Thị trường chứng khoán Việt Nam. Định hướng và giải pháp phát triển

Lời nói đầu Vấn đề huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn là một trong những nhiệm vụ chiến lược quan trọng. Thực tiễn sinh động của công cuộc đổi mới ở nước ta đã chỉ ra rằng, để đáp ứng nhu cầu về vốn đặc biệt là vốn trung và dài hạn nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, thì việc xây dựng thị trường chứng khoán ở nước ta trong giai đoạn hiện nay là rất cần thiết. Đương nhiên được tạo lập thị trường chứng khoán là một quá trình hơn nữa là một quá tr

doc27 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1262 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thị trường chứng khoán Việt Nam. Định hướng và giải pháp phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ình phức tạp, làm một vấn đề còn mới mẻ đối với nước ta. Vì vậy chúng ta phải xác định rõ yêu cầu mô hình và có bước đi phù hợp, tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm của các nước đi trước để xây dựng thị trường chứng khoán Việt Nam. Với lòng mong muốn xây dựng được thị trường chứng khoán đích thực ở Việt Nam, đóng góp một cách tích cực trong công cuộc đổi mới đất nước và lòng ham học hỏi để tham gia vào thị trường chứng khoán, em quyết định chọn đề tài: "Thị trường chứng khoán Việt Nam định hướng và giải pháp phát triển". Song do trình độ có hạn nên chắc chắn đề tài không thể tránh khỏi thiếu sót, mong cô bổ sung, sửa chữa để đề tài được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn. Phần I- Những nội dung cơ bản về thị trường chứng khoán I- Lịch sử hình thành và phát triển thị trường chứng khoán trên thế giới. Thị trường chứng khoán (TTCK), vấn đề hiện nay vẫn còn mới mẻ đối với Việt Nam nhưng nó không còn xa lạ đối với thế giới. TTCK đã trở thành một định chế tài chính không thể thiếu được trong đời sống kinh tế của những nước theo cơ chế thị trường. Vào khoảng thế kỷ 15 ở tại những thành phố trung tâm buôn bán của phương Tây, các thương gia thường tụ tập ở các quán cà fê để thương lượng việc mua bán, trao đổi các loại hàng hoá như nông sản, khoáng sản, ngoại tệ và giá khoán động sản… Điểm đặc biệt là trong những cuộc thương lượng này các thương gia chỉ dùng lời nói để trao đổi với nhau, không có hàng hoá ngoại tệ hay bất cứ một loại giấy tờ nào. Những cuộc trao đổi này lúc đầu chỉ có một nhóm nhỏ, dần dần số người tăng lên. Đến cuối thế kỷ 15 "khu chợ riêng" này trở thành một "thị trường" và họ thống nhất với nhau những qui ước cho các cuộc thương lượng. Dần dần những qui ước đó được tu bổ hoàn chỉnh thành những qui tắc có giá trị bắt buộc đối với những người tham gia. Từ đó TTCK bắt đầu hình thành. Phiên chợ đầu tiên năm 1453 tại đai Vanber của Bỉ sau đó được xuất hiện ở Anh năm 1773, ở Đức 1778, ở Mỹ 1792, ở Thuỵ sĩ 1876, ở Nhật 1878, ở Pháp 1801, ở Hương Cảng 1946, ở Inđônêxia 1925, ở Hàn Quốc 1956, Thái Lan 1962, ở Malaysia và Philipin 1963. Quá trình hình thành và phát triển của TTCK thế giới đã trải qua những bước thăng trầm. Thời kỳ huy hoàng vào những năm 1975 - 1913 cùng với sự phát triển thịnh vượng của nền kinh tế. Cũng có lúc TTCK rơi vào đêm đen như ngày thứ năm đen tối tức ngày 29/10/1929 rồi ngày thứ hai đen tối năm 1987, vừa qua tháng 7/1997 TTCK ở các nước Châu á sụt giá, mất lòng tin bắt đầu từ Thái Lan. Đến nay TTCK các nước đang phát triển mạnh mẽ về số lượng TTCK lên đến 160 sở giao dịch, chất lượng hoạt động thị trường ngày càng đáp ứng cho số đông những nhà đầu tư trong và ngoài nước, tiến tới một TTCK hội nhập khu vực và quốc tế. Hiện nay TTCK đã phát triển mạnh mẽ ở hầu hết các nước công nghiệp hàng đầu Mỹ, Nhật, Anh, Đức, Pháp… Bên cạnh đó hơn 40 nước phát triển đã thiết lập TTCK cũng đã hình thành ở các nước láng giềng Việt Nam như Singapore, Malaysia, Thái Lan, Philipin và Inđônêxia và Việt Nam cũng đã có trung tâm giao dịch TTCK thành phố Hồ Chí Minh (20/7/2000). II- Các khái niệm cơ bản 1. Chứng khoán: Chứng khoán là các loại công cụ tài chính dài hạn, bao gồm các loại cổ phiếu và trái phiếu. 