Sự vận dụng lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở Việt Nam

Phụ lục Lời nói đầu Trang I- Lý luận của lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội 3 1/ Chính sách kinh tế mới và sự cần thiết vận dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước 3 2/ Vai trò của chủ nghĩa tư bản Nhà nước trong thòi kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội 7 3/ Các hình thức chủ nghĩa tư bản Nhà nước áp dụng thời Lênin 9 4/ Điều kiện cần thiết để sử dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước 10 5/ Kết quả thực hiện chủ nghĩa tư bản Nhà nước thời Lê nin 11 II- Sự

doc31 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1379 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Sự vận dụng lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vận dụng lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở Việt Nam 13 1/ Sự cần thiết của khả năng sử dụng kinh tế tư bản Nhà nước ở nước ta. 13 2/ Những hình thức cụ thể của kinh tế tư bản Nhà nước đang vận dụng ở nước ta 18 3/ Phương hướng và những điều kiện để vận dụng có hiệu quả kinh tế tư bản Nhà nước ở nước ta hiện nay 25 Tài liệu tham khảo 32 Lời nói đầu Chủ nghĩa tư bản được Lênin đưa ra vào năm 1921 là một bộ phận quan trọng của chính sách kinh tế mới (NEP). Theo Lênin chủ nghĩa tư bản Nhà nước chính là chính sách kinh tế thời kỳ quá độ, là con đường chắc chắn, bắc những chiếc cầu nhỏ vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, đối với một nước tiểu nông như nước Nga. Và khi thực hành chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở nước Nga Lênin đã chỉ ra "đây là một hình thức kinh tế mới, cần được hoàn thiện dần về lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn, nhưng nó rất cần thiết đối với nước Nga hiện nay. Tuy nhiên do thời gian thực hiện ở nước Nga chưa nhiều. Hơn thế sau khi tuyên bố hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu thì dường như lý luận về chủ nghĩa tư bản Nhà nước bị lãng quên. Vì vậy, lý luận về chủ nghĩa tư bản Nhà nước chưa đượng tổng kết từ thực tiễn để hoàn bị về lý luận. Lý luận về chủ nghĩa tư bản Nhà nước hiện nay đang còn nhiều quan điểm khác nhau về nội dung, mức độ khả năng và điều kiện vận dụng. Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế "tiểu nông". Nên việc vận dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước là cần thiết, và vận dụng lý luận chủ nghĩa tư bản Nhà nước nên lựa chọn ở mức độ nào, thông qua những hình thức gì là phù hợp. Lời giải đáp cho những vấn đề trên quả thật không đơn giản, nhưng lại rất bức xúc đối với nước ta hiện nay trên cả lý luận và thực tiễn. Trong quá trình nghiên cứu em được sự hướng dẫn nhiệt tình của thày giáo Nguyễn Minh Hằng. Em xin chân thành cảm ơn thày Do trình độ và thời gian còn hạn chế nên bài viết không thể tránh khỏi nhiều thiếu sót, em xin nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy giáo và các bạn để bài viết sau được tốt hơn. I- Lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. 1- Chính sách kinh tế và sự cần thiết vận dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Khi cách mạng thánh mười vừa thành công, thì chính quyền Nhà nước Nga - Xô Viết đã phải chống trả với cuộc tiến công của cả thế giới tư bản. Trước tình hình đó Lênin đã đề chính sách "cộng sản thời chiến". Nó đã giúp Nhà nước Xô Viết có đủ lương thực, thực phẩm cũng như cơ sở vật chất để đánh tan cuộc xâm lược đó. Tuy nhiên theo Lênin đó chỉ là chính sách tạm thời, không thể tiếp tục duy trì dược nữa. và thực tế đã cho thấy rõ nước Nga sau những tàn phá nặng nền của chiến tranh, chẳng những thế tình hình kinh tế xã hội ngày càng xấu đi. Nó được Lênin ví như "một người bị đánh gần chết... trong bẩy năm trời nó bị đánh khắp mình mẩy và may mà nó vẫn có thể chống lạng là đi được". Còn giai cấp công nhân cũng như quần chúng nông dân những người đã phải chịu những hy sinh mấy mát và đã bị kiệt sức gần như mất hết khả năng lao động. Những cuộc bạo loại trong