn hoa, mặt nước khá cao vào khoảng 35%-40%. Ngoài khu đô thị đại học, Khu công nghiệp Tân Phú Trung, khu chung cư với độ cao trung bình năm tầng ra thì các khu nhà vườn, biệt thự, nhà thấp tầng, vườn thực vật, cây cảnh, làng nghề vẫn được phát triển nhằm cân bằng và tạo ra bức tranh hài hòa. Tiêu chí của khu đô thị này là: sống-làm việc - vui chơi - phát triển. Nhà đầu tư đầu tiên đã xuất hiện ở đây là Tập đoàn Berjaya của Malaysia với tổng mức đầu tư lên đến 3,5 tỷ đôla, được coi là dự án đầu tư lớn nhất TP. HCM từ trước đến nay. Dự án của tập đoàn này đang trong giai đoạn thiết kế, thời gian bắt đầu xây dựng vào khoảng năm 2011 và hoàn tất các hạng mục trên diện tích 1.000 ha vào năm 2021. Tuy nhiên, thách thức lớn nhất cho việc phát triển đô thị này là hệ thống giao thông từ trung tâm thành phố đến khu vực còn yếu kém. 30 km không xa nhưng việc đi lại phải mất đến hai tiếng đồng hồ do kẹt xe ở cửa ngõ phía tây thành phố và mật độ xe quá dày đặc. Do đó, một phương án sớm hình thành đường tàu điện trên cao (MRT) cần được tính đến. Đô thị cảng Hiệp Phước nằm trên địa bàn xã Hiệp Phước và xã Long Thới, huyện Nhà Bè. Hai mặt đông và nam của đô thị này được bao bọc bởi sông Soài Rạp, phía nam thông thẳng ra biển Đông. Nó có diện tích qui hoạch hơn 3.900 ha với dân số dự kiến là 250.000 người. Đây là một thành phố cảng biển quốc tế có qui mô lớn không chỉ trong nước mà cả khu vực Đông Nam Á với tính chất cảng và đô thị biển. Việc phát triển đô thị cảng Hiệp Phước sẽ làm cho Tp.HCM từ chỗ là thành phố bên sông Sài Gòn nay có thêm một phần bổ sung quan trọng là thành phố ven biển Đông. Vùng đất bên trong nội ô trước kia như Bason, cảng Sài Gòn sẽ được dành cho công viên cây xanh, khu dịch vụ cao cấp và cảng biển du lịch. Đô thị cảng Hiệp Phước rất có tiềm năng bởi vì nó cách trung tâm thành phố không xa - chỉ có 18 km, cảnh quan tự nhiên rất đẹp. Do vậy, ngoài khu cảng với công suất 130 triệu tấn/năm, khu công nghiệp phục vụ cảng thì nơi đây sẽ trở thành một khu đô thị dân cư sinh thái kết hợp sông nước và du lịch biển rất trữ tình với các resort và biệt thự ven biển. Các khu nhà ở cao cấp, trung tâm tài chính-ngân hàng, khách sạn, cao ốc văn phòng cho thuê sẽ xuất hiện ở đây. Đặc biệt là trong đồ án thiết kết đoạt giải nhất cuộc thi quốc tế, nhà tư vấn Nikken Sekkei đã thiết kế một trục chính gồm mở đầu bằng một cảng tàu thuyền du lịch có chiều rộng 500 mét, tiếp theo là quảng trường và dải các đường phố rợp cây xanh. Đô thị mới này sẽ được kết nối với trung tâm thành phố bởi một hệ thống liên hoàn đường thủy, đường bộ và đường sắt. Những người dân mong muốn thoát khỏi sự quá tải, căng thẳng bởi nhịp sống, chất lượng hạ tầng khu trung tâm đều đặt nhiều hy vọng vào hai đô thị vệ tinh này. 2. Qui hoạch các phường, các khu dân cư Quận 2 +Phường Bình Trưng Đông Khu dân cư Bình Trưng Đông, Quận 2 - Tp. HCM có vị trí đẹp, thoáng mát, được bao quanh bởi sông Giồng Ông Tố, hai mặt tiền đường Nguyễn Duy Trinh và Đỗ Xuân Hợp, đối diện Trung tâm thể dục thể thao Rạch Chiếc. Hình 2.1. Bản đồ qui hoạch phường Bình Trưng Đông (Nguồn: Sở qui hoạch kiến trúc Tp. HCM) Hình 2.2. Sơ đồ chỉ dẫn khu dân cư Bình Trưng Đông *Vị trí: -Thuận tiện kinh doanh, gần chợ, gần trường học và khu dân cư hiện hữu -Nằm dọc theo đường cao tốc Sài Gòn - Vũng Tàu. Trong khu vực có hệ thống giao thông phát triển tại đông Sài Gòn, liên thông các vùng kinh tế trọng điểm như khu thương mại Thủ Thiêm, quận 2, đô thị nam Sài Gòn, quận 7... -Tổng diện tích: 230.560 m2 -Diện tích: Nhà phố 6 x 12 m, 8 x 24 m; biệt thự 12 x 20 m *Hạ tầng kỹ thuật: Qui hoạch hiện đại mỹ quan - ứng dụng kỹ thuật cao trong xây dựng cơ sở hạ tầng: -Theo qui hoạch chung dọc trục đường Đỗ Xuân Hợp -Hệ thống cáp điện ngầm dọc vỉa hè -Hệ thống cấp nước đặt trên vỉa hè có trụ cứu hỏa -Có hệ thống xử lí nước thải cục bộ trước khi ra đường ống thoát nước chung của khu vực. -Hệ thống giao thông nội: 16 m, 12 m, 10 m. -Hệ thống giao thông ngoại: Đỗ Xuân Hợp (40 m), Nguyễn Duy Trinh (30m) +Phường Cát Lái Dự án đầu tư xây dựng khu dân cư Cát Lái (phục vụ tái định cư và giãn dân nội thành) với mục tiêu phục vụ tái định cư cho khu đô thị mới Thủ Thiêm và giãn dân nội thành, tham gia cùng thành phố thực hiện chiến lược phát triển quỹ nhà đến năm 2010 và các năm sau, giải quyết vấn đề nhà ở dạng chung cư theo xu hướng của thế giới và theo chủ trương chung của thành phố, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của quận 2. Thông tin dự án đầu tư xây dựng khu dân cư Cát Lái:  Diện tích khu đất : 152,9 ha.  Tổng kinh phí đầu tư : 6.000 tỷ đồng.  Chủ đầu tư: Công ty Cổ phần Đầu tư và Dịch vụ Tp. Hồ Chí Minh (INVESCO). Hình 2.3. Bản đồ qui hoạch phường Cát Lái (Nguồn: Sở qui hoạch kiến trúc Tp. HCM) Qui mô công trình khu dân cư Cát Lái:  Nhà ở: nhà cao tầng (5 - 25 tầng) 23,17ha; nhà liên kế và biệt thự các loại 42,48ha.  Đầu tư hạ tầng kỹ thuật bao gồm: cấp điện, cấp nước, thoát nước, giao thông - vỉa hè, bưu điện, cây xanh, hệ thống PCCC.  Các công trình tiện ích xã hội như: Trung tâm thương mại, trường học, công viên, trạm y tế,... +Phường Thủ Thiêm Thủ Thiêm là một Khu đô thị mới hiện đại, là trung tâm thương mại, tài chính và dịch vụ của thành phố trong thế kỷ 21, được Đại hội Đảng bộ thành phố nhiệm kỳ VIII (2005- 2010) chọn là một trong 5 công trình trọng điểm của thành phố. Hình 2.4. Bản đồ qui hoạch phường Thủ Thiêm (Nguồn: Sở qui hoạch kiến trúc Tp. HCM) Trung tâm đô thị mới Thủ Thiêm nằm trong bán đảo Thủ Thiêm bao gồm các phường An Khánh, Thủ Thiêm, An Lợi Đông, Bình An, Bình Khánh thuộc địa bàn Quận 2 và đối diện với trung tâm thành phố hiện hữu chỉ cách bởi sông Sài Gòn. Vị trí địa lí của Trung tâm đô thị mới Thủ Thiêm tiếp giáp: - Phía Bắc : Giáp sông Sài Gòn (quận Bình Thạnh). - Phía Nam : Giáp sông Sài Gòn (quận 7). - Phía Đông : Giáp phường Bình Khánh (quận 2). - Phía Tây : Giáp sông Sài Gòn (quận 1 và quận 4). Ngày 01/11/2001 Chủ tịch UBND thành phố