Quảng cáo trên mạng Internet

Mục lục Trang Lời nói đầu 1 Chương I: Cơ sở hình thành và lợi ích của quảng cáo trên mạng 3 1. Khái niệm quảng cáo 3 2. Khái niệm quảng cáo trên mạng 4 3. Cơ sở cho sự phát triển của quảng cáo trên Internet 8 4. Lợi ích của quảng cáo trên mạng 11 5. Đối tượng tham gia ngành quảng cáo trên Internet 19 Chương II: Kỹ thuật quảng cáo trên mạng Internet 23 1. Các hình thức quảng cáo 23 2. Nhắm chọn đối tượng 38 3. Tổ chức một chương trình quảng cáo trên mạng 42 4. Quảng cáo quố

doc111 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1502 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Quảng cáo trên mạng Internet, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c tế trên mạng 65 5. Những vấn đề pháp luật cần biết đối với nhà quảng cáo trên mạng 74 Chương III: Quảng cáo trên mạng tại Việt Nam 79 1. Lý do để phát triển quảng cáo trên mạng tại Việt Nam 79 2. Cơ sở cho sự hình thành và những thuận lợi cho sự phát triển của quảng cáo trên mạng tại Việt Nam 82 3. Khái quát tình hình phát triển của quảng cáo trên mạng tại Việt Nam 87 4. Các vấn đề pháp luật liên quan đến quảng cáo trên mạng 92 5. Những khó khăn đối với việc phát triển quảng cáo trên mạng 97 6. Một số khuyến nghị về các giải pháp để phát triển ngành quảng cáo trên mạng 100 Lời nói đầu C ách đây hơn 70 năm, kể từ khi kỹ nghệ quảng cáo hiện đại ra đời, những người hoạt động trong ngành này đều phải công nhận rằng quảng cáo chính là sự phản ánh trực tiếp xã hội đương thời. Một ấn phẩm của công ty quảng cáo N.W.Ayer & Sons của Mỹ năm 1926 viết: “Mỗi ngày qua bức tranh về thời đại mà chúng ta đang sống đều được ghi lại một cách đầy đủ và sinh động trong các mục quảng cáo trên báo và tạp chí ”. Còn giờ đây chỉ với kết nối modem, chúng ta có thể thấy bức tranh ấy ngay trên màn hình máy tính của chúng ta. Internet đã trở thành một phần quan trọng trong kế hoạch truyền thông mix (media mix) của các nhà quảng cáo. Những nhà kinh doanh nhạy cảm đã nhận thấy Internet không chỉ là một mạng thông tin thông thường. Nó là một thị trường toàn cầu và với sự phát triển từng ngày của mạng Internet, các nhà tiếp thị khôn ngoan đang biến công nghệ mới này thành lợi thế của mình. Quảng cáo trên mạng đang phát triển với tốc độ rất nhanh trên thế giới, hơn 100% mỗi năm, đem lại lợi ích cho cả người quảng cáo và bán quảng cáo. Số lượng các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động quảng cáo trên mạng cũng đang tăng lên nhanh chóng. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế này. Cùng với sự xuất hiện và phát triển của thương mại điện tử, quảng cáo trên Internet cũng bắt đầu xuất hiện tại Việt Nam. Các doanh nghiệp Việt Nam đang bắt đầu khám phá những sức mạnh của quảng cáo trên mạng và nó đã chứng minh những hiệu quả tuyệt vời của mình, đặc biệt trong việc giúp các doanh nghiệp Việt Nam có được sự hiện diện của mình trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, cũng như thương mại điện tử, việc quảng cáo trên Internet mới chỉ hạn chế trong một bộ phận nhỏ các doanh nghiệp. Một phần là do cơ sở hạ tầng kỹ thuật thông tin của Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, một phần khác quan trọng hơn là các doanh nghiệp chưa nhận thức được các lợi ích của quảng cáo trên mạng và cách thức để biến phương tiện truyền thông này phục vụ cho hoạt động kinh doanh và quảng cáo của mình. Vì vậy, mục đích của khoá luận này nhằm cung cấp một bức tranh khái quát về sự hình thành và phát triển của quảng cáo trên mạng, cách tiến hành quảng cáo trên Internet và một cái nhìn khái quát về tình hình ứng dụng Internet vào hoạt động quảng cáo ở Việt Nam. Khoá luận gồm ba phần chính: Chương I: Cơ sở hình thành và lợi ích của quảng cáo trên Internet Chương II: Kỹ thuật quảng cáo trên mạng Internet Chương III: Quảng cáo trên mạng ở Việt Nam Trong chương thứ nhất, chúng ta sẽ tìm hiểu vì sao người ta lại coi Internet là phương tiện truyền thông quảng cáo tốt nhất hiện nay. Chương thứ hai sẽ cung cấp một cái nhìn tổng quát về các hình thức quảng cáo hết sức đa dạng và phong phú hiện nay trên thế giới và cách thức để thực hiện việc quảng cáo trên mạng. Chương hai cũng là phần chính của khoá luận này. Trong chương cuối cùng, chúng ta sẽ nghiên cứu tình hình phát triển của quảng cáo trên mạng tại Việt Nam, những khó khăn mà ngành quảng cáo trên mạng của Việt Nam đang gặp phải và phương hướng phát triển trong thời gian tới. Do còn hạn chế về mặt thời gian và kiến thức, khoá luận này khó tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Vì vậy, tôi rất mong nhận được sự chỉ bảo, hướng dẫn thêm. Sau cùng, cho phép tôi được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Lê Đình Tường, người đã nhiệt tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành luận khoá luận nghiệp này. Chương I cơ sở hình thành và Lợi ích của Quảng cáo trên Internet Khái niệm quảng cáo Khái niệm và chức năng của quảng cáo “Quảng cáo là việc sử dụng các phương tiện không gian và thời gian để truyền tin định trước về sản phẩm hay thị trường cho người bán lẻ hay người tiêu thụ ” Chi phí cho quảng cáo cực kỳ lớn nhưng nó được bù đắp bằng tiền của những người mua hàng bị nó chinh phục. Quảng cáo thu hút sự chú ý của khách hàng và thuyết phục họ về những lợi ích, sự hấp dẫn của sản phẩm nhằm biến đổi hoặc củng cố thái độ và lòng tin của người tiêu thụ về sản phẩm của công ty và tăng lòng ham muốn mua hàng của họ. Quảng cáo là phương tiện hỗ trợ đắc lực cho cạnh tranh. Quảng cáo khai thác mọi giá trị tồn tại trong nền văn minh hiện đại: chất lượng, sức khỏe, sự an toàn, thuận tiện, sự thích thú, tính thẩm mỹ cao, sự hấp dẫn, tính hiệu quả, kinh tế và tiết kiệm. Quảng cáo không chỉ cần thiết khi hàng hóa ứ đọng, thị trường bão hòa. Quảng cáo là một công việc cần thiết trong lưu thông hàng hóa nhằm đẩy mạnh quá trình lưu thông, hướng dẫn hình thành nhu cầu, đáp ứng nhu cầu một cách nhanh chóng, đúng đối tượng và hướng dẫn người tiêu dùng sử dụng hiệu quả hàng hóa đã mua. Khả năng cung ứng hàng hóa càng lớn về số lượng, đa dạng về chủng loại hàng đồng thời nhu cầu của người tiêu dùng càng đi vào chiều sâu, đòi hỏi về chất lượng càng cao, thị hiếu càng tinh tế và đa dạng thì quảng cáo càng trở nên cần thiết. Phương tiện truyền thông quảng cáo Trong quảng cáo, thuật ngữ phương tiện truyền thông (media) để chỉ các phương tiện thông tin như báo, tạp chí, truyền hình, đài phát thanh, bảng quảng cáo, thư trực tiếp, và Internet. Các nhà quảng cáo sử dụng các phương tiện truyền thông để truyền đạt các thông điệp thương mại của mình đến các khách hàng mục tiêu, và các phương tiện truyền thông cũng phụ thuộc rất nhiều vào doanh thu từ hoạt động quảng cáo để duy trì hoạt động của mình. Các phương tiện truyền thông thường được phân thành các phương tiện thông tin đại chúng (mass media) và các phương tiện thông tin mang tính cá nhân (niche media). Báo, tạp chí, tivi và đài được coi là các phương tiện thông tin đại chúng bởi chúng có thể truyền các thông điệp đến một số lượng lớn khán giả trên diện rộng. Khả năng truyền tin rộng rãi của các phương tiện thông tin đại chúng đã giúp cho chúng trở thành những phương tiện quảng cáo lý tưởng cho các nhà quảng cáo muốn tiếp cận một số lượng lớn khán giả mục tiêu. Các phương tiện quảng cáo khác như truyền hình cáp và thư trực tiếp thường được coi là các phương tiện truyền thông cá nhân bởi chúng tiếp cận tới một số ít khán giả xác định trước với những đặc điểm nhân khẩu học riêng biệt hoặc các sở thích đặc biệt. Thư trực tiếp có thể sử dụng để tiếp cận tới hầu hết các khán giả với các thông điệp đã được cá nhân hóa. Internet trở thành một phương tiện tiếp thị và quảng cáo từ năm 1994. Internet khác với các phương tiện truyền thông khác trên nhiều phương diện. Internet vừa là phương tiện thông tin cá nhân lại vừa là phương tiện thông tin đại chúng. Với các đặc tính ưu việt của mình, Internet đã trở thành một phương tiện quảng cáo cao cấp và hiệu quả nhất hiện nay. Khái niệm quảng cáo trên mạng Khái niệm quảng cáo trên mạng Khái niệm về quảng cáo trên Internet đã được phát triển và thay đổi liên tục trong suốt quá trình hình thành và phát triển của nó. Ban đầu người ta định nghĩa nó là sự tổng hợp của tất cả các ngành. Quảng cáo trên mạng kết hợp hiệu quả cả các yếu tố in ấn, hình ảnh của báo chí cũng như âm thanh chuyển động của truyền hình. Người ta đã tranh cãi rất nhiều về việc liệu quảng cáo trên mạng giống hình thức quảng cáo truyền thống nhằm gây sự chú ý hay giống kiểu marketing trực tiếp để bán hàng. Cũng như các mô hình quảng cáo khác, quảng cáo trên mạng nhằm cung cấp thông tin, đẩy nhanh tiến độ giao dịch giữa người mua và người bán. Nhưng quảng cáo trên mạng khác hẳn các mô hình quảng cáo khác, nó giúp những người tiêu dùng có thể tương tác với quảng cáo. Trên mạng, hành vi của người tiêu dùng theo một mô hình hoàn toàn khác so với các phương tiện truyền thông quảng cáo truyền thống. Mô hình này có thể giải thích theo quá trình: Nhận thức (Awareness) - Quan tâm (Interest) - Ham muốn (Desire) - Mua hàng (Action). Tất cả các hành động này diễn ra cùng một lúc trong quảng cáo trên mạng. Khách hàng có thể lấy thông tin hoặc mua sản phẩm cùng mẫu mã trên quảng cáo đó, thậm chí họ còn có thể mua cả sản phẩm từ các quảng cáo trên Web. Quảng cáo trực tuyến gửi các thông điệp tới khách hàng trên các Website hoặc thư điện tử nhằm đạt được các các mục đích sau: Tạo ra sự nhận thức của khách hàng về nhãn hiệu sản phẩm. Thúc đẩy nhu cầu mua sản phẩm hoặc dịch vụ. Cung cấp các phương tiện cho khách hàng để liên hệ với nhà quảng cáo cho mục đích lấy thêm thông tin hoặc mua hàng. Giống như các phương tiện truyền thông đại chúng khác, Internet cũng cung cấp các cơ hội lớn cho các doanh nghiệp tìm hiểu xem khách hàng thích gì và không thích gì, họ mua sắm hay thu thập thông tin như thế nào. Ngoài ra, Internet và mạng toàn cầu còn mang đến cơ hội cho các doanh nghiệp hướng các thông điệp hướng các thông điệp vào một số lượng lớn các đối tượng nhưng vẫn thiết kế thông điệp phù hợp với từng nhóm dân cư và sở thích của mỗi nhóm. Ngày nay người ta không còn so sánh quảng cáo trên mạng với các hình thức quảng cáo truyền thống nữa: “ Quảng cáo trên mạng là sự kết hợp quảng cáo truyền thống và tiếp thị trực tiếp”. Nhóm quảng cáo của hãng American Online đã hoàn thiện hơn nữa khái niệm về quảng cáo trên mạng: “Quảng cáo trên mạng là sự kết hợp vừa cung cấp nhãn hiệu, cung cấp thông tin và trao đổi buôn bán ở cùng một nơi ”. Sơ lược quá trình lịch sử của quảng cáo trên mạng Lịch sử của quảng cáo trên mạng diễn ra trong thời gian rất ngắn bắt nguồn từ sự ra đời của hãng Prodigy dịch vụ thương mại trên mạng, trải qua thời kỳ bùng nổ dịch vụ và thư điện tử, tới khi ra đời hãng HotWired, ban đầu là công ty con trên mạng của tạp chí Wired. Giai đoạn đầu Vào giữa thập kỷ 80, những dịch vụ trực tuyến dựa trên thuê bao như Computer Serve, Genie hay Delphi đã có hàng nghìn người sử dụng. Những dịch vụ này dựa trên các mô hình “trả phí sử dụng” gồm có lệ phí truy cập hàng tháng và giá nối mạng tính theo giờ. Các dịch vụ này không có quảng cáo, chỉ có những chương trình mua hàng trực tuyến đầu tiên và đây chính là bước đệm mở đường cho thương mại điện tử trên Internet. Công ty đầu tiên phát triển mô hình sử dụng quảng cáo như nguồn doanh thu chính là một công ty được thành lập bởi ba công ty CBS, IBM và Sear vào năm 1984. Công ty này ban đầu có tên là TRINTEX sau