quần chúng công - nông bình. Chưa bao giờ nước Nga tơi vào tình trạng nhân dân có tâm trạng chống lại chính quyền Xô Viết theo bản năng như vậy. Vậy nguyên nhân do đâu? Theo Lênin sai lầm nghiêm trọng nhất ở chỗ "chính sách kinh tế của ta, thượng tần tách rời hạ tầng, không làm cho lực lượng sản xuất phát triển". (1) Chế độ trưng thu lương thực thừa ở thành thị đã làm trở ngại việc nâng cao lực lượng sản xuất và trở thành nguyên nhân chủ yếu gây nên khủng hoảng kinh tế và chính trị sâu sắc hồi mua xuân năm 1921". Vì vậy mùa xuân 1921 Lênin đã đề ra chính sách kinh tế mới (NEP), mà 'thực chất của NEP là phát triển đất nước tối đa lực lượng của NEP là phát triển tình cảnh của công nhân và nông dân, sử dụng tư bản tư nhân và hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản Nhà nước, ủng hộ toàn diện sáng kiến của địa phương, đấu tranh chống chủ nghĩa quan liêu và tác phong lề mề". Nó chứa đựng tình thần huy động mọi tiềm năng bên trong bên ngoài để phục vụ cho nhiệm vụ cơ bản ấy, tạo ra động lực sản xuất cho nông dân và cho những người lao động, làm theo két hợp được lợi ích tư nhân phục tùng lợi ích chung. Nhờ đó tăng cường cơ sở kinh tế của liên minh chặt chẽ giữa giai cấp công nhân và nông dân. NEP kiến lập mối qua hệ đúng đắn giữa sản xuất công nghiệp xã hội chủ nghĩa với kinh tế sản xuất nhỏ của nông dân thông qua việc sử dụng rộng rãi quan hệ hàng hoá - tiền tệ, dưới sự kiểm soát của Nhà nước, để phát triển lực lượng sản xuất đồng thời, NEP cho phép phát triển và hướng kinh tế tư bản tư nhân vào con đường chủ nghĩa tư bản Nhà nước khi những đỉnh cao của kinh tế vẫn nằm trong tay Nhà nước. Khi chuyển sang NEP, Lênin đã thẳng thắn thừa nhận rằng "toàn bộ quan điểm của chúng ta về chủ nghĩa xã hội đã thay đổi về cơ bản", trước đây Đảng và Nhà nước Xô Viết đã tính là có thể dựa vào nhiệt tình cách mạng mà trực tiếp thực hiện những nhiệm vụ về kinh tế như những nhiệm vụ về quân sự; có thể dùng những biện pháp trực tiếp của Nhà nước vô sản để tổ chức sản xuất và phân phối sản phẩm theo kiểu cộng sản chủ nghĩa ở một nước tiểu nông. Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau khi đi vào thực hiện, Lênin đã thấy rằng không thể xây dựng trực tiếp chủ nghĩa xã hội ở một nước tiểu nông như nước Nga lúc đó. Và theo sự phân tích của Lênin nước Nga không có được những điều kiện như nước Đức thời bấy giờ - Nước Đức được coi là đỉnh cao của kỹ thuật và sản xuất kế hoạch. Vì vậy để tiến trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội theo Lênin phải có hai điều kiện như: thứ nhất phải có sự giúp đỡ của giai cấp vô sản tiên tiến trên thế giới - Nhưng "bên cạnh nước Nga không phải là nước Anh, nước Pháp xã hội chủ nghĩa". Còn điều kiện thứ hai về chuyên chính vô sản hoặc giai cấp vô sản nắm chính quyền Nhà nước với đại đa số nông dân, trong điều kiện sản xuất không đủ cung cấp cho nhân dân: lương thực, thực phẩm khan hiếm, công nghiệp bị tàn phá dẫn đến sản xuất đình trệ và theo Lênin: sẽ không còn công nhân nữa vì sản xuất công nghiệp gần như không còn nữa". Từ đó Lênin cho rằng "trong một nước tiểu nông, trước hết các đồng chí phải bắc những chiếc cầu nhỏ vững chắc đi xuyên qua chủ nghĩa tư bản Nhà nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội". Đây là một bước lùi chiến lược, đúng hơn là trở lại con đương phát triển hợp quy luật của kinh tế: Theo NEP, "Nhà nước vô sản cho phép những người sản xuất nhỏ được tự do buôn bán và đói với những tư liệu sản xuất của đai tư bản, Nhà nước vô sản áp dụng một số nguyên tắc của chủ nghĩa tư bản Nhà nước? (Tr45) lênin nói rõ thêm: "Việc trao đổi hàng hoá, được coi là đòn xeo chủ yếu hàng đầu". Nhưng việc tự do trao đổi, tự do buôn bán là "khôi phục chủ nghĩa tư bản trên một mức độ lớn", là tự do của chủ nghĩa tư bản. Nhưng đã thuyết phục mọi người rằng: để quyết được tình trạng hiện nay phải giúp nông dân bằng bất cứ giá nào để tăng nhanh nông sản phẩm? Bây giờ việc tăng sản phẩm đang trở thành (đã trở thành) điều