1.1. Cổ phiếu. Cổ phiếu là loại chứng chỉ xác nhận việc góp vốn của một người vào công ty cổ phần. Cổ phiếu xác nhận quyền sở hữu của người này đối với công ty cổ phần, người sở hữu được gọi là cổ đông, cổ đông có các quyền hạn và trách nhiệm đối với công ty cổ phần, được chia lời (cổ tức) theo kết quả kinh doanh của công ty cổ phần: được quyền bầu cử, ứng cử vào ban quản lý, ban kiểm soát. Cổ phiếu có thể được phát hành vào lúc thành lập công ty, hoặc lúc công ty cần thêm vốn để mở rộng, hiện đại hoá sản xuất kinh doanh. Một đặc điểm của cổ phiếu là cổ đông được chia cổ tức theo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Cổ đông có thể được hưởng lợi nhuận nhiều hơn giá trị của cổ phiếu và cũng có thể bị mất trắng khi công ty làm ăn thua lỗ. Cổ đông không được quyền đòi lại số vốn mà người đó đã góp vào công ty cổ phần, họ chỉ có thể thu lại tiền bằng cách bán cổ phiếu đó ra trên thị trường chứng khoán. Cổ phiếu bao gồm cổ phiếu thông thường và cổ phiếu ưu đãi. Cổ phiếu thông thường là những cổ phiếu có đặc điểm như trên. Cổ phiếu ưu đãi: là cổ phiếu được hưởng những quyền ưu tiên đặc biệt, được hưởng một mức lãi cổ phần cố định hàng năm, bất kể công ty làm ăn phát đạt hay thua lỗ. Người sở hữu loại cổ phiếu này được nhận lãi cổ phần và phân chia tài sản còn lại của công ty cổ phần trước so với loại cổ phiếu thông thường. 1.2. Trái phiếu Là chứng chỉ xác nhận quyền làm chủ một món nợ của chủ sở hữu trái phiếu với đơn vị phát hành. Trái phiếu là loại chứng khoán mà lãi suất vay nợ đã được xác định rõ ngay khi phát hành do đó nó có lợi tức cố định và chỉ được hoàn trả khi đến hạn thanh toán ghi trên trái phiếu mới phát hành phải thực hiện. Trái phiếu do Chính phủ, các doanh nghiệp có thể là quốc doanh, tư doanh hay cổ phần phát hành. Như vậy lợi ích của người sở hữu trái phiếu được xác định ngay từ khi mua trái phiếu nó tương tự với sở hữu cổ phiếu ưu đãi còn người sở hữu cổ phiếu thông thường thì lợi ích phụ thuộc hoàn toàn vào kết quả kinh doanh của công ty cổ phần, có thể họ bị mất trắng khi công ty làm ăn thu lỗ. Người đầu tư cổ phiếu không biết được chính xác tỷ suất lợi nhuận mà họ sẽ được hưởng mà chỉ có thể phán đoán dựa vào kinh nghiệm trước tình trạng thực tế của công ty cổ phần. 1.3. Kỳ phiếu. Kỳ phiếu là chứng chỉ của Nhà nước phát hành với mục đích vay vốn của các tổ chức kinh tế xã hội, các tầng lớp dân cư để bù đắp vào thâm hụt của ngân sách Nhà nước. 2. Thị trường chứng khoán. 2.1. Khái niệm. Thị trường chứng khoán là nơi mua bán các loại chứng khoán như cổ phiếu, công trái, tín phiếu kho bạc, trái phiếu công ty và một số giấy tờ có giá khác. Như vậy TTCK bao gồm cả hoạt động mua bán chính thức và không chính thức, cả hoạt động mua bán chứng khoán trong sổ giao dịch và ngoài sổ giao dịch. Cụ thể hơn, TTCK có thể được định nghĩa như là nơi tập trung các nguồn tiết kiệm để phân phối lại cho người muốn sử dụng những nguồn tiết kiệm đó theo giá mà người sử dụng sẵn sàng trả. Nói cách khác TTCK là nơi tập trung và phân phối lại các nguồn đầu tư này, có thêm nhiều vốn hơn để sản xuất trong nền kinh tế vì vậy có thể làm cho nền kinh tế tăng trưởng và tạo nên sự thịnh vượng. 