Sinh viờn với giỏo dục quốc phũng

LỜI MỞ ĐẦU Giáo dục quốc phòng là một môn học bao gồm kiến thức rộng lớn về khoa học xã hội , tính nhân văn , khoa học tự nhiên và khoa học kĩ thuật quân sự.Là môn học được thể hiện trong đường lối giáo dục của Đảng và Nhà nước; được thể chế hoá bằng các văn bản pháp qui cua Việt Nam , nhằm góp phần đào tạo ra những con người có đủ phẩm chất và năng lực chuyên môn làm tốt hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc.Môn học giáo dục quốc phòng tạo điều kiên cho sinh viên có thể hoc tập th

doc12 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1493 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Sinh viờn với giỏo dục quốc phũng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
eo năng lực của mình , tích luỹ kiến thức theo từng học phần , chứng chỉ.Sinh viên khi đã tích luỹ đủ học phần , chứng chỉ được dự thi lấy chứng chỉ môn học giáo dục quốc phòng theo nghị định của chính phủ , quy chế của bộ giáo dục và đào tạo ; ở trường đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội bộ môn này được học trải đều trong hai tháng , học như các môn học bình thường khác , điều này giúp sinh viên có hứng thú hơn với môn học. Công tác dạy học như vậy đã giúp em nhớ rất lâu kiến thức quốc phòng và trong bài tiểu luận này em xin trình bày về chủ đề “sinh viên với giáo dục quốc phòng”. NỘI DUNG I. Giáo dục quốc phòng_mục tiêu giáo dục toàn diện của các nhà trường 1.GDQP gắn kết quả giáo dục đào tạo với quốc phòng an ninh Dựng nước phải đi đôi với giữ nước. Đó là qui luật tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam trong mấy ngàn năm lịch sử.Khi có giặc ngoại xâm cũng như khi đất nước hoà bình thịnh trị , ông cha ta luôn chăm lo kế sách lâu dài , “sâu rễ bền gốc” luyện binh lúc thư nhàn… Dưới sự lãnh đạo của Đảng , truyền thống dựng nước giữ nước của dân tộc ta được phát huy cao độ trong chiến lược phát triển đất nước:xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Viêt Nam.Sự gắn bó có tính lịch sử , biện chứng có tính tất yếu này khẳng định quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc ta luôn luôn gắn liền hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Tình hình quốc tế và khu vực trong thời gian qua cho thấy rằng , trong những thập niên đầu thế kỉ 21 , đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp vẫn diễn ra một cách gay gắt .Những năm tới , ít có khả năng diễn ra các cuộc chiến tranh quy mô lớn và chiến tranh thế giới nhưng các cuộc chiến tranh cục bộ và tranh giành sác tộc vẫn diẽn ra ở nhiều khu vực.Các thế lực thù địch có thể núp dưới chiêu bài dân chủ , nhân quyền để phát động các cuộc chiến tranh nhằm thôn tính các dân tộc khác. Mặt khác , thế giới đang đứng trước các vấn đề có tính toàn cầu , bản thân mỗi nước không thể tự giải quyết được mà phải có sự phối hợp đa phương như : bảo vệ hoà bình , bảo vệ môi trường , chống tội phạm quốc tế. Xu hướng toàn cầu hoá về kinh tế đang là một xu thế khách quan.Toàn cầu hoá về kinh tế , dù nhiều , dù ít , các nước đều có sự phụ thuộc lẫn nhau : quan hệ đối tác trở nên không rõ ràng , vừa hợp tác vừa đấu tranh.Các nước phát triển đang lợi dụng ưu thế về vốn , trình độ khoa học kĩ thuật và công nghệ hiện đại để ép các nước đang phát triển.Mặt khác do sự phát triển manh mẽ của khoa học công nghệ làm vũ khí , trang bị quân sự liên tục đổi mới và phát triển với những vũ khí hiện đại , độ chính xác cao , tinh khôn , nhiều chức năng như : tàng hình , độ sát thương lớn , nguyên lí sát thương phá hoại khác với vũ khí thông thường…điều đó không những làm