đổi thành Prodigy. Năm 1986, Prodigy giới thiệu dịch vụ đầu tiên cho phép sử dụng không hạn chế với số lệ phí hàng tháng không tính phụ trội (giá cố định) và công ty này tin tưởng rằng phí quảng cáo và giao dịch đóng vai trò quan trọng trong mô hình doanh thu này. Trong một nỗ lực tìm kiếm các doanh thu quảng cáo, Prodigy đã dựa trên ngôn ngữ lập trình bằng đồ họa đã có từ trước, ngôn ngữ này được gọi là NAPLP. Nó cung cấp một số font chữ và màu sắc để hiển thị thông tin và dựa trên đồ họa véctơ. Màn hình trông có vẻ giống như “phim hoạt hình” nhưng đó chính là những gì tốt nhất mà công nghệ có thể cung cấp vào những năm cuối thập niên 80. Mỗi màn hình trong dịch vụ của Prodigy đều có quảng cáo. Các quảng cáo dạng này được gọi là quảng cáo “chủ đạo”. Điều thú vị là ngày nay quảng cáo dạng biểu ngữ (banner) trên Internet có nhiều đặc tính tương tự như các quảng cáo “chủ đạo” của Prodigy ví dụ như vị trí trên trang Web và khả năng hướng vào mục tiêu. Quảng cáo được đặt ở vị trí cố định cuối trang, nhấn vào một quảng cáo “chủ đạo” sẽ dẫn người sử dụng đến với một loạt màn hình được thiết kế dành cho khách hàng và các module tương tác khác (như các module định vị người bán hàng hay module tính toán tài sản thế chấp). Chúng được tạo ra trong môi trường phát triển độc quyền của Prodigy dành cho các nhà quảng cáo. Từ khởi đầu này, Prodigy đã cố gắng bán quảng cáo và các giải pháp thương mại điện tử. Họ đã bán đi “tương lai” của phương tiện truyền thông mang tính tương tác này vì cơ sở dành cho khách hàng vẫn còn chưa vững chắc và giá thành sản xuất theo đầu người còn rất cao. Phần lớn các nhà quảng cáo đều hướng tới các phương tiện truyền thông khác. Thất bại của chiến lược quảng cáo “spam” Trong khi Prodigy đang thử nghiệm tiến hành quảng cáo trong điều kiện đơn phương độc mã, các hãng khác lại tìm kiếm các ứng dụng thương mại của mạng Internet. Năm 1994, một công ty luật Canter and Siegel đã mạnh dạn đưa ra đề nghị biến mạng Internet thành một phương tiện tiếp thị rẻ tiền bằng cách gửi một thư quảng cáo kiểu tiếp thị màu xanh cho 7000 đối tượng. Chuẩn mực Internet “netquette” ghi lại rằng tại diễn đàn các vấn đề thương mại, các vấn đề liên quan đến chủ đề cần bàn bạc lại không được đưa ra. Các quảng cáo thương mại cũng như thư điện tử thương mại tự do được biết tới như là “spam” (thư quảng cáo không được yêu cầu) đã làm gián đoạn các cuộc đàm phán và làm hỏng các cuộc đàm thoại, điều này gây ra nhiều phàn nàn qua email gửi cho các thiết kế và cung cấp dịch vụ Internet (ISP - Internet Service Provider) Canter and Siegel đã nhận được một thư mục đầy ắp những email phản đối ý tưởng của họ (một hành động được coi là “quá khích”) và họ cũng nhận được sự phản đối của những người tham gia Internet không muốn mạng bị ảnh hưởng bởi những vấn đề mang tính thương mại. Chỉ trong 18 giờ đồng hồ, nhà cung cấp dịch vụ Internet của họ đã nhận được 30.000 thư phản đối làm ngừng trệ account của họ. Tiếp đó, Canter and Siegel lập account với hai nhà cung cấp dịch vụ Internet khác, khẳng định rằng họ sẽ đưa ra nhiều quảng cáo hơn nữa. Nhưng lần này họ nhận được tờ bìa ghi tên vào sổ đen của cộng đồng Internet. Hai nhà cung cấp dịch vụ Internet đã phải từ chối cung cấp account cho hãng này để tránh các email chỉ trích khác. Giai đoạn tiếp nhận quảng cáo Sau khi quảng cáo của Canter and Siegel thất bại, tạp chí Wired đã khai trương HotWired, một tổ chức bán mẫu quảng cáo trên mạng. Nhưng vì sợ phản đối, hãng này đã giảm diện tích trên màn hình cho hình thức quảng cáo ban đầu dạng biểu ngữ của mình. HotWired đã ký hợp đồng quảng cáo đầu tiên với hãng AT&T vào tháng 4/1994 và thiết lập site của mình vào tháng 10/1994. Điều thú vị là HotWired không bị phản đối về Website đang được thiết lập trên mạng của mình và cũng không ai chỉ trích các quảng cáo đó. (1) Vào cuối năm 1996, đối với các nhà sản xuất trên mạng, quảng cáo là một thành tố quan trọng trong các mô hình kinh doanh. Dòng doanh thu duy nhất lớn đối với phần lớn các Website là từ quảng cáo. Vào năm 1997, quảng cáo trên Internet đã rất phát triển, doanh thu từ quảng cáo tăng từ 267 triệu đô la vào năm 1996 lên đến gần một tỷ đô la vào năm 1997. Năm 1998, doanh thu từ quảng cáo trên mạng đã tăng gấp đôi. Tỷ lệ tăng trưởng bình quân của quảng cáo trên mạng mỗi năm hơn 100%, lợi nhuận thu được tăng nhanh chóng từ 2 tỷ năm 1998 lên đến bình quân 8 tỷ USD/ năm hiện nay. Các kết quả nghiên cứu cho thấy, 33 tỷ USD sẽ được chi cho quảng cáo trên mạng đến năm 2004. Khu vực Châu á - Thái Bình Dương sẽ chi 3,3 tỷ USD cho quảng cáo trên mạng, chiếm 5,9% ngân sách quảng cáo của khu vực năm 2004(1). Cơ sở cho sự phát triển của quảng cáo trên Internet Có rất nhiều yếu tố và khuynh hướng thúc đẩy sự chấp nhận Internet như phương tiện truyền thông quảng cáo của xã hội. Số lượng người sử dụng Internet đang ngày tăng lên Trong một báo cáo nghiên cứu về sự chấp nhận Internet vào năm 1997 có tên “The Interrnet Report” cho thấy Internet chỉ mất có 5 năm để thu hút được 50 triệu độc giả của Mỹ, trong khi truyền thanh phải mất 38 năm, truyền hình cáp là 10 năm. Internet chính là phương tiện truyền thông phát triển nhanh nhất trong lịch sử. Số lượng người sử dụng Internet đang tăng lên với tốc độ rất nhanh đã tạo ra một cộng đồng đông đảo các khách hàng tiềm năng trên mạng mà không một công ty nào có thể bỏ qua. Ngày nay máy tính cá nhân có mặt tại 60% số hộ gia đình của Mỹ, con số đó tại Tây Âu và Châu á- Thái Bình Dương lần lượt là 49% và 38%. Tính đến cuối năm ngoái, khoảng gần nửa tỷ người trên khắp thế giới đã có thể truy cập Internet tại nhà. Nếu như giữa năm 1998, số người sử dụng Internet là 137 triệu người thì đến năm 1999 con số này đã tăng lên 280 triệu người và năm 2001 là 375 triệu người. Do tốc độ tăng lên nhanh chóng như vậy nên ngày nay rất khó để có thể đưa ra con số chính xác số người truy cập vào mạng Internet. Người ta ước tính hiện nay trên thế giới có xấp xỉ 520 triệu người truy cập trực tuyến trong đó 1/3 là người Mỹ và Canada. Hơn 80% dân số thế giới ngày nay truy cập vào mạng tại nơi làm việc hoặc tại nhà riêng. Lịch sử đã cho thấy số lượng người sử dụng tăng khoảng 200% mỗi năm. Hẳn là các nhà quảng cáo không thể không quan tâm tới lượng độc giả lớn và mức tăng trưởng này(2). Việc sử dụng Internet đang ngày càng tăng lên (2) www.thuong maidientu.com). Ngày càng có nhiều người xem truyền hình chuyển sang sử dụng thời gian rảnh rỗi của mình bên chiếc máy tính để truy cập vào mạng thay vì ngồi bên chiếc tivi như trước kia. Một nghiên cứu thực hiện vào mùa thu năm 1996 đã chỉ ra rằng 3/4 số người sử dụng máy tính cá nhân sẵn sàng từ bỏ tivi để dành nhiều thời gian hơn bên chiếc máy vi tính của mình. Công ty tư vấn Forrester Research đã thăm dò ý kiến của 17.000 người ở Anh, Đức, Hà Lan, Thuỵ Điển và Pháp thì 80% số người rất quan tâm và thích thú trước sự tiến triển của kỹ nghệ truyền thông. Theo kết quả một cuộc thăm dò do Lois Harris tiến hành trên tờ Tuần báo kinh doanh (Business Week) của Mỹ năm 1998, thì 48% người sử dụng Internet dành ít thời gian hơn cho việc xem tivi, 26% dành ít thời gian hơn cho việc đọc sách báo. Thời gian người ta dành cho Internet cũng đang tăng lên nhanh chóng. Chẳng hạn như ở Mỹ là nước có tỷ lệ người sử dụng Internet nhiều nhất thế giới, năm 1998 trung bình một người sử dụng Internet 5,4 giờ/tuần, 23% trong số đó sử dụng hơn 11 giờ/tuần và 83% số này truy cập mạng hàng ngày. Ngày nay số thời gian mà người ta dành cho Internet đã tăng lên gần gấp đôi. Năm 2000 là 9,4 giờ/tuần và năm 2001 là 9,8 giờ/tuần(3). (3) Việc sử dụng Internet đã thu hút một số lượng người lớn hơn bất cứ hoạt động nào liên quan tới máy vi tính. Trong khi các trò chơi thu hút hầu hết những người trẻ tuổi hơn và những phần mềm hữu ích thu hút phần lớn giới lớn tuổi hơn thì Internet được mọi người ở mọi lứa tuổi, từ trẻ con đến người già yêu thích. Sở dĩ như vậy là vì Internet có thể đem lại cho họ rất nhiều tiện ích mà các phương tiện truyền thông khác không thể làm được. Người ta sử dụng Internet để tìm kiếm thông tin, nghiên cứu tài liệu, mở thư điện tử, mua cổ phiếu, đầu tư, tìm kiếm việc làm, lập ra cửa hàng trên trang Web, tham gia đấu thầu, mua tặng phẩm và vé máy bay đi nghỉ phép hay du lịch. Internet hiện là phương tiện rất hữu hiệu trong quan hệ đối tác. Internet cũng chính là nguồn thông tin lớn nhất trên hành tinh hiện nay. Báo chí ra hàng ngày, dự báo thời tiết, bảng báo giá hàng hóa mới nhất cũng như những hồ sơ về các trường đại học đều có thể dễ dàng tìm thấy trên mạng sau một cú nhấn chuột. Trên thực tế chúng ta dự đoán trong vòng một hoặc hai năm nữa, một người nếu như không thực hiện một hình thức truy cập nào vào mạng Internet thì sẽ trở nên thiếu thông tin như thể không sở hữu một chiếc tivi hay đài ngày nay. Theo một cuộc điều tra mới đây của công ty dữ liệu quốc tế IDG thì 88% số người kết nối Internet là để tìm kiếm thông tin. Trong khi TMĐT phát triển thì Internet là một trong số ít địa chỉ mà không cần nhiều tiền nhưng có thể vào giải trí. Tốc độ các bộ vi xử lý ngày càng cao cho phép hạn chế sai sót của những trò chơi trên mạng. Thậm chí trên mạng Internet, người ta tìm thông tin về khí tượng hay bất kỳ một tin tức nào khác, cũng có vẻ thích thú hơn là đọc báo, nghe đài và xem truyền hình vì trong khi truy cập, mỗi người đều có cảm giác một sự bình đẳng rộng mênh mông và những vấn đề muốn tìm hiểu lại xuất hiện rất mới mẻ và hấp dẫn. Hãng Greenfield Online đã thăm dò ý kiến của 4.350 người Mỹ từng truy cập Internet, 70% trong số họ nói rằng họ truy cập vài lần trong tuần, 1/4 số người tham gia truy cập tới lúc đi ngủ, 1/2 nói rằng họ ít xem vô tuyến hơn, 19% số người đánh giá truy cập Internet tốt hơn là xem truyền hình. Internet ngày càng đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống riêng tư của con người. Người ta sử dụng Internet để liên lạc với người thân, đưa thông tin cá nhân lên mạng để tìm việc hay những người có cùng sở thích cá nhân. Việc truyền những thông tin này rẻ hơn rất nhiều so với gọi điện thoại và việc trao đổi thư điện tử cũng dễ dàng như việc đánh máy một bức thư, trong khi có thể gần như ngay lập tức nhận được thư trả lời. Việc tăng lên của việc sử dụng Internet sẽ tạo thêm nhiều cơ hội cho các quảng cáo trên mạng có thể tiếp cận được với các khách hàng và cũng là điều khiến các nhà quảng cáo phải cân nhắc dành một khoản ngân sách của mình cho quảng cáo trên mạng bên cạnh các chiến dịch quảng cáo trên các phương tiện truyền thông khác. Sự phát triển của thương mại điện tử, đặc biệt là các hoạt động kinh doanh trên mạng Quảng cáo trên mạng là một ứng dụng của thương mại điện tử và chính sự phát triển của TMĐT, đặc biệt là các hoạt động mua bán trên mạng, đã thúc đẩy nhu cầu quảng cáo trên mạng của các doanh nghiệp. Trên thực tế, ngay cả khi các doanh nghiệp chưa có điều kiện để tham gia vào hoạt động kinh doanh trực tuyến, các doanh nghiệp cũng vẫn thường tiến hành quảng cáo trên mạng như một bước chuẩn bị ban đầu cho việc chính thức gia nhập vào đội ngũ kinh doanh trên mạng của mình. Vào năm 1996, 15 Website được nhiều người truy cập nhất đều là Website giáo dục, trong danh sách này không có Website thương mại nào. Đến năm 1998- 1999, cả 15 Website được nhiều người truy cập nhất đều là các Website cung cấp nội dung và thương mại. Việc chuyển đổi lên nền kinh tế mạng đang diễn ra nhanh hơn người ta có thể dự tính. Số người tiêu dùng trực