Rủi ro & quản lý rủi ro trong Ngân hàng thương Mại

Tài liệu Rủi ro & quản lý rủi ro trong Ngân hàng thương Mại: Mục Lục Lời nói đầu Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại,tùy thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng. Ngân hàng lại là tổ chức thu hết tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã h... Ebook Rủi ro & quản lý rủi ro trong Ngân hàng thương Mại

doc28 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1773 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Rủi ro & quản lý rủi ro trong Ngân hàng thương Mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ội. Ngân hàng đóng vai trò thủ quy cho toàn xã hội. Thu nhập từ ngân hàng là nguồn thu nhập quan trọng của nhiều hộ gia đình. Bên cạnh đó, ngân hàng là tổ chức cho vay chủ yếu đối với doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần đối với Nhà nước. Đối với các doanh nghiệp, ngân hàng thường là tổ chức cung cấp tín dụng để phục vụ cho việc mua hàng hóa dự trữ hoặc xây dựng nhà máy, mua sắm trang thiết bị … Khi doanh nghiệp và người tiêu dùng phải thanh toán cho các khỏan mua hàng hóa và dịch vụ, họ thường sử dụng séc ủy nhiệm chi, thẻ tín dụng hay tài khoản điện tử. Và khi họ cần thông tin tài chính, họ thường đến các ngân hàng để nhận được lời tư vấn. Các khoản tín dụng cho chính phủ của ngân hàng là nguồn tài chính quan trọng để đầu tư phát triển. Do đó, hoạt động của ngân hàng thương mại thường ảnh hưởng trực tiếp đến sự ổn định của nền kinh tế. Ngân hàng thương mại có vận hành trơn tru thì nền kinh tế mới có thể, phát triển bền vững. Tuy nhiên, hoạt động của ngân hàng thương mại lại thường ẩn chứa rất nhiều những rủi ro. Một ngân hàng thương mại có thể phải đối mặt với các loại rủi ro sau : Rủi ro tín dụng. Rủi ro về nguồn vốn. Rủi ro về lãi suất. Rủi ro hối đoái. Rủi ro trong thanh toán. Các rủi ro thuần túy ( động đất, hỏa hoạn … ). Rủi ro mất khả năng chi trả ( đây thường là hậu quả của một hay nhiều rủi ro nêu trêu ). Trong đó, rủi ro tín dụng là loại rủi ro lớn nhất, thường xuyên xảy ra và thường gây ra hậu quả nặng nề nhất cho ngân hàng thương mại. Bên cạnh đó, rủi ro lãi suất cũng thường đem lại tổn thất cho ngân hàng, và ở một khía cạnh nào đó, nó cũng là nhân tố góp phần gây ra rủi ro tín dụng. Việc nghiên cứu ảnh hưởng của rủi ro tín dụng và rủi ro lãi suất để từ đó đưa ra giải pháp quản lý hai loại rủi ro này là rất cần thiết đối với ngân hàng thương mại. Có đánh giá tốt mức độ nghiêm trọng, và quản lý tốt thì ngân hàng thương mại mới có thể vận hành tốt được. Do còn nhiều hạn chế về kiến thức, và số liệu, bài viết này chỉ để cập đến phần lý thuyết, và một số con số thực tế của tình hình rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất và tình hình quản lý hai loại rủi ro này tại các ngân hàng thương mại Việt Nam. Phần 1. Rủi Ro- Các Loại Rủi Ro Rủi ro là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến. Nguyên nhân gây ra rủi ro: Ngân hàng là một trung gian tài chính huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế với lãi suất thấp và cho các tổ chức kinh tế ,cá nhân vay lại với lãi suất cao để thu lợi.Do lĩnh vực hoạt động của ngân hàng rất đa dạng và nhạy cảm có liên quan đến nhiều lĩnh vực của nền kinh tế nên chịu tác độngcủa nhiều nhân tố chủ quan lẫn khách quan. Ngoài lĩnh vực chính là huy động vốn và cho vay ngân hàng còn cung cấp nhiều dịch vụ khác như thanh toán,bảo lãnh,kinh doanh ngoại hối,chứng khoán,góp vốn liên doanh,dịch vụ thẻ đại lý …Vì vậy có thể nói rằng rủi ro ngân hàng rất đa dang..Ngoài ra ngân hàng còn hoạt động trong cơ chế thị trường có sự cạnh tranh khốc liệt giữa các ngân hàng với nhau hoặc các tổ chức tín dụng ,dẫn đến việc cạnh tranh về lãi suất để có thể huy động được vốn, làm cho lãi suất huy động cao hơn cũng là một trong những nguyên nhân gây ra rủi ro cho ngân hàng Có thể nói rủi ro tiềm ẩn trong từng hoạt động của ngân hàng và