Quản lý chất lượng sản phẩm ở Công ty cổ phần May Hưng Yên và một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm

Lời Mở đầu Nền kinh tế nước ta đang vận hành theo cơ chế thị trường, cùng với quá trình mở cửa hội nhập cùng thế giới đã tạo ra sự cạnh tranh về mọi mặt ngày càng gay gắt và quyết liệt. Sức ép của hàng nhập lậu, của người tiêu dùng, của hàng nước ngoài buộc các nhà kinh doanh cũng như các nhà quản lý phải hết sức coi trọng vấn đề đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm ngày nay đang trở thành một nhân tố cơ bản để quyết định đến sự thành bại trong cạnh tranh, quyết định sự

doc50 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1352 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Quản lý chất lượng sản phẩm ở Công ty cổ phần May Hưng Yên và một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tồn tại và phát triển của từng doanh nghiệp nói riêng cũng như sự tiến bộ hay tụt hậu của nền kinh tế nói chung. Công ty cổ phần May Hưng Yên là một doanh nghiệp nhà nước, hạch toán độc lập. Từ khi thành lập, Công ty tồn tại trong một thời gian dài của chế độ bao cấp cũ, với chế độ hạch toán tập trung, Nhà nước cấp nguyên liệu vật tư đầy đủ và bao tiêu toàn bộ sản phẩm sản xuất ra. Do vậy, trong giai đoạn này, công tác chất lượng sản phẩm không được chú trọng nhiều. Sản phẩm chỉ đạt được ở mức chấp nhận được nhưng vẫn tiêu thụ hết. Thêm vào đó, Công ty chỉ quan tâm đến năng suất lao động, số lượng sản phẩm sản xuất ra hơn là vấn đề nâng cao chất lượng. Khi đất nước chuyển sang cơ chế thị trường, Công ty đã gặp rất nhiều khó khăn do việc thị trường các nước Đông Âu tan rã, chất lượng kém không thể cạnh tranh được. Do đó, Ban Giám đốc Công ty đã đề ra đường lối chiến lược phát triển cho Công ty nhằm đáp ứng yêu cầu về chất lượng trong tình hình mới. Điều này thể hiện rất rõ qua việc Công ty phấn đấu áp dụng thành công hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2000 và triết lí kinh doanh của Công ty: “Để hội nhập tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường, chất lượng là mục tiêu, mối quan tâm hàng đầu đối Công ty cổ phần May Hưng Yên. Để gìn giữ và phát triển mối quan hệ bạn hàng, Công ty cam kết chỉ cung cấp những sản phẩm đạt yêu cầu chất lượng của khách hàng”. Như vậy, vấn đề chất lượng sản phẩm ở công ty là một vấn đề vô cùng quan trọng và có ý nghĩa thực tiễn. Chính vì vậy qua quá trình thực tập tại công ty từ thực tế công ty và việc vận dụng những kiến thức đã học được vào trong công việc, em đã chọn đề tài:"Quản lý chất lượng sản phẩm ở Công ty cổ phần May Hưng Yên và một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm" đề viết luận văn này. Luận văn gồm có 3 chương: Chương I: Giới thiệu về Công ty cổ phần may Hưng Yên Phần II: Thực trạng công tác quản lý chất lượng sản phẩm tại Công ty cổ phần may Hưng Yên Phần III: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty cổ phần May Hưng Yên. Chương I giới thiệu về Công ty cổ phần May hưng yên I. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Công ty cổ phần may Hưng Yên, tiền thân là xí nghiệp may Hưng Yên được thành lập ngày 19/5/1966 theo quyết định của Bộ Ngoại thương Việt Nam, dựa trên cơ sở chủ trương của Đảng và Chính phủ nhằm giải quyết lao động cho địa phương và góp phần vào công cuộc cải tạo kinh tế của đất nước. Ngày 24/03/1993 theo quyết định 224/CNn-TCLĐ của Bộ Trưởng Bộ Công nghiệp nhẹ về việc thành lập lại doanh nghiệp nhà nước và quyết định 440/CNn-TCLĐ về việc đổi tên thành công ty may Hưng Yên. Công ty cổ phần may Hưng Yên là đơn vị thành viên của Tập đoàn Dệt-May Việt Nam với ngành nghề kinh doanh chủ yếu là : Sản xuất và gia công hàng may mặc phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu. Kể từ 1/1/2005 công ty cổ phần may Hưng Yên hoạt động theo mô hình công ty cổ phần trực thuộc tập đoàn Dệt may Việt nam. Cho đến nay công ty may Hưng Yên đã trở thành một trong những doanh nghiệp hàng đầu trong lĩnh vực sản xuất hàng may mặc. Hiện nay công ty với 3500 công nhân và 3750 thiết bị chuyên dùng các loại. Hàng năm sản xuất trên 5 triệu sản phẩm các loại xuất khẩu sang các thị trường như EU, Nhật Bản, Mỹ, Canađa..... Các sản phẩm của công ty đã được các thị trường đánh giá cao về chất lượng, đa dạng về mẫu mã và chủng loại sản phẩm. Từ chỗ công ty làm ăn với một vài bạn hàng đến nay công ty đã có quan hệ và làm ăn lâu dài với hơn 30 bạn hàng nước ngoài. II. Chức năng và nhiệm vụ của công ty Công ty cổ phần may Hưng Yên là doanh nghiệp cổ phần (với 51% vốn của Nhà nước) thuộc Tập đoàn Dệt May Việt Nam (VINATEX) là một doanh nghiệp hạch toán độc lập và có quyền xuất nhập khẩu trực tiếp. Với đặc điểm sản xuất kinh doanh của công ty chủ yếu là gia công hàng may mặc xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu thông qua các khách hàng trung gian tại Hồng Kông - Hàn Quốc - Đài loan để xuất khẩu sang các thị trường và khu vực trên Thế giới. III. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của công ty Công ty cổ phần may Hưng Yên được tổ chức quản lý theo mô hình quản lý chức năng một thủ trưởng gồm: Hội đồng quản trị - 1 tổng giám đốc và 3 phó tổng giám đốc, bên dưới là các phòng chức năng và các xí nghiệp thành viên của công ty. Đứng đầu các phòng là các trưởng phòng và đứng đầu các xí nghiệp là các giám đốc xí nghiệp chịu sự chỉ đạo trực tiếp từ tổng giám đốc công ty theo sơ đồ. Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý tại công ty may Hưng Yên tổng giám đốc phó TGĐ phụ trách kinh doanh phó TGĐ phụ trách sản xuất phó TGĐ phụ trách chất lượng Phòng KT-TV Phòng XNK Phòng QA Phòng KH- Vật tư Phòng Kỹ thuật Văn phòng XN May 1 hội đồng quản trị Phòng KD Phòng Tổ chức XN May 2 XN May 3 XN May 4 XN May 5 XN May 6 XN May 7 XN Cắt - Hội đồng quản trị: Có quyền quyết định các vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của công ty phù hợp với pháp luật, trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội cổ đông. - Tổng giám đốc công ty : Do hội đồng quản trị Bổ nhiệm. Là người đại diện tư cách pháp nhân trong mọi giao dịch, chịu trách nhiệm về quản lý điều hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. - Phó tổng giám đốc phụ trách kinh doanh: Chỉ đạo phòng Xuất nhập khẩu, kế toán tài vụ ; phòng kinh doanh; phòng kế hoạch - vật tư trong việc mua sắm vật tư và tiêu thụ sản phẩm; Chỉ đạo các hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. - Phó tổng giám đốc phụ trách chất lượng : Chỉ đạo các đơn vị thực hiện những yêu cầu về chất lượng sản phẩm, đại diện lãnh đạo trong việc quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty theo tiêu chuẩn ISO 9001/2000 , ISO-14000 và SA-8000… - Phó tổng giám đốc phụ trách sản xuất: Chỉ đạo sản xuất của công ty phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ của công ty nhằm đáp ứng tiến độ giao hàng theo kế hoạch và thoả thuận với khách hàng; Chỉ đạo việc xây dựng các tiêu chuẩn định mức kinh tế kỹ thuật, xây dựng hệ thống định mức lao động, xây dựng đơn giá sản phẩm và định mức tiền lương tại các khâu, bộ phận. Khối phòng ban : - Phòng Kế toán - tài vụ : Là đơn vị có chức năng theo dõi giám sát tài chính và toàn bộ tài sản của công ty, có chức năng hạch toán các chi phí của các nghiệp vụ kinh tế theo đúng quy định của Nhà nước. - Phòng Xuất nhập khẩu : Là đơn vị có chức năng giao dịch với khách hàng, có nhiệm vụ nắm bắt các yêu cầu của khách hàng, tìm kiếm thị trường, tiếp xúc khách hàng và theo dõi việc ký kết và thực hiện các hợp đồng với khách hàng nước ngoài. - Phòng Kinh doanh : Là đơn vị chịu trách nhiệm về kinh doanh hàng may mặc trong và ngoài nước, có trách nhiệm ký kết hợp đồng mua bán nguyên phụ liệu phục vụ cho sản xuất các mặt