tuyến đã tăng từ 70 triệu người năm 1998 lên đến 225 triệu người năm 2002. Số trang Web đang tăng lên nhanh chóng từ 1 tỷ lên tới 7,5 tỷ. Doanh số thương mại điện tử tăng lên với tốc độ rất cao, năm 1996 là 1,3 tỷ USD, năm 1998 là 15 tỷ USD. Đến năm 2001, các giao dịch thương mại điện tử trên toàn cầu đã tạo ra thu nhập trên 615 tỷ USD. Doanh số kinh doanh điện tử trung bình cho mỗi khách hàng tăng từ 1.200 USD lên 3.300 USD, giá trị kinh doanh thương mại B2B tăng từ 50 tỷ USD năm 1998 lên 800 tỷ năm 2002. Trong năm 2001, một nửa trong tổng số những người truy cập Internet (250 triệu người) đã thực hiện mua bán trực tuyến trên mạng(4). (4) Theo báo tin học và đời sống số5/2002 Sự phát triển các tiêu chuẩn của các mục, kích thước và việc nghiên cứu các quảng cáo trên Internet Sở dĩ trước đây các nhà quảng cáo thờ ơ với quảng cáo trên mạng là vì họ chưa quen với hình thức quảng cáo mới và vì nó thiếu những tiêu chuẩn về khả năng ước lượng và tính toán. Sự phát triển tiêu chuẩn của các mục, kích thước và việc nghiên cứu quảng cáo trên mạng đã tạo điều kiện xóa tan những e ngại của các nhà quảng cáo. Vào năm 1996, một tổ chức thương mại công nghiệp- Phòng quảng cáo trên mạng (IAB- Internet Advertising Bureau) được các nhà sản xuất trên mạng thành lập nhằm thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp quảng cáo trên Internet. Một trong những nhiệm vụ đầu tiên của cơ quan này là đưa ra tiêu chuẩn cho các mục quảng cáo. Ngày nay khi lướt qua các trang Web, các “biểu ngữ quảng cáo ” thường được thiết kế theo một trong các kích cỡ biểu ngữ tiêu chuẩn do IAB đưa ra. Tiêu chuẩn này đã nhận được sự ủng hộ rất lớn từ các hãng quảng cáo vì họ sẽ không phải sáng tạo nhiều khi thiết kế các phiên bản của cùng một “biểu ngữ quảng cáo” để chạy trên các địa chỉ khác nhau (thường chỉ có vài pixel khác nhau). IAB cũng đưa ra các tiêu chuẩn về kích thước và nghiên cứu các quảng cáo, các tiêu chuẩn này giúp cho các hãng quảng cáo trong việc so sánh và đánh giá các chiến dịch quảng cáo hoạt động trên nhiều địa chỉ khác nhau. Lợi ích của quảng cáo trên mạng Trong một cuộc điều tra gần đây của Shop Org. có tới 89% các nhà bán lẻ trên mạng được hỏi cho biết họ đang có kế hoạch tiến hành các chương trình khuyến mãi, trong khi đó chỉ có 4% dự tính sẽ tăng ngân sách quảng cáo trên truyền hình. Thay vào đó, 62% các nhà bán lẻ cho rằng họ sẽ sẵn sàng chuyển sang các chương trình quảng cáo trên mạng thông qua email. Còn đối với những công ty lớn thì theo một cuộc thăm dò khác của Thời báo kinh tế viễn đông (FEER) đều cho thấy các công ty này thường sử dụng Internet để tiếp thị và bán sản phẩm của mình cũng như đầu tư rất nhiều để mở rộng sự hiện diện của mình trên mạng. Những lợi ích dưới đây sẽ giải thích cho sự lựa chọn hoàn toàn đúng đắn của họ. Internet là phương tiện quảng cáo cao cấp Internet là phương tiện truyền thông cao cấp, nó có rất nhiều ưu điểm mà các phương tiện truyền thông khác không thể có được. Trước hết, Internet là phương tiện truyền thông duy nhất hiện nay có thể thu hút được một số lượng lớn các khách hàng tiềm năng. Những nhà kinh doanh nhạy cảm đã nhận thấy Internet không chỉ là một mạng thông thường. Nó là một thị trường toàn cầu. Với một trang Web, cả thế giới đều có thể truy cập vào gian hàng trên mạng của công ty. Nhờ vậy mà các quảng cáo trên mạng có thể tiếp cận với hàng trăm triệu người sử dụng Internet từ khắp nơi trên thế giới. Thứ hai, mạng là sân chơi bình đẳng cho tất cả các nhà quảng cáo. Một doanh nghiệp nhỏ có thể có một trang chủ cho hoạt động thương mại của mình hiệu quả như trang chủ của một công ty lớn. Chi phí cho việc truy cập và xây dựng các quảng cáo trên mạng tương đối thấp đã giúp cho điều này trở thành hiện thực. Thứ ba, Internet chứa đựng khả năng của một phương tiện tryền thông mang tính đa phương tiện. Nó giúp cho các quảng cáo trên mạng được trình bày hiệu quả và ấn tượng hơn hẳn so với các phương tiện truyền thông khác. Một trang chủ trên mạng cho phép ta có thể trình bày một cách phức tạp và tinh vi một sản phẩm của công ty. Tất cả các thông tin có thể viết và trình bày theo thể thức của phương tiện in ấn như báo chí, tạp chí, tờ rơi cũng có trong quảng cáo Internet. Công nghệ hình ảnh và âm thanh chuyển động kết hợp với máy móc và các kênh phát mới, tốc độ cao hơn giúp cho việc đưa ra âm thanh, nhạc, hình ảnh thuận tiện như trên tivi và ngày càng dễ truy cập hơn. Bên cạnh đó, khách hàng còn có thể dễ dàng di chuột và nhấn chuột để kết nối tới các thông tin khác. Những kết nối này có thể bao gồm các thông tin như bảng giá, catalogue, các hướng dẫn, hình ảnh trưng bày về sản phẩm và một mẫu đơn đặt hàng điện tử. Thứ tư, Internet vừa mang các đặc điểm của phương tiện truyền thông đại chúng lại vừa mang đặc điểm của phương tiện thông tin cá nhân. Internet kết hợp khả năng chuyển tải các thông điệp tới một số lượng lớn độc giả của các phương tiện truyền thông đại chúng với khả năng phản hồi và tương tác của các phương tiện thông tin các nhân. Nhờ có bản chất tương tác của Internet, người sử dụng có thể đóng một vai trò tích cực hơn trong quá trình thông tin so với các phương tiện truyền thông khác. Đây là một đặc trưng mà các phương tiện thông tin đại chúng khác không thể có được. Trong khi đặc trưng việc cung cấp thông tin của các phương tiện truyền thông đại chúng truyền thống mang tính thụ động, thì việc cung cấp thông tin trên mạng lại theo yêu cầu của người sử dụng, nghĩa là việc điều khiển quá trình thông tin liên lạc nghiêng về phía người sử dụng hơn là bản thân phương tiện truyền thông. Khối lượng thông tin khổng lồ trên mạng lại càng hướng việc điều khiển quá trình thông tin về phía người sử dụng và tạo ra các cơ cấu nội dung thông tin phù hợp với sở thích và mối quan tâm cụ thể của từng cá nhân người sử dụng. Khả năng này đã tạo cho các quảng cáo trên mạng một đặc tính mà các hình thức quảng cáo khác không có được, đó là tính tương tác. Thứ năm, Internet không chỉ là một kênh thông tin mà còn là kênh giao dịch và phân phối. Sở dĩ có được đặc tính này là nhờ khả năng tương tác và phản hồi của Internet. Khách hàng có thể vừa tìm thông tin lại vừa có thể thực hiện ngay việc mua bán và thanh toán ở ngay trên mạng. Không một phương tiện truyền thông nào có thể thực hiện được các chức năng marketing này ngay lập tức mà không cần đến sự hỗ trợ của các phương tiện khác. Một trang Web trên mạng có thể giúp cho người ta quảng cáo cho bất cứ cái gì mà người ta có thể nghĩ tới. Internet cũng giúp cho việc tìm kiếm thông tin của khách hàng trên mạng trở nên vô vùng đơn giản. Nếu một người muốn tìm kiếm thông tin về sản phẩm và dịch vụ của một công ty, tất cả những việc cần làm chỉ là tìm đến một công cụ tìm kiếm và đánh vào thông tin mà họ quan tâm, các công cụ tìm kiếm sẽ giúp họ tìm tới trang Web của công ty. Ngày càng có nhiều người tìm kiếm các thông tin về các sản phẩm và các công ty và so sánh sản phẩm của các công ty với nhau trước khi ra quyết định mua hàng. Việc sử dụng máy chủ bảo mật giúp cho việc mua bán trở nên dễ dàng hơn và giảm bớt những lo ngại trước đây liên quan tới việc thanh toán. Internet sẽ chứng minh nó là động cơ lớn nhất của khách hàng để họ bắt đầu tìm kiếm và mua hàng qua chiếc máy tính cá nhân của mình, và trên thực tế nó đã trở thành nơi mà các khách hàng thường lui tới để tìm kiếm các sản phẩm và dịch vụ. Điều đó tạo ra cơ hội để các nhà quảng cáo tung ra những lời mời chào về sản phẩm của mình. Quảng cáo trên mạng có những đặc tính mà các hình thức quảng cáo khác không có Quảng cáo trên Internet có tất cả các đặc điểm của các hình thức quảng cáo trên các phương tiện truyền thông khác, bên cạnh đó nó còn có những đặc tính và khả năng mà các hình thức quảng cáo khác không có được. Khả năng nhắm chọn. Nhà quảng cáo trên mạng có rất nhiều khả năng nhắm chọn mới. Họ có thể nhắm chọn vào các công ty, các quốc gia hay khu vực địa lý, cũng như họ có thể sử dụng cơ cở dữ liệu để làm cơ sở cho tiếp thị trực tiếp. Họ cũng có thể dựa vào sở thích cá nhân và hà._.nh vi của người tiêu dùng để nhắm vào đối tượng thích hợp. Khả năng theo dõi. Các nhà tiếp thị trên mạng cũng có thể theo dõi hành vi của người sử dụng đối với nhãn hiệu của họ và tìm hiểu sở thích cũng như mối quan tâm của những khách hàng triển vọng. Ví dụ, một hãng sản xuất xe hơi có thể theo dõi hành vi của người sử dụng qua site của họ và xác định xem có nhiều người quan tâm đến quảng cáo của họ không. Khả năng cảm nhận về nội dung. Quảng cáo trên mạng dựa trên các nội dung có liên quan tới những thông tin mà khách hàng tìm kiếm. Điều này làm tăng khả năng chọn lựa và lợi ích cho khách hàng đồng thời làm cho các quảng cáo trên Internet hiệu quả và sinh lợi hơn các phương tiện khác. Tính tương tác. Quảng cáo trên mạng mang tính tương tác của mạng Internet. Chúng cho phép sự trao đổi thông tin hai chiều và cung cấp nhiều tầng thông tin cũng như tạo ra mối liên hệ trực tiếp giữa nhà cung cấp và khách hàng. Quảng cáo trên Internet cung cấp các thông tin theo yêu cầu của người sử dụng và cho phép người sử dụng xem các quảng đó theo tốc độ của họ hoặc cho phép họ vừa nghỉ ngơi vừa xem chúng. Nhờ đó mà quảng cáo trên Internet lôi cuốn người xem hơn các loại hình quảng cáo khác. Người sử dụng có thể bắt đầu việc mua bán của mình bằng cách truy cập vào một trang Web và nhấn chuột vào các liên kết siêu văn bản để lấy thông tin. Khách hàng có thể cung cấp thông tin phản hồi lại cho các quảng cáo, có thể yêu cầu được tiếp nhận thêm thông tin hoặc yêu cầu không nhận thêm thông tin về sản phẩm đó nữa. Những thay đổi như vậy có thể thực hiện gần như ngay lập tức và tương đối dễ dàng. Với mối liên hệ gần gũi kiểu này, các công ty có thể xây dựng một trang Web hỗ trợ khách hàng cho các sản phẩm của mình ở trên mạng. Trên trang Web này, công ty có thể đưa lên các thông báo của công ty, tin tức và các phản hồi cho các khách hàng. Cho phép phát hành thông tin vào thời gian ấn định trước. Việc quảng cáo trên báo chí không cho phép linh động về thời gian phát hành. Internet sẽ giúp nhà quảng cáo chủ động về thời gian phát hành thông tin đến từng phút từng giờ. Thời gian tương tác dài hơn và khối lượng thông tin đưa lên một trang Web là không hạn chế. Phần lớn các phương tiện truyền thông chỉ cho phép một nhãn hiệu xuất hiện trong một thời gian và không gian giới hạn. Nhưng ở trên mạng, thời gian này kéo dài hơn phụ thuộc vào các đặc tính sáng tạo và tương tác được sử dụng. Điều này đã giúp cho các quảng cáo trên mạng đôi khi rẻ hơn so với quảng cáo trên tivi, báo, đài. Quảng cáo trên tivi hoặc báo đài đắt hơn bởi giá thành của chúng phụ thuộc vào khoảng cách không gian mà quảng cáo đó được truyền đi, số ngày quảng cáo và số lần quảng cáo trong một ngày, số lượng trạm truyền hình quốc gia hay địa phương sẽ phát quảng cáo đó hay số lượng báo sẽ đăng quảng cáo đó. Trong khi đó với cùng một mức giá (hoặc ít hơn) cho việc quảng cáo trên báo trong vòng một tháng, công ty có thể đưa được nhiều thông tin hơn vào trang Web của mình và số lượng trang thông tin có thể đưa lên mạng là không hạn chế. Những thông tin đó sẽ tồn tại trên mạng trong một khoảng thời gian vô hạn. Đây chính là lợi thế rất lớn mà một công ty có được khi sở hữu một Website. Tính linh hoạt và khả năng phân phối. Quảng cáo trên mạng có thể được thay đổi đúng thời điểm để phù hợp với đặc điểm của từng khách hàng, với các nhân tố và chỉ dẫn khác. Nhà quảng cáo có thể theo dõi tiến độ quảng cáo hàng ngày, xem xét hiệu quả quảng cáo ở tuần đầu tiên và có thể thay thế quảng cáo ở tuần thứ hai nếu thấy cần thiết. Khả năng này giúp cho việc quảng cáo hiệu quả và thực tế hơn. Điều này khác hẳn với quảng cáo trên báo chí, chỉ có thể thay đổi quảng cáo khi có đợt xuất bản mới, hay quảng cáo tivi với mức chi phí rất cao cho việc thay đổi quảng cáo thường xuyên. Mỗi khi công ty cần thay đổi hoặc cập nhật các tài liệu in ấn, các sách giới thiệu về sản phẩm và công ty, các ca-ta-lô, công ty cần phải in lại tất cả và phải trả một khoản chi phí lớn. Trong khi đó các trang Web có thể dễ dàng nhanh chóng cập nhật những thông tin mới nhất về sản phẩm và công ty của bạn với một mức chi phí hết sức nhỏ bé so với những gì phải bỏ ra trước đây. Bảng 1: So sánh Internet với các phương tiện quảng cáo khác. Loại phương tiện truyền thông Khả năng tiếp cận khách hàng Khả năng nhắm chọn Khả năng tạo phản hồi từ khách hàng Khả năng cung cấp thông tin Chi phí Khả năng đánh giá hiệu quả quảng cáo Báo chí cao trung bình thấp trung bình cao thấp Tạp chí trung bình cao thấp trung bình cao trung bình Tivi rất cao thấp rất thấp thấp thấp thấp Đài cao thấp rất thấp rất thấp thấp rất thấp Internet thấp cao rất cao rất cao rất thấp rất cao Nguồn: Khả năng tạo nhãn hiệu của quảng cáo trên mạng Khi khách hàng quan sát một quảng cáo trên Internet, dù là một quảng cáo dạng biểu ngữ, quảng cáo xen vào nội dung hay một dạng nào khác, ấn tượng về nó sẽ lưu lại trong họ cũng sâu sắc như khi nhìn nó trên một panô quảng cáo bên đường cao tốc hoặc trên chương trình tivi được xây dựng để giới thiệu các nhãn hiệu. Trên thực tế với các đặc điểm ưu việt của mình, Internet đã giúp cho việc xây dựng nhãn hiệu sản phẩm hiệu quả hơn rất nhiều. Các nghiên cứu nhằm khẳng định hiệu quả tạo nhãn hiệu thông qua quảng cáo trên mạng cho thấy môi trường trực tuyến có sức mạnh to lớn để xây dựng nhãn hiệu. Trong một báo cáo đánh giá hiệu quả của việc quảng cáo trên mạng do Morgan Stanley Dean Witter công bố năm 2001, đã cho thấy quảng cáo trên mạng là một công cụ tuyệt vời để tạo nhãn hiệu, đặc trưng là các quảng cáo biểu ngữ (banner). Báo cáo đã so sánh hiệu quả của quảng cáo banner sau lần đầu tiên xuất hiện so với quảng cáo trên tạp chí và trên tivi trong việc tăng khả năng nhớ nhãn hiệu, tăng nhận thức nhãn hiệu của khách hàng và tăng mối quan tâm của khách hàng đến sản phẩm: Bảng 2: So sánh hiệu quả tạo nhãn hiệu của các phương tiện truyền thông. Các mục tiêu tạo nhãn hiệu Các phương tiện truyền thông sắp xếp theo tính hiệu quả Mức tăng (%) Tăng khả năng nhớ nhãn hiệu 1. Banner 27% 2. Tạp chí 26% 3. Tivi 17% Tăng khả năng nhận thức nhãn hiệu 1. Tivi 36% 2. Tạp chí 29% 3. Banner 14% Tăng mối quan tâm của khách hàng đến sản phẩm 1. Tivi 46% 2. Banner 44% 3. Tạp chí 44% Nguồn: Internet Advertising effectiveness report, Morgan Stanley Dean Witter, 2/2001. Sau lần xuất hiện đầu tiên, quảng cáo trực tuyến dường như được chú ý nhiều hơn so với quảng cáo trên tivi và tạp chí. Tivi và tạp chí là các phương tiện truyền thông thụ động không đòi hỏi sự quan tâm, chú ý của người xem. Với phương tiện trực tuyến, người xem chú ý và tham gia một cách tích cực. Quảng cáo trực tuyến cũng cung cấp khả năng to lớn để cải thiện cảm nhận của khách hàng về nhãn hiệu hàng hoá. Trong một nghiên cứu về hiệu quả của quảng cáo trên mạng vào năm 1997 do MBinteractive thực hiện cho IBA đã cho thấy sau khi một quảng cáo dạng biểu ngữ của Volvo xuất hiện một số người nghĩ rằng Volvo là một loại ô tô tốt tăng lên 55%, số người đánh giá xe Volvo cao hơn các loại ô tô khác tăng lên 44%, số người nghĩ rằng Volvo có điểm khác các loại ô tô khác tăng lên 5%. Tuy nhiên, xét hiệu quả về mặt chi phí, quảng cáo banner không hiệu quả bằng tivi, tạp chí và báo chí trong việc tăng nhận thức của khách hàng về nhãn hiệu, tăng khả năng nhớ của khách hàng đối với nhãn hiệu và tăng mối quan tâm của khách hàng đối với sản phẩm. Tuy nhiên, và quan trọng hơn cả, quảng cáo banner hiệu quả hơn quảng cáo trên tạp chí và tivi 40- 80% đối với việc tăng khả năng nhớ nhãn hiệu và tăng mối quan tâm của khách hàng đối với sản phẩm, mặc dù vẫn kém hiệu quả hơn so với tạp chí trong việc tăng nhận thức nhãn hiệu của khách hàng khoảng 20%. Bảng 3: So sánh hiệu quả về mặt chi phí trong việc tạo nhãn hiệu của các phương tiện truyền thông Các mục tiêu tạo nhãn hiệu Các phương tiện truyền thông sắp xếp theo tính hiệu quả Tăng khả năng nhớ nhãn hiệu 1. Banner (Dựa theo giá CPM trên thị trường) 2. Tạp chí 3. Tivi Tăng khả năng nhận thức nhãn hiệu 1. Tạp chí 2. Banner (Dựa theo giá CPM trên thị trường) 3. Tivi Tăng mối quan tâm của khách hàng đến sản phẩm 1. Banner (Dựa theo giá CPM trên thị trường) 2. Tạp chí 3. Tivi Nguồn: Internet Advertising effectiveness report, Morgan Stanley Dean Witter, 2/2001. Càng ngày các công ty, các tổ chức ngày càng tăng cường sử dụng Internet để quảng cáo cho nhãn hiệu, danh tiếng và củng cố thêm cho các quảng cáo chung. Bằng việc tạo ra sự hiện diện của công ty trên mạng, nó đã tạo cho các khách hàng ấn tượng công ty của bạn là một trong những công ty hàng đầu hiện nay. Ngày nay, phần lớn các quảng cáo trên bình diện quốc gia đều kèm theo địa chỉ trên Internet. Địa chỉ trên Internet trở thành một phần không thể tách rời trong chiến lược tổng hợp về nêu quan điểm, tiếp thị và quản lý nhãn hiệu. Các địa chỉ này đem đến cơ hội để củng cố các thông điệp và bổ sung thông tin mở rộng với giá thành hợp lý, điều mà trước kia không thể thực hiện được do những hạn chế của các phương tiện truyền thông bán hàng. Internet là một phương tiện truyền thông cực kỳ hiệu quả Internet giúp cho nhà quảng cáo tiết kiệm được rất nhiều thời gian và chi phí để thực hiện chiến dịch quảng cáo của mình. Chi phí để cung cấp thông tin cho khách hàng trên phạm vi toàn cầu một cách nhanh chóng ít hơn rất nhiều so với chi phí in ấn và quảng cáo trên đài và tivi. Qua Internet nhà doanh nghiệp có thể gửi danh thiếp đến hàng nghìn, hàng triệu khách hàng, giới thiệu những gì mình cung cấp và khi ai đó có nhu cầu thì liên hệ với anh ta ở đâu.Việc đưa sản phẩm hoặc dịch vụ lên mạng sẽ giúp cho khách hàng có thể nhanh chóng tiếp cận được những thông tin chi tiết về công ty mà công ty không cần phải tốn công tiếp xúc với họ. Thử nghĩ xem một công ty đã bỏ ra bao nhiêu tiền cho các quảng cáo dưới dạng các tờ rơi, các sách giới thiệu về sản phẩm và công ty, các catalogue, đấy là còn chưa kể đến phí bưu điện. Với con số hơn 500 triệu người truy cập vào mạng Internet hiện nay, chỉ cần 20% số khách hàng tiềm năng đó viếng thăm Website của công ty thì cũng đã tiết kiệm được 20% chi phí in ấn và bưu phí. Khoản tiết kiệm này sẽ tiếp tục nhân lên nếu trong tương lai công ty còn tiếp tục quảng cáo trên mạng. Bên cạnh đó, quảng cáo trên mạng có thể hoạt động 24 giờ mỗi ngày, 7 ngày trong một tuần và 365 ngày trong một năm và cho phép công ty tiếp cận được với các thị trường mục tiêu cụ thể. Bất cứ ai, ở bất cứ nơi nào trên thế giới đều có thể xem trang Web của công ty và nhận được những thông tin mà họ yêu cầu mà không cần quan tâm đó có phải là giờ làm việc của công ty hay không. Ngoài ra các khách hàng cũng không bao giờ "ngủ". Khi một người sử dụng Internet ở New York đi ngủ thì ở Nhật Bản một người khác lại thức dậy. Chỉ cần xem số lượng người vô cùng lớn sẽ truy cập và tìm hiểu công việc của công ty vào bất cứ thời gian nào, ban ngày cũng như ban đêm thì có thể thấy rằng Internet là một phương tiện cực kỳ tiết kiệm chi phí để quảng cáo cho sản phẩm hay dịch vụ củamột công ty. Internet còn giúp cho việc liên lạc hiệu quả và tiết kiệm được rất nhiều thời gian cho công ty. Quảng cáo không chỉ và không bao giờ chỉ đơn thuần là việc cung cấp thông tin cho khách hàng, nó là một bộ phận của cả chiến lược marketing của công ty. Vì vậy việc liên lạc với khách hàng để đáp ứng và trả lời các yêu cầu của họ đóng một vai trò hết sức quan trọng trong cả chiến dịch quảng cáo, đặc biệt khi quảng cáo trên mạng còn có cả chức năng bán hàng. Internet giúp công ty tiết kiệm được thời gian và tiền bạc bằng cách trả lời trước rất nhiều câu hỏi cho khách hàng. Nếu tất cả mọi người trong công ty đều nối mạng, liên lạc có thể trở nên tức thời. Thư điện tử và danh mục thư điện tử sẽ triệt tiêu nhu cầu phải phân loại các thư truyền thống vào các hộp thư. Hỗ trợ khách hàng trên mạng sẽ giúp một tay cho các nhân viên điện thoại của công ty, thư điện tử sẽ bổ trợ cho các thư truyền thống thông thường với tốc độ và giá cả rất ấn tượng. Một trang A4 được gửi đi bằng đường Madagasca đi Côte d’ Ivoive theo đường bưu điện mất 5 ngày và 75 USD, bằng fax mất 30 phút và 45 USD, bằng e-mail mất hai phút và 0,2 USD. Hơn nữa gửi bằng e- mail có thể gửi cho hàng trăm người mà chi phí cũng như gửi cho một người. Như vậy, Internet đã giúp cho việc thông tin và liên lạc của công ty hiệu quả hơn rất nhiều. Điều đó không chỉ tiết kiệm thời gian và chi phí của công ty mà còn giúp công ty phục vụ khách hàng tốt hơn và đem lại sự hài lòng của khách hàng. Không có một hình thức quảng cáo nào tốt hơn là việc các khách hàng tự cảm nhận thấy sự tận tâm của các nhà cung cấp đối với mình, điều đó sẽ là phần giá trị gia tăng vô hình cho các sản phẩm của công ty. Những người sử dụng Internet là khách hàng tiềm năng mơ ước của bất kỳ công ty nào (5) UNDP- Human Development Report 2001 Kết quả các cuộc thống kê điều tra đều cho thấy phần lớn những người sử dụng Internet là những người có trình độ văn hóa cao, có nghề nghiệp chuyên môn ổn định và thu nhập cao. Thống kê chung 30% số người sử dụng Internet trên thế giới hiện nay có ít nhất một bằng tốt nghiệp đại học. Con số này ở Anh là 50%, ở Trung Quốc là 60%, ở Mê hi cô là 67% và ở Ireland là 70%. Họ cũng là những người có tuổi đời trung bình trẻ, tuổi trung bình người sử dụng Internet tại Mỹ là 36, ở Trung Quốc và Anh là 30 (5). Họ cũng là những người rất bận rộn , đánh giá cao và ưa thích việc truy cập đơn giản vào cả một thế giới những dịch vụ mà họ có thể tiếp cận từ bàn làm việc của mình - một việc mà chỉ có Internet mới có thể giúp họ- thay vì phải ra phố mua hàng hay gọi điện cho các cửa hàng cách xa chỗ ở hoặc nơi làm việc. Do có thu nhập cao, họ cũng là những người có khả năng mua hàng nhiều hơn trong xã hội. Theo các kết quả thống kê, năm 2001 một nửa những người truy cập Internet đã thực hiện mua bán trên mạng. Bên cạnh đó, do dành nhiều thời gian cho Internet, những người này dành ít thời gian hơn cho các phương tiện truyền thông khác. Nếu muốn tiếp cận với một nhóm dân số mục tiêu này, một nhà quảng cáo sẽ mất nhiều thời gian hơn để tiếp cận nếu thông qua tivi hay báo chí. Quảng cáo trên mạng là giấc mơ của bất kỳ nhà quảng cáo nào: tiếp cận đơn giản và rẻ tới những người có trình độ học thức và thu nhập cao và sẵn sàng bộc lộ những mối quan tâm, sở thích của mình (thông qua các nhóm thông tin). Đối tượng tham gia ngành quảng cáo trên mạng Internet Đối tượng tham gia vào ngành quảng cáo trên Internet có thể chia thành 3 nhóm chính: người bán, người mua và người tiến hành quảng cáo. Người bán quảng cáo Ngày nay, trên Internet có hàng tỷ site lớn nhỏ, cứ mỗi ngày trên trên thế giới có 50.000 Website được thành lập. Nhiều nhà doanh nghiệp trẻ, phần đông là những sinh viên mở tài khoản miễn phí trên Internet, đã phát triển những Website đầu tiên. Những đối tượng khác là những người mong muốn áp dụng công nghệ hoặc hướng tới mạng như là nơi thể hiện