Tại sao nước ta phải pháp triển Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Muốn vậy ta phải làm gì? Liên hệ với Hà Nội

Tại sao nước ta phải pháp triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Muốn vậy ta phải làm gì? Liên hệ với Hà Nội. Lời mở đầu Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển tất yếu của xã hội loài người,là thành tựu văn minh của nhân loại.Như chúng ta đã biết,đại hội lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định mô hình kinh tế tổng quát của Việt Nam trong thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH),đó là nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa. Về thực chất đây chín

doc18 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1426 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tại sao nước ta phải pháp triển Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Muốn vậy ta phải làm gì? Liên hệ với Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h lànền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước theo định hướng XHCN. Trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta,do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã dành được nhiều thắng lợi bứoc đầu mang tínhquyết định,quan trọng trong việc chuyển nền kinh tế từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước theo định hướng XHCN. Tiến tới Đại hội Đảng lần thứ X,trong thời gian gần đây ở các tổ chức Đảng của các giai cấp các ngành,các đơn vị,các tổ chức kinh tế,xã hội đã diễn ra nhiều cuộc thảo luận sô nổi,nghiêm túc về bản dự thảo văn kiện Đại hội Đảng nhiệm kì tới tiếp tục đẩy mạnh đổi mới,một mặt đó là sự khẳng định những thành tựu đat được sau 20 năm. Mặt khác,là xu thế phát triển tất yếu nhằm đạt mục tiêu CNXH ở nươc ta. Song công cuộc đổi mới là một quá trình sang tạo và tìm tòi,thử ngiệm và đúc kết từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện,tất nhiên không tránh khỏi những vấp váp,khuyết điểm.Đổi mới toàn diện trong đó đổi mới về kinh tế là trọng tâm,để đạt được mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế thì trước hết phải đổi mới nhận thức về các vấn đề kinh tế.Đó là thực trạng đặt ra cho chúng ta hiện nay.Nếu như Đại hội Đảng VI đánh dấu bước khởi đầu cho sự nghiệp đổi mới la chuyển sang “phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của Nhà Nước theo định hướng XHCN thì sau 20 năm đổi mới, nền kinh tế đang từng bước được hình thành phát triển theo một thể chế kinh tế – thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nội dung I/Tính tất yếu của việc phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam 1,Kinh tế thị trường : Sự nghiêp đổi mới ở Viêt Nam theo định hướng XHCN là một tất yếu lịch sử.Nó nhằm dẫn đến những mục tiêu rts cụ thể và mang tính cách mạng.Nó thay cũ đổi mới hàng loạt vấn đề về lý luận và thực tiễn,cả về kinh tế và chu trình xã hội,nó bảo vệ phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin va tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện,hoàn cảnh mới. Như chúng ta đã biết,từ khi CNXH được xây dựng tất cả các nước xã hội chủ nghĩa đều thực hiện nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung,cơ chế vận hành và quản lý kinh tế nay dựoc duy trì trong một thời gian khá dài và xem như một đặc trưng riêng biệt của CNXH,là cáI đối lập với cơ chế thị trường của CNTB.Sự thực thì không phải hoàn toàn như vậy,nền kinh tế tâp trung không chỉ là sản phẩm riêng biệt của CNXH,cũng như nền KTTT không phải duy nhất được thiết lập trong CNTB.Nền kinh tế tập trung đã được các nước tư bản áp dụng từ trước nhiều nước xá lập chế độ XHCN.Nhưng các nước TBCN đã xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sau khi chiến tranh klết thúc và đã đạt được những thành tựu lớn về kinh tế xã hội.Nhưng công bằng mà nói nền KTTT cũng chưa phải là cái duy nhất bảo đảm cho sự tăng trưởng và phát triển của xã hội. Trong thời kì quá độ lên CNXH thì sự tồn tại của nền sản suất hàng hoá là lẽ đương nhiên.Kinh tế hàng hoá hiểu theo nghĩa rộng là sản xuất hàng hoá ra sản phẩm nhằm mục đích trao đổi,mua bán ở trên thị trường.Kinh tế hàng hoá là mở các mối quan hệ kinh tế đều dựa trên hình thái giá trị (tiền tệ).KTTT là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá,trong đó toàn bộ các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của sản suất dều là yếu tố tự do mua bán trên thị trường kể cả sản phẩm của chất xám,vào thị trường.Trước kia trong môi trường cạnh tranh hoàn hảo thì đó là nền KTTT tự điều tiết.Còn ngày nay là cạnh tranh không hoàn hảo thì đó là nền KTTT của XHCN. Nói đến KTTT thì cần phảI xác định điều kiện ra đời và tồn tại của nó.Có quan niệm cho rằng,KTTT ra đời và tồn tại khi có hai diều kiện là phân công lao động xã hội và chế độ tư hữu(về tư liệu sản suất).Trong xã hội có chế độ tư hữu,các cá nhân được quyền sỡ hữu riêng về tư liệu sản suất,còn trong xã hội có chế độ công hữư thì ngược lại,các cá nhân không được quyền sở hữu riêng về tư liệu sản suất.Xã hội nào ít nhiều cũng có sự phân công lao động,nhưng không phải xã hội nào cũng có chế độ tư hữu. Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ tuy có sự phân công lao động nhưng cha có chế độ tư hữu và do đó chưa có KTTT.KTTT chỉ tồn tại trong các xã hội có chế độ tư hữu. Không có hai điều kiện trên thì không thể có KTTT. Quan niệm khác lai cho rằng,một xã hội trong đó không có chế độ tư hữu nhưng vẫn có thể có sự tồn tại của KTTT.Chẳng hạn,một số tác giả viết :”Các sách giáo khoa kinh tế chính trị ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đâyviết rằng :hai diều kiện ra đời và tồn tại của kinh tế hàng hoá là sự phân công lao động xã hội và chế độ tư hữu về tư liệu sản suất.Mặt khác.lại quá nhấn mạnh chế độ tư hữu hàng giờ để ra CNTB,nên đã nóng vội xoá bỏ ngay chế độ tư hữu,xác lập chế độ công hữu khi lực lượng sản suất còn lạc hậu để tiến nhanh,tiến mạnh lên CNXH.Từ đó,đi đến kết luận sai lầm rằng vì không có chế độ tư hữu nên cũng không còn sản suất hàng hoá nữa”. Trong hai quan niệm trên,quan niệm thứ nhất là đúng đắn.Nói nước ta phát triển nền KTTT định hướng XHCN,nó không phải là nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung như trước nhưng cũng không phải nền KTTT TBCN và cũng không phải là nền KTTT XHCN bởi vì nước ta đang trong thời kì quá độ tiến lên CNXH Nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta một mặt vừa có tính chất chung của nền KTTT . một là, các chủ thể kinh tế thyam gia vào thị trường có tính độc lập,có quyền tự chủ trong kinh doanh. Hai la, giá cả được hình thành trên thị trường, do thị trương quyết định. Ba la, nó vận động theo những quy luật kinh tế vốn có của nó từ đó hình thành cơ chế thị trường. Bốn là, trong nền KTTT hiện đại đều có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước ở mức đọ nhất định tuỳ theo mỗi nước. Mặt khác, KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam còn có những đặc trưng thể hiện bản chất của nó như: Về mục tiêu phát triển KTTT Để phân biệt nền KTTT ở nước ta với nền KTTT ở nước ta với nền KTTT ở nước khác có thể dựa vào những đặc trưng của nền KTTT mỗi nước. Phát triển KTTT TBCN là nhằm đem lại nhiều lợi nhuận cho các nhà tư bản phát triển CNTB…Trái lại, mục tiêu phát triển KTTT định hương XHCN ở nước ta là nhằm giải phóng mọi năng lực sản xuất,động viên mọi tiềm năng ở trong cũng như ngoàI nước để phục vụ cho công nghiệp hoá, hiện đai hoá, xây dựng cơ sở vật chất -kỹ thụât của CNXH, nâng cao hiệu quả kinh tế –xã hội, cải thiện từng bước đời sống nhân dân, tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, khuyến khích làm giàu hợp pháp, gắn liền với xoá đói giảm nghèo. Tom lại, phục vụ cho muc tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh và CNXH. 1.2 Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo Đảng và nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước thoe định hướng XHCN đó chính là nền KTTT định hướng XHCN. KTTT định