2.2. Phân loại thị trường chứng khoán. * Xét về phương diện pháp lý, TTCK gồm có: - TTCK tập trung: là thị trường hoạt động theo đúng các qui luật pháp định, là nơi mua bán các loại chứng khoán được đăng biến hay biệt lệ. Đây là thị trường có địa điểm và thời biểu mua bán rõ rệt và giá cả được tính theo thể thức đấu giá công khai, có sự kiểm soát của hội đồng chứng khoán. TTCK tập trung chủ yếu được thể hiện bằng các sở giao dịch chứng khoán. Chứng khoán đăng biến là loại chứng khoán đã được cơ quan có thẩm quyền cho phép bảo đảm, phân phối và mua bán qua trung gian, tức là đã hội đủ các tiêu chuẩn. Chứng khoán biệt lệ là loại chứng khoán được miễn giấy phép của cơ quan có thẩm quyền , do Chính phủ, các cơ quan công quyền, thành phổ, tỉnh, quận, huyện thị phát hành và bảo đảm. - TTCK phi tập trung: Là thị trường mua bán chứng khoán bên ngoài Sở giao dịch chứng khoán, không có địa điểm tập trung những người môi giới, những người kinh doanh chứng khoán như ở Sở giao dịch chứng khoán, nó không chịu sự kiểm soát từ bên ngoài, không có ngày giờ hay thủ tục nhất định mà do sự thoả thuận của người mua và người bán. * Xét về mặt cơ cấu tổ chức TTCK bao gồm: - Thị trường sơ cấp: Là thị trường cấp một hay thị trường phát hành, hàm ý chỉ nơi diễn ra hoạt động giao dịch mua bán những chứng khoán mới phát hành lần đầu, kéo theo sự tăng thêm qui mô đầu tư vốn. Nguồn cung ứng vốn chủ yếu tại thị trường này là nguồn tiết kiệm của dân chúng như của một số tổ chức phi tài chính. Thị trường sơ cấp là thị trường tạo vốn cho đơn vị phát hành. - Thị trường thứ cấp: Còn gọi là thị trường cấp hai thị trường lưu thông, là nói đến nơi diễn ra hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán đến tay thứ hai, tức là việc mua bán tiếp thu sau lần bán đầu tiên. Nói cách khác, thị trường thứ cấp là thị trường mua đi bán lại các loại chứng khoán đã được phát hành qua thị trường sơ cấp. Điểm khác nhau căn bản giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp không phải là sự khác nhau về hình thức mà là sự khác nhau về nội dung, về mục đích của từng loại thị trường. Bởi lẽ, việc phát hành cổ phiếu hay trái phiếu ở thị trường sơ cấp là nhằm thu hút mọi nguồn vốn đầu tư và tiết kiệm vào công cuộc phát triển kinh tế. Còn ở thị trường thứ cấp, dù việc giao dịch rất nhộn nhịp có hàng chục, hàng trăm thậm chí hàng ngàn tỷ đô la chứng khoán được mua đi bán lại, nhưng không làm tăng thêm qui mô đầu tư vốn, không thu hút thêm được các nguồn tài chính mới. Nó chỉ có tác dụng phân phối lại quyền sở hữu chứng khoán từ chủ thể này sang chủ thể khác, đảm bảo tính thanh khoản của chứng khoán. Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp gộp lại được gọi là thị trường chứng khoán. Hai thị trường này tồn tại quan hệ mật thiết với nhau được ví dụ như hai bánh xe của một chiếc xe, trong đó thị trường sơ cấp là cơ sở, là tiền đề, thị trường thứ cấp là động lực. Nếu không có thị trường sơ cấp thì sẽ chẳng có chứng khoán để lưu thông trên thị trường thứ cấp và ngược lại, nếu không có thị trường thứ cấp thì việc hoán chuyển các chứng khoán thành tiền sẽ bị khó khăn, khiến cho người đầu tư sẽ bị thu nhỏ lại, hạn chế khả năng huy động vốn trong nền kinh tế. Việc phân biệt thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp chỉ có ý nghĩa về mặt lý thuyết. Trong thực tế tổ chức TTCK không có sự phân biệt đâu là thị trường sơ cấp và đâu là thị trường thứ cấp. Nghĩa là, trong một thị trường chứng khoán vừa có giao dịch của thị trường sơ cấp vừa có giao dịch của thị trường thứ cấp. Vừa có việc mua bán chứng khoán theo tính chất mua đi bán lại. Tuy nhiên, điểm cần chú ý là phải coi trọng thị trường sơ cấp, vì đây là thị trường phát hành là hoạt động tạo vốn cho đơn vị phát hành đồng thời phải giám sát chặt chẽ thị trường thứ cấp, không để tình trạng đầu cơ lũng đoạn thị trường để đảm bảo thị trường chứng khoán trở thành công cụ hữu dụng của nền kinh tế. 3. Sở giao dịch chứng khoán. TTCK chính thức được tổ chức dưới hình thức Sở giao dịch chứng khoán, Sở giao dịch chứng khoán thường thường gắn với một địa danh nào đó như Tokyo, New York, Pari, London. 