then chốt, hòn đá thử vàng.. chúng ta trông chờ vào trung nông trong nông nghiệp". Và theo Lênin chừng nào tiểu nông còn là tiểu nông thì người đó cần có một cổ vũ thích hợp với cơ chế kinh tế của người đó, tức tính hợp với nền kinh tế cá thể quy mô nhỏ" (1). Nhờ chính sách tự do buôn bán mà kích thích nông dân, vì lợi ích bản thân mà tạo ra nhiều nông sản hàng hoá. Vì vậy Nhà nước đã thay thế chế độ trưng thu lương thực thừ trước đây bằng thuế lương thực - Nghĩa là Nhà nước chỉ thu của nông dân một số thuế nhất định và ấn định trước mức thuế đó, phần lương thực còn lại, nông dân có thể tự do trao đổi, mua bán trên thị trường. Như vậy tự do có thể thừa nhận chủ nghĩa tư bản được phát triển trong trừng mực nào đó và chỉ với điều kiện thương ngân và tư bản tư nhân phải phục tùng sự điều tiết cả Nhà nước, phải hướng chúng vào con đường chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Mặt khác, muốn có hàng hoá để trao đổi thì phải phát triển công nghiệp và thủ công nghiệp. Nhưng trong một nước bị tàn phá kiệt quệ sau 7 năm chiến tranh, tuyệt đại đa số nhân dân là nông dân cũng bị phá sản, sẽ không giải quyết được ngay vấn đề này, "nếu không có sự giúp đỡ của tư bản..." Lênin nói rõ "điều đó chúng ta không thể tự mình là được, nếu không có sự giúp đỡ của tư bản nước ngoài. Người nào không chìm đắm trong ảo tưởng mà nhìn vào thực tế thì phải hiểu rõ điều đó". (1) Theo Lênin cần phải "du nhập" chủ nghĩa tư bản từ bên ngoài bằng những hợp đồng buôn bán với các nước tư bản lớn, bằng chính sách tô nhượng, tóm lại bằng những hình thức khác nhau của chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Như vậy, việc khôi phục, "du nhập" chủ nghĩa tư bản đó là "không đáng sợ". Vì nó cần thiết cho quần chúng nhân dân, "cải thiện được nền kinh tế nông dân mà chúng ta rất cần phải cải tiến". Lênin giải thích thêm: sự phát triển của chủ nghĩa tư bản Nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội không có mục đích tự thân, mà là phương tiện, con đường, để tăng cường lực lượng sản xuất, là biện pháp xác xí nghiệp tư bản chủ nghĩa thành xí nghiệp xã hội chủ nghĩa. Lênin nói "... thường chúng ta" vẫn còn lặp lại cái lý luận cho rằng "chủ nghĩa tư bản là xấu, chủ nghĩa xã hội là tốt". Nhưng cái lý luận ấy là sai vì nó không đếm xỉa tới toàn thể các kết cấu xã hội hiện có, mà chỉ nhìn thấy có hai kết cấu trong đó thôi" (1) . Chủ nghĩa tư bản là xấu so với chủ nghĩa xã hội nhưng là tốt so với nền tiểu sản xuất "CNTBNN về kinh tế cao hơn rất nhiều so với nền kinh tế hiện nay của nước ta" (1). Vì chưa có điều kiện để chuyển trực tiếp từ tiểu sản xuất lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta "phải lợi dụng CNTBNN là mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường, phương pháp, phương thức để tăng lượng sản xuất lên"(1). và điều đó "sẽ đưa chúng ta đén chủ nghĩa xã hội bằng con đường chắc chắn nhất" (1). Và thực tế thực hiện nước Nga cho thấy việc "du nhập" được chủ nghĩa tư bản góp phần cải thiện nhanh chóng tình trạng sản xuất, đời sống của công nhân, nông dân, nền đại công nghiệp Xô Viết sẽ được khôi phục. Việc phát triển chủ nghĩa tư bản Nhà nước đã liên hợp nền sản xuất nhỏ lại, khắc phục tình trạng phân tán và đấu tranh chóng tính tự phát tiểu tư bản và tư bản chủ nghĩa - là "kẻ thù lớn nhất, nguy hiểm nhất đối với nước Nga hiện nay". Tự phát triển tư bản chủ nghĩa là kẻ thù của các biện pháp kinh tế của chính quyền Xô Viết. Và việc để để tình trạng phát triển vô chính phủ của những kẻ tiểu tư hữu tiếp tục tồn tại là một mỗi nguy hại lớn nhất đáng sợ nhất, nó sẽ đưa đất nước đến chỗ diệt vong. Thông qua chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa tư bản Nhà nước mà giai cấp công nhân có thể học tập được cách quản lý một nền sản xuất lớn, tổ chức được nền sản xuất lớn. Việc "du nhập" chủ nghĩa tư bản từ nước ngoài là hình thức du nhập tiến bộ kỹ thuật hiện đại. Đặc biệt việc phát triển chủ nghĩa tư bản Nhà nước tức là phát triển các xí nghiệp