hương XHCN ở nước ta dựa trên nhiều hình thức sở hữu:sở hữu nhà nước(sở hữu toàn dân), sở hữu tập thể, sở hữu cá thể, sở hữu hỗn hợp. Trên cơ sở đó hình thành nên nhiều thành phần kinh tế như kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể,kinh tế tư bản tư nhân…Trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. các thanh phần kinh tế trên tồn tại một cách khách quan chúng đều vận động theo cơ chế thị trường. Sự tồn tại của thành phần kinh tế cho phép ta khai thác được mọi nguồn lực kinh tế, thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển để thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân. Vì vậy, cùng với việc phát triển kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể là khuyến khích các thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế trên đều bình đẳng, chúng vừa hợp tác .vừa cạnh tranh với nhau.Trong đó kinh tế nhà nưóc giữ vai trò chủ đạo và định hướng nền KTTT đi lên chủ nghĩa xã hội . 1.3 Nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta cũng dựa trên nhiều hình thức phân phối trong đó lấy phân phối theo lao động là chủ yếu KTTT TBCN cũng dựa trên nhiều hình thức phân phối, đối với giai cấp bóc lột thì dựa trên phân phối theo lợi nhuận, lợi tức địa tô còn đối vớigiai cấp công nhân và nhân dân lao động thì dựa trên nguyên tắc giá cả của giá trị sức lao động tức là tiền công. KTTT định hướng XHCN Việt Nam do dựa trên nhiều hình thưcsowr hữu khác nhau, nhiều thành phần kinh tế khác nhau, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, nó cũng dựa trên nhiều hinh thức thu nhập khác nhau.Nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta dựa trên nhiều hình thức phân phối trong đó lấy phân phối theo lao động là chủ yếu.ngoài ra, còn phải nâng cao hiệu quả kinh tế, mở rộng phân phối theo vốn, tài sản và những đóng góp khác, phát triển kinh tế phải gắn với tiến bộ xã hội. 1.4 Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước XHCN Ngày nay, hầu như tất cả các nền kinh tế của các nước trên thế giới đều có sự quản lý của nhà nước. Nhà nước Việt Nam là nhà nước XHCN, nhà nước của dân, do dân và vì dân. Sự quản lí của nhà nước nhằm hạn chế “ những khuyết tật của nền KTTT “,đảm bảo cho nền KTTT phát triển ổn định,nâng cao hiệu quả kinh tế,đảm bảo công băng xã hội . Trong điều kiện KTTT, chính nhà nước đã làm giảm bớt hố ngăn cách giàu nghèo, sự chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng của đất nước. Nhà nước quản lí vĩ mô nền kinh tế thị trường thông qua cãc công cụ kế hoạch hoá tàI chính, tín dụng tiền tệ và các công cụ khác. 1.5 Nền KTTT định hướng XHCN Việt Nam là nền kinh tế mở. Nói KTTT là nói tới nền kinh tế mở , hội nhập. Dưói sự lãnh đạo của cách mạng khoa học chủ nghĩa, của xu hướng quốc tế hoá , toàn cầu hoá đã đòi hỏi chúng ta phải phát triển kinh tế mở, phải củng cố môI trường hoà bình và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội, công nghiệp hoá ,hiện đai hoá đất nước phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đáu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Tiếp tục thực hiện chính sách đối ngoại , độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá. Mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt, song phương đa phương với các nước,các tổ chức quốc tế,và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của nhau,không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi. 2, Phát triển nền KTTT định hướng XHCN là một tất yếu khách quan : 2.1 Sự cần thiết khách quan Bản chất của CNTB là sản suất lợi nhuận và siêu lợi nhuận bằng cách bóc lột giá trị thặng dư do người lao động tạo ra.Từ bản chất đo C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát hiện quy luật tất yếu khách quan là chế độ TBCN cũng sẽ bị đánh đổ, xã hội mới sẽ ra đời bảo đảm sự công bằng và bình đằng giữa người với người, con người được giải phóng có cơ hội như nhau trong việc tiếp cận các nguồn lực xã hội và lao động.V.I.Lênin đã kế thừa những học thuyết của C.Mác và Ph.