ban hành quyết định số 103/2001/QĐ-UB thành lập Ban Quản lí Đầu tư- Xây dựng Khu đô thị mới Thủ Thiêm, để thực hiện nhiệm vụ quản lí Nhà nước và đầu tư theo qui định của Nhà nước; căn cứ quyết định số 367/QĐ- TTG ngày 04/6/1996 và văn bản số 190/CP- NN ngày 22/02/2002 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt qui hoạch và thu hồi đất xây dựng Khu đô thị mới Thủ Thiêm (bao gồm 770 ha để xây dựng Khu đô thị mới và 160 ha xây dựng khu tái định cư); Ngày 10/5/2002 Chủ tịch UBND thành phố ban hành quyết định số 1997/QĐ-UB thu hồi 621,4328 ha đất nằm trong qui hoạch xây dựng Khu đô thị mới Thủ Thiêm tại các phường Thủ Thiêm, An Khánh, An Lợi Đông, Bình Khánh, Bình An thuộc Quận 2 và giao cho Ban Quản lí Đầu tư- Xây dựng Khu đô thị mới Thủ Thiêm triển khai dự án; Để phục vụ công tác tái định cư dự án Khu đô thị mới Thủ Thiêm, Ủy ban nhân dân thành phố đã ban hành: Quyết định số 3617/QĐ-UB ngày 04/9/2002 về thu hồi 90,2607 ha đất tại phường An Phú, Quận 2; Quyết định số 497/QĐ-UB ngày 20/01/2003 thu hồi 6,3696 ha đất tại phường Thạnh Mỹ Lợi, Quận 2, giao Ban Quản lí Khu đô thị mới Thủ Thiêm xây dựng khu tái định cư phục vụ dự án Khu đô thị mới Thủ Thiêm và thu hồi đất của các dự án trên địa bàn Quận 2 để phục vụ tái định cư; Quyết định số 2955/QĐ-UB ngày 24/6/2004 thu hồi 1,1715 ha đất tại phường An Phú xây dựng khu tái định cư An Phú; Quyết định số 1819/QĐ-UB ngày 14/5/2002 thu hồi 1,2109 ha đất thuộc Khu đô thị An Phú - An Khánh; Công văn số 6271/UB-ĐT ngày 20/10/2004 thu hồi 50 ha đất cụm III, Cát Lái thuộc dự án khu công nghiệp Cát Lái cũ. Ngày 24 tháng 11 năm 2003, Thủ tướng Chính phủ ban hành công văn số 1642/CV- CNN cho phép Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chi Minh phối hợp với Bộ Xây dựng tiến hành phê duyệt điều chỉnh qui hoạch chung, qui hoạch chi tiết và chỉ định thầu tư vấn qui hoạch chi tiết khu Trung tâm đô thị mới Thủ Thiêm; ngày 27 tháng 12 năm 2003 ủy ban nhân dân thành phố ban hành quyết định số 6565/QĐ-UB và quyết định số 6566/QĐ- UB về phê duyệt qui hoạch chung tỉ lệ 1/5000, qui hoạch chi tiết 1/2000 của khu Trung tâm đô thị mới Thủ Thiêm; Ban Quản lí Đầu tư xây dựng Khu đô thị mới Thủ Thiêm đã phối hợp với ủy ban nhân dân quận 2 công bố qui hoạch chi tiết khu Trung tâm đô thị mới Thủ Thiêm đến Trưởng, Phó các phòng, ban của Quận ủy - ủy ban nhân dân Quận 2, ủy ban nhân dân các phường và các ban ngành đoàn thể từ quận đến phường và nhân dân bị ảnh hưởng trong khu qui hoạch đô thị mới Thủ Thiêm nắm rõ chủ trương qui hoạch của dự án. Ngày 17 tháng 1 năm 2008, Ủy ban nhân dân Tp. Hồ Chí Minh đã ban hành Quyết định 222/QĐ-UBND về duyệt nhiệm vụ qui hoạch chi tiết xây dựng đô thị (tỉ lệ 1/2000) khu đô thị chỉnh trang kế cận Khu đô thị mới Thủ Thiêm, Quận 2. Vị trí khu đô thị chỉnh trang thuộc một phần của 3 phường: Bình An, Bình Khánh và An Phú, Quận 2 có diện tích khoảng 335,92 ha, bao gồm: 50,47 ha thuộc phường An Phú; 285,45 ha thuộc phường Bình An, Bình