3.1. Hình thức tổ chức. Hiện nay có 3 loại hình thức tổ chức Sở giao dịch chứng khoán. Thứ nhất: Sở giao dịch chứng khoán được tổ chức theo hình thức ''câu lạc bộ'' tự nguyện của các thành viên. Các hội viên tự tổ chức và tự quản lý sở giao dịch chứng khoán theo pháp luật bằng cách bầu ra hội đồng quản trị, bầu ra ban chấp hành mà không có sự quản lý của nhà nước. Thứ hai: Sở giao dịch chứng khoán được tổ chức dưới hình thức một công ty cổ phần có các cổ đông là các công ty thành viên: Nó được hoạt động theo Luật Công ty cổ phần, phải nộp thuế cho Nhà nước và chịu sự giám sát của một cơ quan chuyên môn do Chính phủ lập ra. Quản lý và điều hành sở giao dịch chứng khoán là hội đồng quản trị do các công ty chứng khoán thành viên lập ra. Ban điều hành sở giao dịch chứng khoán do Hội đồng quản trị đề cử. Thứ ba: Sở giao dịch chứng khoán được tổ chức dưới dạng một công ty cổ phần nhưng có sự tham gia quản lý của Nhà nước. Đây là hình thức phổ biến ở hầu hết các nước Châu á. Cơ cấu tổ chức và quản lý điều hành cũng tương tự như hình thức trên nhưng trong thành phần Hội đồng quản trị có một số thành viên do uỷ ban chứng khoán quốc gia đưa vào, giám sát tiến hành. 3.2. Quản lý và điều hành sở giao dịch chứng khoán. Uỷ ban chứng khoán quốc gia là cơ quan quản lý Nhà nước về thị trường chứng khoán do Chính phủ thành lập. Uỷ ban chứng khoán quốc gia có nhiệm vụ xác định loại doanh nghiệp nào được phép phát hành chứng khoán và loại chứng khoán nào được mua bán. Uỷ ban này cấp giấy phép và kiểm tra hoạt động của các công ty môi giới và thực hiện các công việc quản lý Nhà nước khác. Hội đồng quản trị và ban hành sở giao dịch chứng khoán, quản lý và điều hành sở giao dịch chứng khoán. Tất cả các quyết định đều được Hội đồng quản trị đưa ra. Hội đồng này bao gồm các công ty chứng khoán thành viên của sở giao dịch chứng khoán, các thành viên liên doanh thậm chí có một số không phải là thành viên sở giao dịch chứng khoán do Uỷ ban chứng khoán quốc gia đưa vào. Hội đồng quản trị có quyền quyết định nhưng thành viên nào được phép buôn bán tại sở giao dịch, những loại chứng khoán nào đủ tiêu chuẩn được phép niêm yết tại phòng giao dịch. Hội đồng này có quyền đình chỉ hoặc huỷ bỏ việc niêm yết một chứng khoán nào đó. Hội đồng quản trị có quyền kiểm tra quá trình kinh doanh của các thành viên sở giao dịch. Nếu phát hiện vi phạm, Hội đồng quản trị có quyền phạt hoặc đình chỉ việc kinh doanh của thành viên trong một thời gian nhất định hoặc trục xuất không cho phép mua bán trên sở giao dịch. Nếu phát hiện vi phạm, Hội đồng quản trị có quyền phạt hoặc đình chỉ việc kinh doanh của thành viên trong một thời gian nhất định hoặc trục xuất không cho phép mua bán trên sở giao dịch chứng khoán nữa. 4. Chỉ số chứng khoán. Hầu hết những người tham gia thị trường chứng khoán sử dụng một chỉ số dạng này hay dạng khác như một phương tiện thể hiện sự tiên tiến của thị trường và các thành phần của nó. Các chỉ số này thường được thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng và các tờ nhật báo lớn ở các nước chỉ số chứng khoản phản ánh tình hình hoạt động của các công ty trên thị trường. Nếu các công ty làm ăn có lãi, giá chứng khoán của các công ty đó sẽ tăng và làm tăng theo chỉ số chứng khoán. Ngược lại, chỉ số chứng khoán sẽ giảm. Dựa vào chỉ số chứng khoán, các nhà đầu tư có thể xác định được hiệu quả của một cổ phiếu hoặc một danh mục các chứng khoán để đầu tư vào. Các chỉ số cảu thị trường chứng khoán có chức năng: - Cung cấp sự đánh giá hữu ích đối với nhận thức về thị trường và xu hướng, mức độ mà sự cân bằng cung và cầu đang dịch chuyển. - Nó đưa ra