hàng kinh doanh. Chịu trách nhiệm tổ chức các cửa hàng bán lẻ các sản phẩm tiêu thụ nội địa. Chịu trách nhiệm tổ chức và tham gia các hội chợ xúc tiến xuất khẩu. - Phòng kỹ thuật-công nghệ : Là đơn vị có chức năng thiết kế mẫu, xây dựng các quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm, các tiêu chuẩn kỹ thuật, hướng dẫn các xí nghiệp may đúng yêu cầu của khách hàng, của chất lượng sản phẩm; Có chức năng giao dịch với khách hàng về mẫu mã, qui cách và chất lượng của sản phẩm; Có nhiệm vụ xây dựng các định mức kỹ thuật, các định mức lao động và đơn giá tiền lương cho từng sản phẩm. - Phòng QA : Là đơn vị chịu trách nhiệm quản lý và đảm bảo toàn bộ khâu chất lượng sản phẩm của công ty từ khâu nguyên phụ liệu, trong quá trình sản xuất đến khâu hoàn thiện sản phẩm cuối cùng. Có nhiệm vụ kiểm tra 100% chất lượng sản phẩm trước khi nhập kho. - Phòng Kế hoạch - Vật tư : Là đơn vị chịu trách nhiệm theo dõi kế hoạch, thống kê sản xuất, Theo dõi cân đối và quản lý nguyên phụ liệu phục vụ cho sản xuất; Có nhiệm vụ mua, nhập khẩu nguyên phụ liệu, máy móc thiết bi, phụ tùng phục vụ cho sản xuất theo kế hoạch của công ty. - Phòng Tổ chức Lao động : Là đơn vị có chức năng quản lý tổ chức nhân sự, quản lý lao động, tiền lương, tổ chức đào tạo nâng bậc, tuyển dụng, quản lý và giám sát công tác xây dựng cơ bản. - Văn phòng công ty: Là đơn vị có chức năng quản lý văn thư, hành chính, công vụ, theo dõi thi đua khen thưởng, quản lý và chăm sóc sức khoẻ cho cán bộ công nhân viên ( y tế, nhà ăn...), quản lý và tổ chức hoạt động của nhà trẻ, trường mần non.. Chịu trách nhiệm bố trí và tổ chức công tác bảo vệ, công tác an toàn, bảo hộ lao động trong toàn công ty. Khối sản xuất : - Xí nghiệp cắt : Là đơn vị có nhiệm vụ tổ chức cắt các mã hàng theo kế hoạch, sự điều độ của phòng kế hoạch - xuất nhập khẩu, theo mẫu sơ đồ qui định của phòng kỹ thuật. Có nhiệm vụ thực hiện các công đoạn trước may như : đánh số, ép mếch, đổi bán, đánh dấu đường may.....theo đúng qui trình sản xuất mã hàng của phòng kỹ thuật công nghệ qui định. Có nhiệm vụ cấp bán thành phẩm cho các xí nghiệp theo sự điều độ của phòng kế hoạch - xuất nhập khẩu. - Các xí nghiệp may: Có nhiệm vụ bố trí xắp xếp sản xuất từng mã hàng theo qui định của phòng kỹ thuật tại : Tài liệu kỹ thuật, định mức lao động, bố trí sắp xếp chuyền. Đảm bảo điều hành sản xuất ổn định , đảm bảo chất lượng theo qui định, nâng cao năng suất lao động, sử dụng đúng vật tư, đảm bảo đúng tiến độ giao hàng; Thực hiện tốt các chế độ cho người lao động theo đúng qui định của Nhà nước, của thoả ước lao động và các qui định của công ty. IV. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty trong 3 năm 2003, 2004, 2005 Trong những năm qua, nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của Hội đồng quản trị và Ban giám đốc, sự nỗ lực cố gắng của tập thể cán bộ công nhân viên cùng với sự quan tâm giúp đỡ của các cơ quan cấp trên, sự ủng hộ nhiệt tình của chính quyền sở tại và các doanh nghiệp đối tác, công ty cổ phần may Hưng Yên đã tìm được những thị trường tiềm năng mới, thích ứng dần với sự cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường, từng bước ổn định sản xuất và tình hình sản xuất của công ty đã luôn vượt kế hoạch. Công ty đã ngày càng sản xuất ra nhiều sản phẩm đáp ứng ngày càng tốt nhu cầu của người tiêu dùng. Để đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh như vậy, công ty đã khai thác và tận dụng tiềm lực của chính mình, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, tiết kiệm chi phí và giảm giá thành sản phẩm. Thước đo cho mọi sự phát triển của doanh nghiệp là kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó. Để hiểu rõ hơn về tình hình hoạt động của công ty cổ phần may Hưng Yên, ta có thể đánh giá tình hình sản xuất sản phẩm của công ty qua bảng sau: 1. Các mặt hàng sản xuất chủ yếu của công ty: Hàng năm công ty sản xuất các chủng loại mặt hàng theo các nhóm sản phẩm và số lượng như sau : Bảng 1: Chủng loại và sản lượng sản phẩm sản xuất năm 2004-2005 TT Tên sản phẩm ĐVT Năm 2004 Năm 2005 1 áo Jacket các loại Chiếc 1.184.500 1.163.339 2 Sơ mi các loại Chiếc 102.000 205.434 3 Quần các loại Chiếc 215.500 1.215.525 4 Quần dệt kim Chiếc 206.000 676.898 5 Aó T-Shirt, Polo-Shirt Chiếc 389.500 610.580 6 Quần, áo các loại khác Chiếc 74.000 133.388 (Nguồn: văn phòng – Công ty cổ phần may Hưng Yên) Qua bảng báo cáo trên ta thấy sản lượng của công ty tăng dần qua các năm. Sản lượng tăng chứng tỏ thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty đang ngày càng mở rộng hơn. Đặc biệt là mặt hàng quần các loại, số liệu trên cho thấy sản phẩm của công ty đã và đang được thị trường chấp nhận. Bên cạnh đó, sản phẩm các chủng loại khác cũng dần gây được uy tín với khách hàng. Điều này có nghĩa là sản phẩm của công ty với chất lượng cao đã tạo được sự tin tưởng của khách hàng và đang ngày càng nâng cao vị thế trên thị trường trong và ngoài nước. Vì vậy mà lợi thế cạnh tranh của công ty sẽ cao hơn. 2. Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty Cổ Phần May Hưng Yên Bên cạnh việc tăng số lượng, các hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cũng phát triển không ngừng, doanh thu năm sau cao hơn năm trước, nâng cao thu nhập người lao động. Qua bảng sau, chúng ta có thể nhìn thấy một cách cụ thể sự phát triển của công ty cổ phần may Hưng Yên trong những năm gần đây: STT Chỉ tiêu Đơn Vị Tính 2002 2003 2004 2005 1 Tổng doanh thu - Doanh thu XK - Doanh thu NĐ Triệu đồng Triệu đồng Triệu đồng 36.003 34.179 1.824 38.554 36.574 1.980 41.546 39.156 2.390 54.090 51.140 2.950 2 Giá trị SXCN Triệu đồng 18.134 20.992 23.264 34.885 3 Nộp ngân sách Nhà nước Triệu đồng 224 302 361 624 4 Kim ngạch XK USD 1.224.973 1.475.600 1.934.220 2.305.008 5 Kim ngạch NK USD 5.969.474 6.813.343 6.586.700 7.934.740 6 Lợi nhuận Triệu đồng 1.035 1396 1.670 2.890 7 Thu nhập bình quân Nghìn/tháng 850 965 1.094 1.438 Bảng 2: Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty may Cổ Phần Hưng Yên (Nguồn số liệu văn phòng – Công ty cổ phần may Hưng Yên) Nhìn vào bảng trên ta có thể thấy hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty liên tục phát triển là do công ty không ngừng tăng sản lượng, cải tiến máy móc thiết bị, áp dụng công nghệ mới, chú trọng quản lý kỹ thuật và nâng cao chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu ngày càng khắt khe của khách hàng trong và ngoài nước. Qua bảng trên ta thấy tốc độ phát triển doanh thu và thị trường của công ty đều tăng qua các năm. Cụ thể tốc độ phát triển doanh thu năm 2003 so với 2002 là 107% và đến năm 2005 thì tốc độ phát triển so với năm 2002 đã tăng lên 150%. Điều này chứng tỏ công ty đã không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm đầu ra, cải tiến mẫu mã cho phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng trên thị trường, quan tâm đến hoạt động bán hàng. Bên cạnh đó, tốc độ phát triển của kim ngạch xuất khẩu cũng tăng lên đáng kể tạo đà tăng trưởng cho công ty trong những năm tiếp theo. Công ty còn có thành tích trong việc tạo ra thu nhập và việc làm ổn định cho hơn 3500 cán bộ công nhân viên trong công ty. Thu nhập của họ cũng không ngừng tăng lên qua các năm. Năm 2003/2002 tốc độ tăng là 114% nhưng cho đến năm 2005 thì tốc độ này đã đạt được 169% so với năm 2002. Riêng nộp ngân sách các năm từ 2002 đến 2005 có xu hướng ổn định. Điều này cho thấy hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty rất hiệu quả và không ngừng tăng doanh thu qua các năm.Việc tăng doanh thu và sản lượng sản phẩm đã đưa đến kết quả là lợi nhuận của công ty cũng không ngừng tăng lên qua các năm và có xu hướng tăng nhanh hơn trong những năm gần đây. Đối với công