Khánh (trong đó: khoảng 240,45 ha đất và khoảng 45 ha mặt nước sông Sài Gòn và Giồng Ông Tố. Khu 80 ha chỉnh trang khu đô thị mới Thủ Thiêm nằm trong 240,9 ha nêu trên). Mục tiêu qui hoạch của đồ án là nhằm qui hoạch chỉnh trang khu đô thị hiện hữu có sự hài hòa và kết nối đồng bộ với Khu đô thị mới Thủ Thiêm, đáp ứng nhu cầu đô thị hóa và tình hình phát triển tại khu vực. Hạn chế tối đa việc xáo trộn đời sống và công trình đã xây dựng của người dân, cố gắng hài hòa giữa lợi ích chung của nhà nước, lợi ích của người dân và các chủ đầu tư; đông thời sử dụng đất có hiệu quả, trong đó ưu tiên quỹ đất tái định cư. Dự kiến khu dân cư phía Đông (43 ha) của Khu đô thị mới Thủ Thiêm và một số khu dân cư của Khu đô thị chỉnh trang 335,92 ha kế cận sẽ được dành để bố trí 12.500 căn hộ tái định cư cho Khu đô thị mới Thủ Thiêm, còn lại là khu dân cư hiện hữu chỉnh trang. Khu đô thị 335,92 ha này được xác định là khu dân cư chỉnh trang, trong đó các dự án đã được xây dựng được xem là hiện trạng, cũng sẽ được chỉnh trang cùng với các khu ở hiện hữu, các dự án đã có pháp lí nhưng chưa triển khai xây dựng có thể xem xét lại. Tiêu chí phát triển của khu dân cư này dựa trên ý tưởng kết nối về phân khu chức năng và hài hòa về tổ chức không gian kiến trúc cảnh quan của đồ án qui hoạch chi tiết 1/2000 khu đô thị mới Thủ Thiêm đã được phê duyệt. Qui hoạch giao thông được yêu cầu kết nối đồng bộ giữa phần bên trong và bên ngoài Khu đô thị mới Thủ Thiêm. Hành lang bảo vệ bờ sông Sài Gòn có chiều rộng tối thiểu 50m được bố trí cho công viên cây xanh, đường ven sông kết hợp khai thác các dịch vụ du lịch và nghỉ ngơi giải trí. Các khu vực đậu xe, lối đi bộ, trục thương mại dịch vụ kết hợp ở, văn phòng cao tầng được bố trí dọc các trục giao thông chính: đại lộ Đông-Tây, đường Lương Định Của nối với đại lộ vòng cung và các tuyến đường lộ giới trên 20m dự kiến… Đây sẽ là yếu tố kiến trúc tạo nên đặc trưng khu vực dân cư này. Trên các khu dân cư này dự kiến sẽ tổ chức mô hình ở mật độ cao, trung cao tầng, đồng bộ giữa các tiện ích xã hội và kỹ thuật, đáp ứng được các yêu cầu phát triển hiện đại, lâu dài. Các công trình công cộng khác (nếu có) chủ yếu phục vụ cho khu ở. Đảm bảo dành diện tích đất tương đối cho các công viên bờ sông để nối kết với đặc trưng của Khu đô thị mới Thủ Thiêm là nhiều không gian mở công cộng. Tổng số dân dự kiến trong khu vực là 55.000 - 60.000 người. Trong đó chỉ tiêu đất dân dụng 49 - 53 m2/người. Tầng cao thấp nhất là 3 tầng, tầng cao cao nhất là 35 tầng. Mật độ xây dựng khu ở 30 - 35%. Diện tích căn hộ tái định cư theo quyết định từ 50 - 100m2, tính trung bình 75 m2/căn hộ. Ngoài ra, có một phần nhỏ căn hộ có diện tích >100 m2 . Ban Quản lí dự án Đầu tư qui hoạch xây dựng Tp. Hồ Chí Minh được giao làm chủ đầu tư. Hình 2.5. Bản đồ qui hoạch khu vực Nam Rạch Chiếc (Nguồn: Sở qui hoạch kiến trúc Tp. HCM) Khu dân cư Nam Rạch Chiếc có vị trí phía Bắc giáp đường cao tốc TP.HCM - Long Thành - Dầu Giây, phía