thay đổi biên chế , tổ chức quân đội các nước , mà còn thay đổi phương thức tiến hành chiến tranh , phương thức bảo vệ tổ quốc , nghệ thuật quân sự.Tình hình đó làm cho nhiệm vụ quốc phòng ngày nay đã có nhiều thay đổi cả về nội dung , phương thức và đối tượng.Nghị quyết Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 9 về quốc phòng an ninh đã chỉ rõ những yêu cầu mới về bảo vệ tổ quốc :”bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa là bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền , thống nhất toàn vẹn lãnh thổ : bảo vệ an ninh quốc gia , trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá ; bảo vệ Đảng , nhà nước , nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa ; bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia dân tộc. Yêu cầu mới về nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc đòi hỏi phải nâng cao hơn nữa chất lượng , hiệu quả công tác quốc phòng bảo đảm cho đất nước nói chung và từng khu vực tỉnh , thành phố phải luôn chủ động sẵn sàng , không để bị bất ngờ trước mọi tình huống xảy ra ;giữ vững ổn định , ngăn ngừa , đẩy lùi mọi nguy cơ chiến tranh , để tập trung xây dựng đất nước .Điều đó đặt ra yêu cầu quan trọng là phải tăng cường quốc phòng toàn dân , phải gắn kết chặt chẽ quá trình giáo dục đào tạo với thực hiện nhiệm vụ quốc phòng an ninh , nhằm tăng cường tính hiệu quả trong việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược.Thực hiện tốt các mặt công tác quốc phòng , trong đó có nhiệm vụ giáo dục quốc phòng cho sinh viên là thiết thực góp phần ổn định chính trị , trật tự , an toàn xã hội , tạo điều kiện thuận lợi để phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo .Giáo dục quốc phòng góp phần nâng cao dân trí , tăng cường tiềm lực về tri thức phòng thủ đất nước.Con đường hiệu quả nhất để đưa đường lối của Đảng về quốc phòng an ninh vào cuộc sống phải bằng con đường giáo dục đào tạo.Chỉ có giáo dục đào tạo mới làm con người nhận thức được đầy đủ , đúng đắn về nhiệm vụ bảo vệ đất nước.Giáo dục quốc phòng làm cho thế hệ trẻ sinh viên nhận thức được giá trị độc lập , tự do , sự hy sinh lớn lao của thế hệ ông cha để bảo vệ đất nước.Trong mỗi gian đoạn cách mạng và đổi mới giáo dục đào tạo chương trình giáo dục quốc phòng , từ tên gọi đến nội dung đều được đổi mới kịp thời , đáp ứng những vấn đề cơ bản về đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân của Đảng. Trước tình hình đổi mới của đất nước và đổi mới giáo dục đào tạo , cuối năm 1991 chuơng trình huấn luyện quân sự phổ thông dược đổi thành chương trình môn học giáo dục quốc phòng với mục tiêu rõ ràng hơn rộng lớn hơn , phù hợp với yêu cầu phát triển của giáo dục đào tạo và nhiệm vụ bảo vệ đất nước trong thời bình .Giáo dục quốc phòng không chỉ trang bị các kĩ năng quân sự cần thiết , mà quan trọng hơn là trang bị cho sinh viên một số vấn đề cơ bản về đường lối quốc phòng và quân sự của Đảng , kiến thức quốc phòng để người cán bộ khoa học kĩ thuật , chuyên môn nghiệp vụ và quản lí kinh tế biết kết hợp kinh tế với quốc phòng , quốc phòng với kinh tế , quốc phòng với an ninh và đối ngoại ngay trên từng cương vị công tác. Môn học giáo dục quốc phòng tạo điều kiện cho sinh viên có thể học tập theo năng lực của mình , tích luỹ kiến thức theo học phần chứng chỉ.Sinh viên sau khi tích luỹ đủ được dự thi lấy chứng chỉ môn giáo dục quốc phòng theo nghị định của chính phủ , quy chế của bộ giáo dục và đào tạo. Kế tục và phát huy những kết quả thực hiện chương trình môn học giáo dục quốc phòng những năm qua , để đáp ứng yêu cầu bảo vệ tổ quốc trong giai