chính mình. Người thiết lập Website Bất cứ ai cũng có thể thiết lập Website để bán quảng cáo nếu có thể đảm bảo Website của mình có khả năng thu hút được những người sử dụng Internet. Ngày nay, những người thiết lập các Website chính là các công ty truyền thông. Các công ty này thành lập Website với mục đích để bán quảng cáo. Site nào càng nổi tiếng, có nội dung hấp dẫn, thu hút được nhiều khách hàng thì càng bán được nhiều quảng cáo với mức giá cao. Hiện nay, 56% quảng cáo trên mạng được thực hiện trên các site của MSN, Yahoo, Netscape, và 46% ở trên các site còn lại. Phương tiện bán quảng cáo Phần lớn người bán quảng cáo là những nhà thiết kế, họ tạo ra các site có phần dành cho quảng cáo, nhưng phương tiện để bán quảng cáo cũng có vai trò không kém phần quan trọng đó là mạng lưới quảng cáo, công ty đại diện bán đấu giá quảng cáo quảng cáo cho nhà thiết kế. Mạng lưới quảng cáo: Mạng quảng cáo là các công ty bán những quảng cáo cho một tập hợp các Website, thường gồm hàng trăm địa chỉ. Các mạng lưới quảng cáo được thiết lập nhằm hỗ trợ các site tạo ra nguồn thu từ quảng cáo. Các mạng lưới này đóng vai trò là lực lượng bán quảng cáo các nhà thiết kế trên mạng. Những mạng lưới này cung cấp một lực lượng bán hàng hùng mạnh và có kinh nghiệm cho nhà thiết kế. Ngoài ra, có thể bán các mẫu phát minh đơn lẻ nếu không có sự liên kết. Mạng lưới này giúp khách hàng mua quảng cáo tiếp cận được nhiều site. Hơn nữa, nó giúp các hãng quảng cáo có thể gặp mặt trên mạng thú vị hơn là tổ chức các cuộc hẹn gặp với các nhà thiết kế Website. Công ty đại diện: Các site có mục quảng cáo có thể thuê một công ty nào đó làm đại diện bán quảng cáo. Bán đấu giá: Nhà thiết kế có thể đưa ra các quảng cáo theo thời hạn trong các cuộc bán đấu giá nhanh gọn. Cũng có những mạng lưới quảng cáo co phép nhà thiết kế bán phát minh quảng cáo. Người mua quảng cáo Nhà quảng cáo: là những nhà quảng cáo có sản phẩm, dịch vụ hoặc các Website để quảng cáo và bán. Họ được đại diện bởi các hãng truyền thông liên kết đưa ra chiến lược quảng cáo, và những người thực sự mua mẫu quảng cáo trên mạng. Các hãng tương tác: là liên kết giữa nhà quảng cáo và nhà thiết kế. Ngày nay, các hãng phát triển Website tiếp thị trực tiếp và quảng cáo truyền thống đều có nguồn gốc ra đời từ hãng tương tác. Các hãng này ban đầu là những hãng phát triển Website có cơ sở kỹ thuật vững chắc. Họ thiết lập các Website đầu tiên và thuê các hãng quảng cáo và tiếp thị thực hiện những hoạt động dịch vụ hoàn hảo sau này. Các hãng nhạy bén thị trường khác trên thế giới nhận thấy Internet có khả năng trở thành phương tiện tiếp thị trực tiếp tuyệt vời. Và sau cùng, những người có con mắt nhìn xa trông rộng trong giới quảng cáo (những người đã từng thiết lập bộ phận tương tác và có chương trình quảng cáo riêng trên mạng) đã lập ra các hãng tương tác. Nguồn gốc ra đời các hãng tương tác đã nhanh chóng đi vào tiềm thức, khi các hãng quảng cáo truyền thống lớn đã cố gắng bắt kịp. Một số thiết lập các bộ phận tương tác trong công ty của mình, một số khác thu hẹp trong các cửa hàng giao dịch. Trong bất cứ trường hợp nào đi nữa, các hãng quảng cáo truyền thống vẫn nỗ lực hoạt động tương tác nhằm chiếm được cảm tình của các nhà quảng cáo với đầy đủ dịch vụ của mình. Hệ thống quảng cáo Hệ thống xử lý phần mềm và dịch vụ đã được thiết lập nhằm cung cấp các công cụ giúp các nhà thiết kế và quảng cáo bán sản phẩm của mình thông qua quảng cáo trên Internet. Thống kê tần số sử dụng: Nhu cầu cần phải tiến hành thống kê các Website và hoạt động quảng cáo của mạng Internet và là những bộ phận cần thiết trong hệ thống quảng cáo của nhà thiết kế cũng như nhà quảng cáo. Các hãng dịch vụ phần mềm nhắm chọn và đối tượng hoá trung tâm của quảng cáo trên mạng. Nhắm chọn và đối tượng hoá: Nhắm chọn và đối tượng hoá là những lợi thế chính của quảng cáo trên Internet và là những bộ phận cần thiết trong hệ thống quảng cáo của nhà thiết kế cũng như nhà quảng cáo. Các hãng dịch vụ phần mềm nhắm chọn và đối tượng hoá là trung tâm của quảng cáo trên mạng. Quản lý quảng cáo: Bộ phận xử lý phần mềm cùng với bộ phận đảm bảo lôgíc của quảng cáo luôn sẵn có trong ngành quảng cáo trên mạng. Phần mềm này quản lý những việc sắp xếp lịch quảng cáo, luân chuyển quảng cáo, báo cáo và đưa ra các yếu tố cần thiết cho một chiến lược quảng có trên Internet. Chương II kỹ thuật quảng cáo trên mạng Internet Các hình thức quảng cáo Website- một hình thức quảng cáo Hình thức quảng cáo đầu tiên trên Web chính là Website. Một Website cho phép các khách hàng hiện tại và cả các khách hàng tiềm năng của công ty thăm quan công việc kinh doanh của công ty từ nhà hoặc từ văn phòng của họ. Doanh nghiệp có thể tạo riêng cho mình một Website để quảng cáo cho công ty mình, đồng thời thực hiện việc mua bán trực tuyến. Việc làm này giúp cho các công ty giảm chi phí, tiết kiệm thời gian và tăng khả năng cạnh tranh trên thương trường. Nó giúp cho sản phẩm hay dịch vụ của công ty được bán ra trên quy mô toàn cầu, cho phép công ty thu hút thêm nhiều khách hàng mới và phục vụ họ tốt hơn. Nếu biết cách giới thiệu về công ty mình, công ty có thể có được những hợp đồng mua bán tốt, những đề nghị hợp tác có lợi. Website của công ty được ví như là một trung tâm thông tin, văn phòng đại diện và cửa hàng bán lẻ của công ty đó ở mọi lúc, mọi nơi, trên mọi phương tiện. Các hình thức quảng cáo bằng thư điện tử Ngày nay, điều đầu tiên người ta thường làm khi vào mạng là kiểm tra thư điện tử. Theo một cuộc điều tra của IDG năm 2000 thì 83% người được hỏi vào mạng để gửi email. Quảng cáo bằng thư điện tử là một trong những hình thức quảng cáo thông dụng nhất hiện nay trên mạng. “Quảng cáo bằng thư điện tử là hình thức nhà tiếp thị sử dụng email, sách điện tử hay catalogue điện tử để gửi đến khách hàng, thúc đẩy và đưa khách hàng đến quyết định mua hàng”. Các hình thức quảng cáo bằng thư điện tử bao gồm: Gửi thư điện tử trực tiếp, e- zine, tài trợ cho các danh sách thư thảo luận và danh sách thư điện tử thông báo. Gửi thư điện tử trực tiếp Để thực hiện việc gửi thư trực tiếp tới người nhận, công ty phải có được danh sách thư điện tử của các khách hàng mà công ty muốn gửi thông điệp của mình. Công ty có thể đi thuê của những công ty chuyên cung cấp các danh sách thư điện tử hoặc có thể tự làm danh sách thư điện tử cho riêng mình. Sau khi đã có được danh sách email của các khách hàng, công ty có thể tiến hành việc gửi thư trực tiếp để quảng bá cho sản phẩm của công ty. Tuỳ thuộc vào sự cho phép của người nhận hay không đối với các thư điện tử đó , ta có hai hình thức gửi thư điện tử trực tiếp là email không được sự cho phép của người nhận và email được sự cho phép của người nhận. Email không được sự cho phép của người nhận (Unsolicited Email Marketing hay Unsolicited Commercial Email - UCE) hay còn gọi là Spam "Spam là hiện tượng một công ty gửi thư quảng cáo tới các địa chỉ mà người nhận không có yêu cầu về thông tin của công ty đó”. Đây là hình thức marketing bằng email đầu tiên xuất hiện trên Internet. Người tiêu dùng hay khách hàng thường nhìn nhận hiện tượng spam như là hình thức tiếp thị qua điện thoại, điều đó có thể gây phiền phức cho họ và rất có thể sẽ khiến họ khó chịu và có những nhận xét không tốt về công ty đã gửi spam. Tuy nhiên, không phải là không có cách khắc phục nhược điểm của các spam nếu như nhà tiếp thị vẫn muốn dùng nó. Một nhà tiếp thị khôn ngoan có thể gửi kèm theo bức thư một món quà nho nhỏ và một mẫu đăng ký danh sách gửi thư. Chỉ nên gửi quảng cáo của mình đến hộp thư của khách hàng một hoặc hai lần và số lần nên cách nhau một khoảng thời gian dài để không gây khó chịu cho người nhận. Đồng thời nhà tiếp thị cũng nên nói rõ cho họ biết nếu họ không muốn nhận thư của công ty nữa, chỉ cần thực hiện một số thao tác đơn giản là họ có thể loại bỏ tên của mình ra khỏi danh sách nhận thư, cũng như sẽ không phải nhận một thư tiếp thị nào khác. Tuy rằng những phương pháp trên có những tác dụng nhất định, việc sử dụng spam vẫn có thể mang lại một rủi ro rất lớn cho uy tín của công ty. Vì vậy, nếu một công ty thực sự muốn đầu tư và thu lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh trực tuyến, đừng bao giờ đưa spam vào trong kế hoạch kinh doanh của mình. Email được sự cho phép của người nhận (Solicited Commercial Email) Đây là một trong các hình thức tiếp thị quảng cáo tốt nhất để tạo cho công việc kinh doanh của công ty phát triển, mang lại lợi nhuận nhanh chóng với chi phí thấp nhất, vì: Công ty gửi email cho những cho người có quan tâm đến sản phẩm của công ty và họ sẽ cảm ơn công ty vì điều này. Công ty có thể nhận được đơn đặt hàng của khách hàng trong vòng vài phút sau khi thư chào hàng được gửi đi. Công ty có thể nhanh chóng xây dựng mối quan hệ chặt chẽ với khách hàng thông qua việc gửi cho họ các bản tin, thông tin cập nhật về sản phẩm, khuyến mại sau các khoảng thời gian khác nhau, hoàn toàn tự động. Nhược điểm duy nhất của hình thức này là công ty phải được sự cho phép của người nhận. Vậy làm thế nào để được khách hàng cho phép? Giải pháp cho vấn đề này đó là sử dụng các danh sách thư "tiếp nhận" (opt- in- list), nghĩa là người nhận có yêu cầu được nhận các email. Và bất kỳ lúc nào họ cũng có quyền lựa chọn ra khỏi danh sách và không nhận email. Nếu công ty sử dụng danh sách thư điện tử đi thuê, để đảm bảo được tiếp nhận, nhà quảng cáo phải hỏi người chủ danh sách xem các tên đó được tập hợp như thế nào. Cần tránh những danh sách được tạo bởi một phần mềm dò tìm địa chỉ email trên Web. Để an toàn, khi lần đầu tiên sử dụng danh sách, nhà tiếp thị có thể gửi thử một số người trước khi sử dụng cả bảng danh sách. Mặc dù tài liệu có thể rất tốt, nhưng đảm bảo an toàn trước vẫn hơn là để sau này phải hối tiếc. Cách tốt nhất là công ty tự xây dựng các danh sách thư điện tử cho riêng mình. Bên cạnh việc đảm bảo tính "tiếp nhận" tốt hơn cho danh sách thư điện tử, danh sách này sẽ trở thành tài sản riêng của công ty. Việc xây dựng danh sách này rất đơn giản. Công ty có thể khuyến khích các khách hàng hiện tại hoặc tiềm năng đăng ký vào danh mục email hoặc newsletter hoặc email updates khi họ truy cập vào Website của công ty. Tại vị trí đặc biệt nhất trên Website của mình, công ty nên chèn một mẫu thông tin của khách hàng. Khi khách hàng truy cập vào trang Web của công ty, họ chỉ việc nhập địa chỉ vào trong form thông tin. Khi đó công ty sẽ có được một danh sách địa chỉ của khách hàng thực sự có nhu cầu và thiện chí với công ty. Ngoài ra khi mọi người tham gia một cuộc thi, mua hàng hoá hay yêu cầu thông tin từ Website của công ty, công ty có thể tạo cơ hội để họ tham gia vào danh sách email của mình. Sau khi đã có một danh sách địa chỉ tốt, khi gửi email cho khách hàng công ty nên lập một công cụ opt- out ở cuối mỗi bức thư. Đó chính là công cụ để huỷ tên và địa chỉ email của khách hàng trong danh sách opt-in khi vì một lý do nào đó họ không còn muốn nhận thông tin của công ty nữa. Với công cụ đó, nhà tiếp thị vừa xây dựng được một danh sách hiệu quả phù hợp với mục tiêu của mình và điều quan trọng là tránh được hiện tượng spam. Đồng thời ở phần đầu các thông điệp hãy cho mọi người biết rằng có hướng dẫn để chọn ra khỏi danh sách ở cuối email. Điều này rất quan trọng. Nếu không công ty sẽ choáng ngợp vì những cú điện thoại và email của những người không còn muốn tham gia. Ngoài những biện pháp trên, công ty cũng cần thực hiện một số biện pháp sau để đảm bảo tính