Ăngghen trong việc giành chính quyền về tay nhân dân và xây dựng XHCN ở nước Nga Xô-Viết- nứoc XHCN đầu tiên trên thế giới, và đã khẳng định tất cả các dân tộc trên thế giới sớm hay muộn đều đi lên CNXH. Đảng ta cũng ý thức rất rõ và hoạch định nhứng bước đi cơ bản và quyết định bảo đảm thành công bước “bỏ qua” một cách biện chứng, nhất là những quy luật chung của quá trình phát triển từ sản suất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN, quyết tâm phát triển cả về quy mô và tính chất và chiều sâu nền KTTT định hướng XHCN và coi đây là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kì quá độ đi lên CNXH. Điều mới mẻ và cần nhấn mạnh là việc phát triển nền KTTT định hướng XHCN luôn được xem là một quá trình có tính chính trị và văn hoá trứoc khi là một quá trình kinh tế và công nghệ thuần tuý để tránh quy luật “cá lớn nuốt cá bé”,”kinh tế vì kinh tế”,”tiền vì tiền”…vv.. Đó là lợi thế so sánh tuyệt đối giữa chế độ XHCN với bất kể một chê độ chính trị- xã hội cũng tiến hành nền KTTT. Thực tiễn vận động của nền kinh tế thế giới những năm gần đây cho thấy, mô hình phát triển kinh tế theo hướng thị trường có sự diếu tiết vĩ mô từ trung tâm trong bối cảnh của thời đại ngày nay, là mô hình hợp lý hơn cả.Mô hình này, về đại thể có thể đáp ứng những thách thức của sự phát triển. Đối với nứoc ta, việc thực hiện mô hình này, trong thực tế chẳng những là nội dung của công cuộc đổi mới mà hơn thế còn là công cụ, là phương thức để nước ta đi tới mục tiêu xây dựng CNXH. Theo C.Mác. sản xuất hàng hoá không phải là một phương thức sản xuất (PTSX) độc lập mà là một tổ chức hình thức kinh tế ra đời và tồn tại ở trong nhiều PTSX khác nhau với phạm vi và mức độ không giống nhau.Sản xuất hàng hoá ra đời và tồn tại khi có hai điều kiện : có sự phân công lao động xã hội và chế độ tư hữu về TLSX làm cho ngưòi sản xuất có sự tách bạch về lợi ích kinh tế đó là hai điều kiện cần và đủ để cho kinh tế hàng hoá ra đời và tồn tại. Đối với nước ta, phân công lao động xã hội với tính cách là cơ sở chung của sản xuất hàng hoá không những không mất đi mà trái lại còn được phát triển cả về chiều sâu và chiều rộng. Phân công lao động trong từng địa phương, từng khu vực ngày càng phát triển. Không những phân công lao động trong nước phát triển mà nước ta còn tham gia vào hợp tác quốc tế. Nếu như trước đây, nền kinh tế nước ta chỉ có một kiểu sơ hữu tương đối thuần nhất với hai hình thức sở hữu tập thể và quốc doanh, thì hiện nay cùng với thành phần sở hữu chủ đạo là sở hữu nhà nước, còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác là sở hữu tập thể, sở hữu cá thể và tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân, sở hữu hỗn hợp. Những hình thức sở hữu đó trong thực tế vận hành của nền kinh tế, có khả năng đáp ứng những đòi hỏi đa dạng và năng động của nền của nền KTTT. Ngay thành phần kinh tế Nhà nước và thành phần kinh ts tập thể tuy đều dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất nhưng do trình độ xã hội hoá có sự khác nhau nên vẫn có sự khác biệt nhất định, có quyền tự chủ trong sản xuât kinh doanh và có lợi ích kinh tế riêng biệt. Ngoài ra nước ta còn tồn tại hình thức kinh tế đối ngoại đặc biệt là trong điều kiện phân công lao động quốc tế, phát triển trong điều kiện quốc tế hoá , toàn cầu hoá ngày càng gia tăng cho nên trong quan hệ kinh tế đối ngoại phải dựa trên cơ sở trao đổi ngang giá. Mỗi hành trang có ý nghĩa mà công cuộc đổi mới trang bị cho chúng ta sản xuất hàng hoá cùng với nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, hiện đã được chúng ta hiểu là không đối lập với CNXH. Vói tính cách là sản phẩm của văn minh nhân loại, một cơ hội đẻ các cộng đồng mở cửa tiếp xúc với bên ngoài, KTTT rõ ràng là khách quan và tất yếu đối với công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta. Tóm lai nước ta phảI phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước định hướng XHCN