tiêu chuẩn đánh giá thành quả hoạt động của công ty mà dựa vào đó các nhà đầu tư có thể đo lường được hiệu quả của một cổ phiếu hoặc một danh mục đầu tư chứng khoán mà họ lựa chọn. - Chỉ số tự thân mình có thể hoạt động như một danh mục đầu tư được uỷ quyền trong khoảng thời gian mà quan hệ của nó với các chuyển động trên toàn bộ thị trường được nhà đầu tư chấp nhận. Bất kỳ một TTCK nào cũng có một chỉ số chứng khoán của riêng nó. Ví dụ TTCK New york có chỉ số Dow Jones, TTCK Tokyo áp dụng chỉ số Nikkei, Hồng Kông áp dụng chỉ số hàng - Xieng, Singapore áp dụng chỉ số "Strai taime"… III- hoạt động của thị trường chứng khoán. 1. Các nghiệp vụ của thị trường chứng khoán 1.1. Nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán. Nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán chính là việc mua đi bán lại các loại giấy tờ có giá để kiếm lời hoặc để chuyển vốn đầu tư từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác hoặc hạn chế những thiệt hại cho từng công ty, cho từng cá nhân. Đối với các cá nhân, các công ty nhỏ không có đại diện của mình tại sở giao dịch chứng khoán, việc mua bán chứng khoán của họ đều phải thông qua các hãng môi giới và các ngân hàng. Khách hàng có thể sử dụng 3 loại lệnh đặt mua, đặt bán và yêu cầu các hàng môi giới, ngân hàng thực hiện sau: - Lệnh giới hạn: Theo lệnh này khách hàng đã ấn định sẵn giá cả của các giấy tờ có giá tại một điểm hoặc trong một giới hạn khoảng nào đó. Khi bán hay mua khách hàng sử dụng lệnh giới hạn có nghĩa là họ có những thông tin khá rõ rệt về các khoản chứng khoán mà họ quan tâm. Do đó họ không muốn bàn với giá rẻ hơn và mua với giá đắt hơn. - Lệnh thị trường: Được sử dụng khi khách hàng không có những thông tin đầy đủ rõ rệt về giá cả các loại chứng khoán mà họ định mua hay định bán, do đó họ ra lệnh mua hay bán các chứng khoán - theo giá thị trường. Để tránh những thiệt thòi khách hàng thường gắn hiệu lực của lệnh này trong một khoảng thời gian nhất định. - Lệnh dừng: Là lệnh được sử dụng khi người kinh doanh chứng khoán muốn bảo vệ nó lợi nhuận đã thu được về mặt danh nghĩa hoặc hạn chế thua lỗ trong những trường hợp phán đoán của người kinh doanh không phù hợp với diễn biến của thị trường. + Lệnh dừng - bán: Được sử dụng để bảo vệ số lợi nhuận của người kinh doanh khi họ phán đoán giá một loại chứng khoán nào đó có xu hướng tăng lên nhưng thực tế thì giá của nó lại hạ xuống. Vì vậy họ sẽ ra lệnh bánh chứng khoán khi giá của nó hạ xuống tới một mức nào đó. - Lệnh dừng - mua: Được sử dụng để hạn chế thua lỗ trong trường hợp người kinh doanh thực hiện việc bán trước mua sau. Họ phán đoán giá một loại chứng khoán nào đó sẽ hạ xuống trong tương lai nhưng thực tế thì giá của nó lại tăng lên. Do đó họ thực hiện lệnh này để mua vào các chứng khoán mà họ đã bán đi khi giá của nó tăng lên đến một mức nào đó. 1.2. Nghiệp vụ phát hành chứng khoán. Nghiệp vụ phát hành chứng khoán thực chất là việc tập trung các vốn cung cấp cho khoản đầu tư công cộng hoặc cho các khoản đầu tư tại công ty. Nó có ý nghĩa rất to lớn trong thời kỳ tiến công nghiệp, nó đã tạo ra những nguồn vốn lớn cho phép các nhà nước tư bản và các công ty mở rộng và phát triển nền sản xuất. Phát hành chứng khoán có thể được tiến hành theo hai phương pháp chính là: - Tự phát hành: Khi phát hành, tổ chức phát hành phải đảm nhiệm toàn bộ quá trình phát hành từ việc lựa chọn địa điểm, thời gian và mọi thủ tục theo qui định của pháp luật. - Phát hành ngoại lai: Khi phát hành tổ chức phát hành phải đề nghị các tổ chức ngân hàng và tín dụng trợ giúp để thúc đẩy nhanh tốc độ phát hành và khả năng tập trung vốn của người phát hành. 1.3. Nghiệp vụ bảo quản và quản lý chứng khoán. Nghiệp vụ bảo quản xuất hiện cùng với sự ra