Thế nào là Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa? Tại sao nước ta lại coi đó là nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội

Đề tài: Thế nào là công nghiệp hoá - hiện đai hoá? Tại sao nước ta lại coi đó là nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Anh (chị) phải làm gì để thực hiện sự nghiệp công nghiêp hoá hiện đại hoá Lời mở đầu Kết thúc thế kỷ 20, bước vào thế kỷ 21, bối cảnh trong nước và quốc tế tiếp tục có những thay đổi mau chóng. Báo cáo chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001) của Đảng nhận định: “Thế kỷ 21 sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi. Khoa học và công nghệ sẽ có bước

doc17 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1626 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thế nào là Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa? Tại sao nước ta lại coi đó là nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiến nhảy vọt. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất”. Trong bối cảnh ấy, nhận thức của Đảng ta về CNH, HĐH đất nước cũng có bước đổi mới quan trọng, cho rằng quá trình CNH, HĐH ở nước ta có thể được rút ngắn. Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội giai đoạn 2001-2010 được thông qua tại Đại hội IX xác định: “Con đường CNH, HĐH của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát triển những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức”. Đảng ta đề ra mục tiêu “phấn đấu trong giai đoạn 2001-2010 đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Điều này hứa hẹn mở ra những bước đột phá trong nhiều lĩnh vực kinh tế- xã hội, góp phần thực hiện “dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đối với mỗi nước thì công nghiệp hoá hiện đại hoá có vai trò hết sức quan trọng.Với mục đích tìm hiểu rõ hơn về nội dung ,ỹ nghĩa và nhiệm vụ của công nghiệp hoá hiện đại hoá nên em đã chọn đề tài này. A-Về mặt lý luận Công nghiệp hoá hiên đại hoá chính là quá trình thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc,là quá trình xây dựng và phát triển nền đại công nghiệp để trang bị kĩ thuật mới cho nền kinh tế,chuyển từ nước nông nghiệp lên nước công nghiệp. Qúa trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đã có những tác dụng to lớn về nhiều mặt trong sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.Công nghiệp hoá hiện đại hoá không những có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng phát triển cao mà còn tạo tiền đề vật chất để xây dựng ,phát triển và hiện đại hoá nền quốc phòng an ninh.Công nghiệp hoá hiện đại hoá tạo ra tiền đề kinh tế cho sự phát triển đồng bộ về kinh tế-chính trị,văn hoá-xã hội,quốc phong-an ninh.Công nghiệp hoá hiện đại hoá tạo điều kiện vật chất để xây dựng nền kinh tế độc lập,tự chủ vững mạnh trên cơ sở đó mà thực hiện tôt sự phân công và hợp tác quốc tế.Công nghiệp hoá hiện đại hoá tạo ra cơ sở vật chất để làm biến đổi về chất lực lựợng sản xuất,nhờ đó mà nâng cao vai trò của người lao động-nhân tố trung tâm của nền kinh tế XHCN,tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.Qua đó có thể thấy được thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá nền kinh tế quốc dân là nhân tố quyết định sự thắng lợicủa con đường XHCN mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.Chính vì thế mà công nghiệp hoá hiện đại hoá kinh tế được coi là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời lỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu lâu dài của công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội dựa trên 1 nền khoa học và công nghệ tiên tiến,tạo ra lực lượng sản xuất mới với quan hệ sản xuất ngày càng tiến bộ,phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,cải thiện đời sống vật chất, thực hiện dân giàu nước mạnh,xã hội công bằng dân chủ văn minh.Sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đòi hỏi phải xây dựng và phát triển