Tây - Nam và Đông - Nam giáp sông Giồng Ông Tố, phía Tây giáp nút giao thông An Phú và phía Đông giáp nút giao thông đường Đỗ Xuân Hợp và đường cao tốc Tp.HCM - Long Thành - Dầu Giây. Bảng chỉ tiêu qui hoạch STT Chỉ tiêu 1 Dân số 39300 người 2 Đất nhà ở 33,5ha 3 Đất công cộng 15,95ha 4 Đất công viên, mặt nước,… 21,4ha 5 Đất giao thông 15,5ha 6 Hệ số sử dụng đất 2,41 lần 7 Mật độ xây dựng Nhà cao tầng <70%, thấp tầng <80% 8 Số tầng cao 2 – 30 tầng, điểm nhấn có thể cao hơn 9 Số căn hộ < 7.450 căn Về tổ chức không gian kiến trúc - cảnh quan: Bố trí các khu nhà ở và công trình cao tầng thưa thoáng với tầm nhìn đẹp hướng ra đường cao tốc và sông rạch, cho phép luồng gió từ sông rạch dẫn vào các khu nhà ở, chú trọng khai thác điểm mạnh về cảnh quan tự nhiên của khu đất (như: sông nước, cây xanh, không gian mở…) để kết hợp hài hòa với hình thức kiến trúc công trình. Về qui hoạch giao thông, yêu cầu phải thiết kế đồng bộ các tuyến đường đối nội và đối ngoại của toàn khu 90ha. Dự kiến xây dựng khung đường giao thông gồm: tuyến đường trục (lộ giới 25÷35m) nối khu 1 (phía tây rạch Mương Kinh) với khu 2 (phía đông rạch Mương Kinh) bằng cầu số 1; đường ven sông Giồng Ông Tố và rạch Mương Kinh (lộ giới 15÷20m) nối với đường gom của đường cao tốc Tp.HCM - Long Thành - Dầu Giây; các tuyến đường khu vực (lộ giới 16÷25m); đường phân khu vực (lộ giới 13÷20m); đường trong nhóm nhà ở, vào nhà (lộ giới 7÷15m); nghiên cứu xây dựng cầu số 2 kết nối đường ven sông rạch của khu 1 và 2; nghiên cứu kết nối giao thông với đường cao tốc, với nút giao An Phú và nút giao Đỗ Xuân Hợp; số làn xe trên các tuyến đường được tính toán căn cứ lưu lượng giao thông theo qui hoạch. Ngoài ra, cần đảm bảo theo tiêu chuẩn qui phạm qui hoạch đối với: các công trình tiện ích công cộng (trường học các cấp, chợ hoặc siêu thị, y tế, văn hóa - vui chơi - giải trí, hành chính…); diện tích công viên cây xanh tập trung cấp khu vực và trong các nhóm nhà ở. Ủy ban nhân dân thành phố đã có quyết định phê duyệt Qui hoạch chi tiết 1/2000 dự án Sài Gòn Sports City (thuộc Khu liên hợp Thể dục thể thao Rạch Chiếc) phường An Phú, quận 2 với diện tích hơn 64ha, 100% vốn đầu tư nước ngoài. Khu đất dự án được giới hạn như sau: phía Đông giáp khu liên hợp sân golf, thể dục thể thao và nhà ở (137ha), phía Tây giáp khu trung tâm công trình thi đấu thể dục thể thao (khu B) và khu giải trí (khu C) của khu liên hợp thể dục thể thao Rạch Chiếc, phía Bắc giáp sông Rạch Chiếc, phía Nam giáp đường cao tốc TP.HCM – Long Thành – Dầu Giây. Ủy ban nhân dân Quận 2 cũng có Quyết định phê duyệt nhiệm vụ qui hoạch chi tiết xây dựng 1/500 giai đoạn 1 dự án Sài Gòn Sports City tại phường An Phú, Quận 2. Hình 2.6. Bản đồ qui hoạch Sài Gòn Sports city Theo đó, diện tích toàn dự án là 64ha, trong đó khu đất xây dựng giai đoạn 1 của dự án là 12,48ha. Nằm cạnh khu trung tâm công trình thi đấu thể dục thể thao và khu giải trí thể dục thể thao của Khu liên hợp thể dục thể thao Rạch