hiệu quả kinh doanh phụ thuộc phần lớn vào năng lực quản lý rủi ro của ngân hàng.Do vậy công tác quản trị rủi ro luôn là mối quan tâm hàng đầu, là vấn đề sống còn của mỗi ngân hàng Các loại rủi ro: Do đặc thù kinh doanh của ngân hàng mà có rất nhiều loại rủi ro : rủi ro ngoại hối, rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản và còn nhiều loại rủi ro khác: Rủi ro tín dụng : Là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến cho ngân hàng do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả hoặc không trả đầy đủ cả vốn và lãi.khi thực hiện cho vay một khách hàng ngân hàng không dự kiến khoản vay đó sẽ bị tổn thất.Tuy nhiên những khoản vay đó luôn hàm chứa rủi ro.Đây là loại rủi ro có quy mô lớn nhất,gắn liền với hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Rủi ro lãi suất. Là khả năng xảy ra tổn thất cho ngân hàng khi lãi suất thay đổi ngoài dự kiến.Lãi suất ngân hàng thường xuyên biến động với các mức độ khác nhau có thể dẫn đến rủi ro.Loại rủi ro này phát sinh trong quan hệ tín dụng của các tổ chức tín dụng do đó nó có quan hệ mật thiết với rủi ro tín dụng. Rủi ro hối đoái. Bất cứ hoạt động nào mà đồng tiền thu là một đồng tiền trong khi đồng tiên chi lại là một đồng tiền khác đều chứa đựng rủi ro Rủi ro ngoại hối là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến cho ngân hàng khi có sự thay đổi tỷ giá vượt quá dự tính của ngân hàng. Rủi ro thanh khoản. Là rủi ro xảy ra khi ngân hàng không thể có đủ tiền để đáp ứng các khoản phải trả khi đến hạn thanh toán,do tài sản không đủ khả năng thanh khoản hay ngân hàng không huy động được vốn.Nếu quản lý không tốt rủi ro thanh khoản xảy ra có thể dẫn ngân hàng đến nguy cơ phá sản,làm ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế. Các loại rủi ro khác. Ngoài những rủi ro kinh doanh như đã nói ở trên ngân hàng còn phải đương đầu với cac nguy cơ khác như khả năng cướp ngân hàng, nhầm lẫn trong thanh toán,hỏa hoạn, lỗi công nghệ,rủi ro về luật pháp, về việc quản lý tài sản ngoại bảng …Khi những rủi ro trên xảy ra đều ảnh hưởng đến uy tín và gây ra những tổn thất không nhỏ cho ngân hàng. Phần 2. RỦI RO TÍN DỤNG 1.Bản chất + Hoạt động tín dụng: Hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng nhất ,có quy mô lớn nhất của ngân hàng thương mại. Hoạt động tín dụng gồm có 4 hoạt động chính : Cho vay Bảo lãnh Cho thuê Chiết khấu + Rủi ro tín dụng: Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến cho ngân hàng do khách hàng vay không trả đúng kì hạn,không trả ,không trả đầy đủ vốn và lãi.Khi thực hiện cho vay một khách hàng cụ thể,ngân hàng không dự kiến là khoản cho vay đó sẽ bị tổn thất.tuy nhiên những khoản cho vay đó luôn hàm chứa rủi ro.Một số ý kiến cho rằng trên quan điểm quản lý toàn bộ ngân hàng ,tỷ lệ tổn thất dự kiến đối với hoạt động tín dụng luôn được xác định trước trong chiến lược hoạt động chung.Do vậy, khi tổn thấtdưới mức tỷ lệ tổn thất dự kiến,ngân hàng coi đó là 1 thànhh công trong quản lý. Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng nhất ,có qui mô lớn nhất của ngân hàng thương mại-hoạt động tín dụng.Khi thực hiện 1 hoạt động tài trợ cụ thể ngân hàng cố gắng phân tích các yếu tố của người vâyếo cho độ an toàn là cao nhất.Và nhìn chung ngân hàng chỉ quyết định cho vay khi thấy an toàn.Tuy nhiên ,không 1 nhà kinh doanh ngân hàng tài ba nào có thể dự doán chính xác các vấn đề sẽ xảy ra.Khả nănghoàn trả tiền vay của khách hàng có thể bị thay đổi bởi nhiều nguyên nhân.Hơn nữa ,nhiều cán bộ ngân hàng không có khả năng thực hiện phân tích tín dụng thích đáng.Do vậy ,trên quan điểm quản lý toàn bộ ngân hàng rủi ro tín dụnglà không thể tránh khỏi,là khách quan.Nhiều quan điểm nhất trí rằng ,rủi ro rín dụng là bạn đường trong kinh doanh ,có thể đề phòng ,hạn chế ,chứ không thể loại trừ.Do vậy rủi ro dự kiến luôn được xác định trong hoạt động chung của ngân hàng. 2.Nguyên nhân của rủi ro tín dụng 2.1.Nguyên