đoạn mới phù hợp với quy chế quản lí giáo dục đào tạo bậc đại học , năm 2000 bộ GDDT đã ban hành môn GDQP đổi mới , thay thế cho chương trình môn học GDQP ban hành năm1991. Như vậy trong từng giai đoạn cách mạng , chương trình môn học GDQP đều có những đổi mới phục vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước và công tác quốc phòng trong từng thời kì , gắn kết chặt chẽ các mục tiêu GDDT với QPAN. GDQP an ninh cho sinh viên không riêng chỉ Việt Nam nhiều quốc gia trên thế giới , không phân biệt chế độ chính trị , quy mô quốc gia , trình độ kinh tế khoa học kĩ thuật và công nghệ đều được quan tâm và đưa vào chương trình chính khoá trong các nhà trường.Ví dụ như : Singapore có chương trình phòng thủ tổng lực.Cục trưởng cục GDQP nằm trong Bộ Quốc phòng. Australia thực hiện chính sách phổ cập huấn luyện quân sự cho thanh niên khi còn học ở các trường trung học , dạy nghề và đại học toàn liên bang.Trung Quốc , các cán bộ khoa học kĩ thuật , chuyên môn nghiệp vụ được đào tạo theo mô hình “nhân tài lưỡng dụng “để phục vụ cho xây dựng kinh tế và củng cố quốc phòng.CHLB Đức , Nhà nước giao cho hệ thống giáo dục đại học và dạy nghề chuyên môn kĩ thuật , nghiệp vụ kế hoạch động viên cho nhu cầu quốc phòng.Liên bang Nga , sau gần một thập kỉ khủng hoảng kinh tế chính trị , từ cuối năm 2000 , Nhà nước đã chi một khoản ngân sách lớn cho công tác quốc phòng học sinh , sinh viên… 2.GDQP trong sinh viên GDQP là môn học bao gồm kiến thức khoa học xã hội , nhân văn , khoa học tự nhiên và khoa học quân sự.Là môn học thể hiện trong đường lối giáo dục của Đảng và thể chế hoá các văn bản pháp quy của Nhà nước , nhằm góp phần đào tạo ra những con người có đủ phẩm chất và năng lực làm tốt hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.Luật Giáo dục năm 1998 đã xác định :”Mục tiêu đào tạo của con người Việt Nam là phát triển toàn diện , có đạo đức , tri thức , sức khoẻ , thẩm mỹ và nghề nghiệp , trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ; hình thành và bồi dưỡng nhân cách phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.”. Thế hệ trẻ học sinh , sinh viên là những chủ nhân đất nước và đặc biệt là trong thế kỉ 21 , phải có những phẩm chất toàn diện về tri thức , sức khoẻ ,thẩm mỹ và nghề nghiệp , trung thành với lí tưởng độc lập và chủ nghĩa xã hội.GDQP,GDCD,GDTC cùng nhiều môn học khác góp phần hình thành và bồi dưỡng nhân cách , phẩm chất và năng lực công dân , đáp ứng các mục tiêu đào tạo nhân trí nhân tài nhân lực phục vụ cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam. Trong những năm qua , đất nước có chiến tranh , nhờ có chương trình huấn luyện quân sự trong các nhà trường ,thanh niên trước khi nhập ngũ đã có kiến thức quân sự phổ thông , rút ngắn được thời gian huấn luỵên chiến sĩ mới , tham gia tích cực trong cuộc kháng chiến chống Mỹ và chiến tranh bảo vệ biên giới Tổ quốc.Nhiều tấm gương cao đẹp là học sinh sinh viên đã xuất hiện ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường đã trở thành anh hùng dùng sĩ trong chiến đâú và lao động xây dựng đất nước.Lớp sinh viên tình nguỵện đến những nơi khó khăn , gian khổ , cùng sát cánh với bộ đội và nhân dân thực hiện các nhiệm vụ chính trị xã hội của đất nước.Ngoài việc nâng cao dân trí về quốc phòng , GDQP góp phần giáo dục trách nhiệm của mỗi công dân đối với tổ quốc , giáo dục lòng tự hào về truỳên thống vẻ vang của dân tộc , coi trọng nếp sống tập thể , mình vì mọi người , chống thói ích kỉ ; cùng với các hoạt động khác đẩy lùi tiêu cực và tệ nạn xã hội. 3.Giảng dạy và học tập môn GDQP Bộ quốc phòng