mạnh mẽ các ngành công nghiệp trong đó then chốt là nghành chế tạo tư liệu sản xuất.Vì theo quan điểm của chủ nghĩa Mac -LêNin tái sản xuất mở rộng của khu vực sản xuất tư liệu sản xuất đặc biệt là của ngành sản xuất tư liệu sản xuất để sản xuất tư liệu sản xuất quyết định quy mô tái sản xuất mở rộng của toàn bộ nền kinh tế, Đối tượng công nghiệp hoá hiện đại hoá là tất cả các ngành kinh tế quốc dân nhưng trước hết và quan trọng nhất là ngành công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất. Đồng thời mụa tiêu của công nghiep hoá hiên đại hoá còn là sử dụng kỹ thuật,công nghệngày càng tiên tiến hiện đại.nhằm đạt năng suất lao động xã hội cao.Tất cả những điều đó chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở một nền khoa học công nghệ phát triển đến một trình độ nhất định.Khi mà nền khoa học của thế giới đang có sự phát triển như vũ bão thì khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.Khi mà công nghệ đang trở thành nhân tố quyết định chất lượng sản phẩm,chi phí sản xuất…tức là nói đến khả năng cạnh tranh của hang` hoá ,hiệu quả của sản xuất kinh doanh thì khoa học công nghệ phải là động lực của công nghiệp hoá hiện đại hoá.Bởi vậy phát triển khoa học công nghệ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá.Trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá người lao động-lực lượng sản xuất hàng đầu-không những phải được nâng cao trình độ văn hoá và khoa học công nghệ mà còn phải được trang bị cả cơ sở vật chất kỹ thuật tiên tiến.Họ vừa là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất,vừa là người tạo ra sự phát triển đó.Qúa trình công nghiệp hoá hiện đại hoá cũng là quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế.Công nghiệp hoá hiện đại hoá đòi hỏi phải xây dựng cơ cấu kinh tế kiện đại và hợp lí. Từ khi bước vào thời kỳ đổi mới 1986 cùng với việc từng bước phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN giải phóng các lực lượng sản xuất chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý,chủ động hội nhập kinh tế quốc tế Đảng và Nhà nước ta đã xác định ngày càng rõ quan điểm mới về công nghiệp hoá hiện đại hoá.Quan điểm mới ấy là kết quả tổng kết thực tiễn rút ra từ những bài học của mấy thập kỷ trước đây kết hợp với sự nghiên cứu học hỏi kiến thức và kinh nghiệm của thế giới và thời đại.Cuối thế kỷ 20 Đảng và Nhà nước ta đã vạch ra công nghiệp hoá và hiện đại hoá không phải là 2 quá trình tuy có phần lồng vào nhau nhưng về cơ bản vẫn tách biệt và nối tiếp nhau mà là 1 quá trình thống nhấtcó thể tóm tắt là công nghiệp hoá theo hướng hiện đại hoá.Công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta có nhiều nét đặc thù cả về nội dung hình thức quy mô,cách thức tiến hành và mục tiêu chiến lược. Những nét đặc thù này được thể hiện khái quát ở một số điểm sau đây: Thứ nhất: Quá trình CNH, HĐH ở nước ta là một quá trình rộng lớn, phức tạp và toàn diện. Có nghĩa là nó diễn ra trong các tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, có sự kết hợp giữa các bước đi tuần tự và các bước đi nhảy vọt, kết hợp giữa phát triển theo chiều rộng và phát triển theo chiều sâu, kết hợp giữa biến đổi về lượng và biết đổi về chất,… của các tác nhân tham gia quá trình. Mục tiêu của quá trình CNH, HĐH mang tính bao trùm rất cao, theo đó đến năm 2020 nước ta về cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, nhưng mục tiêu sâu xa hơn là nước ta trở thành một nước “dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Thứ hai: Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng khoa học, công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ, nước ta không thể chờ thực hiện xong công nghiệp hoá rồi mới tiến hành HĐH, mà phải thực hiện đồng thời và đồng bộ CNH và HĐH như một quá trình thống nhất. Về đại thể, riêng về mặt kinh tế, có thể nhìn nhận quá trình này từ hai mặt thống nhất với nhau: thứ nhất, đó là quá trình xây dựng nền