Chiếc, dự án Sài Gòn Sports City nhằm xây dựng hệ thống công trình tiện ích hỗ trợ và phục vụ cho hoạt động của khu liên hợp thể dục thể thao kết hợp khu ở sẽ được chia thành 2 khu. Khu 1 nằm phía Bắc rạch Mương Kinh, thuộc khu C khu liên hợp có diện tích khoảng 26ha sẽ là trung tâm huấn luyện, luyện tập thể dục thể thao và dịch vụ phục vụ thể thao. Tại khu 1 sẽ bố trí các công trình sân tập thể dục thể thao ngoài trời gồm: bóng đá, bóng bầu dục, bóng ném, bóng rổ, bóng chuyền, các môn thể thao dưới nước…; các hạng mục công trình luyện tập và thi đấu thể dục thể thao gồm: sân bóng đá (có khán đài 10.000 chỗ) kết hợp đường chạy điền kinh; cụm 9 sân thi đấu tennis (có khán đài 2.000 chỗ); hồ bơi liên hợp có mái che (có khán đài 2.000 chỗ); nhà luyện tập và thi đấu đa năng trong nhà (có khán đài 3.000 chỗ); khu khu hành chính và phụ trợ, ngoài ra còn có trường học thể dục thể thao, trường năng khiếu thể dục thể thao và ký túc xá; khu thương mại - dịch vụ phục vụ thể dục thể thao; khu công viên, cây xanh, giải trí… Khu 2 ở phía Nam rạch Mương Kinh, thuộc khu A khu liên hợp có diện tích gần 38ha là trung tâm thương mại dịch vụ của khu liên hiệp thể dục thể thao Rạch Chiếc kết hợp nhà ở chung cư cao tầng (với khoảng 12.000 dân) và các tiện ích công cộng phục vụ khu ở như trường học, công viên xây xanh. Trong khu trung tâm thương mại-dịch vụ bố trí các công trình khách sạn và căn hộ cho thuê (đáp ứng khoảng 5.000 khách), cao ốc văn phòng, trung tâm hội nghị, triển lãm, trung tâm y tế… Các chỉ tiêu qui hoạch- kiến trúc được thành phố đưa ra: mật độ xây dựng toàn khu khoảng 25%; hệ số sử dụng đất toàn khu là 1,29; dân số 12.000 người; tổng số căn hộ chung cư khoảng 3.000 căn; Tầng cao xây dựng tối đa 30 tầng. Mạng lưới giao thông gồm đường dẫn vào khu qui hoạch (nằm ngoài phạm vi dự án) là đường trục chính của Khu liên hiệp thể dục thể thao Rạch Chiếc có lộ giới 80m. Ngoài ra có đại lộ K1 lộ giới 60m, K2 lộ giới 30m, đường S1 25m, hành lang bảo vệ kênh (rạch Kinh Mương 30m, rạch Đồng Trong 20m). Về tổ chức không gian kiến trúc cảnh quan và thiết kế đô thị, trên khu 1 sẽ xây dựng cụm sân thể thao ngoài trời và khu công trình luyện tập kết hợp thi đấu hiện đại với đầy đủ dịch vụ hỗ trợ theo tiêu chuẩn quốc tế. Sân vận động, các sân thi đấu có mái che và nhà thi đấu đa năng được bố trí ở khu vực trung tâm, hình thành cụm công trình thể dục thể thao hiện đại tập trung. Khu trường học và năng khiếu thể dục thể thao (có khu ký túc xá kèm theo), cao 4-8 tầng, được bố trí ở phía đông, cách xa đường trục chính 80m. Khu thương mại chuyên về dịch vụ và cung cấp dụng cụ thể dục thể thao, các văn phòng tư vấn thể dục thể thao, văn phòng các công ty và liên đoàn thể thao.., cao 4-6 tầng, được bố trí cận đường trục chính 80m. Trong khu thương mại cũng bố trí các cửa hàng thực phẩm và khu giải trí để người tập thể thao nghỉ ngơi, thư giãn sau khi luyện tập. Trên khu 2 bố trí tại khu lõi trung tâm bao gồm các tòa nhà trung tâm