ty, lợi nhuận chính là một trong những thước đo hiệu quả việc sản xuất kinh doanh của công ty. Nhìn chung về cơ bản công ty đã thích nghi nhanh chóng với cơ chế thị trường cạnh tranh khá quyết liệt về ngành may mặc hiện nay đặc biệt là may mặc xuất khẩu. Khách hàng của công ty không chỉ giới hạn ở một lứa tuổi mà ngay từ khi thành lập công ty đã đặt ra mục tiêu là phục vụ mọi đối tượng khách hàng. Với từng thị trường riêng biệt mà công ty có những mặt hàng riêng biệt để tăng sức cạnh tranh. Mặt khác, công ty tiếp tục đầu tư đổi mới trang thiết bị công nghệ, nâng cao uy tín vốn có của công ty trên thị trường may mặc nói chung và thị trường may xuất khẩu nói riêng. Trong những năm qua, công ty đã xây dựng được một mạng lưới thị trường đầu vào và thị trường tiêu thụ sản phẩm may mặc có qui mô lớn, tạo điều kiện ổn định và phát triển lâu dài cho công ty. Những phân tích khái quát trên cho thấy mặc dù gặp nhiều khó khăn khi chuyển sang nền kinh tế thị trường cùng với sự ra đời còn khá mới mẻ song công ty cổ phần may Hưng Yên đã từng bước đưa hoạt động sản xuất kinh doanh của mình đi vào ổn định và phát triển. Sự tăng lên của các chỉ tiêu trong những năm gần đây đã phần nào phản ánh được kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, khẳng định những nỗ lực rất đáng khuyến khích của tập thể cán bộ công nhân viên trong công ty. Chương II Thực trạng công tác quản lý chất lượng sản phẩm tại Công ty cổ phần may Hưng Yên I. các đặc điểm kinh tế-kỹ thuật ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm 1. Đặc điểm về sản phẩm hàng hoá và thị trường. * Đặc điểm về sản phẩm: Cơ cấu sản xuất mặt hàng của công ty rất đa dạng và phong phú. Ngoài các mặt hàng truyền thống của công ty là áo sơmi, jacket, đồng phục cho cơ quan, quần áo thể thao thì công ty còn sản xuất quần áo bơi, mũ. Bên cạnh đó, công ty còn chú trọng vào các lĩnh vực kinh doanh phụ nhằm phát triển thêm doanh thu như ký kết hợp đồng mua bán áo và đồng phục trẻ em. Với tính chất sản xuất đa dạng như vậy, trong cơ chế thị trường công ty còn biết vận dụng tiềm năng về lao động, về mặt máy móc thiết bị, trình độ công nhân vào những nhiệm vụ sản xuất đa dạng, đảm bảo hoàn thiện chất lượng sản phẩm tạo doanh thu cao nhất cho công ty đồng thời nâng cao vị trí cạnh tranh của công ty trên thị trường. * Đặc điểm về thị trường: - Thị trường trong nước : Dân số nước ta hiện nay khoảng gần 80 triệu dân, nhu cầu về sản phẩm may mặc là thiết yếu đang ngày càng tăng lên. Mức sống của người dân được nâng cao, lối sống ăn mặc hiện đại, hợp thời trang đã du nhập vào nước ta. Điều này buộc các nhà sản xuất phải nâng cao chất lượng sản phẩm của mình cả về kiểu dáng mẫu mã lẫn chất liệu sản phẩm. Số lượng các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc cả nước nói chung chiếm tỷ lệ lớn như : công ty may Thăng Long, công ty may Chiến Thắng, công ty may 247,... ngoài ra còn có các công ty, doanh nghiệp tư nhân từ khắp nơi có thể tồn tại với lực lượng một đơn vị từ 5 đến 10 người hoặc vài trăm người. Chính vì vậy, nó đã gây ra sự cạnh tranh quyết liệt giữa các doanh nghiệp cả về chất lượng lẫn giá cả. Bên cạnh đó, hiện nay trên thị trường có nhiều loại quần áo được nhập lậu từ Trung Quốc, Thái Lan, Malaixia... về quần jean, áo phông, sơ mi với kiểu dáng đẹp, mẫu mã phong phú, giá cả lại rẻ hơn hàng trong nước do không phải đóng thuế khiến nhiều người Việt Nam sính hàng ngoại đã tiêu dùng chủ yếu các mặt hàng này. Điều này đã gây rất nhiều khó khăn cho các công ty may mặc trong nước. - Thị trường nước ngoài : Khi các đối tác nước ngoài đến Việt Nam để ký kết hợp dồng gia công hàng xuất khẩu, họ thường chọn những công ty lớn có uy tín về chất lượng sản phẩm, mẫu mã kiểu dáng đẹp, đa dạng về chủng loại, màu sắc phù hợp với nhu cầu chung của người tiêu dùng. Công ty Cổ Phần May Hưng Yên luôn chú trọng đến nghiên cứu thị trường. Mặt hàng chính của công ty là các sản phẩm may mặc bao gồm các chủng loại : áo jacket, váy áo nữ, áo đồng phục cơ quan, áo sơ mi xuất khẩu... Là một trong những thành viên của Tổng công ty dệt may Việt Nam, công ty cổ phần may Hưng Yên đã góp một phần không nhỏ vào việc đẩy mạnh sản xuất hàng dệt may. Các mặt hàng của công ty phong phú về chủng loại, đa dạng về mẫu mã và kích thước, màu sắc, chất lượng luôn được chú trọng nâng cao không những khẳng định được mình ở thị trường trong nước mà còn cả những thị trường khó tính như : Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc... Chính sự nhạy bén với biến động của thị trường (sau sự kiện ngày 11/9), công ty đã tìm được một hướng đi đúng đắn đó là không ngừng tìm kiếm thị trường mới cả trong nước và quốc tế thông qua hoạt động của cửa hàng bán lẻ và hoạt động xuất khẩu sang thị trường mới bảo đảm đầu ra cho sản xuất. Hơn nữa, sản phẩm may mặc của công ty luôn được đổi mới, đa dạng hoá về chủng loại, mẫu mã, kích cỡ, màu sắc, chất liệu với chất lượng sản phẩm cao, giá thành được nhiều người tiêu dùng chấp nhận nên sản phẩm của công ty thu hút được rất nhiều khách hàng trong và ngoài nước. Điều này được thể hiện qua bảng Bảng 5 phần phụ lục. Qua bảng đó, ta thấy thị trường chủ yếu của công ty là Nhật, Đức và Nga. ở Nhật Bản, giá nhân công rất cao nên hầu hết mặt hàng may mặc đều được Nhật nhập khẩu phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước. Đối với các thị trường này công ty chỉ làm gia công, xuất khẩu trực tiếp vì chất lượng đòi hỏi cao. Tuy nhiên, công ty rất chú trọng đến những thị trường này vì đây là những thị trường có sức tiêu thụ lớn, chiếm tỷ lệ đặt hàng cao nhất so với những thị trường khác. Mặt khác, công ty cũng luôn mở rộng mạng lưới kinh doanh tiếp thị, các đại lý giới thiệu, quảng cáo và bán sản phẩm, xúc tiến các hợp đồng sản xuất bán FOB trong và ngoài nước, doanh thu bán FOB năm 2005 đạt 20,294 tỷ tăng 25,47% so với năm 2004, nhờ đó công ty đã thiết lập và mở rộng mối quan hệ với các khách hàng tiềm năng ở những thị trường lớn khác tạo tiền đề cho sự phát triển lâu dài của công ty. 2. Đặc điểm về nguồn vốn kinh doanh. Vốn là điều kiện vật chất không thể thiếu được trong quá trình sản xuất kinh doanh. Muốn kinh doanh thì phải có vốn đầu tư, mua sắm tài sản cố định, công cụ dụng cụ, dự trữ hàng hoá, chi trả các khoản chi phí phải chi khác... Như vậy, có thể hiểu vốn kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp đang phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Công ty Cổ Phần May Hưng Yên là thành viên của Tổng công ty dệt may Việt Nam. Nguồn vốn của công ty được hình thành từ ba nguồn chính: Một là nguồn vốn của Nhà nước. Hai là nguồn vốn huy động từ cán bộ công nhân viên trong công ty. Ba là nguồn vốn huy động từ bên ngoài. Số cổ đông và cơ cấu phân phối vốn theo chủ sở hữu trong công ty được thể hiện ở bảng sau: Bảng 3 : Cơ cấu phân phối vốn của Công ty Cổ Phần May Hưng Yên Loại cổ đông Số cổ đông (người) Số cổ phần ưu đãi ( cổ phiếu ) Số cổ phần thường ( cổ phiếu ) Tổng số cổ phần ( cổ phiếu ) Phần % so với vốn điều lệ Cổ đông là CBCNV 583 72.800 1.506 74.306 68.3% Cổ đông tự do 20 0 10.994 10.994 10.1% Cổ đông là Nhà nước 01 0 23.500 23.500 21.6% Tổng cộng 604 72.800 36.000 108.800 100% (Nguồn số liệu văn phòng – Công ty cổ phần may Hưng Yên) Qua bảng số liệu trên ta thấy nguồn vốn được huy động từ cán bộ công nhân viên là rất lớn còn huy động từ bên ngoài rất ít. Điều này chứng tỏ vốn nội bộ rất quan trọng giúp cho công ty yên tâm sản xuất kinh doanh, hơn nữa việc đảm bảo đầy đủ nguồn vốn là một vấn đề cốt yếu để quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục và có hiệu quả. Vì vậy cơ cấu vốn hợp lý là yếu tố quan trọng để công ty sử dụng vốn có hiệu quả, tiết kiệm vốn trong kinh doanh. Vốn kinh doanh của Công ty Cổ Phần May Hưng Yên được chia thành hai phần: Vốn cố định và vốn lưu động. + Vốn cố định: Bao gồm đất đai, nhà xưởng, máy móc thiết bị, công cụ dụng cụ... được tính bằng tiền mặt. + Vốn lưu động: Bao gồm nguyên vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ và tài sản ở khâu sản xuất như sản phẩm dở dang, bán sản phẩm. Sau đây là kết quả báo cáo tình hình vốn kinh doanh của công ty trong những năm gần đây: Bảng 4: Tình hình về nguồn vốn của công ty trong những năm gần đây. C Chỉ tiêu 2002 2003 2004 2005 Số tiền (Tr.