nhân thuộc về người vay a).Nguyên nhân khách quan Đây là những nguyên nhân bất khả kháng,tác động tới người vay,tạo thuận lợi hoặc khó khăn cho người vay.những nguyên nhân đó có thểlà thiên tai ,chiến tranh,hoặc những thay đổi vĩ mô vượt quá tầm kiểm soát của cả người vay lẫn khách hàng Nhiều người vay ,với bản lĩnh của mình có khả năng dự báo ,thích ứng,hoặc khắc phục những khó khăn.trong những trường hợp khác,người vay vẫn có thể bị tổn thất song vẫn có khả năng trả nợ cho ngân hàng đúng hạn cả gốc và lãi,trường hợp này không gây tổn thất cho ngân hàng.Tuy nhiên ,khi tác động của những nguyên nhân bất khả khángđối với người vay là nặng nề,khả năng trả nợ của họ bị suy giảm. b).Nguyên nhân chủ quan của khách hàng Trình độ yếu kém của người vay trong dự đoán các vấn đề kinh doanh,yếu kém trong quản lí,chủ định lừa đảo cán bộ ngân hàng ,chây ì trả nợ…là nguyên nhân gây rủi ro tín dụng.Rất nhiều người vay sẵn sàng mạo hiểm với kì vọng thu được lợi nhuận cao. Để đạt được mục đích của mình họ sẵn sàng tìm mọi thủ đoạn ứng phó với ngân hàng như cung cấp thông tin sai(rủi ro đạo đức),mua chuộc(là nguyên nhân gây nên lụa chọn đối nghịch)…nhiều người cho vay đã không tính toán kĩ lưỡng hoặc không có khả năng tính toán kĩ lưỡng những bất trắc có thể xảy ra,không có khả năng thích ứng và khắc phục khó khăn trong kinh doanh.Trong trường hợp còn lại,người vay kinh doanh có lãi song vẫn không trả nợ cho ngân hàng đúng hạn,họ chây ì với hy vọng có thể quỵt nợ hoặc sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt. 2.2.Nguyên nhân thuộc về ngân hàng Chất lượng cán bộ kém,không đủ trình độ đánh giá khách hàng hoặc đánh giá không tốt,cố tình làm sai… Thiếu nguồn nhân lực trầm trọng,công tác tuyển dụng chưa thực sự nghiêm túc và sàng lọc tốt, đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra... Ma lực cám dỗ của đồng tiên gây nên sự sa sút về đạo đức Ngân hàng mở rộng hoạt động,tầm cỡ quốc gia và quốc tế,không kịp nâng cấp trình độ đội ngũ nhân viên gây nên thiếu am hiểu về khách hàng,gây rủi ro tín dụng 3.Các chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng Tuy rủi ro tín dụng là khách quan song ngân hàng phải quản lí rủi ro tín dụng nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các tổn thất có thể xảy ra.Từ những nguyên nhân nảy sinh RRTD ,ngân hàng cụ thể hoá thành những chỉ tiêu hoặc dấu hiệu chính phát sinh trong hoạt động tín dụng phản ánh RRTD: (1).Nợ quá hạn và tỉ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ. (2).Nợ khó đòi và tỉ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ. (3).Nợ có vấn đề. (4).Tính đa dạng hoá của tài sản. (5).Tình hình tài chính và phương án của người vay(các yếu tố của người vay)hoặc xếp hạng tín dụng người vay (6) Đảm bảo tiền vay. (7).Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng. (8)Môi trường hoạt động của người vay. 3.1.Nợ quá hạn Nợ quá hạn và tỉ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ.Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đã đến hạn thoả thuận ghi trên hợp đồng tín dụng.Khi 1 món nợ không trả được vào kì hạn nợ,toàn bộ nợ gốc còn lại của hợp đồng sẽ được chuyển thành nợ quá hạn. Nợ khó đòi và tỉ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ.Nợ khó dòi là khoản nợ quá hạn và kèm theo 1 số tiêu chí khác như quá 1 kì gia hạn nợ,hoặc không có tài sản đảm bảo,hoặc tài sản không bán được ,con nợ thua lỗ triền miên,phá sản… Các chỉ tiêu này có liên quan chặt chẽ đến nhau và phản ánh các mức độ rủi ro tín dụng khác nhau. Đối với ngân hàng ,việc khách hàng không trả đúng hạn có liên quan đến thanh khoản và rủi ro thanh khoản:Chi phí gia tăng để tìm nguồn mới để chi trả tiền gửi và cho vay đúng hợp đồng.Nợ khó đòi là 1 lời cảnh báo cho ngân hàng:Hy vọng thu lại tiền vay trở nên mong manh,ngân hàng cần có biện pháp hữu hiệu để giải quyết. Các yếu tố ảnh hưởng đến chỉ tiêu nợ quá hạn: Thứ nhất,do định kì hạn nợ không