đời của nghề ngân hàng, đầu tiên là bảo quản tiền, kim loại, đá quí. Bắt đầu từ thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá, việc bảo quản chứng khoán đã trở thành nghiệp vụ quan trọng của ngân hàng. Hai phương pháp bảo quản chủ yếu là: - Bảo quản đóng: Ngân hàng nhận bảo quản các hộp các gói được niêm phong kỹ lưỡng, ngân hàng không được biết nội dung bên trong và không được sử dụng vật bảo quản để kinh doanh. - Bảo quản mở: Được áp dụng phổ biến đối với các loại chứng khoán. Ngân hàng biết rõ nội dung tính chất của các loại chứng khoán của khách hàng gửi. Ngân hàng được phép sử dụng các loại chứng khoán đó để kinh doanh và phải có nghĩa vụ hoàn lại các chứng khoán cùng loại chứ không nhất thiết phải hoàn lại đúng các chứng khoán mà trước đó khách hàng gửi vào. 2. Nguyên tắc cơ bản về hoạt động của TTCK. - Nguyên tắc trung gian mua bán chứng khoán. Hoạt động mua bán chứng khoán không phải trực tiếp diễn ra giữa những người muốn mua và bán, chứng khoán thực hiện mà do các nhà trung gian môi giới thực hiện. Đây là nguyên tắc trung gian căn bản cho tổ chức và hoạt động của thị trường chứng khoán. Nguyên tắc trung gian nhằm đảm bảo cho các loại chứng khoán là chứng khoán thực và thị trường hoạt động lành mạnh, đều đặn hợp pháp và phát triển, bảo vệ lợi ích của người đầu tư. Vì những nhà đầu tư không thể xét đoán một cách nhanh chóng và chính xác giá trị thực sự của từng loại chứng khoán và cũng không dự đoán được chính xác xu hướng biến động của nó. Vì vậy nếu người môi giới có thái độ không khách quan trong hoạt động trung gian sẽ gây thiệt hại cho các nhà đầu tư. - Nguyên tắc định giá của mua bán chứng khoán. Giá chứng khoán trên thị trường chứng khoán do các nhà môi giới đưa ra. Mỗi nhà môi giới định giá mỗi loại chứng khoán tại từng thời điểm tuỳ theo sự xét đoán, kinh nghiệm và kỹ thuật dựa trên lượng cung cầu loại chứng khoán đó trên thị trường. - Nguyên tắc công khai của thị trường chứng khoán. Tất cả các hoạt động trên thị trường chứng khoán đều được công khai hoá. Thông tin về các loại chứng khoán được đưa ra mua bán trên thị trường, tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của các công ty phát hành, số lượng chứng khoán và giả cả của từng loại chứng khoán đều được thông báo công khai trên thị trường. Khi kết thúc một cuộc giao dịch, số lượng mua bán và giá cả thống nhất lập tức được thông báo ngay. Nguyên tắc công khai của thị trường chứng khoán nhằm đảm bảo quyền lợi cho người mua bán chứng khoán không bị "hớ" trong mua bán chứng khoán. IV- Vai trò của thị trường chứng khoán 1. Những mặt tích cực. 1.1. TTCK nâng cao hiệu quả của các hoạt động kinh tế Trong hoạt động kinh tế hoạt động đầu tư và huy động vốn giữ vai trò rất quan trọng. Những người có vốn họ muốn đồng vốn của mình sinh sôi nảy nở vì vậy họ sẽ đầu tư thu lợi nhuận. Trong khi đó một số doanh nghiệp, cá nhân đang cần vốn để mở rộng sản xuất. TTCK là điểm gặp gỡ trao đổi lý tưởng cho họ. Khi có TTCK những người đầu tư có nhiều cơ hội hơn để lựa chọn cho mình phương án đầu tư hiệu quả nhất, ít rủi ro nhất. Như vậy TTCK nâng cao hiệu quả của những nguồn đầu tư. Cũng vậy, khi có TTCK những nguồn huy động vốn có nhiều cơ hội hơn để lựa chọn phương thức huy đọng vốn tối ưu nhất, rẻ nhất cho vậy. Do đó TTCK nâng cao hiệu quả huy động vốn. Vậy TTCK nâng cao hiệu qủ các hoạt động kinh tế. 1.2. TTCK là công cụ giúp cho Nhà nước thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội . Bắt cứ Nhà nước nào cũng phải có ngân sách để thực hiện chương trình phát triển kinh tế xã hội. Nguồn ngân sách này chủ yếu thu từ thuế nhưng thường không đủ chi tiêu. Vì vậy Nhà nước vay tiền của dân bằng cách phát hành kỳ phiếu tại thị trường chứng khoán. Không có TTCK thì