đ) Tỷ lệ (%) Số tiền (Tr.đ) Tỷ lệ (%) Số tiền (Tr.đ) Tỷ lệ (%) Số tiền (Tr.đ) Tỷ lệ (%) Tổng vốn KD 32.996 100 33.924 100 34.953 100 37.099 100 Vốn cố định 25.326 77 24.981 74 25.201 72 25.849 70 Vốn lưu động 7.670 23 8.943 26 9.752 28 11.250 30 (Nguồn số liệu văn phòng – Công ty cổ phần may Hưng Yên) Nhìn vào bảng trên ta thấy được sự tăng lên hay giảm đi của vốn kinh doanh. Cụ thể năm 2002 vốn kinh doanh đạt 32.996 triệu đồng trong đó vốn lưu động chiếm 23% và vốn cố điịnh chiếm 77% thì đến các năm 2003, 2004 và 2005 vốn kinh doanh đã tăng lên tương đối. Nguồn vốn cố định của công ty luôn ổn định và tăng trong hai năm gần đây là do công ty mua bổ sung thêm máy móc thiết bị công nghệ hiện đại, còn nguồn vốn lưu động hàng năm đều tăng do có sự đầu tư từ ngân sách Nhà nước và bổ sung từ các quỹ, các nguồn khác trong và ngoài công ty như huy động nguồn vốn nội lực, vay ngân hàng, vay các tổ chức kinh tế... Như vậy, với sự tăng trưởng của nguồn vốn qua từng năm sẽ là điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp đảm bảo thực hiện được chiến lược kinh doanh đề ra. Vì vậy, để bảo toàn và phát triển nguồn vốn công ty đã áp dụng rất nhiều biện pháp trong đó đáng chú ý là các biện pháp sau: Chủ động mua sắm tài sản cố định để tăng năng lực sản xuất, thực hiện đầu tư theo chiều sâu. Việc đầu tư mua sắm tài sản cố định để tăng năng lực sản xuất là việc làm có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định trong công ty. Thực hiện được điều này sẽ giúp cho công ty có khả năng theo kịp cạnh tranh về chất lượng sản phẩm, chủng loại sản phẩm đồng thời hạ giá thành sản phẩm nhằm đạt hiệu quả sản xuất kinh doanh cao nhất. Thực hiện tốt công tác khấu hao và sử dụng quỹ khấu hao. Trích khấu hao cơ bản là hình thức thu hồi vốn do vậy vốn có được đảm bảo và nâng cao hiệu quả hay không là phụ thuộc vào việc tính và trích khấu hao có đúng và đủ hay không. Đối với tài sản lưu động, công ty đã đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, xử lý kịp thời các khoản nợ khó đòi, tiến hành áp dụng các hình thức hoạt động tín dụng, tăng vòng quay của vốn nhằm tăng khả năng mua sắm và thanh toán của công ty. Như vậy, qua chỉ tiêu về nguồn vốn ta thấy vốn đặc biệt quan trọng có ảnh hưởng lớn đến công tác quản trị chất lượng của công ty. Vì vậy cần phải sử dụng nguồn vốn một cách có hiệu quả để không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm của công ty. 3. Đặc điểm về trang thiết bị công nghệ của Công ty Cổ Phần May Hưng Yên Đối với bất kỳ một doanh nghiệp sản xuất nào, để đảm bảo việc sản xuất ra sản phẩm với khối lượng lớn, đạt năng suất cao và chất lượng tốt cần phải sản xuất hợp lý. Công ty cổ phần may Hưng Yên là một doanh nghiệp có quy mô sản xuất tương đối lớn, đối tượng chế biến là vải và được cắt may thành các loại hàng khác nhau, kỹ thuật sản xuất với mẫu mã vải của mỗi chủng loại mặt hàng có sự phức tạp khác nhau, phụ thuộc vào chi tiết các loại mặt hàng đó. Do mỗi mặt hàng kể cả cỡ vóc cho từng mặt hàng có yêu cầu sản xuất kỹ thuật riêng về loại vải cắt, về công thức pha cắt cho từng cỡ vóc (quần, áo...), cả về thời gian hoàn thành cho nên các chủng loại mặt hàng khác nhau được sản xuất trên cùng một loại dây chuyền (cắt, may) nhưng không được tiến hành cùng một thời gian. Do đó cơ cấu chi phí chế biến và mức độ của mỗi loại chi phí cấu thành sản lượng sản phẩm từng mặt hàng khác nhau. Với hàng may gia công, các phân xưởng sản xuất được tổ chức theo quy trình công nghệ khép kín, bao gồm: nhận nguyên phụ liệu, giác mẫu sơ đồ, cắt, phối mẫu, may, là, đóng gói, nhập kho với các loại máy móc chuyên dùng và số lượng sản phẩm tương đối lớn được chế biến từ nguyên liệu chính là vải. 4. Đặc điểm về lao động. Muốn sản xuất của cải vật chất thì 3 yếu tố không thể thiếu là: lực lượng lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động trong đó lực lượng lao động là yếu tố đóng vai trò quan trọng nhất. Nếu sản xuất mà không có lao động thì hoạt động sản xuất sẽ bị ngừng trệ, không thể tiến hành liên tục được. Nếu khoa học là điều kiện cần thì yếu tố lao động là điều kiện đủ, là yếu tố cơ bản quyết định đến chất lượng sản phẩm cũng như nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trên thương trường. Giả sử có công nghệ hiện đại nhưng không có lao động tay nghề, trình độ kỹ thuật chuyên môn cao thì máy móc, thiết bị công nghệ hiện đại đó cũng không thể phát huy được tác dụng. Do vậy, để từng bước nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, công ty đã và đang dần ổn định đội ngũ cán bộ quản lý và công nghệ kỹ thuật trong các dây chuyền sản xuất sao cho phù hợp nhất. Bên cạnh đó, công ty cũng không ngừng bồi dưỡng, đào tạo chất lượng đội ngũ công nhân sản xuất trực tiếp đáp ứng tốt hơn nhu cầu công việc. Công ty hiện đang sử dụng lượng lao động là 850 người làm việc theo giờ hành chính (2 ca/ngày). Nhưng khi vào vụ chính công ty có thể tăng số ca làm việc lên 3 ca/ ngày. Bảng 5: Số lượng và cơ cấu lao động trong công ty năm 2005 STT Các loại lao động Đơn vị tính Số lượng Tỷ lệ % 1. Lao động gián tiếp (kể cả hợp đồng) Trong đó chia ra: Trình độ Đại Học và trên Đại Học Trình độ trung cấp, cao đẳng Nhân viên tạp vụ Người Người Người Người 425 235 190 0 12,1 6,7 5.4 0 2. Lao động trực tiếp (chia theo bậc): Bậc 1 Bậc 2 Bậc 3 Bậc 4 Bậc 5 Bậc 6 Người Người Người Người Người Người Người 3075 298 795 514 997 356 145 87,9 8,5 22,7 14,7 2,85 1,2 0,4 ( Nguồn báo cáo tình hình lao động của công ty ) Đặc trưng của ngành may là kết hợp máy móc thiết bị với lao động thủ công. Do vậy, lực lượng công nhân sản xuất chính vẫn là phụ nữ, họ có đôi tay khéo léo và chịu khó làm việc. Tuy nhiên, do tỷ lệ lao động nữ chiếm khá cao trong công ty khoảng 85% trong khi lao động nam chỉ chiếm 15% đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến năng suất lao động cũng như chất lượng sản phẩm và công tác quản lý lao động. Họ có chế độ ngày nghỉ cao: nghỉ đẻ, nghỉ ốm, con ốm... trong giai đoạn đó công ty buộc phải tìm người khác thay thế. Người được thay thế có khi phải đào tạo lại hoàn toàn hoặc phải bồi dưỡng thêm mới có thể làm tốt được công việc do vậy mà tốn kém về chi phí nhưng chất lượng sản phẩm cũng không được đảm bảo bằng người lao động chính. Hơn nữa, có nhiều trường hợp những công nhân sau khi nghỉ đẻ một thời gian quay trở lại làm việc tay nghề không còn linh hoạt, ổn định như trước dễ dẫn đến làm không đúng quy cách và không đạt tiêu chuẩn. Do vậy, công ty nên có sự quan tâm hơn nữa về vấn đề này làm sao vừa giải quyết ổn định các vấn đề nghỉ vì những lý do trên vừa không làm ảnh hưởng đến tình hình sản xuất và chất lượng sản phẩm. Hiện nay, số cán bộ quản lý và nhân viên, công nhân có trình độ đại học và trên đại học còn ít, số lượng cán bộ quản trị trong công ty chỉ chiếm tỷ lệ tương đối 5,3% cho nên đây là một hạn chế lớn có ảnh hưởng trực tiếp đến trình độ quản lý của doanh nghiệp. Vì vậy, để nâng cao được chất lượng sản phẩm và vị trí của công ty trên thị trường, công ty nên sắp xếp bố trí lại đội ngũ cán bộ nhằm đáp ứng nhiệm vụ trong quá trình đổi mới đồng thời bổ sung thêm đội ngũ cán bộ có trình độ đại học và trên đại học đã qua đào tạo cơ bản và đội ngũ cán bộ chủ chốt của công ty. Hơn nữa, để có sự tiếp cận với sự phát triển khoa học kỹ thuật công nghệ và phương pháp quản lý mới công ty cần tạo điều kiện cho cán bộ, người lao động có thêm cơ hội học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ, bồi dưỡng thêm kiến thức chuyên môn qua các khoá học đào tạo tại chức, các khoá học ngắn hạn và dài hạn phục vụ cho công tác quản trị, các trung tâm dạy nghề. Việc phân công bố trí lao động và số lượng lao động hợp lý sẽ tạo điều k._.iện để công ty tăng năng suất lao động, giảm các chi phí về nhân công, tạo điều kiện tăng lợi nhuận cũng như tăng khả năng cạnh tranh của công ty. II. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá chất lượng sản phẩm và thực trạng chất lượng sản phẩm ở công ty 1. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá chất lượng sản phẩm Mỗi sản phẩm đều chứa đựng trong nó một hệ thống những đặc điểm nội tại. Đó là các chỉ tiêu phản ánh chất lượng của sản phẩm. Các doanh nghiệp muốn sản xuất hàng hoá đều phải xây dựng những tiêu chuẩn nhằm đánh giá và đảm bảo đạt các chỉ tiêu trên. Để có được những chỉ tiêu đó, bộ phận kỹ thuật của công ty phải nghiên cứu đưa ra các chỉ tiêu trên cơ sở tiêu chuẩn quốc tế, ngành và các điều kiện của công ty. Sau đó, tập hợp lại thành một hệ thống các tiêu chuẩn. Hệ thống tiêu chuẩn này phải được trung tâm đo lường chất lượng nhà nước duyệt và cho phép tiến hành sản xuất. Dựa vào hệ thống tiêu chuẩn đã đăng ký này, cơ quan nhà nước và chất lượng có thể kiểm tra giám sát tình hình chất lượng của công ty, đồng thời cán bộ của công ty có cơ sở để đánh giá tình hình bảo đảm chất lượng của công ty mình. Trên cơ sở đó phòng kỹ thuật đã nghiên cứu dựa trên các tiêu chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn ngành và các yêu cầu của khách hàng thuê gia công. Cùng với sự xem xét một cách toàn diện hệ thống sản xuất như máy móc thiết bị, năng lực làm việc của công ty đã đưa ra tiêu chuẩn chất lượng cho sản phẩm may của công ty. 1.1. Đối với sản phẩm may. - Đảm bảo mật độ mũi chỉ may: 5 mũi/ 1 cm, đường may thẳng, đều, đẹp, không sùi chỉ, bỏ mũi, xểnh trượt. - Đầu và cuối đường may phải được lại mũi chắc chắn và trùng khít. Không nối chỉ tuỳ tiện ở các đường diềm ngoài. - Nhặt sạch các đầu chỉ, không để hở dấu đục. - Đảm bảo các thông số kỹ thuật. - Vệ sinh công nghiệp phải sạch sẽ. 1.2. Đối với các bán thành phẩm. Các bán thành phẩm được kiểm tra kỹ càng trước khi chuyển đến các phân xưởng may để hoàn thiện sản phẩm. Các chỉ tiêu cần kiểm tra: vị trí, chất liệu, hình dáng, chủng loại. Những chi tiết đạt yêu cầu là những chi tiết đáp ứng được những tiêu chuẩn sau: chỉ tiêu tiêu chuẩn Dán dựng Dựng không dính: phải phẳng, đúng kích thước Dựng dính: không được chảy nhựa sang mặt phải của vải, không bong dộp, phẳng, đúng kích thước Sang dấu vị trí Đúng như mẫu: nẹp, đai gấu, tra khoá,, moi... Đúng vị trí: Vị trí chi tiết đúng như mẫu paton Túi: sang dấu vào thân khớp với mẫu, với mẫu khoá, túi cần làm Kiểm tra vắt sổ Màu chỉ vắt sổ: phải đúng Độ mau thưa: hợp lý( theo yêu cầu của khách hàng) Đường vắt sổ: không được lỏng, sùi chỉ Bờ vắt sổ: tuỳ theo yêu cầu của khách hàng mà kiểm tra đạt ở mức 0,7li hay 0,5li May chi tiết rời May túi: sao cho đúng kiểu túi, đúng chi tiết, vị trí, kích thước, may đều mũi chỉ, tránh sùi chỉ, đứt chỉ, đường lại chỉ phải trùng khớp với đường may thẳng không bị sóng; với các đường lượn phải tròn đều như mẫu May cổ: không được dúm, vặn, độ tròn đều, đúng kích thước các điểm đối xứng Công đoạn là Là phẳng, phải đảm bảo vải là vào mặt trái, dãn đường may Dán đường may Kiểm tra trước khi dán: Vệ sinh công nghiệp sạch sẽ, không còn tạp chất trên đường may, đường may sửa gọn theo yêu cầu của quy trình, đúng kích thước, không sùi chỉ hay bỏ mũi. Kiểm tra sau khi dán: Vệ sinh công nghiệp sạch sẽ, không còn tạp chất trên đường may, đường may sửa gọn theo yêu cầu của quy trình, đúng kích thước, không sùi chỉ hay bỏ mũi. Kiểm tra sau khi dán: Phải đều, dính chặt, đường may giữa băng dán, đường dán không được chồng chéo, dúm, nhiệt độ vừa đủ. 1.3. Đối với thành phẩm may. Khi sản phẩm đã được hoàn thiện, công đoạn kiểm tra thành phẩm phải được thực hiện kỹ trong từng chi tiết. Việc thực hiện tốt nội dung kiểm tra ở công đọan này góp phần đảm bảo chất lượng sản phẩm sản xuất ra và được giao cho khách hàng. Tránh hiện tượng để lọt vào các sản phẩm không đủ tiêu chuẩn vẫn được xuất đi. Mỗi thành phần cần được kiểm tra kỹ các chỉ tiêu như: Vị trí, kích thước, hình dáng, màu sắc, đường may. Giá trị cần đạt được là phù hợp với mẫu paton, phối màu, hướng dẫn tác nghiệp, mẫu gốc, thống kê chi tiết của phòng kỹ thuật và tài liệu khách hàng cung cấp. Những sản phẩm đạt yêu cầu cần phải đáp ứng được những tiêu chuẩn sau: chỉ tiêu tiêu chuẩn Đường chỉ diễu Chỉ diễu không được sểnh, sót, nhe chỉ, đứt chỉ, bỏ mũi, đúng chủng loại, màu sắc, diễu 2 kim phải đều. Vải ngoài Không được loang màu, có lỗi sợi Nhãn Đúng vị trí, chắc chắn, đúng chủng loại, kích cỡ Đường chắp Phải đều, không bị xếp ly, bị dúm Túi Thẳng, miệng cơi không hở, góc miệng túi vuông, khoá túi phẳng sóng Cổ Không được dúm, vặn, bùng, đúng khớp paton Gấu Không được vặn bùng, diễu gấu không đều Khoá ngực Đúng vị trí, kích thước Dây co gấu Phải đi chặn cẩn thận Moi quần Đường may đều, không sểnh, sót, nhe chỉ, đứt chỉ, không vặn bùng, không hở moi. Là Kỹ, cẩn thận, không được là bóng, là vào mặt phải của vải Tán cúc Chắc chắn, đúng vị trí, không xoay bẹp, chừ xuôi chiều Đính cúc Đúng màu chỉ, đúng chủng loại chỉ, chủng loại cúc không lỏng chân cúc. Thân khuyết Đúng kích thước, bờ khuyết đều, không bỏ mũi, khi chém khuyết không được chạm vào bờ. Nút chặn Đúng mặt phải, đúng hướng quay Ôzê Nằm đúng vị trí, đúng chủng loại, không bị méo khi tán, đòi hỏi chặt chân, đúng kích cỡ, có đệm nhựa hoặc đệm vải Kiểm tra băng gai May đúng vị trí quy định, đúng kích thước, độ mau thưa chính xác, không được sùi chỉ, đúng màu quy định. Đây là các chỉ tiêu công ty đặt và buộc công nhân sản xuất phải tuân thủ nghiêm ngặt. Ngoài ra, đối với từng mã hàng cụ thể, nếu khách hàng yêu cầu thêm một số chỉ tiêu khác không nằm trong hệ thống chỉ tiêu của công ty thì các chỉ tiêu này phải được mô tả rõ trong bảng dẫn tác nghiệp. Đối với cán bộ kiểm tra sản phẩm phải là thợ bậc bốn trở lên và có ít nhất 5 năm trong nghề. Nhìn chung, hệ thống chỉ tiêu về sản phẩm của công ty đã đáp ứng được yêu cầu của khách hàng. So với các công ty may mặc có uy tín khác trên thị trường công ty cũng như các công nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm. Trong những năm tới, với sự hiện đại hoá toàn bộ dây chuyền công nghệ, máy móc tiên tiến, công ty có chủ trương lập một hệ thống tiêu chuẩn mới, cách quản lý sản phẩm mới nhằm không ngừng nâng chất lượng sản 2. Thực trạng chất lượng sản phẩm của Công ty 2.1. Chất lượng bán thành phẩm ở phân xưởng cắt. Phân xưởng cắt là nơi tiến hành cắt bán thành phẩm theo định mức và kế hoạch cắt cụ thể bằng biểu cắt bán thành phẩm do phòng kỹ thuật chuyển cho kho phát nguyên phụ liệu theo định mức. Công việc cắt bán thành phẩm bao gồm các bước sau: - Nhận nguyên phụ liệu từ kho về theo biểu cắt bán thành phẩm kiểm tra lại khổ vải và ký hiệu vài theo phối màu. - Tiến hành trải vải theo chiều dài được quy định trong bản giác và biểu cắt bán thành phẩm. - Xoa phấn lên bảng giác để in xuống bàn vải, sau đó dùng mẫu bìa vẽ lại cho chính xác rồi dùng máy động cắt phá thành từng mảng và đưa lên máy cắt tĩnh để pha thành các chi tiết bán thành phẩm. - Bán thành phẩm được đưa xuống bàn thợ phụ để đánh số thứ tự tránh nhầm lẫn khi may. - Sau khi đánh số bán thành phẩm được đóng gói và