đúng. Nhiều cán bộ ngân hàng khi cho vay không quan tâm đích đáng đến chu kì kinh doanh của người vay,hoặc do nguồn ngắn hạn là chủ yếu,họ đặt kì hạn nợ ngắn để hạn chế rủi ro.Kì hạn nợ không phù hợp với chu kì thu nhập của người vay.Khi đến hạn người vay dĩ nhiên sẽ không thể trả được nợ,gây nợ quá hạn.Khoản nợ này trở thành mối đe doạ tài chính đối với người vay,buộc họ phải trả thêm khoản “phụ phí” để được gia hạn nợ,hoặc phải chịu lãi suất phạt. Thứ hai,do đảo nợ hoặc giãn nợ. Nhiều khoản nợ người vay không có khả năng hoàn trả có thể được đảo nợ làm giảm nợ quá hạn so với thực tế. Để che dấu đối với ngân hàng cấp trên,hoặc để không phải chịu lãi phạt,người vay và nhân viên ngân hàng thoả thuận vay khoản mới để trả nợ cũ.Nhân viên ngân hàng cũng có thể thực hiện giãn nợ đối với những khoản nợ mà người vay chắc chắn không trả được.Những hành vi này làm chỉ tiêu nợ quá hạn và nợ khó đòi không phản ánh đầy đủ RRTD. Thứ ba,do chính sách cho vay. Rất nhiều các khoản cho vay khó đòi không thể thu hồi bằng phát mại tài sản(Doanh nghiệp nhà nước,người nghèo,tài sản không rõ ràng…).Những khoản cho vay này phần lớn là cho vay theo chỉ thị của chính phủ.Khi Chính phủ chưa có biện pháp giải quyết,chúng vẫn tồn tại trên bảng cân đối của ngân hàng,trở thành tài sản “ảo”.Xử lí khoản nợ này rất phức tạp.Nhiều ngân hàng loại chúng ra khỏi chỉ tiêu nợ quá hạn và nợ khó đòi ,xếp vào nợ khoanh (khi được chính phủ đồng ý).Tuy nhiên ,chúng thực sựđe doạ thu nhập của các ngân hàng nếu Chính phủ không tìm được nguồn bù đắp. 3.2.Các chỉ tiêu khác: Bên cạnh nợ quá hạn và nợ khó đòi,nhà quản lí ngân hàng còn sử dụng các hình thức đo RRTD khác gắn liền với chiến lược đa dạng hoá tài sản,lập hồ sơ khách hàng,trích lập quỹ dự phòng, đạt giá đối với các khoản cho vay… Điểm của khách hàng Thông qua phân tích tình hình tài chính,năng lực sản xuất kinh doanh,hiệu quả thực hiện dự án,mối quan hệ và tính sòng phẳng…ngân hàng lập hồ sơ về khách hàng,xếp loại và cho điểm.Khách hàng loại A hoặc điểm cao,RRTD thấp,khách hàng loại C hoăc điểm thấp,RRTD cao.Cỉ tiêu này được xây dựng dựa trên các dấu hiệu rủi ro mà ngân hàng xây dựng. Điểm của khách hàng cho thấy rủi ro “tiềm ẩn”. Các khoản cho vay có vấn đề Mặc dù chưa và chưa được coi là nợ quá hạn,song trong quá trình theo dõi,nhân viên ngân hàng nhận thấy nhiều khoản tài trợ đang có dấu hiệu kém lành mạnh,có nguy cơ trở thành nợ quá hạn.Khoản cho vay có vấn đề được xây dựng dựa trên quy định của ngân hàng. Tính kém đa dạng của tín dụng. Đa dạng hoá là biện pháp hạn chế ruỉ ro.Những thay đổi trong chu kì của người vay là khó tránh khỏi.Nếu ngân hàng tập trung tài trợ cho 1 nhóm khách hàng của 1 ngành hoặc 1 vùng hẹp thì rủi ro sẽ cao hơn đa dạng hoá. Mất ổn định vĩ mô Chính sách thường xuyên thay đổi,lạm phát cao,tình hình chính trị mất ổn định,vùng hay bị thiên tai…đều tạo nên mất ổn định vĩ mô,tác động xấu đến người vay.Do vậy,mất ổn định vĩ mô được ngân hàng xem là 1 nội dung phản ánh RRTD. 4.Những thiệt hại từ rủi do tín dụng. Đối với nền kinh tế: Hoạt động ngân hàng liên quan đến hoạt động doanh nghiệp, các ngân hàng,các cá nhân, vì vậy khi một ngân hàng gặp phải rủi ro tín dụng hay bị phá sản thì người gửi tiền ở các ngân hàng khác hoang mang lo sợ kéo nhau ồ ạt đến rút tiền,làm cho hệ thống ngân hàng gặp khó khăn.Ngân hàng phá sản sẽ ảnh hưởng đến tình hình sản xuất của doanh nghiệp Sự khủng hoảng của ngân hàng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế.Nó làm cho nền kinh tế bị suy thoái, giá cả gia tăng,sức mua giảm, thất nghiệp tăng,giá cả mất ổn định. Nền kinh tế thế giới cũng chụi tác động rất lớn khi rủi ro tín dụng xảy ra.Do ngày nay nền kinh tế mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào nền kinh tế thế giới, là nhân tố của nền kinh tế thế giới.Kinh nghiệm cho thấy cuộc khủng hoảng tài chính châu Á (1997),cuộc khủng hoảng tài chính Nam Mỹ(2001-2002)… đã làm rung