là tất yếu khách quan.Nhờ chuyển đổi cơ chế kinh tế này mà nước ta đã ra khỏi suy thoái, kinh tế tăng trưởng và phát triển ở mức độ nhất định, đời sống vật chất –tinh thần của nhân dân từng bước được cải thiện. Đến đại hội Đảng IX mô hình trên được Đảng ta khẳng định là KTTT có sư quản lí của nhà nước và định hướng XHCN. Mặt khác xét về phương diện lí luận, mô hình trên đã khẳng định tính tất yếu của Việt Nam phải trải qua KTTT. Đây là sự khẳng định, sự nhận thức chẳng những đúng đắn mà nhận thức này đã được kiểm chứng bằng thực tiễn của cả nhân loại và Việt Nam. 2.2. Tác dụng to lớn của sự phát triển KTTT Nền kinh tế nước ta khi bước vào thời kì quá độ đi lên CNXH còn mang nặng dấu ấn của kinh tế tự nhiên vì vậy có phát triển KTTT chúng ta mới phá vỡ được kinh tế tự nhiên làm cho trình độ xã hội hoá của sản xuât ngày càng cao. Kinh tế hàng hoá tạo ra động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Do cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hoá buộc mỗi người phải cải tiến kĩ thuật, phương pháp, nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, thúc đảy lực lượng sản xuất phát triển. Sản xuất hàng hoá là sản xuất ra sản phẩm để bán ở trên thị trường và do thị trường quyết định cho nên có phát triển kinh tế hàng hoá chúng ta mới xây dựng được hệ thống thị trường thống nhất tham gia vào thị trường thế giới, mới đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân , nâng cao đời sống vât chất-tinh thần của nhân dân. Sư phát triển KTTT sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất do đó chúng ta mới xây dựng thành công nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa ở nước ta, đồng thời chọn lọc được những người sản xuất kinh doanh giỏi, hình thành đội ngũ cán bộ quản lý lành nghề đáp ứng nền KTTT hiện đại. Có phát triển KTTT nước ta mới tham gia vào phân công hợp tác quốc tế, tham gia vào hội nhập làm kinh tế nước ta hoà nhập vào kinh tế thế giới. KTTT là kinh tế hàng hoá xã hội hoá, vì vậy phát triển KTTT mới xoá bỏ được ảnh hưởng nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp,giải phóng năng lực sản xuất, thúc đẩy LLSX phát triển làm cho QHSX xuất phù hợp với LLSX. Thực tiễn những năm đổi mới đã chứng minh rằng, việc chuyển sang nền KTTT nhiều thành phần là hoàn toàn đúng đắn.Nhờ phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, chúng ta đã bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước và thu hút được vốn, kĩ thuật công nghệ nước ngoài, góp phần quyết định vào việc tăng trưởng kinh tế với nhịp độ tương đối cao trong thời gian qua.Có phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN mới tăng cường vai trò quản lý vĩ mô của Nhà Nước, Mới xây dựng được Nhà Nước pháp quyền Việt Nam. II/Thực trạng và các giảI pháp để phát triển KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam, thủ đô Hà Nội : 1, Thực trạng : 1.1 Thành tựu Nền kinh tế vẫn giữ được nhịp độ tăng trưởng khá, cơ cáu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực. Nhìn tổng thể năm 2006, kinh tế nước ta vân duy trì được mức tăng trưởng khá cao, hơn so với các năm và so với một số nước trên thế giới. Tính chung cả năm 2005, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) đạt 8,4% cao hơn năm 2004 (7,7%) trong đó nông lâm thuỷ sản tăng 4,9%, công nghiệp và xây dựng tăng 17,2%, dịch vụ tăng gần 7,5%, Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp tiếp tục đạt mức cao, năm 2005 giá trị sản xuât công nghiệp đạt hơn 416,8 nghìn tỷ đồng. Đến hết năm 2004, HàNội đã hình thành 5 khu công nghiệp tập trung (khu công nghiệp Nội Bài, Sóc Sơn, Sài Đồng A,B, đầu tư) vói diện tích 784ha và số vốn đầu tư cho hạ tầng cơ sở khoảng 250tr USD. Một số sản phẩm đạt tốc độ tăng trưởng cao so với cùng kì năm 2004 là : than sạch khai thác tăng 21,7%,phân hoá học tăng 24,7%....Nhiều địa phương đã dật mức tăng trưởng kinh tế cao như Vĩnh Phúc tăng 31.8%, Bình Dương tăng 31%, Quảng Ninh 18.1%, Hà Nội tăng 15.5%. Kết thúc 2005, tính chung diện tích lúa cả nước ước đạt 7,32tr ha.Sản lượng thuỷ hảI sản năm 2005 đạt khoảng 3433 nghìn tấn. Khu vực dịch vụ tăng trưởng khá nhất là thương mại nội địa tăng trưởng mạnh. Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2005 ước đạt 475.381 tỷ đồng tăng 20,5% so với năm 2004. Năm 2006 ngành dịch vụ của Hà Nội đạt 10,5%. Các cân đối chủ yếu trong nền kinh tế đã được điều chỉnh thích hợp để duy trì khả năng tăng trưởng kinh tế và ổn định đời sống nhân dân. Tổng quỹ tích luỹ tăng bình quân hàng năm trên 9,5%. Tổng thu ngân sách nhà nước tăng bình quân hàng năm trên 8,7%. Năm 2005 vốn đầu tư xã hội ước tăng 18,5% so với thực hiện năm 2004. Nguồn vốn đầu tư đã được tập trung vào mục tiêu chuyển cơ cấu kinh tế để nâng cao hiệu quả sản xuất, phát huy lợi thế của từng vùng, từng ngành. Tổng số vốn đàu tư 2004 đăng kí của Hà Nội đạt khoảng 7,5 tỷ USD. Tính đến hết tháng 12 năm 2004 trên địa bàn Hà Nội có 531 dự án. Năm 2006 cùng với các địa phương khác Hà Nội khuyến khích đầu tư mạnh vào một số lĩnh vực quan trọng như sản xuất vật liệu mới, năng lượng mới, sản phẩm công nghệ cao… Kinh tế đối ngoại tiếp tục phát triển. Kim ngạch xuất khẩu trong năm 2005 đạt trên 32,233 tỷ USD, tăng 21,6% so với năm 2004. Trong đó xuất khẩu của doanh nghiệp FDI (không kể dầu thô) ước tăng 26,2% và chiếm 34,5% tổng kim ngạch xuất khẩu. Năm 2005, kim ngạch nhập khẩu đạt trên 36,881 tỷ USD tăng 15,4% so với năm 2004 trong đó doanh nghiệp FDI nhập khẩu đạt 13,687 tỷ USD thu hút vốn ODA có biến chuyển tích cực. Dải ngân ODA cả năm 2005 ứoc đạt 1723 tỷ USD, tăng 15,4% so với năm 2004. Tổng số vốn ODA rót cho Hà Nội khoảng hơn 650tr USD. Cơ chế quản lý kinh tế, hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách được đồng bộ hoá và hoàn thiện dần, đang phát huy tích cực trong quản lý kinh tếvà trong đời sống xã hội. Trong quá trình triển khai các luật, Pháp lệnh, các Chỉ thị, Nghị quyết…đã kịp thời điệu chỉnh bổ sung những nội dung mới phù hợp với tiến trình phát triển, tạo ra môi trường vĩ mô thuận lợi để thu hút các nguồn lực đầu tư phát triển kinh tế xã hội. thị trường hàng hoá dịch vụ, thị trường vốn, tiền tệ,thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán…đang được hình thành với những cơ chế chích sách quản lý phù hợp đã tạo nên động lực cho sự phát triển, khơi dậy tính năng động của nền kinh tế. 1.2 Hạn chế Trình độ phát tiển nền KTTT ở nước ta còn ở giai đoạn sơ khai Đó là do các nguyên nhân: Cơ sở vật chất –kỹ thuật còn ở trình độ thấp, máy móc thiết bị công nghệ còn phần lớn ở trình độ lạc hậu, lao động thủ công còn chiếm tỷ trọng lớn. Do đó năng suất, chất lượng ,hiệu quả còn ở trình độ thấp so vơI khu vực và thế giới(năng suất lao động của nước ta chỉ bằng 30% mức trung bình của thế giới) Kết cấu hạ tầng còn lạc hậu, kém phát triển, hệ thống đường giao thông, bến cảng, hệ thống thông tin liên lạc… Hệ thống giao thông kém phát triển làm cho các địa phương các vùng bị chia cắt, tách biệt nhau. Phân công lao động xâ hội còn kém phát triển ,sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm nên nhìn chung nước ta vẫn sử dụng khoảng 70% lực lượng lao động ,nhưng nhìn chung chỉ sản xuất khoảng 26%GDP các ngành kinh tế công nghệ cao chiếm tỉ trọng thấp . Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp còn rất yếu . do cơ sở vật chất kĩ thuật và công nghệ còn rất lạc hậu , nên năng suất lao động thấp do khối lượng hàng hoá nhỏ bé. Thị trường dân tộc thống nhất đang trong quá trình quá độ nhưng chưa đồng bộ.do giao thông vần tải còn kém phát triển nên chưa lôi cuốn dược các vùng ,các miền ở trong nước thành một mạng lưới lưu thông hàng hoá thống nhất . thị trường hàng hoá dịch vụ hình thành nhưng còn hạn hẹp và còn nhiều hiện tượng tiêu cực (hàng giả ,hàng kém chất lượng ,hàng nhập lậu….). thị trường hàng hoá sức lao động mới mạnh , thị trường tiền tệ ,thị trường vốn đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn nhiều trắc trở . Tỉ trọng vốn FDI thực hiện trong tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thấp và có xu hướng giảm dần (1997 chiếm 28% ,năm 1998 chiếm 20,8%,năm 2000chiếm 18%, năm 2002 chiếm 17,5%, năm 2003 chiếm18,3%, 2004 chiếm 15,5%,2005 chiếm khoảng 14,5%). Trong hai năm 2005, 2006 ,công an hà nội đã phát hiện được nhiều cơ sổ sản xuất hàng giả, hàng nhập lậu, hàng nhái như:thuốc ,đồ uống ,mỹ phẩm.Nhiều cơ sở sản xuất tại Hà Nội dựa vào nhiều thương hiệu tốt để làm ra hàng giống hệt nhưng chất lượng lại kém xa. Nhiều thành phần kinh tế tham gia thị trường .Do vầy nền kinh tế ở nước ta có nhiều loại hình sản xuất hàng hoá cùng tồn tại đan xen nhau ,trong đó sản xuất hành hoá nhỏ phân tán còn phổ biến . Sự hình thành thị trường trong nước gắn với mử rộng kinh tế đối ngoại hồi nhập vào thị trường khu vực và thế giới ,trong hoàn cảnh trình độ phát triển kinh tế – kĩ thuật của Nước ta thấp xa so với hầu hết các nước. Tỷ lệ lạm phát năm 2005 ở mức khá cao . chỉ số giá tiêu dùng tháng 12-2005 vẫn tiếp tục tăng ở mức cao (tăng 0,8%) đưa tốc độ giá tiêu dùng cả năm 2005 lên 8,4%.đây là năm có tốc độ tăng giá tiêu dùng cao thứ 3 trong 10 năm gần đây (năm 1998 lên 9,2%, năm 2004 tăng 9,4%.) Như vậy chỉ số giá tiêu dùng tăng bằng tốc độ tăng GDP và cao hơn mục tiêu kiềm chế lạm phát đã được quốc hội thông qua về công nghiệp ,tốc độ tăng giá trị gia tăng đạt 10,6% ,không tương ứng với tăng giá trị sản xuất và thấp hơn mức kế hoạch 0,4%,sản xuất nông nghiệp vẫn lệ thuộc quá nhiều vào điều kiện tự nhiên ,tốc độ tăng giá trị sản xuất cả năm 2005 chỉ đạt 3,2% .Mức tăng trưởng kinh tế của Hà Nội năm 2005 cao nhưng vẫn thấp hơn nhiều thành phố ,tỉnh: Vinh P húc , Bình Dương , Cần Thơ, Đòng Nai, Hà Tây, Khánh Hoà,TP.Đà Nẵng, TP.HảI Phòng, Quảng Ninh. Trong khi đó quốc tế hoá toàn cầu ngày càng gia tăng điều đó đòi hỏi chúng ta phải hội nhập nhưng trình độ phát triển kinh tế thị trường của nước ta còn đang sơ khai. Điều này đòi hỏi chúng ta phải phát huy mọi mặt nội lực nhung mặt khác phải tranh thủ ngoại lực phải có chiến lược để phát triển thị trường thế giới và khu vực. Quản lý của Nhà nước về kinh tế xã hội còn yếu. Do hệ thống pháp luật cơ chế chính sách còn chưa đồng bộ, chưa nhất quán, thực hiện còn chưa nghiêm túc, các công cụ tài chính ngân hàng kế hoạch hoá còn nhiều yếu kém. Quản lý xuất nhập khẩu còn nhiều sơ hở chế độ phân phối còn có sự bất hợp lý ngân sách còn bội chi liên tục, lạm phát tuy đã được kiềm chế nhưng chưa vững chắc. 2,Giải pháp cơ bản để phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam : Ông Lương Văn Tự – Thứ trưởng Bộ Thương Mại, “Tổ chức Thương Mại thế giới (WTO) không có quy định về cơ chế phân biệt đối xử với nền kinh tế phi thị trường. Đây hoàn toàn là sự áp đặt của một số thành viên WTO, thưch tế Việt Nam đã được nhiều nước công nhận là nền KTTT. Nhiều bước có nên KTTT kém phát triển hơn Việt Nam cũng đã được công nhận là nền KTTT. Vì vậy, Việt Nam sẽ phấn đấu để sánh vai cùng các cường quốc năm châu, Việt Nam phải phát triển nền KTTT theo định hướng XHCN. Để phát triển KTTT theo định hướng XHCN, cần đồng bộ thực hiện nhiều giải pháp. Dưới đây là những giải pháp chủ yếu nhất : 2.1 Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần Trước kia chúng ta phát triển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung cho nền cơ cấu sở hữu ở nước ta chủ yếu dựa trên chế độ công hữu về TLSX tồn tại dưới hai hình thức sở hữu, đó là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Vì vậy, khi chuyển sang KTTT theo định hướng XHCN chúng ta phải đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Điều đó sẽ đưa đến hình thành những chủ thể kinh tế độc lập, có lợi ích riêng. Để làm điều đó đòi hỏi thủ đô Hà Nội cũng như cả nước phải nhất quán chính sách về phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần : kinh tế nhà nước, tập thể, cá thể….Ngoài ra, khuyến khích mạnh mẽ kinh tế gia đình, kinh tế hợp