nhập kho bán thành phẩm, sau đó cấp phát lên phân xưởng may theo kế hoạch. Công đoạn cắt bán thành phẩm rất quan trọng, bởi vì sản phẩm may có đẹp hay không một phần cũng là do chất lượng của khâu cắt bán thành phẩm. Quản lý tốt được khâu này sẽ tạo tiên đề tốt cho công đoạn may hoàn thiện sản phẩm đạt năng suất và chất lượng cao hơn. Hơn nữa, ở khâu này cần phải chú ý đến tính kế hoạch và tính đồng bộ. Bởi một sản phẩm may có nhiều chủng loại nguyên phụ liệu như vải chính, vải lót, vải phối và bông dựng ... do đó khi cắt phải đồng bộ cả chính, phụ và lót để phân xưởng may tiến hành sản xuất được trôi chảy. Để đánh giá chất lượng công việc cắt của phân xưởng cắt ta hày xem bảng tổng kết tình hình sản xuất trong 3 năm qua. Bảng 6: Chất lượng bán sản phẩm ở phân xưởng cắt. Năm Cổ Túi Cạp quần Tay Thân áo Thân quần Sửa chữa được Phế phẩm Sửa chữa được Phế phẩm Sửa chữa được Phế phẩm Sửa chữa được Sửa chữa được Sửa chữa được 2003 2004 2005 6.500 7.180 4.140 670 895 480 6.850 7.940 5.210 970 1.280 930 5.230 6110 4.080 1.050 980 840 5.270 6.340 4.060 3.890 4.550 3.160 5.570 6.890 4.150 Nhìn vào bảng tổng kết, ta thấy tỷ lệ sản phẩm hỏng phải sửa chữa cũng như tỷ lệ phế phẩm là chấp nhận được. Theo như đánh giá của phó giám đốc phân xưởng may I thì tình hình chất lượng phân xưởng cắt trong một vài năm gần đây được cải thiện. Tuy nhiên, về chất lượng bán thành phẩm cắt để phục vụ tốt cho công đoạn may thì lại chưa được nâng cao. Các bán thành phẩm vẫn chưa được cắt chính xác thường cắt quá rộng hặc quá hẹp so với paton ( mẫu ). Các bán thành phẩm này, tuy không bị coi là phế phẩm nhưng đã gây không ít khó khăn cho phân xưởng may. Thậm chí còn làm giảm chất lượng thành phẩm may. Bên cạnh đó ban Giám đốc của công ty đã nghiên cứu tìm hiểu thị trường công nghệ cắt vải tự động và quyết định mua về hệ thống cắt trải vải tự động của Pháp với số tiền lên đến 3,7 tỷ đồng. Đây là hệ thông cắt trải vải tiên tiến vào bậc nhất trên thế giới, có khả năng tăng cao năng suất cắt với độ chính xác cao. Đồng thời, công ty tiến hành chọn lựa 5 công nhân cắt vải có trình độ, kinh nghiệm đẻ các chuyên gia người Pháp tiến hành đào tạo, hướng dẫn một cách tỷ mỉ cách sử dụng cũng như bảo quản sửa chữa hệ thống cắt trải vải trên.Chính nhờ sự quan tâm của ban lãnh đạo công ty, phân xưởng cắt đã có được công nghệ cắt hiện đại và đã nâng cao chất lượng bán thành phẩm. 2.2. Chất lượng bán thành phẩm ở phân xưởng thêu, in : Khi tiến hành xong công việc cắt nguyên liệu tạo ra bán thành phẩm, nếu mẫu mã hàng có yêu cầu thêu hay in thì phân xưởng cắt sẽ đánh số thứ tự rồi chuyển sang cho phân xưởng thêu, in. Hiện nay, phân xưởng thêu được trang bị 2 giàn máy thêu của Đức, mỗi giàn máy có 10 đầu máy. Về lực lượng công nhân đứng máy có 12 người. Nếu có nhiều hàng thêu, phân xưởng sẽ bố trí chia làm 3 ca sản xuất . Ngoài ra còn 6 người nhặt chỉ thêu, bóc dựng thêu và 1 phó giám đốc phụ trách phân xưởng thêu. Đây là người am hiểu máy móc thiết bị cũng như kỹ thuật thêu. Các mẫu hình cần theo thường là con giống, biểu tượng, chữ. Nhìn chung, tình hình chất lượng ở phân xưởng thêu là rất tốt. Do tính chất công việc là sử dụng các giàn máy thêu tự động nên tỷ lệ sai hỏng là rất ít hầu như không có. Nếu có những bán thành phẩm thêu không đẹp, hình hay chữ nhỏ hơn mẫu, hay thêu ngược chiều, nhầm mẫu chỉ đầu có thể tháo chỉ là thêu lại. Nhưng nếu mật độ chỉ thêu quá dày, việc tháo chỉ sẽ làm rách vải thì cần thoả thuận thương lượng với khách hàng những bán thành phẩm có thể chấp nhận được. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức thuế sản phẩm và bóc dựng thêu, do tổ chức làm không tốt nên đã nhiều lần xẩy ra tình trạng có những bàn hàng lấy lên trước nhưng phân xưởng thêu không làm theo thứ tự đã bỏ qua để làm những mặt hàng lấy lên sau. Do vậy, những bán thành phẩm cần làm ngay để lắp ráp hoàn thiện sản phẩm thì phân xưởng thêu làm sau, những bán thành phẩm chưa cần làm ngay thì lại được làm trước. Việc làm này đã gây ách tắc cho sản xuất, làm chậm tiến độ giao cho khách. 2.3. Chất lượng sản phẩm ở các phân xưởng may. Phân xưởng may là nơi sản xuất chính của công ty, bao gồm cả may và hoàn thiện sản phẩm khép kín một công đoạn sản xuất. Trong Công ty có 5 phân xưởng may với khoảng 2350 công nhân trực tiếp sản xuất. Hiện nay, trang thiết bị máy móc phục vụ công đoạn may đang dần được hiện đại hoá với nhiều loại máy tiên tiến như : máy bổ cơi, máy di bo, máy ép mex... Hiện tại, công ty phân chia chất lượng sản phẩm hoàn thiện ra làm 3 loại : + Sảm phẩm loại I : là sản phẩm đảm bảo tuyệt đối các yêu cầu về kỹ thuật và đạt được những tiêu chuẩn quy định trong tài liệu kỹ thuật và quy trình công nghệ về quy cách, kích thước, màu sắc... + Sản phẩm loại II : là những sản phẩm chưa đạt yêu cầu, cần phải sửa chữa lại. Nếu sửa chữa xong mà vẫn không thoả thuận được với khách hàng để xuất khẩu thì công ty sẽ dùng để tiêu thụ trong nước. + Phế phẩm : là những sản phẩm hỏng do rách, lỗi sợi nhiều, dầu máy nhiều không tẩy sạch, thông số kích thước bị âm quá nhiều dẫn đến không thể sửa chữa được. Những năm gần đây, công ty đã cố gắng để khống chế sản phẩm phải sửa chữa (tức loại II) xuống dưới 3,5% nhưng những sản phẩm sửa lại vẫn đảm bảo chất lượng giao cho khách hàng. Tuy nhiên, đây là cái đích mà công ty cần phải đến. Tỷ lệ phế phẩm vẫn còn vào khoảng 0,6% toàn bộ các phân xưởng sản xuất. Để có thể tìm hiểu cụ thể về tình hình chất lượng sản phẩm của công ty, ta cũng xem xét và đánh giá chất lượng của một số mã hàng trong các năm gần đây qua Bảng 2 ở phần phụ lục. Đối với sản phẩm áo sơ mi, đây là sản phẩm công ty vừa sản xuất để xuất khẩu vừa mở của hàng đại lý tạo công ty để bán cho người tiêu dùng trong nước. Sản phẩm áo sơ mi bán trong nước thì yêu cầu kỹ thuật, chất liệu vải không cao lắm nhưng để xuất khẩu ra nước ngoài thì khách hàng đòi hỏi rất cao từ vệ sinh công nghiệp đến các đường may, cách gấp áo, nhãn hiệu, làm bao gói sản phẩm đều được kiểm tra kỹ càng. Theo kế hoạch đề ra sản phẩm sơmi sẽ được làm để xuất khẩu nhưng đã không hoàn thành kế hoạch đề ra với tỷ lệ phế phẩm lên đến 0,83%, còn tỷ lệ sản phẩm loại II là 4,2%. Đối với mã hàng 9511 dùng để tiêu thụ trong nước cũng không hoàn thành kế hoạnh. Đối với sản phẩm dùng để phục vụ trong nước, công ty tuân thủ nghiêm ngặt quy trình công nghệ sản xuất cũng như hệ thống chỉ tiêu chất lượng. Tuy nhiên, số lượng sản phẩm được tiêu thụ vẫn còn hạn chế là do công ty phải cạnh tranh mạnh mẽ với những công ty lớn có uy tín và chuyên sâu về mặt hàng này. Đối với áo váy các loại, đây là sản phẩm được tiêu thụ hoàn toàn trong nước. Do nhu cầu của thị trường lên cao, công ty đã dự định sản xuất 4500 sản phẩm với tỷ lệ sản phẩm loại II 2,5% còn phế phẩm là 0,5%. Nhưng do tâm lý của công nhân sản xuất không thực sự chú trọng trong công việc, làm ẩu, làm vội vàng để lấy số lượng vì coi đây là hàng trong nước nên kết quả là tỷ lệ phế phẩm tăng lên 0,586%. Những số liệu này được thể hiện ở Bảng 3 phần phụ lục. Số lượng mặt hàng sản phẩm công ty tham gia hùn vốn sản xuất rất là đa dạng nhưng giá trị cao là những mã hàng áo Jacket 3 lớp và 2 lớp dùng để xuất khẩu sang thị trường Anh, Đức. Có thể nói, đây là giai đoạn công ty hy vọng có được những tín hiệu tốt đẹp cho một hướng kinh doanh mới. Với các sản phẩm áo Jacket công ty đặt quyết tâm hoàn thành kế hoạch đặt ra. Ban giám đốc công ty cũng đặc biệt quan tâm đến đợt sản xuất này nên đã luôn đi sâu sát chỉ đạo thực hiện sản xuất để đảm bảo chất lượng sản phẩm và hạn chế tỷ lệ phế phẩm. Kết thúc mã hàng áo Jacket công ty đã thu được kết quả mong đợi duy chỉ có mã hàng 286 là kông hoàn thành chỉ tiêu đề ra với tỷ lệ phế phẩm là 0,73%, sản phẩm