chuyển toàn cầu.Mặt khác mối liên hệ về tiền tệ, đầu tư giữa các nươc rất nhanh neenruir ro tín dụng ở một nước ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế các nước có liên quan. Đối với ngân hàng: Rủi ro tín dụng xảy ra ngân hàng không thu hồi vốn cho vay, nhưng phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy động khi đến hạn, điều này làm cho ngân hàng mất cân đối trong việc thu chi.Khi không thu hồi được nợ thì vòng quay vốn tín dụng giảm ngân hàng konh doanh không có hiệu quả.Khi gặp phải rủi ro tín dụng ngân hàng thường gặp phải ro thanh khoản, làm mất lòng tin gửi tiền, ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng. Rủi ro tín dụng của một ngân hàng xảy ra ở mức độ khác nhau, nhẹ nhất là ngân hàng bị giảm lợi nhuận, nặng nhất không thu hồi được vốn và lãi, nợ thất thu thu với tỷ lệ cao dẫn đến ngân hàng bị lỗ mất vốn. Nếu tình trạng này kéo dài không khắc phục được , ngân hàng sẽ bị phá sản, gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng. 5. Thực trạng rủi ro tín dụng tại các ngân hàng Việt Nam : Như ta đã biết, rủi ro tín dụng là loại rủi ro lớn nhất, thường xuyên xảy ra và thường gây ra hậu quả nặng nề nhất. Tuy nhiên, hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại là tín dụng và đầu tư. Thông thường, trên thế giới, hoạt động này mang lại khoảng 6% thu nhập, còn ở Việt Nam, hoạt động này mang lại trên 90% tổng thu nhập của mỗi ngân hàng. Do nguồn thu nhập cao từ hoạt động tín dụng và đầu tư mang lại, các ngân hàng đã bất chấp rủi ro. Thực trạng tình hình tín dụng ở các ngân hàng thương mại Việt Nam có thể khái quát như sau : 5.1. Thực trạng rủi ro tín dụng tại các ngân hàng: 5.1.1Vấn đề sử dụng nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn : Theo báo cáo của Vụ chiến lược phát triển ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho thấy: Các ngân hàng thương mại Nhà nước chiếm 76% tổng nguồn vốn huy động và 73,5% tổng dư nợ cho vay của toàn bộ hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam nhưng chỉ đạt tỷ lệ vốn tự có so với tổng tài sản rủi ro trung bình là 3,05% (tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu) trong khi thông lệ quốc tế yêu cầu tối thiểu phải đạt là 8%. Một ví dụ điển hình về tình hình kỳ hạn của nguồn vốn tại ngân hàng thương mại Việt Nam là: trong năm 2005, dự kiến tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh là 53.000 tỷ đồng. Trong số này, chỉ riêng nguồn vốn trung và dài hạn chiếm khoảng 46.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, việc huy động từ ngân hàng và các tổ chức tín dụng đang là mối lo lớn của thành phố. Theo các ngân hàng trên địa bàn thành phố, hiện tại hầu hết vốn các ngân hàng thương mại là nguồn vốn ngắn hạn. Nếu lấy vốn ngắn hạn đầu tư cho dài hạn, tiềm ẩn nguy cơ bất ổn, thậm chí có thể dẫn tới lạm phát, khủng hoảng tài chính như các nước Đông Nam Á vào những năm cuối thập kỷ 90 của thế kỷ trước.  Tuy nhiên, cơ cấu vốn huy động của ngân hàng thương mại đã được thay đổi theo hướng tích cực, cơ cấu vốn huy động từ dân cư tương đối ổn định, chiếm khoảng 50 - 52%. Đây là nguồn vốn ổn định tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng trong việc đưa ra các quyết định cho vay, đầu tư và đảm bảo được khả năng thanh khoản về kỳ hạn vốn huy động đã có sự thay đổi, nguồn vốn trung và dài hạn tăng dần: năm 2000 là 26.7%, năm 2004 là 38%, năm 2005 là 40%. Tuy nhiên, trong tổng nguồn vốn huy động trung và dài hạn chủ yếu là kỳ hạn loại 1 – 2 năm, loại kỳ hạn từ 5 năm trở lên tăng chỉ chiếm trên 7%. Các ngân hàng thương mại được sử dụng tối đa 40% tổng nguồn vốn ngắn hạn của mình để cho vay trung, dài hạn. Tỷ lệ này ở các tổ tức tín dụng khác là 30%. Đó là một trong những nội dung quan trọng trong quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn hoạt động của tổ chức tín dụng, ban hành kèm theo Quyết định số 457 ngày 19/4/2005 của Ngân hàng Nhà nước. Theo