công nghiệp lớn qua đó phục hồi được giai cấp công nhân - phục hồi được giai cấp vô sản và tạo ra một giai cấp vô sản công nghiệp, vì chiến tranh, vì bị phá sản nên đã bị mất tính giai cấp, nghĩa là bị đẩy ra ngoài con đường tồn tại của giai cấp mình và không còn tồn tại với tư cách là giai cấp vô sản nữa. Từ đó, chúng ta thấy rõ; thực hiện chủ nghĩa tư bản nhà nước như vậy là "điều có lợi và cần thiết", "đang mong đợi" trong điều kiện của chính quyền Xô Viết. 2. Vai trò của CNTBNN trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Xã hội cộng sản chỉ có thể xuất hiện một cách tự nhiên khi những tiền đề vật chất và tiền đề xã hội được chuẩn bị một cách đầy đủ nhất, một "phòng chờ" cho chủ nghĩa xã hội đã sẵn sàng. Điều này VI.Lênin có nhận định "Chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước là sự chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho chủ nghĩa xã hội, là phòng chờ đi vào chủ nghĩa xã hội mà giữa nó với chủ nghĩa xã hội, không có nấc thang trung gian..." (1) Theo Lênin CNTBNN là sản phẩm của sự can thiệp tích cực của Nhà nước vào hoạt động kinh tế trong các xí nghiệp tư bản. ở các nước tư bản phát triển, CNTBNN tồn tại dưới hình thức nhà nước tư sản sử dụng để tăng thêm vụ lợi ích của giai cấp tư sản dân tộc. ở các nước tư bản phát triển, chủ nghĩa tư bản Nhà nước tồn tại dưới hình thức Nhà nước tư sản sử dụng để tăng thêm sức mạnh kinh tế của mình nhằm phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản dân tộc. ở các nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước nằm trong tay giai cấp vô sản và những đỉnh cao của nền kinh tế thì nằm trong tay xã hội chủ nghĩa vì vậy CNTBNN của chúng tôi khác về căn bản so với CNTBNN ở những nước có chỉnh phủ tư sản. Lênin khẳng định: Sự khác biệt chính là ở chõ Nhà nước của chúng tôi không đại diện ở cho giai cấp tư sản, mà đại diện cho giai cấp vô sản". Với những điều kiện đó, CNTBNN dưới sự kiểm kê, kiểm soát và sự hỗn hợp về vốn của Nhà nước vào các doanh nghiệp trong các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, sẽ hướng sự hoạt động của các doanh nghiệp theo "tay lái" của Nhà nước. Là sản phẩm của sự phát triển lịch sử, CNTBNN dưới góc độ kinh tế là kinh tế tư bản Nhà nước đạt đến một trình độ phát triển cao, làm xuất hiện các nhân tố với tư cách là tiền đề mà thiếu nó tức thiếu "phòng chờ" cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bởi vì, không có kỹ thuật tư bản được xây dựng trên những phát minh mới nhất của khoa học hiện đại, không có một tổ chức Nhà nước mạnh có năng lực quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường, không có giai cấp công nhân tiên tiến lớn mạnh, thì không thể nói đến chủ nghĩa xã hội được. Hơn nữa khi so sánh kinh tế tư bản Nhà nước trong cơ cấu các thành phần kinh tế. Lênin cho rằng kinh tế tư bản Nhà nước có trình độ cao hơn nhiều so với kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân và gần với chủ nghĩa xã hội hơn các thành phần kinh tế khác. Chính vì lẽ đó lênin coi, CNTBNN là sản phẩm tất yếu, là một "bước tiến" là cái "không đáng sợ" trong sự phát triển lịch sử đối với các nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế còn lạc hậu" (1). Về nội dung có thể hiểu CNTBNN qua các mặt sau: - Sự kiểm kê, kiểm soát của Nhà nước đối với các thành phần kinh tế. - Các hình thức kinh tế quá độ dựa trên hình thức sở hữu hỗn hợp về vốn giữa Nhà nước xã hội chủ nghĩa CNTBNN với nền kinh tế tư bản tư nhân trong và ngoài nước. - Việc sử dụng có chọn lọc những thành tựu khoa học - công nghệ và chuyển giao khoa học kỹ thuật, công nghệ, khoa học kinh tế và quản lý kinh tế ở các nước tư bản tiên tiến. - Việc coi trọng lơi ích kinh tế, hiệu quả kinh tế tông qua việc Nhà nước vận dụng cơ chế thị trường với tư cách là động lực kinh tế của sự phát triển kinh tế quốc dân. Từ các khía cạnh trên có thể CNTBNN quan niệm sự hình thành và phát triển CNTBNN trong thời kỳ quá độ lên CNTBNN, về nội dung gắn liền với ba mức độ: ở mức