loại II là 3,7% Ban giám đốc công ty đã quyết định chỉ đạo phòng kỹ thuật làm chủ đạo cùng với các phòng ban khác soạn thảo các yêu cầu của hệ thống quản lý chất lượng ISO – 9000 nhằm áp dụng thành công hệ thống đảm bảo chất lượng theo tiêu chuẩn ISO – 9001 vào năm 2000. Tất cả cán bộ công nhân viên trong công ty đều được phổ biến, thấu hiểu để áp dụng và duy trì chính sách chất lượng. Để có thể hoàn thành xuất sắc kế hoạch mà công ty đã đề ra, Ban giám đốc đã từng bước tiến hành các công việc cụ thể như : Đổi mới bộ máy quản lý với việc thành lập một phòng mới do phó giám đốc kỹ thuật làm đại diện lãnh đạo chất lượng. Đây là bộ phận sẽ kết hợp với chi cục đo lường tiêu chuẩn chất lượng Hưng Yên để chỉ đạo, giám sát và đánh giá tiến độ thực hiện các yêu cầu của hệ thống quản lý chất lượng đề ra. Nhìn vào Bảng 4 phần phụ lục, ta thấy tình hình chất lượng sản phẩm của các mã hàng thực sự đã tiến bộ, hoàn thành kế hoạch đề ra với tỷ lệ sản phẩm loại II và phế phẩm. Ngay cả đối với mặt hàng áo Jacket 3 lớp từ trước đến nay đều có tỷ lệ phế phẩm cao cũng đã có chiều hướng tích cực, đặc biệt với mã hàng 331 có số lượng sản xuất 1300 chiếc đã có sự cố gắng cao để giảm tỷ lệ phế phẩm xuống còn 0,77% so với kế hoạch là 0,85%. Tuy nhiên, tình hình phế phẩm của các loại áo váy và áo sơ mi vẫn chưa được cải thiện với tỷ lệ phế phẩm của các loại áo váy và áo sơ mi vẫn chưa được cải thiện với tỷ lệ phế phẩm cuả áo váy là 0,62% so với kế hoạch là 0,5%. Điều này có thể giải thích bởi đời sống nhân dân thành phố cũng như một số thành thị khác đã được nâng cao. Do đó, nhu cầu về ăn mặc đẹp theo trào lưu, thời trang phát triển mạnh dẫn đến số lượng tiêu thụ trong nước là rất thấp. Do vây, công ty đã không chú trọng đầu tư đổi mới thiết bị cũng như đào tạo tay nghề công nhân sản xuất và quản lý tổ chức sản xuất. III. thực trạng Công tác quản lý chất lượng sản phẩm ở công ty. 1. Quản lý chất lượng trong khâu chuẩn bị sản phẩm. 1.1. Quản trị nguyên vật liệu. Hiện nay, công ty có một mạng lưới cung cấp nguyên vật liệu cho sản xuất bảo đảm giao đúng thời hạn, chất lượng đúng yêu cầu. Để đảm bảo hàng nhập đúng yêu cầu chất lượng, bộ phận kiểm tra chất lượng sản phẩm và bộ phận nghiên cứu sản phẩm đều kiểm tra qua các bước phân tích nguyên liệu. Bên cạnh đó, công ty cũng có biện pháp kết hợp với các nhà cung ứng như sau: Công ty đưa ra các yêu cầu, bên cung ứng gửi mẫu để giới thiệu sản phẩm và các thông tin về đặc tính sản phẩm kèm theo. Bộ phận kỹ thuật và KCS thử mẫu trên sản phẩm, nhận xét và đánh giá. Phòng kinh doanh xem xét giá cả, phương thức mua bán, nhập và chọn nhà cung ứng. Trong quá trình giao hàng, nếu bên cung ứng không giao hàng đúng với chất lượng nguyên vật liệu đã gửi mẫu, cán bộ kỹ thuật có quyền không cho phép nhập lô hàng đó. Trong quá trình bảo quản, lưu kho nguyên vật liệu cũng được kiểm tra thường xuyên để tránh sự xuống cấp về chất lượng, sử dụng những vật dụng, cách thức bảo quản theo qui định đồng thời cũng kiểm tra kho hàng... để đảm bảo chất lượng trước khi đưa vào sản xuất. Trước khi đưa nguyên vật liệu vào sản xuất, cán bộ quản lý chất lượng kiểm tra lần cuối cùng để đảm bảo sản phẩm sản xuất ra không có sự sai sót gì về khâu nguyên vật liệu. Nếu thấy nguyên vật liệu không đủ chất lượng cho sản xuất, cán bộ kiểm tra có quyền không cho phép nhập nguyên vật liệu vào sản xuất. 1.2. Quản trị máy móc thiết bị và quy trình công nghệ. Đây là biện pháp được công ty sử dụng thường xuyên và rất được chú trọng trong thời gian vừa qua để phục vụ cho mục tiêu hàng đầu của công ty là đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm. Để đầu tư đổi mới máy móc và quy trình công nghệ, công ty từng bước đầu tư một cách có trọng điểm do nguồn vốn còn hạn hẹp. Ngay từ khi mới thành lập, công ty đã đầu tư gần 20 tỷ đồng cho việc mua sắm các trang thiết bị mới đồng bộ được nhập khẩu trực tiếp chủ yếu từ các nước phát triển như Nhật, Đức. Riêng năm 2004 vừa qua, công ty đã đầu tư để bổ sung thêm số máy móc thiết bị hiện có là 4,2 tỷ đồng trong đó có trang thiết bị chuyên dùng đặt tại xưởng chuyên sản xuất áo Jacket từ các nước Nhật, Tiệp Khắc nhằm từng bước ổn định và phát triển sản xuất, tạo cơ sở lâu dài cho khả năng cạnh tranh của công ty. Bên cạnh đó, phòng kỹ thuật, phòng KCS còn kết hợp chặt chẽ với bộ phận thi đua của công ty mở các cuộc thi tăng năng suất, hội thảo nâng cao chất lượng, đề xuất các hình thức khen thưởng đối với công nhân có năng suất cao, tạo ra sản phẩm có chất lượng cao và có phạt, cảnh cáo đối với công nhân làm ra sản phẩm có chất lượng kém. Có thể nói, việc đổi mới công nghệ đã tác động mạnh mẽ đến chất lượng sản phẩm của công ty, cụ thể là; - Tăng chất lượng sản phẩm, giảm tỷ lệ phế phẩm. - Đa dạng hoá chủng loại sản phẩm, mẫu mã kiểu dáng. - Mở rộng quy mô sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. 1.3. Quản lý lao động. Trong nền kinh tế thị trường, nguồn lao động là một trong những yếu tố quan trọng của các doanh nghiệp ngành may mặc nói chung và Công ty may Cổ Phần Hưng Yên nói riêng đều bị chi phối bởi quy luật giá trị. Nguồn lao động của công ty luôn bị biến động do nhiều nguyên nhân khác nhau như nghỉ đẻ, nghỉ vì lý do sức khoẻ... điều này dẫn đến một vòng luẩn quẩn là tay nghề công nhân chưa cao, lương thường xuyên thay đổi, công việc không ổn định, không được chú trọng đầu tư nâng cao tay nghề... Điều này sẽ làm cho công ty khó có thể thực hiện được bất cứ một kế hoạch nào cụ thể để nâng cao chất lượng sản phẩm. Chính vì vậy, để làm cơ sở cho các hoạt động cải tiến chất lượng, công ty đã có chế độ đãi ngộ thoả đáng đối với công nhân viên như thưởng cho những người lao động làm việc chăm chỉ và có ý thức trách nhiệm với công việc hay thưởng cho những người làm việc đạt hiệu quả cao trong sản xuất. Các chế độ này được thực hiện công khai, rõ ràng và được ghi thành văn bản thoả thuận cụ thể trong các hợp dồng trong công ty và người lao động. Đồng thời công ty cũng tổ chức bồi dưỡng, đào tạo nâng cao tay nghề cho cán bộ công nhân viên trong công ty nhằm nâng cao ý thức và thích ứng với điều kiện lao động mới, máy móc thiết bị hiện đại... Bên cạnh đó, công ty đã thay đổi chế độ trả lương theo sản phẩm và thực hiện chế độ trả lương theo chất lượng, theo hiệu quả công việc. Nếu người công nhân tạo ra sản phẩm chất lượng kém hay làm việc ẩu, vô trách nhiệm thì sẽ nhận lương thấp ngược lại nếu người công nhân làm việc chăm chỉ, có ý thức học hỏi và tạo ra sản phẩm chất lượng cao sẽ được nhận lương cao. Chính điều này đã tạo cho công nhân phải tự mình tìm hiểu, học hỏi lẫn nhau để nâng cao tay nghề nhằm sản xuất ra sản phẩm có chất lượng tốt hơn đồng thời đảm bảo về điều kiện vật chất cho bản thân người công nhân. 2. Quản lý chất lượng trong quá trình sản xuất. * Kiểm soát việc cung cấp vật tư đầu vào: Phòng KH- XNK có trách nhiệm cân đối vật tư, nguyên liệu, phụ liệu trước khi bắt đầu sản xuất một mã hàng.Trong trường hợp vật tư , nguyên phụ liệu chưa đầy đủ nhưng cần phải sản xuất ngay, Trưởng phòng XNK phải báo cáo lãnh đạo để có phương án thích hợp, đồng thời phải có kế hoặc giao dịch với khách hàng để cung cấp nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất, hạn chế đến mức tối thiểu tình trạng chờ đợi, ách tắc. * Lập kế hoạch chính xác và kiểm tra tiến độ sản xuất theo HD- XN- 06: Trên cơ sở tình hình vật tư và sản xuất, phòng KH- XNK lập kế hoạch để giao cho các bộ phận sản xuất trình Tổng Giám đốc để có ý kiến chỉ đạo trực tiếp. Hàng ngày các tổ sản xuất báo cáo số lượng sản phẩm của tổ, cán bộ thống kê chuyên trách của xí nghiệp thu thập số liệu báo cáo phòng XNK. Phòng KH- XNK có trách nhiệm kiểm tra và báo cáo trực tiếp Tổng Giám đốc để có