quy định này, nguồn vốn ngắn hạn được phép sử dụng để cho vay dài hạn gồm tiền gửi và tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn dưới 12 tháng của tổ chức, cá nhân; nguồn vốn huy động dưới hình thức phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn; phần chênh lệch lớn hơn giữa số tiền vay của tổ chức tín dụng khác và tiền cho tổ chức tín dụng đó vay có kỳ hạn dưới 12 tháng. Trường hợp tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung hạn, dài hạn cao hơn tỷ lệ quy định phải có văn bản đề nghị Ngân hàng Nhà nước chấp thuận, trong đó nêu rõ lý do, tỷ lệ tối đa và các biện pháp quản lý đáp ứng khả năng chi trả. Ngân hàng Nhà nước chỉ có thể xem xét, chấp thuận đề nghị nói trên của tổ chức tín dụng đã tuân thủ các tỷ lệ khác về bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng, có tỷ lệ nợ xấu dưới 3% tổng dư nợ và có thể thống quản lý tài sản tốt. Điều này cho thấy sự thiếu hụt trầm trọng nguồn vốn dài hạn của các ngân hàng hiện nay so với thực tế cho vay chênh lệch về thời gian đáo hạn giữa nguồn đi vay ngân hàng và các khoản cho vay dài hạn và hệ thống ngân hàng tạo nên rủi ro rất lớn đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam. Mặt khác, vừa qua ngân hàng nhà nước và chính phủ, Bộ tài chính đã đưa ra hàng loạt các chính sách nhằm kiềm chế lạm phát, điều này cũng dẫn tới một số ảnh hưởng quan trọng tới nguồn vốn và tình hình tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam. Thông tin NHNN rút về 52,7 nghìn tỉ đồng - đây là số tiền được các NHNN gửi ở các ngân hàng thương mại quốc doanh cách đây 10 năm - đang dấy lên lo ngại ngân hàng thương mại nhà nước sẽ căng thẳng vốn khả dụng, ảnh hưởng đến khả năng cho vay nền kinh tế  và giảm cho vay trên thị trường liên NH khiến các ngân hàng thương mại cổ phần sẽ bị ảnh hưởng. Bên cạnh đó, việc NHNN thực hiện việc tăng lãi suất chiết khấu nhằm làm giảm lạm phát trong 3 tháng đầu năm 2008, hiệu ứng của sự gia tăng lãi suất chiết khấu chính là: khi ngân hàng trung ương tăng lãi suất chiết khấu, việc này sẽ không tác động ngay lập tức lên thị trường chứng khoán. Thay vì vậy, lãi suất chiết khấu lại có những tác động trực tiếp theo cách của riêng nó. Nó khiến cho việc vay tiền của ngân hàng thương mại từ ngân hàng trung ương trở nên đắt hơn. Tuy nhiên, sự gia tăng lãi suất chiết khấu không chỉ dừng lại ở đó, nó còn tạo nên tác động lan truyền ảnh hưởng đến hầu hết các cá nhân và doanh nghiệp. Tác động gián tiếp đầu tiên của việc gia tăng lãi suất chiết khấu: các ngân hàng sẽ tăng lãi suất cho vay đối với khách hàng. Khách hàng cá nhân bị ảnh hưởng thông qua việc lãi suất tăng đối với thẻ tín dụng và các khoản vay ngắn hạn khác. Song song đó, các cá nhân cũng có thể sẽ hạn chế mức vay nợ xuống, do vậy lúc này người tiêu dùng sẽ có ít tiền hơn để chi tiêu. Sau cùng, mỗi tháng mọi người đêù phải trả tiền cho các hoá đơn và khi các hoá đơn này trở nên đắt hơn thì khoản thu nhập dự phòng của mỗi gia đình sẽ trở nên ít hơn. Lãi suất chiết khấu tác động đến các khách hàng tiêu dùng cá nhân, đến lượt mình sự thay đổi trong hành vi của người tiêu dùng cá nhân lại ảnh hưởng đến các doanh nghiệp, tuy nhiên với doanh nghiệp ảnh hưởng của sự tăng lãi suất chiết khấu không chỉ có thế, họ còn chịu tác động nhiều hơn. Dễ thấy, chính bản thân các doanh nghiệp cũng cần vay tiền từ ngân hàng thương mại để duy trì hoạt động và mở rộng sản xuất. Một khi các khoản vay từ ngân hàng trở nên đắt hơn thì các doanh nghiệp sẽ có tâm lý ngại vay tiền và thực tế thì họ phải trả lãi suất cao hơn cho các khoản vay. Với một doanh nghiệp trong thời kỳ tăng trưởng thì điều này có thể tác động nghiêm trọng, doanh nghiệp phải thu hẹp phạm vi hoạt động và kết quả là lợi nhuận bị giảm sút. Không chỉ dừng lại ở đó, Việc các chính sách của nhà nước thực hiện nhằm thu một lượng tiền lớn trong lưu thông về làm cho các ngân hàng thương mại thiếu hụt nguồn tiền