độ cao và toàn diện nhất, CNTBNN được quan niệm như là một hình thức kinh tế - xã hội quá độ. ở mức độ hẹp và thấp hơn, CNTBNN được quan niệm là một chính sách, một công cụ mà Nhà nước XNCN dùng để điều tiết và quản lý hoạt động của các thành phần kinh tế, nhất là kinh tế tư bản tư nhân thời kỳ quá độ lên XNCN. - Dưới góc nhìn kinh tế, CNTBNN được quan niệm là các hình thức kinh tế trung gian quá độ. Các hình thức này dựa trên hình thức sở hữu hỗn hợp giữa kinh tế Nhà nước và kinh tế tư bản tư nhân trong và ngoài nước. 3/ Lênin cũng nêu ra các hình thức CNTBNN áp dụng ở nước Nga lúc bấy giờ. a/ Tô nhượng là chính quyền Xô Viết ký hợp đồng với nhà tư bản. Theo hợp đồng ấy, nhà tư bản được sử dụng một vài thứ: nguyên liệu hầm mỏ, xí nghiệp, quặng hay thậm chí một công xưởng riêng biệt. Chính quyền Nhà nước XHCN giao cho nhà tư bản tư liệu sản xuất của mình: nhà máy, vật liệu, hầm mỏ. Nhà tư bản tiến hành kinh doanh với tư cách là một bên ký kết là người thuê tư liệu sản xuất XHCN và thu được lợi nhuận của tư bản mà mình bỏ ra, rồi nộp cho Nhà nước XHCN một phần sản phẩm tô nhượng, là hình thức kinh tế hai bên cùng có lợi; Nhà tư bản thu được lợi nhuận bất thường", siêu ngạch, hoặc có được loại nguyên họ không tìm được hoạc khó tìm được bằng cách khác. Chính quyền Xô Viết có lợi; lực lượng sản xuất phát triển, số lượng sản phẩm tăng lên. Theo Lênin khi thực hiện tô nhượng cần phải chú ý các điểm sau: - Chúng ta "phải cố lợi dụng lòng tham của" nhà tư bản nhân tô nhượng, để phát triển sản xuất. - Nhà tư bản tô nhượng phải có trách nhiệm cải thiện đời sống công nhân trong xí nghiệp tô nhượng sao cho đạt tới mức sống trung bình của nước ngoài đây được Lênin coi là "cơ sở của chính sách tô nhượng". - Người nhận tô nhượng phải bán thêm cho chính quyền Xô Viết (nếu có yêu cầu) từ 50 - 100% sản phẩm của xí nghiệp. - Phương cách trả lương cho công nhân bằng ngoại tệ, bằng phiếu đặc biệt thay bằng tiền Xô Viết... được quy định rõ trong hợp đồng tô nhượng. - Điều kiện về thuê mướn, về sinh hoạt vật chất, về trả lương cho người nước ngoài trong các xí nghiệp tô nhượng được quy định theo sự thoả thuận tự do giữa người đó với nhà tư bản nhận tô nhượng. - Riêng đối với chuyên gia có trình độ cao của Nga, nếu các xí nghiệp tô nhượng muốn mời thì phải được sự đồng ý của các cơ quan Nhà nước Trung ương. - Phải tôn trọng luật pháp nước Nga vẽ các tiêu chuẩn điều kiện lao động, kỳ hạn phát lượng, về quy tắc khoa học và kỹ thuật... b/ Hợp tác xã tư bản sản xuất là xí nghiệp hợp tác xã. Đặc trưng của các xí nghiệp này là sự kết hợp những xí nghiệp tư bản tư nhân với những xí nghiệp kiểu xã hội chủ nghĩa chính cống hoặc là tổ chức bao gồm nhiều tiêu biểu nghiệp chủ. Nó khác với các xí nghiệp tư nhân ở chỗ hợp tác xã là những xí nghiệp tâp thể, là một hình thức chủ nghĩa tư bản Nhà nước. c/ Hình thức đại lý uỷ thác Lênin coi hình thức này là hình thức thứ ba. Theo hình thức này Nhà nước lôi cuốn nhà tư bản với tư cách một nhà buôn, trả cho họ một số tiền hoa hồng để họ bán sản phẩm của Nhà nước và mua sản phẩm của người sản xuất nhỏ. d/ Cho tư bản trong nước thuê xí nghiệp, vùng mỏ, rừng, đất. Hình thức này cũng giống hình thức tô nhượng, nhưng đối tượng thuê là tư bản trong nước. e/ Cho nông dân thuê những hầm mỏ nhỏ và những ngưòi nông dân này phải nộp tô cho Nhà nước (30% số than khai thác được). Hình thức này trực tiếp tạo ra việc làm cho người lao động, nâng cao đời sống nông dân. g/ Công ty hợp doanh là các Công ty được thành lập theo thể thức tiền vốn một phần là của tư bản tư nhân, ngoài ra của tư bản nước ngoài và một phần là của chính quyền Xô Viết. Loại hình này chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực thương nghiệp. 