biện pháp điều hành. *Kiểm soát tài liệu sử dụng trong sản xuất: Tất cả mọi tài liệu sử dụng trong quá trình sản xuất phải đầy đủ, do những người có năng lực soạn thảo. Tài liệu sử dụng trong quá trình sản xuất bao gồm: - Toàn bộ tài liệu do khách hàng cung cấp, do các phòng ban trong công ty soạn thảo để phục vụ cho việc sản xuất một đơn hàng cụ thể. - Các hướng dẫn kỹ thuật ( HD- KT- 07/08/09) - Các hướng dẫn công nghệ ( HD- SX- 01/02/03/04/06) - Các hướng dẫn kiểm tra ( HD- KS- 01/02/03) - Các hướng dẫn bảo trì, vận hành máy móc thiết bị ( HD- KT- 01/02/03/04/05/06/07/16) Những tài liệu trên phải sẵn có ở mọi vị trí cần thiết. Mọi người có liên quan phải thực hiện đúng những điều đã quy định trong tài liệu. * Kiểm soát thiết bị sử dụng trong sản xuất: - Phòng kỹ thuật phải thiết lập danh mục thiết bị ( HD- KT- 11) và quản lý thiết bị sản xuất của toàn công ty - Để phục vụ cho việc sản xuất từng đơn hàng, phòng kỹ thuật phải lập phiếu điều động thiết bị và cung ứng các thiết bị phù hợp về chủng loại và số lượng - Phòng kỹ thuật chịu trách nhiệm lập kế hoạch bảo dưỡng thiết bị để đảm bảo thiết bị luôn hoạt động tốt. Khi thiết bị hỏng hóc phải kịp thời sửa chữa để không ảnh hưởng tới kế hoạch sản xuất( Hd- KT- 06). Trong trường hợp do sự cố máy móc làm ảnh hưởng tới tiến độ sản xuất, trưởng các đơn vị sản xuất phải kịp thời báo cáo Tổng Giám đốc để có biện pháp xử lý. 2.1. Phân xưởng cắt. Phân xưởng cắt là nơi tiến hành cắt bán thành phẩm theo định mức và kế hoạch cắt cụ thể bằng biểu cắt bán thành phẩm do phòng kỹ thuật chuyển cho kho phát nguyên phụ liệu theo định mức. Công việc cắt bán thành phẩm gồm các bước sau: - Nhận nguyên phụ liệu từ kho về theo biểu cắt bán thành phẩm , kiểm tra lại khổ vải và ký hiệu. - Tiến hành trải vải theo chiều dài được quy định trong bản giác mẫu và biểu cắt bán thành phẩm. - Xoa phấn lên bản giác để in xuống bàn vải, sau đó dùng mẫu bìa vẽ lại cho chính xác rồi dùng máy động cắt thành từng mảng và đưa lên máy cắt tĩnh để pha thành các chi tiết bán thành phẩm. - Bán thành phẩm được đưa xuống bàn thợ phụ để đánh số thứ tự để tránh nhầm lẫn khi may. - Sau khi đánh số, bán thành phẩm được đóng gói và nhập kho bán thành phẩm, sau đó cấp phát lên phân xưởng may theo kế hoạch. Công đoạn cắt bán thành phẩm rất quan trọng bởi vì sản phẩm may có đẹp hay không một phần cũng là do chất lượng của khâu cắt bán thành phẩm. Quản lý tốt được được khâu này sẽ tạo tiền đề tốt cho công đoạn may hoàn thiện sản phẩm đạt năng suất và chất lượng cao hơn. Mặt khác, ở khâu này cần phải chú ý đến tính kế hoạch và tính đồng bộ. Bởi một sản phẩm may có nhiều chủng loại nguyên phụ liệu như vải chính, vải lót, vải phối và bông dụng... do vậy khi cắt phải đồng bộ cả chính, phụ và lót để phân xưởng may tiến hành sản xuất được trôi chảy. Để đánh giá công việc của phân xưởng cắt ta hãy xem bảng tổng kết tình hình chất lượng bán thành phẩm trong 3 năm qua. Bảng 7 : Tình hình chất lượng bán thành phẩm ở phân xưởng cắt. Năm Cổ Túi Cạp quần Tay Thân áo Thân quần Sửa chữa được Phế phẩm Sửa chữa được Phế phẩm Sửa chữa được Phế phẩm Sửa chữa được Sửa chữa được Sửa chữa được 2003 2004 2005 6.500 7.180 4.140 670 895 480 6.850 7.940 5.210 970 1.280 930 5.230 6110 4.080 1.050 980 840 5.270 6.340 4.060 3.890 4.550 3.160 5.570 6.890 4.150 Do đặc điểm của công việc cắt ở phân xưởng là nếu bán thành phẩm bị cắt hỏng ở cỡ to thì có thể sửa chữa cắt lại theo cỡ nhỏ hơn, nếu trong trường hợp lỗi cắt quá nặng hoặc không thể chuyển được sang cỡ nhỏ hơn thì mới cho vào loại phế phẩm. Số phế phẩm này sẽ được chuyển đổi ra mét để yêu cầu quản đốc phân xưởng lập biên bản hỏng sau đó trình bày với phó giám đốc phụ trách phân xưởng để yêu cầu thủ kho cung cấp vải mới thay thế. Đối với các bán thành phẩm như thân áo, tay áo, thân quần bộ phận cắt luôn kết hợp và chuyển sang các bộ phận khác phục vụ công việc hoàn thiện sản phẩm. Do vậy, đối với những loại bán thành phẩm như thế này hầu như không có phế phẩm hoặc nếu có là rất ít không đáng kể. Nhìn vào bảng tổng kết ta thấy tỷ lệ bán thành phẩm hỏng phải sửa chữa cũng như tỷ lệ phế phẩm là chấp nhận được và ngày càng thể hiện được sự cải thiện. Tuy nhiên, về chất lượng bán thành phẩm cắt để phục vụ tốt cho công đoạn may thì vẫn cần phải được nâng cao hơn nữa vì các bán thành phẩm vẫn chưa được cắt chính xác tuyệt đối mà thường cắt quá rộng hoặc quá hẹp so với paton (mẫu). Các bán thành phẩm này tuy không bị coi là phế phẩm nhưng đã gây không ít khó khăn cho phân xưởng may thậm chí còn làm giảm chất lượng thành phẩm may. Số lượng vải cắt theo qui định đối với từng loại vải đã được ghi rõ theo như hướng dẫn tác nghiệp của phòng kỹ thuật. Thông thường đối với loại vải khó cắt thì một máy cắt có thể cắt 30- 40 lớp vải, còn vải dễ cắt thì được 80- 100 lớp. Các lô vải thường dài 20 m với khổ rộng 1,5 m. Tuy nhiên, do nhu cầu của tiến độ công việc cần gấp cũng như thói quen làm ẩu của một số công nhân đã không tuân thủ về số lượng cắt, đã cho cắt với quá nhiều lớp vải dẫn đến bán thành phẩm cắt bị xô lệch, nhăn dúm, đường cắt không đảm bảo đúng. Số lượng công nhân cắt các năm gần đây thường vào khoảng trên 100 người với bậc thợ trung bình 2,8. Phân xưởng cắt luôn có quản đốc là người có kinh nghiệm, có bậc thợ từ bậc 4 trở lên. Chính nhờ sự quan tâm của ban lãnh đạo công ty, phân xưởng cắt đã được trang bị những máy móc công nghệ cắt hiện đại và đã nâng cao chất lượng bán thành phẩm, điều này được thể hiện rõ trong năm 2004 với tỷ lệ bán thành phẩm cắt hỏng giảm 0,92%, phế phẩm giảm 0,084%. Đây có thể được coi là thành tích cao nhất mà phân xưởng cắt đạt được trong nhiều năm qua. 2.2. Phân xưởng thêu, in. Khi tiến hành xong công việc cắt nguyên liệu tạo ra bán thành phẩm, nếu mẫu mã hàng có yêu cầu thêu hay in thì phân xưởng cắt sẽ điền số thứ tự rồi chuyển sang cho phân xưởng thêu, in. Hiện nay, phân xưởng thêu được trang bị bốn dàn máy thêu của Nhật, Đức mỗi dàn máy có 10 đầu máy. Về số lượng công nhân đứng máy có 43 người. Nếu có nhiều hàng thêu, phân xưởng sẽ bố trí chia làm 3 ca sản xuất. Ngoài ra còn 15 người nhặt chỉ thêu, bóc dựng thêu và một phó giám đốc phụ trách phân xưởng thêu. Các mẫu hình cần thêu thường là con giống, biểu tượng, chữ. Nhìn chung, tình hình chất lượng ở phân xưởng thêu là rất tốt. Do tính chất công việc là sử dụng các dàn máy thêu tự động nên tỷ lệ sai hỏng là rất ít hầu như không có. Nếu có những bán thành phẩm thêu không đẹp, hình hay chữ nhỏ hơn mẫu hoặc thêu ngược chiều, nhầm mẫu chỉ có thể tháo chỉ để thêu lại nhưng nếu mật độ chỉ thêu quá dày, việc tháo chỉ sẽ làm rách vải thì cần thoả thuận, thương lượng với khách hàng những bán thành phẩm có thể chấp nhận được. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức thêu sản phẩm và bóc dựng thêu, do tổ chức làm chưa hoàn toàn tốt nên đã nhiều lần xảy ra tình trạng có những mặt hàng lấy lên trước nhưng phân xưởng thêu không làm theo thứ tự đã bỏ qua để làm những mặt hàng lấy lên sau. Do vậy, những bán thành phẩm cần làm ngay để lắp ráp hoàn thiện sản phẩm thì phân xưởng thêu làm sau còn những bán thành phẩm chưa cần làm ngay thì lại được làm trước. Chính việc làm này đã gây ách tắc cho sản xuất, làm chậm tiến độ giao hàng cho khách. Trước đây, khi có những bán thành phẩm cần thêu, phòng kỹ thuật chỉ đưa sản phẩm mẫu để xem và hướng dẫn cách phối mẫu . Bây giờ, phòng kỹ thuật muốn khắc phục tình trạng thêu không đúng vị trí, kích thước, mẫu hình cần thêu nên đối với mỗi mặt hàng đều có quy trình kỹ thuật hướng dẫn thêu, hướng dẫn tỷ mỷ mẫu thêu, mẫu chỉ, kích thước chữ hoặc mẫu hình cần thêu. Đồng thời phó g._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5340.doc
Tài liệu liên quan