lớn. Chính vì vậy, các ngân hàng thương mại đã thực hiện tăng lãi suất tiền gửi có lúc lên đến 12 – 14% để huy động vốn từ trong dân cư. Tuy nhiên, một số nhận định cho rằng việc đua tăng lãi suất của các ngân hàng thương mại chẳng qua dẫn đến việc dòng tiền dịch chuyển từ ngân hàng này tới ngân hàng khác chứ không huy động được thêm dòng tiền nhàn rỗi trong dân cư. Chính vì việc tăng lãi suất huy động tiền gửi nên các ngân hàng cũng phải thực hiện tăng lãi suất cho vay để bù trừ chi phí. Thời gian gần đây, nhu cầu vay vốn của người dân và doanh nghiệp rất lớn, trong khi nguồn vốn huy động của các ngân hàng có hạn, đã đẩy lãi suất cho vay vốn tại các ngân hàng nhích lên. Trước đây lãi suất cho vay của ngân hàng quốc doanh thường thấp hơn ngân hàng cổ phần, nay tình hình đã khác... Người đang vay vốn ngân hàng rất lo vì lãi suất cao ngất ngưởng: 1,7%/tháng (tức trên 20%/năm). Thậm chí, có người phải vay với lãi suất 1,9% hoặc với thấp hơn nhưng phải “tốn thêm” để có mức 1,6 - 1,7%/tháng. Ngoài việc tăng lãi suất, một số ngân hàng còn hạn chế tín dụng bằng cách dừng hẳn việc cho vay tín chấp hoặc nâng cao lãi suất cho vay. Lãi suất tăng gây bất lợi cho hoạt động tín dụng, làm giảm lượng khách hàng vay và có thể khiến chất lượng tín dụng xấu đi. Việc tăng lãi suất cho vay khiến cho các doanh nghiệp càng khó tiếp cận với nguồn vốn hơn, khiến cho các dự án bế tắc, các doanh nghiệp không vay được vốn khiến cho tăng trưởng kinh tế giảm. Đồng thời các ngân hàng thương mại vì khan hiếm nguồn vốn, cũng khó khăn hơn trong việc thực hiện cho vay, khiến cho tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại giảm và đe dọa tới thu nhập của ngân hàng. 5.1.2. Nợ xấu của các ngân hàng thương mại Việt Nam : Tính rủi ro cao và đa dạng là một trong những đặc thù của hoạt động của ngân hàng. Việc giảm thiểu rủi ro đến mức tối đa luôn là mối quan tâm hàng đầu của các ngân hàng thương mại từ trước tới nay (bởi lẽ rủi ro trong các ngân hàng thương mại ngày càng đa dạng và phức tạp, nhất là rủi ro tín dụng). Không giống như các doanh nghiệp SX-KD thông thường, với các ngân hàng thương mại thì chỉ một vài khoản cho vay tồi, không thu hồi được vốn thì lợi nhuận cả năm của ngân hàng đó khó có thể bù đắp được, đó là chưa nói đến ngay lập tức còn có thể gây mất khả năng thanh toán của ngân hàng đó. Đặc biệt ở Việt Nam vẫn là hoạt động tín dụng (lãi thu được từ hoạt động tín dụng chiếm tới gần 80% trong tổng số lợi nhuận). Thực tế đã cho thấy, việc giảm thiểu rủi ro tín dụng là nhân tố quyết định sự thành bại trong hoạt động của các ngân hàng thương mại. Đặc biệt ở nước ta hiện nay khi các ngân hàng thương mại đang hoạt động trong thị trường có nhiều biến động và cạnh tranh ngày càng quyết liệt với quá trình tự do hóa tài chính ngày càng cao trong bối cảnh thực hiện hội nhập quốc tế, vấn đề quản lý rủi ro trong hoạt động của các ngân hàng thương mại đang cần được quan tâm nghiên cứu. Mặc dù trong thời gian gần đây, Nhà nước đã có nhiều chính sách và các ngân hàng thương mại đã có nhiều giải pháp tích cực nhằm giảm thiểu rủi ro tín dụng ở các ngân hàng thương mại thông qua các chính sách phòng ngừa và xử lý rủi ro tín dụng (chẳng hạn như việc triển khai và thực hiện quyết định 493/2005/QĐ-NHNN của NHNN về phân loại nợ và trích lập dự phòng, Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN của NHNN quy định về các tỷ lệ an toàn trong hoạt động ngân hàng…) song trên thực tế, hiện nay vẫn còn nhiều ngân hàng thương mại vẫn có tỷ lệ nợ quá hạn cao, rủi ro tiềm tàng trong hoạt động tín dụng còn rất lớn. Điều đáng lo ngại, trong năm 2006, bên cạnh sự phát triển mạnh của hệ thống ngân hàng, lợi nhuận tăng cao, giá cổ phiếu tăng cao, quy mô ngân hàng mở rộng, các hoạt động kinh doanh của ngân hàng phát triển mạnh song nợ quá hạn vào cuối năm 2006 lại có chiều hướng tăng lên so với cuối năm 2005. Cụ thể là: Tỷ trọng nợ xấu/tổng dư nợ cho vay của khối