hiệu quả của chiến dịch quảng cáo bằng email của mình đồng thời tăng tính tiếp nhận của các quảng cáo bằng email của công ty: Có chủ đề hấp dẫn. Mọi người thường nhận được rất nhiều email, đặc biệt là những người trên danh sách email trực tiếp. Khi họ nhìn vào hộp thư email của mình để xem chủ đề của tất cả các email, nếu thấy chủ đề hay họ sẽ mở email của công ty. Đồng thời không nên làm cho các khách hàng triển vọng của mình giận dữ bằng nhan đề lừa cho họ đọc như "thông tin bạn cần" Thông tin ngắn gọn đi vào chủ điểm, sự quan tâm của người xem chính là hàng hoá có giá trị trên mạng. Tránh gửi các phần kèm theo vì mọi người thường không muốn nhận các phần này trừ phi có yêu cầu. Cung cấp một thứ gì đó có giá trị trong mỗi lần gửi thư như: giảm giá, tin tức quan trọng hoặc một thứ gì khác. Mấu chốt là phải tạo được lý do để mọi người muốn đọc lá thư tiếp theo và có suy nghĩ tốt về công ty. Kiểm tra nhiều kiểu khuyến mại xem cái nào có hiệu quả nhất. Đưa ra các đề nghị. Người tiêu dùng cần được cung cấp một lý do thúc đẩy họ đáp lại và công ty cần đảm bảo việc liên lạc là thuận lợi nhất bằng cách cung cấp các lựa chọn phương tiện liên lạc cho người sử dụng: địa chỉ email, URL, số điện thoại hoặc số fax. Kiểm tra một nhóm nhỏ độc giả trước khi giới thiệu một sản phẩm mới. Hãy tiến hành một chiến dịch gửi email cho một nhóm nhỏ nhất trong danh sách email. Khi nhận được thông tin phản hồi, hãy phân tích nó cẩn thận. Khi đã có kết quả phân tích, hãy đưa ra quyết định cải tiến hoặc huỷ bỏ việc giới thiệu sản phẩm tuỳ theo kết quả kiểm tra. Tạo ra các đường link kết nối trong các bức thư. Ngày nay, phương pháp tiếp thị bằng emai hiệu quả nhất gốm các liên kết nóng hoặc các siêu liên kết trong thông điệp bằng email nhằm đưa khách hàng tới thẳng địa chỉ của nhà quảng cáo. Bằng những đường link này, người nhận có thể tìm kiếm được nhiều thông tin hơn về công ty qua các cuốn ebook hay các trang Web được link tới. Những liên kết này không nên đưa khách hàng tới trang chủ mà nên đưa họ tới thẳng các trang đã được thiết kế dành cho khách hàng. Bên cạnh đó, công ty nên tạo ra một cuốn ebook (sách điện tử) giới thiệu thật đầy đủ và chi tiết về công ty. Những cuốn ebook sẽ là những công cụ rất hiệu quả để quảng cáo cho sản phẩm và công ty mà không tốn nhiều thời gian và tiền bạc. Cá nhân hoá các thông điệp và đưa ra các thông tin chọn lọc. Hãy thêm tên người xem vào dòng tiêu đề, vì nó nhanh chóng gây ra sự chú ý của người xem và khơi dậy trí tò mò của họ. Nó cũng tạo ra cảm giác đây là bức thư công ty viết để dành riêng cho họ, hay đây chính là các thông tin mà họ đã yêu cầu. Nếu có thể, công ty nên gửi cho mỗi loại khách hàng một thông điệp khác nhau. Chẳng hạn tất cả các khách hàng mới có thể nhận một chào hàng riêng, những khách hàng thường xuyên sẽ nhận được một chào hàng khác và những khách hàng trước đây sẽ có một loại chào hàng thứ ba. Nếu biết sử đúng cách, thư điện tử sẽ là một hình thức tiếp thị và quảng cáo rất hiệu quả. Các công ty hiện nay đang đầu tư rất nhiều vào địa chỉ của mình và email vì đây là cách thức hiệu quả nhất để định hướng lượng truy cập dựa trên hành động và mục tiêu. Hình thức quảng cáo bằng E-zine Việc quảng cáo thông qua các bản tin, các cuộc thảo luận được gọi là e- zine. Theo các số liệu thống kê, ngày nay trên mạng Internet có khoảng hơn 100.000 bản tin và danh sách các diễn đàn thảo luận liên quan đến mọi chủ đề được gửi qua email. Trên thực tế có thể có nhiều tên gọi khác nhau, nhưng về cơ bản người ta chia thành hai loại danh sách thư điện tử thường gặp đó là: danh sách thư thảo luận và danh sách thư thông báo. Danh sách thư thảo luận Danh sách thư thảo luận là một danh sách các thư điện tử mà bấ._. miền dùng chung là để tham gia thị trường thương mại quốc tế. Tuy nhiên, có những doanh nghiệp hoạt động hoàn toàn trong nước cũng đăng ký tên miền quốc tế gây tắc nghẽn giả tạo đường truyền quốc tế. Bởi độc giả phải truy cập một Website trong nước theo đường vòng như người ta gọi một cuộc điện thoại nội hạt nhưng lại thông qua tổng đài quốc tế rồi mới về nước. Vì vậy, chỉ các doanh nghiệp thực tế có nhu cầu quảng bá sản phẩm ra thị trường nước ngoài thì mới nên lựa chọn tên miền dùng chung. Đối với các doanh nghiệp này nên đăng ký tên miền càng sớm càng tốt để đảm bảo cho tên miền của mình không bị kẻ khác “đánh cắp”. Còn nếu doanh nghiệp chỉ hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh trong nước thì nên đăng ký tên miền quốc gia, vừa đảm bảo an toàn, tốc độ truy cập lại nhanh hơn. Vì bản chấtcủa Internetlà không có biên giới quốc gia, nếu tên miền của doanh nghiệp được khách hàng quốc tế biết tới thì họ vẫn có thể truy cập vào Web site của doanh nghiệp bất chấp tên miền đó là của quốc gia hay quốc tế. Hơn nữa, chi phí cho việc đăng ký và duy trì tên miền quốc gia rẻ hơn rất nhiều. Cước đăng ký tên miền cấp 3 và cấp 4 dưới tên miền vnn.vn là 250.0000 đồng/ lần; cước duy trì tên miền cấp 3 là 200.000 đồng/ năm và tên miền cấp 4 là 100.000 đồng/ năm. Những khó khăn đối với việc phát triển quảng cáo trên mạng. Những cản trở đối với việc nhập mạng Để hoạt động quảng cáo trên mạng nói riêng và TMĐT nói chung có thể phát triển được thì việc sử dụng Internet phải trở nên rộng rãi trong xã hội. Hiện nay, số lượng người sử dụng Internet ở Việt Nam còn quá thấp so với trong khu vực và trên thế giới. Số lượng người thuê bao Internet ở Việt Nam mới chỉ chiếm 0,16% dân số, thấp hơn rất nhiều so với mức trung bình của các nước Asean là 1,27% và của thế giới là 5,58%. Việc sử dụng Internet của người dân Việt Nam vẫn còn ít và hạn chế trong một bộ phận nhỏ dân chúng có thu nhập cao ở thành thị và có trình độ học vấn cao trong xã hội. Theo thống kê gần đây của VDC, người sử dụng Internet hiện nay chủ yếu tập trung tại các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và các vùng lân cận, ở độ tuổi từ 18- 25 tuổi, trong đó có khoảng 80% có trình độ đại học. Nguyên nhân của tình trạng này trước hết là vấn đề nhận thức,văn hoá và tập quán tiêu dùng của người dân Việt Nam. Người Việt nam đã rất quen thuộc với các phương tiện liên lạc truyền thống như thư, báo chí, truyền hình, điện thoại,...Thói quen sử dụng này rất khó có thể thay đổi. Mặt khác hiểu biết của người dân về Internet và lợi ích của nó chưa nhiều, sử dụng thì phức tạp trong khi trình độ văn hoá chưa cao. Đại bộ phận người dân Việt Nam sử dụng Internet cho những mục đích đơn giản. Theo Công ty điện toán và truyền số liệu VDC thì chỉ có 13% lượt truy cập Internet là để vào các trang Web để tìm kiếm thông tin, 80% là thư điện tử và các dịch vụ khác. Ngay cả các cơ quan, công ty đã thấy sự cần thiết của Internet, nhưng khai thác nó chưa thực sự hiệu quả, chủ yếu sử dụng cho những mục đích đơn giản như gửi email, vì không có đủ cán bộ có đủ trình độ khai thác những điểm mạnh của Internet. Nguyên nhân thứ hai đó chính là cước phí truy cập Internet. Mặc dù cước truy cập Internet ở Việt Nam đã ngang bằng với các nước trong khu vực, nhưng tính đến yếu tố thu nhập và mức sống thì mức cước này vẫn còn khá cao so với người dân. Theo một báo cáo về CNTT gần đây, tháng 5/2002 của Trường đại học Harvarrd, Việt Nam là một trong những nước có giá truy cập Internet cho 20 giờ mỗi tháng so với thu nhập đầu người cao nhất thế giới, chiếm 20% GDP theo đầu người. Trung bình một khách hàng hiện nay chi phí 200.000 đồng/ tháng cho sử dụng Internet. Trong khi đó, thu nhập bình quân đầu người là 400USD/ năm, hơn 76% dân số sống ở vùng nông thôn miền núi có thu nhập bình quân đầu người dưới 200USD/ năm, cuộc sống hàng ngày còn gặp nhiều khó khăn, nên Internet đối với họ vẫn còn là thứ hàng xa xỉ, đắt tiền. Các điểm truy cập Internet công cộng tuy giá rẻ nhưng chất lượng dịch vụ lại rất thấp, chủ yếu đáp ứng các dịch vụ gửi thư điện tử và trò chuyện trên mạng (chat). Nguyên nhân thứ ba là do những hạn chế liên quan đến cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin hiện nay. Cơ sở hạ tầng cả về phần cứng và mềm của công nghệ thông tin Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội cũng như tạo điều kiện để mọi người dân có thể sử dụng máy tính và truy cập vào mạng Internet. Mật độ điện thoại và máy tính còn thấp (5,44 máy điện thoại/100 dân, 1,2 máy tính/ 100 dân), dẫn đến nhiều người cùng chia sẻ một máy tính, một account truy cập Internet. Mặc dù đạt tốc độ phát triển gần 200%/ năm, nhưng giới công nghệ thông tin và các nhà quản lý vẫn đánh giá Internet Việt Nam phát triển chậm, đặc biệt là các dịch vụ truy cập tốc độ cao và các dịch vụ giá trị gia tăng. Tốc độ truyền dẫn chậm dẫn đến chất lượng dịch vụ kém, chưa cho phép người sử dụng có thể khai thác được nhiều dịch vụ trên Internet như phim, video,... Số các loại hình dịch vụ trên mạng còn quá hạn chế. Tình trạng này là hậu quả của chính sách độc quyền của nhà nước trong việc cung cấp dịch vụ Internet trước đây và việc kiểm soát luồng thông tin ra vào trong và ngoài nước thông qua các bức tường lửa. Các bức tường lửa giúp đảm bảo tính an toàn của các thông tin ra vào trong nước tuy nhiên lại làm giảm 30% tốc độ của đường truyền. Bên cạnh đó kênh truyền dẫn kết nối từ các nhà cung cấp dịch vụ Internet đến các máy chủ đặt Web site còn hẹp và việc tổ chức thông tin trên các Web site chưa khoa học cũng làm giảm tốc độ đường truyền. Việc thiếu các ISP và đặc biệt là các IXP đã khiến cho cước phí truy cập Internet ở Việt Nam cao hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Việc cấp phép cho hơn 10 ISP và hai nhà cung cấp dịch vụ kết nối mới vừa qua là một bước cải thiện đáng kể tình hình thị trường dịch vụ Internet ở Việt Nam. Tuy nhiên các IXP mới chỉ được chọn điểm đến ở nước ngoài, còn vẫn phải thuê lại đường kết nối vật lý từ Việt Nam ra bên ngoài của Trung tâm Viễn thông quốc tế (VII). Vì vậy, giá thuê đường truyền Internet đã giảm 3 lần, từ 60.000 USD xuống còn 18.000 USD, nhưng vẫn đắt gấp 3 so với các nước trong khu vực. Cuối cùng là do hiện nay thông tin trên mạng chủ yếu do các Web site tiếng nước ngoài cung cấp, trong khi chỉ có một số ít trang Web tiếng Việt với nội dung còn nghèo nàn cả về chất lượng và tính phong phú, đã không thu hút được các độc giả đến mạng để xem tin tức, tạo điều kiện để nâng cao số lượng người sử dụng Internet và do đó Web site có thể bán quảng cáo. Mặc dù số lượng các Web site tiếng Việt thời gian qua đã tăng đáng kể nhưng chất lượng thông tin và hiệu quả hoạt động hầu hết vẫn chưa đạt yêu cầu. Các Web site Việt Nam sau khi được tạo lập thường không được cập nhật và bổ sung thông tin , không được đầu tư đúng mức dẫn đến nghèo nàn thông tin và thiếu tính hấp dẫn, không đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của người truy cập. Việc triển khai thương mại điện tử còn chậm Đã hai ba năm nay kể từ khi khái niệm TMĐT được nhắc đến ở nước ta, song những gì mà tầng lớp dân chúng nhận thức về TMĐT vẫn còn rất hạn chế. Các cán bộ trong bộ máy nhà nước có nhận thức khá hơn nhờ chương trình quốc gia về công nghệ thông tin (CNTT) được triển khai rộng rãi trên phạm vi toàn quốc từ năm 1996. Người tiêu dùng nói chung chưa có nhận thức về TMĐT, khái niệm TMĐT cũng không được biết đến. Người Việt Nam vẫn chưa quen lắm với hình thức giao dịch trên mạng. Do số người sử dụng Internet hiện nay còn ít nên chưa hình thành nên thị trường mua bán trên mạng. Việc mua bán trên mạng mới chỉ giới hạn trong một bộ phận dân cư có thu nhập và trình độ cao trong xã hội và ở thành