4- Để thực hiện chủ nghĩa tư bản Nhà nước không làm thay đổi căn bản chế độ XHCN - theo Lênin - phải có hai điều kiện: một là, chính quyền Nhà nước phải nằm trong tay gia cấp công nhân và Nhà nước quy định khuôn khổ cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản Nhà nước; hai là Nhà nước phải nắm các đỉnh cao kinh tế để điều tiết nền kinh tế. Người nói: chủ nghĩa tư bản Nhà nước ấy không đáng sợ vì "chủ nghĩa tư bản ấy sẽ chịu sự kiểm soát, sự giám sát của Nhà nước. Nếu Nhà nước công nhân nắm lấy công xưởng, nhà máy và đường sắt thì chúng ta không sợ gì chủ nghĩa tư bản ấy". (1) - "Chính sách kinh tế mới không thay đổi cái gì có tính chất căn bản trong chế độ xã hội của nước Nga - Xô Viết và cũng không thể thay đổi được gì chừng nào mà chính quyền còn ở trong tay công nhân" (1). Như vậy vấn đề ở chỗ nhà nước XHCN phải kiểm soát, ngăn chặn bất cứ tư bản nào vượt ra khỏi khuôn khổ chủ nghĩa tư bản Nhà nước và phải làm cho nó phù hợp với lợi ích của giai cấp công nhân. Như đã nói ở phần trước, chủ nghĩa tư bản Nhà nước dưới chế độ XHCN là chủ nghĩa tư bản Nhà nước đặc biệt, dưới sự kiểm kê, kiểm soát và sự hỗn hợp về vốn Nhà nước và các doanh nghiệp sẽ hướng các doanh nghiệp theo: "tay lái" của Nhà nước. Như vậy, Nhà nước công nhân phải đưa ra những khuôn khổ, theo dõi, giám sát sự phát triển của chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Nhưng theo Lênin như vậy vẫn chưa đủ - Khi thực hành chính sách tô nhượng Lênin nhắc nhở ". Nếu chính quyền Xô Viết đem tô nhượng phần lớn tài sản của mình thì như vậy là hoàn toàn khờ daị, như vậy không phải là tô nhượng nữa mà là quay trở lại chủ nghĩa tư bản" (1). Nhà nước phải nắm những ngành kinh tế những khu vực kinh tế quan trọng để điều tiết nền kinh tế. Nhà nước phải nắm lấy thương nghiệp, "điều tiết việc mua bán và lưu thông hàng hoá, tiền tệ". Lênin cũng cho rằng chủ nghĩa tư bản Nhà nước là một hình thức mới của đấu tranh giai cấp, chứ không phải hoà bình giai cấp. Trong báo cáo về Tô nhượng Lênin viết" bất cứ người dân tô nhượng nào cũng vẫn là nhà tư bản, và nó sẽ cố gắng phá hoại chính quyền Xô Viết". Và Lênin cũng lưu ý: "người nhận tô nhượng phải có trách nhiệm cải thiện đời sống của công nhân trong xí nghiệp tô nhượng... các điều kiện về lương, về sinh hoạt vật chất, về thuê mướn... phải quy định rõ trong hợp đồng tô nhượng". Sao cho phù hợp với pháp luật nước Nga. Tức Nhà nước phải bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, ngay cả khi sự điều tiết của Nhà nước thành công. Như vậy, với hai điều kiện: một là, chính quyền Nhà nước nắm trong tay giai cấp vô sản và Nhà nước quy định khuôn khổ cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản Nhà nước, hai là, Nhà nước nắm các đỉnh cao kinh tế, thì việc thực hành chủ nghĩa tư bản Nhà nước là không đáng sợ, không làm thay đổi được bản chất của Nhà nước XHCN - nước Nga Xô Viết. 5- Kết quả thực hiện chủ nghĩa tư bản Nhà nước thời Lênin. Sự thực hành NEP thời Lênin đã mang lại những kết quả lớn. Đến tháng 11 năm 1922 (khoảng hơn 1 năm thực hành chế độ này), Lênin đã trình bầy khái quát những thành tựu của NEP nói chung và chủ nghĩa tư bản Nhà nước nói riêng như sau: Trước hết và chủ yếu là tình hình giai cấp công nhân, từ chỗ đói kém, một bộ phận rất lớn trong nông dân bất bình, đến chỗ trong vòng 1 năm, nông dân chẳng những đã thoát khỏi được nạn đói, mà còn nộp được thuế lương thực hàng trăm triệu Put. Từ những cuộc bạo động mang tính chất phổ biến 1921, nông dân đã hài lòng với tình hình của họ. Công nghiệp nhẹ đang có đà phát triển, đời sống của công nhân được cải thiện, tình trạng bất mãn của công nhân không còn nữa. Công nghiệp nặng tuy vẫn còn khó khăn, nhưng đã có sự thay đổi nhất định, lý do là không có những khoản cho vay lớn hàng mấy trăm triệu đô la. Chính sách tô nhượng thì hay thật nhưng cho đến lúc ấy (1922) vẫn chưa có một tô nhượng sinh lợi nào trong công nghiệp nặng. Không hy vọng vay được ở các nước giầu có, vì các nước đế quốc vẫn đang muốn bóp chết Nhà nước XHCN non trẻ. Tuy nhiên, nhờ chính sách kinh tế mới mà thu được một số vốn lớn hơn 20 triệu rúp vàng (nhờ thương nghiệp mà có vốn ấy). Điều quan trọng nữa là tiết kiệm về mọi mặt, kể cả những chi phí về trường học để cứu vãn công