ngân hàng là 3.85%, cao hơn so với năm 2005 (3.18%); đáng lưu ý hơn là tỷ trọng nợ xấu của ngân hàng thương mại nhà nước là 4.84% tăng khá nhiều so với năm 2005 (3.79%). Tỷ trọng nợ xấu của khối ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có sự gia tăng nhẹ nhưng vẫn dưới 1%. Riêng khối ngân hàng cổ phần có tỷ trọng nợ xấu là 1.96% giảm so với năm 2005 (2.15%). Mặc dù tỷ trọng nợ xấu của toàn hệ thống ngân hàng dưới 5% tổng dư nợ cho vay nhưng vẫn ở mức cao so với các nước trong khu vực (trên dưới 2%). Năm 2006, Thị trường bất động sản đóng băng, nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ nên nợ xấu của ngân hàng có nguy cơ tăng cao, hệ thống ngân hàng thương mại trên địa bàn TP Hồ Chí Minh đã đầu tư vào thị trường bất động sản số vốn gần 26.000 tỉ đồng (tương đương 15%/tổng dư nợ cho vay), trong khi đó BĐS đóng băng nên sẽ khó khăn cho ngân hàng trong việc thu hồi khoản vốn này. Và tình hình nợ xấu tại các ngân hàng thương mại năm 2006 tăng lên một cách đáng kể. Sau đây là một báo cáo về tình hình hoạt động của khối ngân hàng thương mại : TT Chỉ tiêu Q2/2005 Q1/2006 Q2/2006 Tăng/ giảm so với Q1/2006 Tăng/ giảm so với QII/2005 1 Tổng tài sản có 723.187.217 872.062.870 938.010.842 7,56% 29,71% 2 Tài sản có sinh lời 625.324.117 803.096.004 864.473.549 7,64% 38,24% 3 Tổng dư nợ 494.671.524 540.886.878 573.449.764 6,02% 15,93% 4 Nợ xấu 10.133.536 Số liệu lấy theo chỉ tiêu Nợ quá hạn 18.134.371 17.251.823 -4,87% Không áp dụng so sánh 5 Vốn huy động từ cá nhân, tổ chức kinh tế 477.501.820 593.575.355 641.678.955 8,10% 34,38% 6 Tỉ lệ Vốn huy động từ cá nhân, tổ chức kinh tế/Tổng nguồn vốn 66,03% 66,00% 68,41% 2,41% 2,38% 7 Vốn huy động từ thị trường liên ngân hàng 95.291.348 112.697.323 123.883.374 9,93% 30,00% 8 Tỉ lệ Vốn huy động từ thị trường liên ngân hàng/Tổng nguồn vốn 13,00% 13,00% 13,21% 0,21% 0,21% 9 Kết quả kinh doanh 6.765.105 6.298.418 9.424.799 Không áp dụng so sánh 39,31% 10 Số lượng các NHTM tham gia bảo hiểm tiền gửi 66 67 71 5.97% 7.58% 11 Số lượng NH lỗ lũy kế 3 3  3  0 0  Chất lượng tín dụng là yếu tố các ngân hàng thương mại cần quan tâm. Nợ xấu chiếm 3,4% trong tổng dư nợ. Tổng giá trị các khoản nợ xấu có giảm so với quý I nhưng vẫn ở mức cao (hơn 17 nghìn tỷ). Nợ xấu của các ngân hàng thương mại chiếm 3,4% tổng dư nợ. Nợ xấu tập trung vào các NHTM Nhà nước. Có ý kiến cho rằng tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng thương mại còn cao hơn rất nhiều do phương pháp phân loại và việc thực hiện phân loại, đánh giá nợ tại mỗi ngân hàng. Tổng giá trị các khoản nợ xấu tính đến quý 2 năm 2006 mặc dù có giảm so với quý 1/2006 nhưng vẫn ở mức cao (khoảng hơn 17 nghìn tỷ). Theo thông báo của Ngân hàng nhà nước, cuối năm 2005, tỷ lệ nợ xấu tổng hợp toàn bộ hệ thống ngân hàng thương mại là 4.4%. Đây là kết quả đánh giá là có bước tiến gần với các chuẩn mực quốc tế trong phân loại nợ và trích dự phòng rủi ro. Cuối năm 2006, đầu năm 2007, tỷ lệ nợ xấu là 3.2% (tỷ lệ này là trên 7% đối với ngân hàng thương mại nhà nước). Tuy vậy, theo dự tính của IMF thì tỷ lệ nợ xấu của cả nội bảng và ngoại bảng cao hơn rất nhiều. Báo cáo của ngân hàng thế giới cuối năm 2006 cho biết “các khoản nợ xấu của ngân hàng thương mại nhà nước chủ yếu được xử lý bằng cách xóa nợ và tái cấp vốn cho các ngân hàng này mà không phụ thuộc vào việc các ngân hàng này có cải cách mạnh mẽ hay không?”. Do vậy, tình trạng nợ xấu và hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam là vấn đề mà các ngân hàng cần đặc biệt quan tâm và cần có biện pháp xử lý kịp thời. Thực hiện quy định mới về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro phù hợp dần theo thông lệ quốc tế thì một số ngân hàng thương mại lại phát sinh các khoản nợ quá hạn mới do phải chuyển nợ quá hạn theo cơ chế. Đặc biệt là các khoản nợ cho vay các DN xây ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10370.doc
Tài liệu liên quan