thương mại, cửa hàng bán lẻ, khách sạn, căn hộ cho thuê, trong có bố trí trung tâm hội nghị, triển lãm, y tế..., tầng cao tối đa 30 tầng, mật độ tương đối cao. Xung quanh lõi trung tâm bố trí các khu chung cư cao tầng mật độ thấp, tầng cao tối đa 30 tầng. Trường học phổ thông cấp I-II được bố trí ở khu vực trung tâm các nhóm ở, cao 4 tầng, mật độ thấp (≤35%). Đặc điểm nổi bật là cảnh quan mặt nước rạch Mương Kinh (rộng 66m) và rạch Đồng Trong (rộng 25m) chạy qua dự án, cùng với hành lang bờ rạch sử dụng làm công viên, đường dạo ven rạch, tạo ra môi trường trong lành, sạch đẹp và làm tăng giá trị không gian cảnh quan đối với khu công trình dân dụng. Trên mỗi nhóm ở, công viên sân trong được xem là trung tâm sinh hoạt công cộng và giải trí của cộng đồng dân cư tại các cao ốc bao quanh, tách biệt luồng giao thông cơ giới và giao thông bộ hành. Các chỉ tiêu qui hoạch kiến trúc đối với khu hồ bơi có mái che chỉ cao 1 tầng với số chỗ ngồi là 2.200 chỗ, mật độ xây dựng khoảng 15%, hệ số sử dụng đất 0,16 lần. Đây sẽ là khu phức hợp công trình phục vụ luyện tập, thi đấu và trình diễn các môn bơi lội và lặn, đồng thời phục vụ giải trí gia đình. Hạng mục chính của khu phức hợp là 3 hồ bơi: hồ bơi và cầu nhảy thi đấu tiêu chuẩn quốc tế (có bố trí khán đài), hồ bơi thiếu nhi và hồ lặn. Hệ thống các hạng mục hỗ trợ: phòng thay đồ, vệ sinh công cộng, phòng vé, hành chính, phòng bơm và lọc nước, phòng cung cấp điện năng, kho, sảnh, cửa hàng, khu triển lãm, sân bãi… Văn phòng trung tâm của làng thể thao được dự kiến xây dựng trong giai đọan 1 và được đặt trong khu phức hợp hồ bơi tạo thuận tiện cho việc quản lí xây dựng và vận hành các hạng mục công trình thể dục thể thao. Khu thương mại và dịch vụ thể dục thể thao (lô S4a) có tổng diện tích sàn 50.610m2 (không kể tầng hầm và mái), tầng cao từ 4-6 tầng (không kể tầng hầm, lửng, sân thượng), mật độ xây dựng 35-50%, hệ số sử dụng đất 1,95 lần. Đây là khu dẫn vào khu quảng trường, công viên cây xanh. Khu chung cư cao tầng sẽ cao tối đa 30 tầng, mộ độ 40%, hệ số sử dụng đất 2,7 lần gồm 675 căn hộ, dân số dự kiến khỏang 2.700 người, chỉ tiêu sử dụng đất 13,7m2/người. Ở đây dự kiến bố trí các khu vực chức năng công cộng như: bãi đậu xe, khu giữ trẻ, sinh họat công đồng, cửa hàng, y tế, câu lạc bộ giải trí và luyện tập thể dục thể thao… Về qui hoạch giao thông, đại lộ K1 có chiều dài khoảng 145,3m từ chân cầu số 1 đến đại lộ K2, lộ giới 60m. Đại lộ K2 dào 237,7m từ đại lộ K1 đến cuối khu K4, lộ giới 30m. Đường S1 dài 541,1m từ đường S2 đến cuối khu hồ bơi, lộ giới 25m. Một phần đường S2 dài 86,6m từ ngã từ đường trục chính đến đường S1, phân nửa lộ giới 60m là 30m tính từ tim đường. Được biết, theo chỉ đạo của Ủy ban nhân dân thành phố, về phân đợt xây dựng việc triển khai đầu tư xây dựng khu thể dục thể thao và thương mại, dịch vụ song song tương ứng với tiến độ đầu tư xây dựng khu dân cư. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA5152.pdf
Tài liệu liên quan