nghiệp nặng. Riêng về chính sách chủ nghĩa tư bản Nhà nước, qua các tài liệu và sự đánh giá cho dến năm 1924, nhìn chung đã mang lại cho nước Nga Xô Viết những tác dụng tích cực nhất định, góp phần làm sống động nền kinh tế nước Nga đã bị suy sụp sau chiến tranh. Nhờ tô nhượng với nước ngoài, nhiều ngành công nghiệp quan trọng (đặc biệt khai thác dầu) đã phát triển, nhiều kinh nghiệm tiên tiến với kỹ thuật, thiết bị hiện đại của nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa được đưa vào quá trình sản xuất, mang lại hiệu quả cao. Tô nhượng cùng các Công ty sản xuất hàng hoá, tăng thêm dự trữ ngoại tệ cho đất nước, mở rộng các quan hệ liên doanh, liên kết kinh tế trong các lĩnh vực đầu tư sản xuất chuyển giao công nghệ tiên tiến và phát triển ngoại thương với các nước tư bản phương Tây. Thông qua các hoạt động của các công ty hợp doanh, những người cộng sản Nga còn có thể thực sự học cách buôn bán điều mà bấy giờ Lênin thường nói là hiện vụ rất quan trọng. Hoat động của các xí nghiệp cho thuê, các xí nghiệp hỗn hợp đã góp phần giúp Nhà nước Xô Viết duy trì sự hoạt động sản xuất bình thường ở các cơ sở kinh tế, tăng thêm sản phẩm cho xã hội, việc làm cho người lao động. Hình thức đại lý thương nghiệp và các hợp tác xã tư bản chủ nghĩa trong các lĩnh vực sản xuất, tín dụng và tiêu thụ đã góp phần quan trọng trong việc hỗ trợ thương nghiệp XHCN, đẩy nhanh quá trình trao đổi và lưu thông hàng hoá, tiền tệ, làm sống động nền sản xuất hàng hoá nhỏ, qua đó cải biến những người tiểu nông, nối liên quan hệ trao đổi công nông nghiệp, thành thị - nông thôn... Những kết quả ấy có ý nghĩa tích cực đối với nước Nga Xô Viết. Nó góp phần không nhỏ vào công cuộc phát triển kinh tế nước Nga sau chiến tranh. Tuy nhiên so với sự mong muốn và mục tiêu ban đầu đặt ra của Lênin thì kết quả thực hành chế độ này vẫn còn rất thấp. Nguyên nhân quan trọng nhất là chủ nghĩa tư bản đế quốc vẫn tìm cách bóp chết chính quyền Xô Viết, vì thế sự hợp tác, đầu tư của tư bản nước ngoài vào Liên Xô, không đạt sự mong muốn. Và trong những năm 1923, 1924 tỷ trọng của chủ nghĩa tư bản Nhà nước với tư cách là một thành phần, một hình thức kinh tế, trong tổng sản phẩm của cả nước chỉ chiếm có 1%. Năm 1923, các xí nghiệp tô nhượng mới sản xuất được khối lượng của sản phẩm trị giá 35,1 triệu rup. Tuy nhiên, kết quả lớn nhất là bắt đầu hình thành một khái niệm mới, và chủ nghĩa tư bản Nhà nước đã thực sự là một phần đặc trưng của NEP và nhờ NEP mà chính quyền Xô Viết đã giữ được những vị trí vững chắc trong nông nghiệp và công nghiệp và có khả năng tiến lên được. Nông dân vừa lòng, công nghiệp cũng như thương nghiệp đang hồi sinh và phát triển. Đó là một thắng lợi của chính quyền Xô Viết. II- Sự vận dụng lý luận của lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở Việt Nam. 1/ Sự cần thiết và khả năng ứng dụng kinh tế tư bản Nhà nước ở nước ta. Như đã nói ở phần trước chủ nghĩa tư bản Nhà nước là phương thức "là "con đường" chắc chắt và có thể nói và duy nhất có thể chọ đối với các nước kém phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội. Đối với nước ta, một nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ chiếm đa số, tức đi lên chủ nghĩa xã hội, nước ta phải thực hiện một bước quá độ khó khăn và lâu dài, xuyên qua chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Tính tất yếu khách quan của việc ứng dụng rộng rãi các hình thức kinh tế tư bản Nhà nước ở nước ta thể hiện ở các điểm sau: a/ Do yêu cầu của sự vận dụng quy luật qua hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở một nước nông nghiệp lạc hậu. Chúng ta đi lên CNXH từ xuát phát điểm thấp, từ nền "tiểu sản xuất". Vì vậy rất khó khăn và "không thể" thành công nếu nước ta đi trực tiếp lên lên CNXH. Thực tế sụp đổ củ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu đã cho thấy điều đó, còn về mặt lý luận chúng ta khong thể đi thẳng lên chủ nghĩa xã hội nếu không có "một tấm gương" của một nước đã xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, và sự giúp đỡ của giai cấp vô sản tiên tiến của nước đó và trên thế giới. Vì thế chúng ta phải đi lên chủ nghĩa xã hội bằng mô hình hay con đường gián tiếp, mà các hình thức kinh tế tư bản Nhà nước là hình thức "quan trọng, quá độ" thiếu hoặc không qua các hình thức trung gian có tính chất quá độ này thì sản xuất nhỏ không thể lên chủ nghĩa xã hội được. Có thể giải thích nôm na là: chủ nghĩa xã hội là sản phẩm tất yếu bậc cao hơn chủ nghĩa tư bản. và đối với những nước đi lên chủ nghĩa xã hội, chưa qua chủ nghĩa tư bản như nước ta thì việc áp dụng kinh tế tư bản Nhà nước là một "tất yếu", kinh tế tư bản Nhà nước là "một hình thức kinh tế tư bản đặc biệt áp dụng đối với các nước chủ nghĩa xã hội. Thực tế thực hành ở nước Nga cho thấy kinh tế tư bản Nhà nước hoàn toàn phù hợp với lực lượng sản xuất của nước Nga - một nước tiểu nông lúc bấy giờ. Nhờ đó mà phát triển được lực lượng sản xuất và góp phần đáng kể vào thành công của NEP. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta diễn ra trong điều kiện một nền kinh tế kém phát triển lực lượng sản xuất hết sức lạc hậu. Không thể có sự nhảy vọt về vật chất của lực lượng sản xuất, nếu không nhanh chóng công nghiệp hoá để có sơ sở vật chất kỹ thuật đảm bảo sự quá độ nói trên. Dưới góc nhìn lịch sử công nghiệp hoá là nhiệm vụ của chủ nghĩa tư bản và lẽ ra theo con đường phát triển tuần tự sẽ phát phải trải qua. Nhưng để giảm bớt những đau khổ có thể xẩy ra, nếu phải qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức con đường rút ngắn đáng kể về thời gian phát triển lên chủ nghĩa xã hội. Sự lựa chọn này buộc phải sử dụng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đặc dưới sự kiểm kê, kiểm soát của Nhà nước để xây dựng nền công nghiệp lớn - cơ sở vật chất của công nghiệp xã hội mà thiếu nó thì chủ nghĩa chỉ là sự không tưởng Hơn nữa, để chủ nghĩa xã hội hoàn toàn chiến thắng chủ nghĩa tư bản khi mà chủ nghĩa tư bản đã đạt trình độ hiện đại. Muốn hiện đại hoá rộng rãi các hình thức kinh tế của chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Như đã biết sự nghiệp công nghiệp hoá đòi hỏi nguồn vốn lớn, mà do yêu cầu của thời đại, nước ta thực hiện công nghiệp hoá phải gắn liền với hiện đại hoá tức sự nghiệp công nghiệp hoá của chúng ta phải gắn liền với việc trang bị kỹ thuật công nghệ hiện đại dựa trên những sản phẩm mới nhất của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại mà các nước chủ nghĩa tư bản đi đầu về khoa học kỹ thuật. Như vậy, việc áp dụng kinh tế tư bản Nhà nước sẽ thu hút được nguồn vốn lớn, cùng với khoa học kỹ thuật hiện đại, cũng như kinh nghiệm quản lý của nhà tư bản một cách nhanh nhất và chắc chắn nhất. Nhờ đó mà phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất. c/ Do nhu cầu xây dựng định hướng XHCN của nền kinh tế hàng hoá. Với điểm xuất phát thấp về trình độ xã hội hoá sản xuất, lại chịu ảnh hưởng của mô hình kinh tế chỉ huy tập trung quan liêu bao cấp kìm hãm, không thể chuyển sang kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Việc phát triển kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường tức phát triển quanhệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, và sự tồn tại và phát triển quan hệ sản xuất đó khó có thể ngăn cản được tính tự phát TBCN và điều đó có thể ngăn cản được tính tự phát TBCN và điều đó lại liên quan đến nhu cầu định hướng XHCN của nền kinh tế. Để đảm bảo sự định hướng XHCN của nền kinh tế hàng hoá nhất thiết phải hướng các quan hệ sản xuất TBCN vào con đường CNTBNN làm "mắt xích trung gian" nối liền sản xuất nhỏ với CNXH; phải "dung nạp" TBCN trong và ngoài nước hoạt động dưới sự kiểm kê kiểm soát và hướng dẫn của Nhà nước, thông qua các kình thức KTTBNN. Một hình thức gắn với hình thức kinh tế Nhà nước và hợp tác. Bằng cách đó, một mặt sẽ nâng cao trình độ xã hội hoá sản xuất theo định hướng XHCN ở bên._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV620.doc
Tài liệu liên quan