công nghiệp hiện đại, cũng có nghĩa là tạo lập nền tảng vật chất- kỹ thuật (lực lượng sản xuất) của nền kinh tế; và thứ hai, đó là quá trình cải cách hệ thống thể chế và cơ chế kinh tế, từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường, hội nhập. CNH gắn với HĐH là cách làm đẩy lùi nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, nhanh chóng đưa nước ta tiến kịp các nước trong khu vực, hội nhập vào sự phát triển chung của khu vực và thế giới. Thứ ba: Quá trình CNH, HĐH ở nước ta cần và có thể được “rút ngắn”. Việc cần được “rút ngắn” ở đây là đòi hỏi khách quan của nhiệm vụ thoát khỏi tình trạng tụt hậu phát triển. Bên cạnh đó, bối cảnh mới trong nước cũng như trên thế giới cho phép nước ta có khả năng “rút ngắn” quá trình CNH, HĐH. Về cơ bản, cách để nước ta có thể thực hiện được CNH, HĐH rút ngắn bao gồm hai mặt: thứ nhất, đạt và duy trì một tốc độ tăng trưởng cao hơn các nước đi trước liên tục trong một thời gian dài để rút ngắn khoảng cách chênh lệch về trình độ so với các nước đó (thực chất là tăng tốc để đuổi kịp); và thứ hai, lựa chọn và áp dụng một phương thức CNH, HĐH cho phép bỏ qua một số bước đi vốn là bắt buộc theo kiểu phát triển tuần tự, để đạt tới một nền kinh tế có trình độ phát triển cao hơn (thực chất là lựa chọn con đường, bước đi và giải pháp CNH để đi nhanh tới hiện đại). Hai mặt này không đối lập mà có thể thống nhất với nhau, và đang tiếp tục được làm rõ để định hình sáng tỏ hơn con đường đẩy nhanh CNH, HĐH ở nước ta. Thứ tư: Ở nước ta, quá trình CNH, HĐH có quan hệ chặt chẽ với việc từng bước phát triển kinh tế tri thức. Trong thời gian qua, tại không ít diễn đàn khoa học và công trình nghiên cứu, mối quan hệ hai chiều giữa CNH, HĐH với phát triển kinh tế tri thức đã từng bước được làm rõ. Về đại thể, có mạnh dạn đi ngay vào phát triển kinh tế tri thức mới có khả năng thay đổi phương thức và đẩy nhanh tốc độ CNH, HĐH. Hay nói cách khác, phát triển kinh tế tri thức tạo điều kiện cho việc thực hiện mô hình CNH, HĐH “rút ngắn” ở nước ta. Ngược lại, việc thực hiện các bước đi và mục tiêu của quá trình CNH, HĐH tạo ra kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội để đi vào kinh tế tri thức. Quá trình CNH, HĐH ở nước ta phải nắm bắt các tri thức và công nghệ mới nhất của thời đại để hiện đại hóa nông nghiệp và các ngành kinh tế hiện có, đồng thời phát triển nhanh các ngành công nghiệp và dịch vụ dựa vào tri thức, vào khoa học và công nghệ chuyển dịch cơ cấu theo hướng tăng nhanh của các ngành kinh tế tri thức. Công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn là 1 trong những nội dung của công nghiệp hoá hiện đại hoá.Nước ta do đi từ 1 nước nông nghiệp cho nên phải phát triển toàn diện nông nghiệp (bao gồm nông lâm ngư nghiệp gắn với nó là sản xuất và chế biến).Có như vậy mới đảm bảo được an toàn lương thực an toàn xã hội ,tạo nguyên liệu cho công nghiệp chế biến góp phần vào xuất khẩu. Để thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn thì một số nội dung chủ yếu cần tập trung sức chỉ đạo tập trung có hiệu quả là: Phải chú trọng đến vấn đề chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá;thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá,thuỷ lợi hoá, đưa nhanh tiến bộ khoa học-kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất,thực hiện phát triển đồng bộ có hiệu quả nuôi trồng, đánh bắt gắn với công nghiệp chế biến nông sản,lâm sản và thuỷ hải sản… Tiếp tục phát triển và mở rộng thị trường, coi trọng và phát triển thị trường trong nước, tổ chức tốt việc tiêu thụ nông, lâm sản, thủy sản cho nông dân. Tổ chức sơ kết, đánh giá kết quả thực hiện Quyết định số 80/2002/QÐ-TTg ngày 6-12-2002 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng, trên cơ sở đó có giải pháp tháo gỡ khó khăn vướng mắc nhất là cơ sở pháp lý để thực hiện cam kết hợp đồng tiêu thụ nông sản giữa người sản xuất với doanh nghiệp. Chỉ đạo các doanh