phố. Việc cước phí truy cập cao cũng là một cản trở đối với việc mua bán trên mạng của khách hàng. Về phía các doanh nghiệp, tỷ lệ các doanh nghiệp nước ta có thể tham gia TMĐT rất thấp, có thể nói đại đa số các doanh nghiệp chưa sẵn sàng tham gia TMĐT. Theo khảo sát của Hội tin học Việt Nam, hiện có tới 90% trong số 70.000 doanh nghiệp và trên 1,4 triệu hộ kinh doanh cá thể ở nước ta vẫn thờ ơ với TMĐT. Việt Nam đã đi hết 1/3 lộ trình để tiếp cận với TMĐT và nhiều doanh nghiệp đã nhận ra lợi ích của loại hình kinh doanh qua mạng này, nhưng hiện nay chỉ có 2% doanh nghiệp là quan tâm và triển khai TMĐT cùng với khoảng 7% doanh nghiệp khác là bắt đầu triển khai phương thức kinh doanh mới này. Nguyên nhân trước hết là do các doanh nghiệp thiếu nhạy bén, nhận thức quan điểm và trình độ còn chưa chuyển biến kịp trong việc tiếp cận cái mới. Các doanh nghiệp vẫn chưa thực sự tin vào hiệu quả của TMĐT. Vì vậy, dù đã có hàng nghìn trang Web “thương mại điện tử” đã ra đời nhưng phần lớn mới chỉ dừng lại ở mức thử nghiệm, thăm dò phản ứng của thị trường. Cơ sở hạ tầng thông tin yếu kém cũng là một nguyên nhân hạn chế việc triển khai các ứng dụng của TMĐT, giá thuê miền cho Web site cũng cao hơn rất nhiều so với quốc tế. Đa số các doanh nghiệp Việt Nam có quy mô nhỏ bé, tiềm lực tài chính có hạn, gặp khó khăn trong đầu tư lao động, cơ sở vật chất để áp dụng TMĐT. Một nguyên nhân khác hạn chế hoạt động mua bán trên mạng của các doanh nghiệp là do phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chưa có đủ uy tín và tiếng tăm trên thị trường quốc tế để có thể thực hiện việc đặt hàng và thanh toán trực tiếp trên mạng. Các sản phẩm hàng hoá của Việt Nam hầu hết chưa gắn với mẫu mã, tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng được giới thiệu nên bán hàng trên mạng rất khó. Một nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng đến tốc độ triển khai TMĐT ở Việt Nam là cho đến hiện nay Việt Nam vẫn chưa có cơ quan chuyên trách quốc gia về TMĐT, chưa xây dựng được lộ trình và kế hoạch tổng thể cho việc triển khai và ứng dụng TMĐT ở Việt Nam. Việc thiếu một môi trường pháp lý và cơ sở hạ tầng đầy đủ cho TMĐT cũng là một cản trở rất lớn. Việt Nam hiện mới đang trong quá trình xây dựng hệ thống pháp luật điều chỉnh các hoạt động TMĐT. Hệ thống tài chính cũng như ở nhiều quốc gia đang phát triển khác chưa đủ phát triển để hỗ trợ cho các giao dịch điện tử phức tạp. Hiện nay, hệ thống thanh toán bằng thẻ ở Việt Nam còn chưa phát triển nếu không nói là còn quá sơ khai, người dân vẫn chưa có thói quen mở tài khoản tại ngân hàng và tiền mặt vẫn là công cụ thanh toán chính trong mọi hoạt động mua bán. Việc sử dụng séc và thẻ tín dụng vẫn còn rất ít. Người dân nếu có điều kiện mua hàng trên Internet cũng chỉ có thể thực hiện thao tác chọn hàng và đặt hàng mà thôi, còn giao hàng và thanh toán vẫn phải thực hiện theo cách truyền thống. Những khó khăn về mặt nhân lực Hiện nay, ở Việt Nam chưa có nhiều các chuyên gia giỏi về lĩnh vực tin học để có thể phát triển các ứng dụng TMĐT nói chung và quảng cáo trên mạng nói riêng. Hệ thống giáo dục còn nhiều bất cập và những khó khăn về tài chính đã không cho phép các cơ sở đào tạo về CNTT đưa Internet vào phục vụ việc giảng dạy. Các doanh nghiệp vẫn chưa có đội ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ marketing nói riêng giỏi về máy tính và Internet, do đó hạn chế rất nhiều việc ứng dụng Internet vào hoạt động kinh doanh. Việc thiếu các cán bộ thiết kế quảng cáo cũng là một vấn đề của quảng cáo Việt Nam nói chung và quảng cáo trên mạng nói riêng. Hiện nay, các trường mỹ thuật công nghiệp Việt Nam chưa có ngành đào tạo về thiết kế quảng cáo. Việc thiết kế quảng cáo hiện do các nhà thiết kế đồ hoạ đảm nhận. Mặc dù họ đã làm khá tốt công việc này nhưng không thể thay thế cho những nhà thiết kế quảng cáo chuyên nghiệp. Quảng cáo trên mạng cũng không nằm ngoài tình trạng đó. Việc thiết kế quảng cáo trên mạng hiện nay thường do các chuyên gia tin học đảm nhiệm. Điều này đã phần nào hạn chế chất lượng và tính hiệu quả của quảng cáo. Một số khuyến nghị về các giải pháp để phát triển ngành quảng cáo trên mạng Để hoạt động quảng cáo trên mạng có thể phát triển thuận lợi, cần phải nâng cao hơn nữa trình độ và số người sử dụng Internet trong toàn xã hội, làm cho các hoạt động mua bán trên mạng và các hoạt động TMĐT trở thành phổ biến trong xã hội và tạo cơ sở hạ tầng CNTT và pháp luật cho việc phát triển các ứng dụng TMĐT và quảng cáo trên mạng. Trên cơ sở phân tích vai trò và tầm quan trọng của quảng cáo trên mạng đối với nền kinh tế nói chung và TMĐT nói riêng, Nhà nước cần có các biện pháp, chính sách để phát triển hơn nữa các hoạt động TMĐT nói chung và quảng cáo trên mạng nói riêng. Nâng cao nhận thức, trình độ ứng dụng Internet và TMĐT và phát triển nguồn nhân lực cho quảng cáo trên mạng Cần nâng cao nhận thức của toàn xã hội đối với những lợi ích của Internet và TMĐT. Biến Internet trở thành một trong những kỹ năng cơ bản của cuộc sống nghề nghiệp và cuộc sống hàng ngày, tạo thói quen sử dụng Internet ở cả thành phố và nông thôn. Bên cạnh đó cần nâng cao trình độ sử dụng máy tính và Internet của người dân cũng như trong các cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp. Đặc biệt đối với những người làm công tác ngoại thương, môi trường kinh doanh trên mạng chính là môi trường kinh doanh quốc tế và việc phát triển các hoạt động mua bán trên mạng là một xu hướng tất yếu trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Vì vậy, các cán bộ ngoại thương và cả các sinh viên ngoại thương ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường cần phải trang bị các kiến thức về Internet, TMĐT, marketing và quảng cáo trên mạng. Để thực hiện được điều này, trong điều kiện hiện nay, trước hết chúng ta có thể tổ chức các seminar về công nghệ tin học, Internet và TMĐT cũng như về quảng cáo trên mạng cho các cán bộ trong các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp, các tổ chức cung cấp thông tin trên mạng và đặc biệt là cho các sinh viên. Việc tổ chức các seminar như thế này không tốn kém và được coi là sinh hoạt khoa học bổ ích và lý thú. Thứ hai, thực hiện việc đào tạo ở các cơ quan, doanh nghiệp, và trong các trường đại học về Internet và TMĐT. Xây dựng đội ngũ cán bộ marketing hiểu biết về Internet và quảng cáo trên mạng trong các doanh nghiệp. Đưa kiến thức về marketing và quảng cáo trên Internet vào giáo trình đào tạo của bộ môn marketing và quảng cáo trong các trường kinh tế. Thứ ba, tăng cường đầu tư cho việc đào tạo các cán bộ tin học giỏi để tạo điều kiện phát triển các ứng dụng cho quảng cáo nói riêng và TMĐT nói chung và các ứng dụng khác phục vụ cho việc quảng cáo trên mạng ở quy mô doanh nghiệp cũng như trong hệ thống đào tạo quốc gia. Đồng thời trang bị các kiến thức về TMĐT, marketing và quảng cáo trên mạng cho các lập trình viên bởi vì họ chính là những người biến các ý tưởng của các nhà tiếp thị thành các quảng cáo trên mạng sau này và nhằm cải tạo chất lượng của các quảng cáo hiện nay. Thứ tư, trang bị máy móc và khả năng thực hành Internet tại các trường đại học. Nhà trường có thể xây dựng các Web site nhỏ với chi phí không quá lớn để phục vụ cho việc giảng dạy. Với các điều kiện như vậy, các cán bộ giảng dạy và sinh viên sẽ có điều kiện thâm nhập vào công nghệ mới, nhanh chóng nắm vững kiến thức cần thiết và những ý tưởng sáng tạo trong việc tổ chức và nghiên cứu thị trường thông tin, thực hành các bài tập liên quan đến các vấn đề về TMĐT, quảng cáo và các hoạt động trên mạng khác. Cuối cùng, đào tạo đội ngũ cán bộ thiết kế quảng cáo, đưa môn thiết kế quảng cáo nói riêng và thiết kế quảng cáo trên mạng nói chung vào giảng dạy tại các trường đại học mỹ thuật công nghiệp và các trường đào tạo về tin học. Kết hợp đội ngũ cán bộ thiết kế quảng cáo hiện thời với các chuyên gia tin học để tạo ra các sản phẩm quảng cáo trên mạng vừa đảm bảo các yêu cầu về mặt kỹ thuật lại vừa đảm bảo các chức năng marketing của quảng cáo. Phát triển cơ sở hạ tầng CNTT Việc phát triển cơ sở hạ tầng CNTT và viễn thông trong nước một mặt tạo cơ sở để phát triển các ứng dụng quảng cáo trên mạng và TMĐT, nâng cao chất lượng các quảng cáo và các dịch vụ trên mạng, mặt khác tạo điều kiện để việc sử dụng Internet phù hợp hơn với mức thu nhập của người dân Việt Nam hiện nay. Để đạt được mục đích trên, trước hết cần thực hiện tốt các biện pháp mà chính phủ đã đề ra để phát triển CNTT và Internet trong kế hoạch tổng thể về CNTT giai đoạn 2001- 2005. Phát triển ngành công nghiệp phần cứng để tạo điều kiện hạ giá thành và đáp ứng nhu cầu sử dụng máy tính cho đại đa số người dân trong nước. Đồng thời phát triển ngành công nghiệp phần mềm để phát triển các ứng dụng TMĐT và quảng cáo trên mạng. Mở cửa hơn nữa thị trường cung cấp dịch vụ Internet, mở rộng băng thông đa dạng hoá và nâng cao chất lượng các dịch vụ Internet. Trước mắt tập trung cho phát triển Internet ở khu vực thành thị, áp dụng nhiều đợt giảm cước hơn nữa để mức cước sử dụng phù hợp hơn với mức thu nhập của người dân hiện nay. Thúc đẩy sự phát triển của TMĐT Đẩy mạnh hơn nữa tốc độ phát triển TMĐT, đặc biệt là các hoạt động kinh doanh trên mạng. Việc phát triển các ứng dụng TMĐT, trong đó có quảng cáo trên mạng đòi hỏi sự nỗ lực của toàn xã hội. Bên cạnh việc huy động tối đa các nguồn lực trong nước, chính phủ cần có các biện pháp khuyến khích thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các hoạt động cải thiện cơ sở hạ tầng CNTT và Internet cũng như cơ sở hạ tầng kinh tế và pháp luật cho các hoạt động kinh doanh trên mạng. Đây cũng chính là những vấn đề mà kế hoạch tổng thể về CNTT giai đoạn 2001- 2005 của Bộ Thương mại cần tập trung giải quyết trong những năm sắp tới để tạo điều kiện cho Internet và TMĐT phát triển. Đặc biệt vấn đề này cần gắn liền với việc hỗ trợ phát triển cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ và và các nhiệm vụ và cam kết để Việt Nam có thể tham gia hiệp định điện tử ASEAN. Bộ thương mại đang xây dựng một kế hoạch TMĐT dự định sẽ đưa phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam lên mạng vào năm 2005 thông qua 14 dự án. Kế hoạch này nêu rõ nhu cầu cần phải xây dựng một cơ sở pháp lý cho TMĐT trong những năm sắp tới, bao gồm việc phát triển hệ thống thanh toán điện tử, hệ thống bảo mật thông tin, chữ ký điện tử, các chính sách về thuế và tài chính, các chính sách bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và luật bảo vệ người tiêu dùng. Ngày 21/3/2002, Thủ tướng chính phủ đã có Quyết định công nhận giá trị của chữ ký điện tử dùng cho hoạt động giao dịch diện tử liên ngân hàng. Việc khai báo hải quan qua mạng cũng đang được triển khai từ tháng 6/2002 đối với các doanh nghiệp trong lĩnh vực hàng gia công. Đây chính là những bước phát triển rất quan trọng để góp phần hiện thực hoá và đẩy nhanh tốc độ phát triển của TMĐT ở Việt Nam. Nâng cao số lượng và chất lượng các Web site tiếng Việt Việc nâng cao chất lượng các nội dung thông tin trên mạng trên các Website tiếng Việt hiện nay nhằm tạo điều kiện để người truy cập Việt Nam làm chủ các kho tàng tri thức ngày càng phong phú trên các site tiếng Việt, đó cũng chính là động lực quan trọng thúc đảy tăng lượng người sử dụng Internet ở Việt Nam, thúc đẩy Internet ở Việt Nam phát triển và tạo cơ hội cho hoạt động quảng cáo trên các Website này. Để thực hiện được điều này, cần tăng cường trách nhiệm của người