Nhà nước vẫn phát hành được kỳ phiếu nhưng có TTCK thì Nhà nước bán kỳ phiếu dễ dàng hơn vì kỳ phiếu của Nhà nước cũng là một loại chứng khoán chuyển nhượng được tại TTCK. Do đó TTCK phục vụ đắc lực cho việc thực hiện các chính sách phát triển kinh tế - xã hội. 1.3. TTCK là công cụ giảm áp lực lạm phát. Ngân hàng Nhà nước với vai trò điều hoà lưu thông tiền tệ, khi xuất hiện hiện tượng lạm phát ngân hàng Nhà nước sẽ đưa ra bán các loại kỳ phiếu trên thị trường chứng khoán với lãi suất cao để thu đỡ số tiền đang lưu thông về làm giảm áp lực lạp phát. 1.4. TTCK là công cụ thu hút và kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài. Vốn đầu tư nước ngoài có vị trí và vai trò quan trọng đối với các nước có nền kinh tế đang phát triển. Trên thực tế các khoản vốn đầu tư nước ngoài thường được thu hút dưới hai hình thức đó là: đầu tư trực tiếp thông qua các dự án sản xuất - kinh doanh và đầu tư gián tiếp thông qua các định chế tài chính trung gian: TTCK là nơi các nhà đầu tư nước ngoài theo dõi và nhận định hoạt động của các ngành, các doanh nghiệp trong nước. TTCK còn tạo môi trường thích hợp để các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư một cách dễ dàng bằng cách mua cổ phiếu hoặc cộng tác với các doanh nghiệp trong nước thành lập công ty cổ phần rồi đem bán cổ phần trên TTCK. Khi mua bán, chuyển nhượng chứng khoán các nhà đầu tư nước ngoài phải thực hiện đăng ký, lưu ký chứng khoán. Vì vậy nó cho phép Nhà nước có thể kiểm soát được nguồn vốn vào các doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân. 1.5. TTCK là công cụ khuyến khích dân chúng tiết kiệm và sử dụng nguồn vốn tiết kiệm vào công cuộc đầu tư. Muốn đầu tư phát triển, bất cứ một doanh nghiệp nào dù quốc doanh hay tư doanh đều có 2 phương pháp: bản thân doanh nghiệp tự tích luỹ đầu tư bổ sung thông qua phân phối lợi nhuận hàng năm. Phương pháp thứ hai là gọi vốn từ bên ngoài được doanh nghiệp thực hiện thông qua việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu hoặc vay tín dụng dài hạn. Phương pháp này chỉ thực hiện được trong điều kiện dân chúng có tiền tiết kiệm. Hiện tại các ngân hàng thương mại, kho bạc Nhà nước đã thực hiện huy động tiết kiệm trong dân chúng, tức là có mục đích khuyến khích tiết kiệm, nhưng tiết kiệm ở đây chưa gắn với đầu tư, chưa tạo nên nguồn vốn dài hạn cho đầu tư phát triển. TTCK ra đời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, các cơ sở tài chính, tín dụng huy động dài hạn nguồn tiết kiệm trong dân chúng vào đầu tư vì TTCK , một định chế giải quyết được các yếu điểm các tổ chức tài chính tín dụng. Người có chứng khoán khi cần tiền có thể đưa chứng khoán ra thị trường bán lại. 2. Những mặt tiêu cực. 2.1. TTCK luôn chứa đựng yếu tố đầu cơ. Đầu cơ là một yếu tố có tính toán của những người đầu tư. Họ có thể mua rất nhiều cổ phiếu với hy vọng giá cổ phiếu sẽ tăng lên trong tương lai và qua đó thu được lợi nhuận do đó dễ gây ảnh hưởng dây chuyền làm cho giá cổ phiếu tăng giả tạo. Sự kiện này càng dễ xảy ra khi có nhiều người cấu kết với nhau để đồng thời mua vào hoặc bán ra một loại chứng khoán nào đấy dẫn đến sự khan hiếm hay dư thừa giả tạo trên thị trường, làm cho giá chứng khoán có thể tăng lên hay giảm xuống một cách đột biến, gây tác động xấu đến thị trường, nền kinh tế . 