tác, kinh tế cổ phần dân cư, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước. Các thành phần kinh tế này phải bình đẳng, phải phát triển kinh tế nhà nước để nó thực sự giữ vai trò chủ đạo 2.2 Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, ứng dụng nhanh tiến bộ khoa hịc – công nghệ, trên cơ sở đó đẩy mạnh phân công lao động xã hội Phân công lao động xã hội là cơ sở của kinh tế hàng hoá, vì vậy để phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Nước ta cần đẩy mạnh phân công lao động xã hội thực hiên công nghiệp hoá. hiện đại hoá để xây dựng cơ sở vật chất đồng thời phải ứng dụng nhanh tiến bộ của khoa học công nghệ vào sản xuất để phát triển LLSX thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Trong vài thập kỉ tới vị trí, vai trò của Thủ đô sẽ được quyết định bởi kĩnh vực kinh tế. Hà Nội phải trở thành trung tâm kinh tế hàng đầu cả nước. Chính vì vậy, Hà Nội càng cần phải đẩy mạnh CNH – HĐH, ứng dụng thành tựu của KHCN vào sản xuất, đẩy mạnh phân công lao động xã hội. 2.3 Hình thàn và phát triển đồng bộ kinh tế thị trường Thị trưòng là phạm trù kinh tế gắn liền với kinh tế hàng hoá, có kinh tế hàng hoá là phải có thị trường. Trong nền KTTT, hầu hết các nguồn lực kinh tế đều thông qua thị trường mà được phân bố vào các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế một cách tối ưu. Do nền KTTT ở nước ta đang ở trình độ sơ khai cho nền thị trường chưa phát triển, chưa đồng bộ vì vậy chúng ta phải phát triển đồng bộ các loại thị trường. Trước hết phải phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ thông qua việc sản xuất đẩy mạnh, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển hệ thống giao thông và phương tiện vận tải để mở rộng thị trường. Hà Nội cần liên kết, hợp tác với các tỉnh, thành phố để tạo điều kiện cho phát triển sản xuất. Tiếp đó là phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường tài chính….Các thị trường này phải cân đối với nhau. Đặc biệt, ta cần xá định rõ các yếu tố của từng loại thị trường từ đó tạo điêu kiện cho chúng phát triển. 2.4 Mở rộng và nâng cao hiểu quả kinh tế đối ngoại Trong điều kiện hiện nay, chỉ có mở cửa kinh tế, hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới, mới thu hút được vốn, kĩ thuật và công nghệ hiện đại để khai thác tiềm năng và thế mạnh của đất nước nhằm phát triển kinh tế. Phải đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại, phải thực hiện nhiều hình thức kinh tế đối ngoại. Trong kinh tế đối ngoại cần quán triệt các nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Ông Trần Đức Vũ, phó giám đốc Sở kế hoạch và Đầu tư Hà Nội cho biết, giai đoạn 2006 – 2010, Hà Nội đặt mục tiêu trên, Hà Nội cần đẩy mạnh kinh tế đối ngoại, hợp tác quốc tế bằng nhiều hình thức có như vậy mới thu hút được vốn đâu tư nước ngoài. 2.5 Giữ vững ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống luật pháp Sự ổn định về kinh tế - chính trị - xã hội vừa là môi trường vừa là điều kiện để phát triển KTTT theo định hướng XHCN. Có như vậy nước ngoàI mới đầu tư vào nước ta và các nhà kinh doanh trong nước mới an tâm đầu tư. Vì vậy cần giữ vững sự ổn định chinh trị thông qua việc tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý nhà nước, phat huy quyền làm chủ của nhân dân. Thành phố Hà Nội cần tăng cường đội ngũ cán bộ quản lý đảm bảo trật tự an toàn xã hội. Phải xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật tạo hành lang pháp lý. Hệ thống của nước ta phải phù hợp vời phong tục tập quán của luật pháp quốc tế. 2.6 Xoá bỏ triệt để cơ chế tập trung, uqna liêu, bao cấp, hoàn thiện có chế quản lý kinh tế của nhà nước Việc xoá bỏ triệt để cơ chế tập trung, quản liêu,bao cấp, hình thành đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế hàng hoá ở Việt Nam. Để nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý của nhà nước cần nâng cao năng lực của cơ quan lập pháp,._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docU0273.doc