nghiệp nhà nước, hiệp hội ngành hàng triển khai có hiệu quả chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm đã được phê duyệt. Nghiên cứu chính sách bảo hiểm cho sản xuất lương thực. Ðưa nhanh khoa học công nghệ vào sản xuất, nhất là việc nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ, nâng cao chất lượng giống cây trồng, giống vật nuôi, kỹ thuật canh tác và môi trường, công nghệ sau thu hoạch; ứng dụng mạnh công nghệ sinh học và xây dựng các khu nông nghiệp công nghệ cao; nâng cao khả năng phòng ngừa và khắc phục dịch bệnh đối với cây trồng, vật nuôi. Ðổi mới cơ chế quản lý khoa học (quản lý tài chính, nhân lực) trong lĩnh vực nông nghiệp nhằm tăng cường gắn kết giữa các đơn vị nghiên cứu với hệ thống khuyến nông nhằm nâng cao hiệu quả nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ. Ưu tiên bố trí nguồn vốn sự nghiệp khoa học để triển khai các chương trình, đề tài nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ phục vụ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Chuyển giao nhanh các loại giống tốt về cây trồng, vật nuôi, tập trung vào các loại cây trồng, vật nuôi có lợi thế, có thị trường; tiếp tục triển khai có hiệu quả chương trình giống cây trồng, giống vật nuôi. Tăng cường công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, công tác thú y (bao gồm thủy sản), bảo vệ thực vật, quản lý chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp và hợp tác xã đầu tư phát triển công nghiệp bảo quản, chế biến nông, lâm thủy sản. Có chính sách đặc biệt để khuyến khích phát triển mạnh các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh và có hiệu quả kinh tế hộ và kinh tế trang trại. Chú trọng củng cố và phát triển các loại hình kinh tế hợp tác, trước hết, tổ chức chỉ đạo triển khai có kết quả Luật Hợp tác xã năm 2003 và các Nghị định hướng dẫn Luật nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế hợp tác, hợp tác xã. Khẩn trương hoàn thành việc sắp xếp lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả của các nông, lâm trường quốc doanh. Cổ phần hóa và nâng cao hiệu quả các doanh nghiệp nhà nước sản xuất, chế biến nông lâm thủy sản, gắn lợi ích người sản xuất nguyên liệu với cơ sở chế biến. Tăng đầu tư từ ngân sách nhà nước, và đa dạng hóa các nguồn vốn để tiếp tục đầu tư phát triển mạnh hơn cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội nông thôn. Ưu tiên nâng cấp và xây dựng mới các hệ thống thủy lợi đồng bộ, đi đôi với đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý để bảo đảm an toàn về nước. Củng cố hệ thống hồ đập, kè ven sông, ven biển; nâng cấp các hệ thống cảnh báo, chủ động phòng chống lụt bão và giảm nhẹ thiên tai, bảo vệ môi trường nước. Tiếp tục đầu tư phát triển giao thông nông thôn, bảo đảm các xã đều có đường ô-tô tới khu trung tâm, từng bước phát triển đường ô-tô tới thôn bản; bảo đảm hơn 90% số dân cư nông thôn có điện sinh hoạt; hơn 75% số dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp và hợp tác xã đầu tư phát triển công nghiệp bảo quản, chế biến nông, lâm thủy sản. Có chính sách đặc biệt để khuyến khích phát triển mạnh các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh và có hiệu quả kinh tế hộ và kinh tế trang trại. Chú trọng củng cố và phát triển các loại hình kinh tế hợp tác, trước hết, tổ chức chỉ đạo triể Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là nhiệm vụ chiến lược, có tầm quan trọng đặc biệt hàng đầu của toàn Ðảng, toàn dân ta, cả trước mắt cũng như lâu dài. Không thể đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại trong khi chưa thực hiện thắng lợi nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Và đây cũng là khát vọng chính đáng của đông đảo đồng bào ta ở nông thôn và của cả dân tộc ta. Các bộ, ngành, các địa phương phải đề cao trách nhiệm của mình, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện đạt kết quả cao nhất để góp phần tích cực thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trọng đại này của đất nước. n khai có kết quả Luật Hợp tác xã năm 2003 và các Nghị định hướng dẫn Luật nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế hợp tác, hợp tác xã. Khẩn trương hoàn thành việc sắp xếp lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả của các nông, lâm trường quốc doanh. Cổ phần hóa và nâng cao hiệu quả các doanh nghiệp nhà nước sản xuất, chế biến nông lâm thủy sản, gắn lợi ích người sản xuất nguyên liệu với cơ sở chế biến. Tập trung giải quyết việc làm, đào tạo nghề cho nông dân và cho lao động nông thôn, đặc biệt quan tâm giải quyết việc làm và thu nhập cho nông dân có đất bị thu hồi để sử dụng vào mục đích phát triển khu công nghiệp, khu đô thị, cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội. Tạo điều kiện cho lao động nông thôn có việc làm tại chỗ và ngoài khu vực nông thôn. Có chính sách trợ giúp thiết thực để đẩy mạnh đào tạo nghề cho nông dân và lao động nông thôn, đáp ứng cho yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn và tìm việc làm ngoài khu vực nông thôn, kể cả đi lao động ở nước ngoài. Tiếp tục đầu tư nhiều hơn cho chương trình xóa đói giảm nghèo, trợ giúp thiết thực cho các vùng và cộng đồng dân cư còn nhiều khó khăn, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển hệ thống khuyến nông, nâng cao dân trí và có chính sách tín dụng cho người nghèo từng bước vượt qua khó khăn, thoát nghèo và nâng cao mức sống một cách bền vững. Tiếp tục triển khai thực hiện các chính sách đặc biệt để trợ giúp điều kiện sản xuất và nhà ở cho đồng bào các dân tộc thiểu số đời sống còn nhiều khó khăn. Tập trung đầu tư để hoàn thành cơ bản chương trình kiên cố hóa trường học, thực hiện tốt hơn chương trình chăm sóc sức khỏe cộng đồng; thực hiện ngày càng có nền nếp và chất lượng về quy chế dân chủ ở nông thôn; đẩy mạnh phong trào xây dựng làng xã văn hóa, nâng cao chất lượng hoạt động các thiết chế văn hóa ở cơ sở giữ gìn và phát triển truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc ta. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là nhiệm vụ chiến lược, có tầm quan trọng đặc biệt hàng đầu của toàn Ðảng, toàn dân ta, cả trước mắt cũng như lâu dài. Không thể đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại trong khi chưa thực hiện thắng lợi nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Và đây cũng là khát vọng chính đáng của đông đảo đồng bào ta ở nông thôn và của cả dân tộc ta. Các bộ, ngành, các địa phương phải đề cao trách nhiệm của mình, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện đạt kết quả cao nhất để góp phần tích cực thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trọng đại này của đất nước. Ngoài việc coi trọng công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn thì hướng ưu tiên phát triển công nghiệp ở nước ta là:khuyến khích phát triển công nghiệp công nghệ cao,công nghệ chế tác,công nghệ phần mềm và công nghệ bổ trợ có lợi thế cạnh tranh ,tạo nhiều sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động,phát triển 1 số khu kinh tế mở và đặc khu kinh tế;khuyến khích phát triển các nghành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; sản xuất tư liệu sản xuất qua theo hướng hiện đại.Không những thế trong cơ chế thị trường kết cấu hạ tầng có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của sản xuất,kinh doanh và đời sống của dân cư.Từ một nền kinh tế nghèo nàn và lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội kết cấu hạ tầng của nước ta hết sức thấp kém,không đáp ứng được yêu cầu của sản xuất,kinh doanh và của đời sống dân cư.Do vậy trong những năm trước mắt việc xây dựng kết cấu hạ tầngđược coi là một nội dùng của công nghiệp hoá hiện đại hoá.Ngoài ra trong những năm trước mắt cũng cần tạo bước phát triển vượt bậc của các ngành dịch vụ nhất là những ngành có chất lượng cao,tiềm năng lớn,và có sức cạnh tranh như hàng không ,hàng hải,bưu chính-viễn thong,tài chinh,ngân hàng,kiểm toán…đưa tốc đọ tăng trưởng của các ngành dịch vụ cao hơn tốc đọ tăng GDP.Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng một số ngành :vận tải,thương mại,dich vụ…Trong kinh tế toàn cầu hoá thì mở cửa kinh tế là cần thiết với tất cả các nước.Do đó công nghiệp hoá hiện đại hoá không thể thành công nếu không mở cửa nền kinh tế.Sau thời kỳ khá dài đóng cử,hiện nay mở cửa nền kinh tế là nhu cầu cấp bách đối với nền kinh tế nước ta,là một nội dùng của công nghiệp hoá hiện đại hoá ,hiện đại hoá ở nước ta trong những năm trước mắt.Tuy nhiên mở cửa hội nhập như thế nào cũng cần được cân nhắc kỹ càng nhằm tranh thủ những tác động tích cực ,hạn chế những tác động tiêu cực của quá trình này với tăng trưởng,phát triển của nền kinh tế. Công nghiệp hoá hiện đại hoá là một cuộc cải biến cách mạng từ xã hội nông nghiệp trở thành xã hội công nghiệp. Đó cũng là cuộc cải biến cách mạng trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.Vì vậy để triển khai thuận lợi và thực hiện thành công sự nghiệp này cần đòi hỏi phải có những tiền đề cần thiết.Xuất phát từ thực trạng kinh tế,văn hoá xã hội của nước ta để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước đòi hỏi phải không ngừng tạo dựng những tiền đề sau đây: Thứ nhất muốn tiến hành thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá trước hết đòi hỏi chúng ta phải có nguồn vốn lớn và sử dụng nguồn vốn đó có hiệu quả.Muốn huy động được nguồn vốn đòi hỏi phải có chính sách biện phápvá cơ chế thích hợp.Huy động được vốn đã khó nhưng vấn đề khó nữa là phải sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đó.Làm sao bảo toàn và tăng trưởng được vốn?Vì vậy phải đàu tư có chọn lọc tránh đầu tư tràn lan.Phai tăng năng suất lao động ,phải tiết kiệm chống tham ô lãng phí. CNH-HĐH đất nước không những đòi hỏi phải có vốn,kỹ thuật công nghệ,tài nguyên…mà còn đòi hỏi phải đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.Vì vậy giáo dục và đào tạo được coi là quốc sách hàng đầu và phải đi trước 1 bước.Ddào tạo nguồn nhân lực ở trong nước cũng như đưa ra đào tạo ở nước ngoài. Đào tạo nguồn nhân lực phải đảm bảo về số lượng và chất lượng (chuyên môn cũng như về đạo đức phẩm chất) Đảm bảo về cơ cấu về chủng loại…Đào tạo phải gắn liền với sử dụng và đào tạo lại Công nghiệp hoá hiện đại hoá đòi hỏi người lao động phải có sức khoẻ và thể lực tốt.Muốn vậy phải đảm bảo dinh dưỡng ,phát triển y tế,cải thiện môi trường sống…nhằm chăm sóc tốt sức khoẻ và nâng cao thể lực cho người lao động. Khoa học công nghệ được xác định là động lực của công nghiệp hoá hiện đại hoá.Khao học công nghệ có vai trò quyết định lợi thế cạnh tranh và tốc đọ phát triển kinh tế nói chung,công nghiệp hoá hiện đại hoá nói riêng của các quốc gia.Nước ta đi lên từ một nền sản xuất kinh tế nhỏ cho nên khoa học công nghệ nước ta còn yếu.Vì vậy chúng ta phải xây dựng tiềm lực khoa học công nghệ để thích ứng với sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoáMuốn vậy trong giai đoạn trước mắt cần phải tập trung vào các hướng sau:Phát triển KHCN phải phù hợp với cuộc cách mạng KHCN và xây dựng nền kinh tế tri thức ở trên thế giới cố gắng đi vào những ngành công nghệ hiện đại then chốt.Phát triển khoa học tự nhiên theo hứong tập trung nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng, đặc biệt những lĩnh vực mà nước ta có nhu cầu và có thế mạnh.Phát triển KHCN chọn lọc việc nhập khẩu công nghệ. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu để đánh giá chính xác nguồn tài nguyên của đất nước…phcụ vụ cho chiến lược phát triển kinh tế xã hội.Mở rộng và nâng cao hiệu quả của hợp tác KHCN.Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho các ngành KHCN. Trong xu thế toàn cầu hoá ,quan hệ kinh tế đồi ngoại càng phát triển rộng rãi và có hiệu quả bao nhiêu thì sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá càng tiến hành thuận lợi và càng thành công nhanh chóng bấy nhiêu.Thực chất của việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại là việc thu hút nhiều nguồn vốn bên ngoài,là việc tiếp thu nhiều kỹ thuật và công nghệ hiện đại,là việc mở rộng thị trường cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá được thuận lợi.Ngoài ra còn có 1 tiền đề quan trọng quyết định sự thắng lợi cửa sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta chính là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước.Công nghiệp hoá hiện đại hoá phải được tiến hành theo đường lối,quan điểm của Đảng công sản Việt Nam. Đây là nhân tố trực tiếp bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta theo định huwóng XHCN.Nhà nước có chức năng quản lý kinh tế xã hội,Nhà nước ta có sứ mệnh tổ chức thực hiện đường lối công nghiệp hoá của Đảng Cộng Sản Việt Nam thông qua việc thực thi cơ chế,chính sách và điều hành các hoạt động KT-XH nhằm thực hiện các mục tiêu của công nghiệp hoá hiện đại hoá mà Đảng đã đề ra.Có thể nói thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá trực tiếp phụ thuộc vào vai trò quản lý kinh tế-xã hội của Nhà nước. B-Về mặt liên hệ Trong Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10 năm 2001-2010, Đảng ta đã xác định mục tiêu tổng quát là “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Tuy nhiên, hiện nay chúng ta chưa xác định được cụ thể các tiêu chí quan trọng khi nước ta trở thành một nước công nghiệp để làm đích hướng tới. Nếu theo tiêu chí của các nước đã hoàn thành CNH, HĐH thì nước ta khó có thể đạt tới vào năm 2020. Bên cạnh đó, các bước đi của cả quá trình CNH, HĐH cũng chưa được làm rõ. Khi chúng ta chủ trương thực hiện CNH, HĐH “rút ngắn”, thì việc nghiên cứu và hoạch định các chặng đường CNH, HĐH từ nay đến năm 2020 và những năm tiếp theo là đặc biệt cần thiết và có ý nghĩa then chốt. Phần này phác họa một cách đại thể những mục tiêu, nhiệm vụ CNH, HĐH chủ yếu của các chặng đường từ nay đến năm 2010 và từ năm 2010 đến 2020. Tính đến nay, chúng ta đã thực hiện được gần một nửa chặng đường của Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10 năm 2001-2010. Tuy chưa có tổng kết cụ thể, nhưng nhìn chung chúng ta có khả năng hoàn thành những mục tiêu kinh tế và xã hội được đề ra tại Phương hướng kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội 5 năm 2001-2005. Những kết quả đạt được cho đến nay tạo điều kiện và tiền đề quan trọng cho chặng đường CNH, HĐH đến năm 2010. Trong 5 năm tới, nước ta tập trung tạo chuyển biến cơ bản về năng lực nội sinh về khoa học-công nghệ và công nghiệp của đất nước, tiếp tục nâng cao vị thế trong hội nhập và chủ trương mở rộng hội nhập quốc tế, định hình về cơ bản nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng nền tảng cho một nước công nghiệp. Cụ thể hơn, những mục tiêu và nhiệm vụ chủ yếu là: Thứ nhất: Tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, nâng cao tích lũy trong nước. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, theo đó cơ cấu ngành và lĩnh vực tạo được hiệu quả cao và bền vững, cơ cấu kinh tế theo vùng tạo được sự hài hòa giữa vùng động lực phát triển và các vùng khác, các vùng khó khăn có thể tự lực phát triển và cơ bản hết đói nghèo. Trong nền kinh tế, hình thành một số ngành, lĩnh vực chủ lực, mũi nhọn; khoa học và công nghệ có cơ sở tốt để chủ động tiếp nhận chuyển giao công nghệ từ bên ngoài và tự tạo được đáng kể công nghệ tiên tiến của nước ta; giáo dục và đào tạo phát triển hình thành đội ngũ lao động và quản lý có trình độ đáp ứng yêu cầu cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế ở mức cao hơn. Thứ hai: Định hình về cơ bản nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với cơ cấu, thể chế đồng bộ, hoàn chỉnh. Tiếp tục đẩy mạnh hội nhập kinh tế khu vực ở một vị thế tốt hơn, cân bằng lợi ích và mở rộng hội nhập ngoài khu vực. Hoàn chỉnh đồng bộ các kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội để đáp ứng yêu cầu phát triển của chặng đường tiếp theo. Thứ ba: Tạo sự chuyển biến rõ rệt về đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân: no đủ, lành mạnh, yên vui, có nhiều yếu tố văn minh, hiện đại; chỉ số phát triển con người (HDI) đạt mức trung bình cao trong so sánh quốc tế. Giải quyết tốt hơn, toàn diện hơn các vấn đề xã hội; cơ bản xóa nghèo, tạo nhiều việc làm, tạo điều kiện để đi tới thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng và khoảng cách về mức sống giữa các tầng lớp dân cư. Tổng kết lại, kết thúc chặng đường này, quá trình CNH, HĐH đất nước đã định hình nên cơ sở vật chất, kỹ thuật, kinh tế, để nước ta đi nhanh hơn, mạnh hơn, vững chắc hơn trong chặng đường tiếp theo (2010-2020). Trong chặng đường tiếp theo này(2010-2020), nước ta đã hội đủ nhiều điều kiện mang tính tiền đề về kết cấu hạ tầng, khung thể chế, nguồn nhân lực, năng lực nội sinh, sức cạnh tranh và khả năng hội nhập quốc tế để tiếp tục đẩy mạnh CNH, HĐH, thực hiện thành công các mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2020. Cụ thể, những mục tiêu và nhiệm vụ chủ yếu là: Thứ nhất: Tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh. Đẩy mạnh chuyển dịch và nâng cấp cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH có hiệu quả và bền vững. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP và tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm; ở nông thôn có nền nông nghiệp và kết cấu hạ tầng cơ bản hiện đại, phát triển đa dạng các ngành công nghiệp và dịch vụ, thực hiện sự chuyển biến căn bản bộ mặt nông thôn Việt Nam phù hợp với một xã hội công nghiệp. Công nghiệp có đủ khả năng hợp tác và cạnh tranh ngang bằng với các nước trong khu vực, có chỗ đứng vững chắc trên thị trường quốc tế. Khu vực dịch vụ phát triển đa dạng, trong đó dịch vụ tài chính, ngân hàng, viễn thông phát triển hiện đại, tiếp cận trình độ quốc tế. Thứ hai: Hình thành hoàn chỉnh thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN tương hợp với trình độ quốc tế. Mở rộng hội nhập quốc tế ở mức độ sâu hơn trong các lĩnh vực đầu tư, tài chính, tiền tệ, lao động, công nghệ, thông tin. Tham gia có hiệu quả vào WTO và các tổ chức quốc tế khác, về kinh tế có vị thế của một nước có trình độ phát triển trung bình trên thế giới. Thứ ba: Tiếp tục phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực theo kịp trình độ quốc tế. Hình thành đội ngũ các nhà quản lý nhà nước tinh thông nghiệp vụ, trung thành, trung thực và tận tụy với công việc; đội ngũ doanh nhân giỏi, năng động, nhạy bén và sáng tạo; đội ngũ trí thức có trình độ cao, tâm huyết; và đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề theo kịp yêu cầu phát triển đất nước đi dần tới hiện đại hóa và nền kinh tế tri thức. Chỉ số HDI đạt mức trên trung bình trên thế giới. Thứ tư: Tạo dựng và phát huy năng lực công nghệ nội sinh, kể cả các lĩnh vực công nghệ cao như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, chế tạo máy, tự động hóa, hóa dầu, năng lượng,… và sự kết hợp các công nghệ đó; có chỗ đứng vững chắc trên thị trường công nghệ, đạt trình độ tiên tiến về công nghệ trong khu vực. Tăng cường ứng dụng và nâng cao hiệu quả ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào phát triển kinh tế- xã hội, tạo điều kiện cho sự “rút ngắn” trong một số ngành, lĩnh vực, tiến thẳng đến trình độ hiện đại. Thứ năm: Hình thành lối sống và đạo đức trong xã hội lành mạnh, văn minh, hiện đại, gắn kết cá nhân với cộng đồng và dân tộc; nền dân chủ được mở rộng, mọi người dân có điều kiện tiếp cận và hưởng thụ công bằng các thành quả phát triển; Quản lý xã hội có hiệu quả; các tệ nạn xã hội không còn là điều suy tư, lo lắng của gia đình và xã hội; môi trường tự nhiên và sinh thái được giữ gìn, hài hòa với cuộc ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docU0202.doc
Tài liệu liên quan