làm công tác thông tin trên mạng. Các nhà cung cấp thông tin trên Internet phải xác định rõ tôn chỉ, mục đích, nâng cao chất lượng các Website tiếng Việt. Về phía nhà nước cần tiếp tục ban hành các văn bản tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động Internet và quản lý hạot động này theo quy định của pháp luật. Bộ Bưu chính- Viễn thông phải đẩy nhanh tốc độ phát triển Internet và ban hành các văn bản tạo điều kiện cho việc phát triển Internet, báo điện tử và các Website. Hoàn thiện hệ thống luật pháp cho quảng cáo trên mạng Cần tiếp tục nhanh chóng xây dựng hệ thống pháp luật để điều chỉnh các hoạt động quảng cáo trên mạng và khắc phục những hạn chế của các quy định hiện thời. Đối với các bất cập trong các văn bản pháp luật điều chỉnh việc cung cấp, cập nhật thông tin và đưa quảng cáo lên mạng đã phân tích ở trên, có một số đề xuất sau để giải quyết các hạn chế này: Giải pháp cho vấn đề cấp giấy phép của Bộ Văn hoá- Thông tin cho việc cập nhật thông tin, đưa trang Web lên mạng đó là cơ quan quản lý có thể yêu cầu các doanh nghiệp muốn làm trang Web khi đăng ký tên miền làm luôn các bước đăng ký theo đúng nội dung mà quy chế yêu cầu. Một cách khác đơn giản hơn, đó là yêu cầu các đơn vị cung cấp dịch vụ Internet phải chịu trách nhiệm về các trang Web mà họ truyền tải. Chính những nơi này sẽ thay mặt cơ quan quản lý đảm bảo nội dung họ đưa lên Internet phù hợp với các quy định của pháp luật, nếu không chính họ là những người bị xử lý trước tiên. Đối với vấn đề quản lý nội dung và đưa quảng cáo lên mạng, cơ quan quản lý có thể giao trách nhiệm về nội dung quảng cáo trên một trang Web cho nơi điều hành trang Web đó, tương tự như việc giao cho tổng biên tập báo in chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung quảng cáo đăng trên báo. Chính những nơi này mới nắm được họ đưa lên quảng cáo những gì, thời gian bao lâu vì họ phải ghi nhận để tính tiền với khách hàng. Lúc đó, nơi nào đăng quảng cáo sai sự thật, quảng cáo trái với quy định của pháp luật sẽ chịu xử lý vi phạm theo luật pháp. Trong điều kiện mà hệ thống các văn bản pháp luật cho quảng cáo trên mạng chưa hoàn chỉnh, các đơn vị tham gia vào hoạt động quảng cáo trên mạng cần tuân thủ đúng các quy định đối với các hoạt động quảng cáo truyền thống, đồng thời từ thực tiễn hoạt động của mình tích cực đóng góp ý kiến, đề xuất cho các cơ quan chịu trách nhiệm xây dựng các văn bản pháp luật cho việc quảng cáo hiện nay. Phát triển hoàn thiện thị trường quảng cáo trên mạng Nhà nước cần có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị tham gia vào hoạt động quảng cáo trên mạng để nâng cao số lượng các đơn vị tham gia vào thị trường này. Bên cạnh đó cần thành lập ra các cơ quan, tổ chức điều hành, quản lý và xúc tiến hoạt động quảng cáo trên mạng. Phát triển các tổ chức trung gian, các hệ thống cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động quảng cáo trên mạng. Trong điều kiện hiện nay, mô hình thích hợp nhất cho các công ty bán quảng cáo trên mạng đó là hình thành nên các công ty tương tác. Đây là loại hình công ty kết hợp giữa các công ty quảng cáo với các công ty tin học cung cấp các dịch vụ thiết kế các Web site và quảng cáo trên mạng. Mô hình này kết hợp được thế mạnh của các công ty quảng cáo với các kỹ năng chuyên nghiệp trong lĩnh vực quảng cáo với thế mạnh kỹ thuật của các công ty tin học. Đồng thời mô hình này khắc phục được những hạn chế về mặt tài chính và phù hợp với tình hình hoạt động quảng cáo còn chưa sôi động hiện nay chưa đòi hỏi phải có những công ty có quy mô lớn, chuyên sâu về hoạt động quảng cáo trên mạng. Đồng thời, đối với những doanh nghiệp có nhu cầu quảng cáo trên mạng lớn và thường xuyên, việc thành lập nên các bộ phận tương tác trong các công ty có thể là một giải pháp đáng xem xét. kết luận Phần lớn mọi người đều không nhận thấy quảng cáo trực tuyến đã thực sự phát triển trong vòng gần 18 năm qua. Bắt đầu từ những nỗ lực đầu tiên để xây dựng và sử dụng phương tiện truyền thông mới cho tiếp thị, đến ngày nay, các doanh nghiệp đã có thể sử dụng một lượng lớn kiến thức và phương pháp kỹ thuật được cải tiến không ngừng. Công nghệ Internet đã thay đổi cách thức hoạt động của các mục quảng cáo, cách thức đưa ra quảng cáo và cải thiện nhanh chóng phương thức đưa ra các ý tưởng và các quy trình quảng cáo. Quảng cáo trên mạng đem lại sự hiện diện toàn cầu cho nhà cung cấp, dù là doanh nghiệp lớn hay nhỏ. "Đất " để các doanh nghiệp giới thiệu, quảng bá sản phẩm cũng rộng hơn rất nhiều, không bị khống chế về thời gian, không gian. Bằng việc sử dụng Internet, chi phí để cung cấp thông tin cho khách hàng trên phạm vi toàn cầu một cách nhanh chóng ít hơn nhiều so với chi phí cho việc in ấn và quảng cáo trên đài và tivi. Cho đến nay Internet là phương pháp rẻ nhất và dễ dàng nhất để cung cấp các thông tin cho khách hàng. Quảng cáo trên mạng cũng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp quản lý quan hệ khách hàng theo một kiểu cách mới, tức là không phải một chiều như các cách thức truyền thống. Sự xuất hiện và phát triển của Internet tại Việt Nam đã cung cấp cho các doanh nghiệp Việt Nam một phương tiện quảng cáo hiệu quả đồng thời mở ra một hướng phát triển mới cho ngành quảng cáo Việt Nam. Mặc dù còn nhiều hạn chế và khó khăn phải vượt qua, chúng ta tin tưởng rằng tại Việt Nam, Internet sẽ khẳng định được vị thế của mình là phương tiện quảng cáo hiện đại và hiệu quả nhất trong hiện tại và là phương tiện quảng cáo của nền kinh tế mạng trong tương lai, góp phần giúp cho Việt Nam nhanh chóng tiến tới nền kinh tế số hoá. Đặc biệt nó sẽ là một con thuyền để đưa các doanh nghiệp Việt Nam đến được với bạn bè quốc tế. tài liệu tham khảo. Tài liệu tiếng Việt: Bảy nguyên tắc để viết dòng tiêu đề hấp dẫn, Issue 12, ngày 6/12/2001, Bản tin thương mại điện tử , www.thuongmaidientu.com. Bộ Văn hoá- Thông tin sẽ duyệt nội dung từng quảng cáo trên Internet?, Bình Yên, www.vnexpress.net., 5/11/2002. Bùng nổ quảng cáo trên mạng, PC World Việt Nam ngày 9/9/2002. Các nhà bán lẻ đang xa rời quảng cáo trên mạng, Nguyễn Thạc Phương, Sách chuyên đề Internet số 1, năm 2001, NXB Bưu Điện. Cần đầu tư chiều sâu cho Internet Việt Nam, Minh Nghĩa, Thanh Tú, www.vnexpress.net, 8/11/2002. Dịch vụ thiết kế trang Web, Chí Thịnh, www.vnexpress.net. Đa dạng hoá dịch vụ Internet, Nguyễn Như Dũng, Báo Tin học và Đời sống số 7/2002. Đã khác nhưng còn xa chuẩn, Lan Anh, Thời báo kinh tế Sài Gòn số 47, ngày 14/11/2002. Đưa thông tin lên Internet có phải có phép, Lan Anh, Thời báo kinh tế Sài Gòn số 45, ngày 13/6/2002. Đường ngắn nhất vào thị trường Mỹ: thương mại điện tử, Báo người lao động ngày 19/10/2001. Email và các hình thức tiếp thị bằng email, Bản tin thương mại điện tử, www.thuongmaidientu.com. E-zine- Chiến lược marketing hiệu quả trên Internet, Issue 36, ngày 30/5/2002, Bản tin thương mại điện tử , www.thuongmaidientu.com. Giáo trình marketing lý thuyết, Trường đại học Ngoại Thương, NXB Giáo Dục, 2000. Internet ở Việt Nam và các nước đang phát triển, Jorg Becker, Đặng Ngọc Minh, NXB Khoa học và Kỹ thuật, 2000. Internet Việt Nam những cơ hội, thách thức trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá, Đỗ Trung Nghĩa, Lê Văn Quang, Sách chuyên đề Internet số 1, năm 2001, NXB Bưu Điện. Internet Việt Nam trước những thách thức phát triển, Thành Lưu, VTV1- Sự lựa chọn cho tương lai- 3/7/2002. Kế hoạch tổng thể về phát triển CNTT ở Việt Nam đến 2005, tháng 7/2002. Khai báo hải quan qua mạng, Việt Dũng, Báo Tin học và Đời sống số 6 năm 2002. Kinh tế mạng và thương mại điện tử, Lê Thanh Nga, NXB Bưu Điện, 2001. Marketing căn bản, Vũ Thế Phúc, NXB Giáo Dục, 1998. Marketing căn bản- Marketing Essentials, Philip Kotler, NXB Thống Kê. Mười công cụ tìm kiếm quan trọng mà bạn cần có mặt, Issue 6, ngày 6/12/2001, Bản tin thương mại điện tử , www.thuongmaidientu.com. Mười điều nên tránh khi marketing trên Internet, Issue 38, ngày 12/6/2002, Bản tin thương mại điện tử , www.thuongmaidientu.com. Phát triển các Web site tiếng Việt, một động lực thúc đẩy tăng lượng người dùng Internet Việt Nam, Báo Sài Gòn Giải Phóng ngày 3/10/2002. Phân tích môi trường và thị trường truy cập Internet tại Việt Nam, Trần Thị Hồng Vân, Báo Thông tin khoa học kỹ thuật và kinh tế bưu điện số 5/2002. Pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ quốc hội số 39 ngày 16/11/2001 về quảng cáo. Phân loại các công cụ tìm kiếm, Issue 41, ngày 3/7/2002, Bản tin thương mại điện tử , www.thuongmaidientu.com. Quảng cáo trên Internet, Nguyễn Vạn Phú, Thời báo kinh tế Sài Gòn số 45, ngày 31/10/2002. Quy chế quản lý và cấp giấy phép cung cấp thông tin, thiết lập trang tin điện tử trên Internet của Bộ Văn hoá- Thông tin, ngày 10/10/2002. Rào cản cho phát triển thương mại điện tử, TS. Nguyền Thừa Lộc, Quân đội nhân dân cuối tuần 27/10/2002. Search engines- Công cụ tìm kiếm trên mạng Internet, Issue 40, ngày 26/6/2002, Bản tin thương mại điện tử , www.thuongmaidientu.com. Thành công nhờ Internet, Nhóm tác giả Elicom, NXB Hà Nội, 2000. Thị trường bưu chính viễn thông và Internet tăng trưởng mạnh, Hải Yến, Ngọc Lý, www.it-life.vnn.vn. Tuần lễ tin học X, Hội tin học Việt Nam, 9/2001. Thư điện tử- công cụ marketing hiệu quả đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, www.thuongmaidientu.com. Thương mại điện tử Việt Nam còn thiếu quá nhiều yếu tố để hình thành, Thế Hào, Thời báo kinh tế số 107, www.vnexpress.net. ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin và truyền thông, Tổng luận Khoa học, Công nghệ và Kinh tế số 10/2002 (167), Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Trung tâm thông tin khoa học và công nghệ quốc gia. Vào cuộc chơi Internet, Lan Anh, Thời báo kinh tế Sài Gòn số 45, ngày 13/6/2002. Vì một nền công nghiệp quảng cáo, Uyên Huy, Thời báo kinh tế Sài Gòn số 43, ngày 17/10/2002. Việt Nam công nhận chữ ký điện tử trong thanh toán vốn, Ngọc Trang, Báo Tin học và Đời sống số 4 năm 2002. Việt Nam đã chấp nhận thương mại điện tử?, Báo Tin học và Đời sống số 4 năm 2002. Xác định thị trường mục tiêu trên Internet, Issue 32 ngày 2/5/2002, Bản tin thương mại điện tử , www.thuongmaidientu.com. Tài liệu tiếng Anh: Advertising media, Hairong Li, Michigan State University, Advertise Successfully AND Ethically on the Internet (Communicate, Don’t Inundate!), Jayne Cravens, Coyote Communications, Brand Building on the Interrnet, CID- Harvard University, The Global Information Technology Report 2001-2002: Readiness for the Netwrked world, May 5/2002, Designing better banners, Electronic Commerce, Trường Đại Bách Khoa Hà Nội, 2001. Electronic commerce: A managerial perspective, Efraim Turban, Jae lee, David king, H. Micheal Chung, Prentice- Hall, Inc., 2000. E- zine Ads, Growing uncertainty over Web Ads, Christopher aunders, How does the advertiser approach the Web?, Internet Advertising Effectiveness Report, Morgan Stanley Dean Witter, 2/2001, www.advant/marketer.com. Việt Nam: ITC Assessment, USAID, 2001. Online Advertising- What is online advertising?, The banner Ad., The Web advantage in Y2K, Leo Burnett, UNDP- Human Development Report 2001. Vietnam Internet Case Study,Tim Kelly, Micheal Minges, International Telecommunication Union, Geneve, Switzerland, March 2002, www.itu.int/ITU-D/ICT/cs. What works in Interrnet Advertising, Advant/marketer, 2002, www.advant/marketer.com. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV526.doc
Tài liệu liên quan