chủ trì , phối hợp với các cơ quan , tổ chức có liên quan quy định nội dung , chương trình biên soạn giáo trình tài liệu GDQP phù hợp với từng đối tượng , từng bạn học , đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước và công tác quốc phòng trong từng thời kì.Bộ GDDT trực tiếp chỉ đạo và quản lí ban hành chương trình , phát hành giáo trình , SGK , tài liệu và tổ chức thực hiện công tác GDQP ở các cơ sở thuộc ngành. Hệ thống các văn bản chỉ đạo của Đảng , các văn bản pháp quy cuả Nhà nước về môn học GDQP trong hệ thống GDQD và các trường chính trị , hành chính , đoàn thể ngày càng hoàn thiện thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với việc giáo dục thế hệ trẻ_những chủ nhân tương lai của đất nước , có vị trí cực kì quan trọng trong chiến lược giáo dục-đào tạo của Đảng ta .Vì vậy , học tập tốt môn GDQP vừa là quỳên lợi được học tập đồng thời là trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi sinh viên. II.Giới thiệu về môn học GDQP Môn học GDQP có quan hệ chặt chẽ với các môn khác như toán , lí , hoá , lịch sử….Đặc biệt hai phần học : một số nội dung cơ bản của công tác quốc phòng và quân , binh chủng , có liên quan đến hầu hết các chuyên ngành đào tạo trong nhà trường. GDQP là cầu nối để người cán bộ KHKT , chuyên môn nghiệp vụ và quản lí kinh tế vận dụng , kết hợp các kiến thức được đào tạo trong nhà trường phục vụ xây dựng kinh tế với củng cố quốc phòng .Môn học không những trang bị những vấn đề cơ bản về đường lối quân sự của Đảng , tư duy quốc phòng và kiến thức quân sự cần thiết , mà còn góp phần rèn luyện , bồi dưỡng nhân cách nếp sống con người XHCN. Đội ngũ giảng viên gồn nhiều nguồn : giảng viên là sĩ quan biệt phái của Bộ Quốc phòng , giảng viên chuyên trách hay kiêm nhiệm trong biên chế cơ hữu của trường , giảng viên hợp đồng , thỉnh giảng…. Hình thức tổ chức đào tạo đa dạng : ở trung tâm GDQP , tại trường ; liên kết đào tạo giữa các trường với các đơn vị , nhà trường quân đội. III. Phương pháp nghiên cứu và tổ chức thực hiện môn học 1.Phương pháp nghiên cứu Từ những đặc điểm và kết cấu chương trình môn học GDQP nêu trên , khi nghiên cứu những bài lí luận về đường lối và nghệ thuật quân sự của Đảng , phải đặt trong mối liên hệ tổng thể của các phần học và các môn KHXH khác.Các giảng viên giảng dạy học phần đường lối phải có sức thuýêt phục người học , định hướng cho người học suy nghĩ tìm tòi.Sử dụng các phương pháp thuýêt trình lôi cuốn , nêu vấn đề , phát huy dân chủ trong dạy học , thực hiên đối thoại toạ đàm.Lí luận phải gắn liền với thực tế , làm cho bài giảng sinh động , tránh khô cứng , một chiều .Sử dụng các hình thức khác ngoài lên lớp như thảo luận , tham quan thực tế , viết thu hoạch , viết tiểu luận…Đánh giá kết quả theo quy chế , bằng hình thức kiểm tra , thi viết thi trắc nghiệm , hỏi đáp… Đối với các bài kĩ thuật và chiến thuật , học đến đâu , thực hành đến đó, xen kẽ giữa lí thuyết và thực hành , cuối cùng là bài tập tổng hợp.Giảng viên làm mẫu theo hai bước (làm chậm , làm tổng hợp) để giới thiệu động tác thực hành.Các bài chiến thuật từng người trong chiến đấu tiến công , phòng ngự ,phaỉ xác định tình huống của địch , ta rõ ràng , sát với thực tế chiến đấu và điều kiện địa hình cho phép.Những bài giảng mang tính đặc thù công nghệ , về chuyên ngành quân , binh chủng nên thỉnh thoảng cán bộ nghiên cứu khoa học , cán bộ giảng dạy của các học viện , nhà trường quân đội. Căn cứ vào chương trình GDQP của Bộ ban hành , các khoa , bộ môn , trung tâm GDQP cần cụ thể , chi tiết thành kế hoạch giảng dạy , biên soạn taì liệu , giáo trình , bài giảng cho các đối tượng đào tạo của mình.Hạn chế tình trạng dạy chay , học chay.Tăng cường các buổi thông tin chuyên đề tham quan các viện bảo tàng cách mạng , bảo tàng quân đội , binh chủng , tham quan học tập các đơn vị bộ đội và các trang thiết bị quân sự hiện đại phục vụ nội dung học tập. Sinh viên khi nghiên cứu môn học , đặc biệt là phần lí luận cần phaỉ có thaí độ học tập đúng , như Bác Hồ đã dạy :”phải nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ và tự do tư tưởng. Đọc tài liêụ thì phải đào sâu suy nghĩ , không tin tưởng một cách mù quáng vào từng câu trong sách , có vấn đề gì chưa thông thì mạnh dạn đề ra cho luận cho vỡ lẽ. Đối với bất cứ vấn đề gì đều phaỉ đặt câu hỏi tại sao? Đều phaỉ suy xét kĩ càng xem có phù hợp với thực tế không , tuyệt đối không nên nhắm mắt tuân theo sách vở một cách xuôi chiều , phaỉ suy nghĩ chín chắn.”. Với các bài thực hành sinh viên , cần chuẩn bị tinh thần thái độ học tập không ngại khó.Thực hiện tốt phương pháp vừa nghe giảng vừa tích cực thực hành , thuần thục động tác , rèn luyện kĩ năng. 2.Tổ chức thực hiện Về hình thức tổ chức học tập tuỳ theo điều kiện của từng trường mà vận dụng các hình thức sao cho phù hợp. Không nên bố trí vào năm cuối cùng của khoá học.Các lớp học lí thuyết không nên bố trí quá 150 sinh viên/1 lớp.Khi thực hành cần chia thành nhóm nhỏ có giáo viên hướng dẫn thực hành.Mỗi lớp học thực hành không quá 50 sinh viên/1 lớp. GDQP là môn học đặt dưới sự chỉ đạo , bảo đảm của nhiều bộ , ngành nhưng chủ yếu là bộ Quốc phòng và bộ Giáo dục và Đào tạo , khi thực hiện cần hết sức chú trọng công tác tổ chức , phối hợp , tranh thủ sự giúp đỡ của cơ quan quân sự địa phương , các đơn vị nhà trường , quân đội và các cơ quan ban ngành khác.Ngay trong một trường cũng cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các khoa , bộ môn , các phòng ban dưới sự chỉ đạo của hiệu trưởng , ban giám hiệu , đảng uỷ nhà trường. Cần chú tâm động viên nhắc nhở động viên thi đua , kịp thời biểu dương cá nhân và tập thể đạt kết quả học tập ; nhắc nhở những sinh viên không nghiêm túc trong học tập.Ngoài ra chúng ta cần kết hợp giữa động viên, tự giác học tập với đánh giá kết quả bằng điểm thi , kiểm tra. KẾT LUẬN GDQP là một môn học có nội dung phong phú , thiết thực , có tác dụng bổ trợ cho các môn khác.GDQP góp phần xây dựng , rèn luyện tác phong khoa học quân sự ngay khi sinh viên đang học tập trên ghế nhà trường.Giảng dạy và học tập có chất lượng môn học GDQP là góp phần đào tạo cho đất nước một thế hệ cán bộ khoa học kĩ thuật , chuyên môn nghiệp vụ và quản lí kinh tế có khả năng hoàn thành hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Các trường đại học và cao đẳng khác nên học tập cách dạy và học tập GDQP của trường ta ; bởi em thấy cách học trải dài này rất hữu ích , lí thú , tiếp thu sâu kiến thức , khiến việc học không chỉ là hình thức.Khoa GDQP của trường ta nên tích cực phát huy cách giảng dạy này. TÀI LIỆU THAM KHẢO www.moet.gov.vn www.flu.edu.vn www.hut.edu.vn/khoavien/khoaquansu www.ttvnd.com/gdqp.ttvn www.qdnd.vn/qdnd www.cpv. org.vn www.dangcongsan.vn Giáo trình: Giáo dục quốc phòng MỤC LỤC A.Lời mở đầu 1 B.Nội dung: 2 I.GDQP-mục tiêu giáo dục toàn diện của các nhà trường 2 1.GDQP gắn kết quả GDDT với QPAN 2 2.GDQP trong sinh viên 5 3,Giảng dạy và học tập môn GDQP 6 II.Giới thiệu về môn GDQP 7 III.Phương pháp nghiên cứu và tổ chức thực hiện môn học 7 1.Phương pháp nghiên cứu 7 2.Tổ chức thực hiện 9 C.Kết luận 10 D.Tài liệu tham khảo 11 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV184.doc
Tài liệu liên quan