2.2. TTCK chứa đựng yếu tố giao dịch nội gián. Chúng ta biết rằng TTCK chứa đựng các thông tin nhiều chiều có thông tin được chính thức phổ biến, có thông tin chưa được phép phổ biến. Nếu người nào đó (bản thân sử dụng hoặc chuyển thông tin thông tin cho người khác sử dụng, sử dụng hoặc phổ biến các thông tin bị cấm như thông tin mật chưa được phép công bố nhằm thu lợi nhuận bất chính thì được gọi là giao dịch nội gián. Các giao dịch nội gián là phi đạo đức về mặt thương mại, vì người có thông tin nội gián sẽ có lợi thế trong đầu tư hơn so với các nhà đầu tư khác, vi phạm nguyên tắc của thị trường là mọi nhà đầu tư đều có quyền bình đẳng và công khai thông tin như nhau. 2.3. Đưa tin sai sự thật. Việc tung tin sai sự thật về hoạt động của công ty niêm yết cũng như các chứng khoán được giao dịch trên thị trường sẽ tạo nên sự hỗn độn thị trường, gây nên tình trạng bán ồ ạt một loại chứng khoán nào đó với giá quá thấp hoặc mua vào các chứng khoán với giá thấp để nắm giữ vào theo từng công ty. Việc tung tin sai sự thật để gây thiệt hại cho các nhà đầu tư chân chính thường gắn liền với các hành vi khác như đầu cơ, trục lợi. 2.4. Dễ bị rút vốn ồ ạt gây nên khủng hoảng thị trường. Cơ chế vận hành của TTCK cho phép các nhà đầu tư có thể tiến hành đầu tư một cách nhanh chóng, đồng thời cũng chứa đựng khả năng cho phép giải tư nhanh chóng để rút vốn. Điều này nhiều lúc gây nên những tác hại khôn lường đối với nền kinh tế. Khi một lĩnh vực đầu tư có xu hướng phát triển, mọi người đổ xô vào mua để nắm giữa loại chứng khoán đó, dẫn đến đẩy giá lên cao làm cho giá cả loại chứng khoán đó sai lệch với giá trị thực chất của nó. Khi tình hình thị trường có những biến động bất lợi, có ảnh hưởng đến giá chứng khoán thì mọi người đổ xô bán tống bán táng loại chứng khoán đó để rút vốn đầu tư làm cho thị trường hỗn loạn và nhiều khi sụp đổ thị trường. Phần II- thực trạng hoạt động thị trường chứng khoán ở Việt Nam. I- Tính tất yếu của việc hình thành TTCK ở Việt Nam 1. Do yêu cầu kinh tế. Nghị quyết Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam một lần nữa khẳng định Việt Nam "Xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước". Cùng với quá trình CNH - HĐH thiếu vốn luôn luôn là vấn đề bức xúc, nóng bỏng trong nền kinh tế quốc dân, trong khi đó thực tế vốn để huy động vốn còn kém hiệu quả, chủ yếu mới có hình thức giao lưu vốn gián tiếp thông qua hệ thống tín dụng - ngân hàng nên chưa huy động và thu hút có hiệu quả mọi nguồn vốn tiềm tàng, tiềm năng. Vì vậy xu thế tất yếu phải hình thành TTCK nhằm thúc đẩy mạnh quá trình giao lư vốn trực tiếp, thông qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu… nâng cao hiệu quả của các hoạt động kinh tế. Thông qua TTCK chúng ta không những huy động được các nguồn vốn tiềm tàng trong nước mà còn huy ddộng được cả nguồn vốn tiềm tàng nước ngoài để phát triển kinh tế - xã hội. Yếu tố lợi nhuận là vấn đề quan trọng nhất của các chủ thể tham gia vào nền kinh tế thị trường. Những người đầu tư, những người huy động vốn luôn luôn muốn lựa chọn cho mình một phương án tối ưu nhất đem lại lợi nhuận cao nhất. TTCK hình thành sẽ cho họ có nhiều hơn cơ hội để lựa chọn và giảm bớt những chi phí trung gian để gặp gõ, xúc tiến. Vì vậy có thể nói nền kinh tế hàng hoá phát triển làm nảy sinh TTCK và TTCK đến lượt nó lại tiếp thêm nguồn lực để thúc đẩy nền kinh tế phát triển. 2. Do yêu cầu Nhà nước. Để hoàn thiện nhiệm vụ của mình Nhà nước luôn phải chi tiêu mà nguồn thu chủ yếu của Nhà nước từ thuế thường không trang trải hết các hoạt động của Nhà nước. Nhà nước buộc phải vay vốn trong dân cư và các tổ chức tín dụng bằng cách phát hành kỳ phiếu. Thị trường chứng khoán ra đời sẽ giúp cho quá trình phát hành này được thuộc lợi hơn. TTCK cũng có vai trò tích cực trong việc giảm áp lực lạm phát. Căn bệnh cố hữu của mọi nền kinh tế. Tác hại của lạm phát đối với nền kinh tế là hết sức to lớn khi nó vượt qua một giới hạn nào đó. Vì vậy Nhà nước luôn luôn muốn chế ngự, điều tiết nó một cách hợp lý nhất. TTCK là một công cụ rất đắc lực giúp cho Nhà nước thực hiện tốt công việc này duy trì mức tăng trưởng kinh tế cao và ổn định. Đặc biệt từ năm 1993, Nhà nước ta đã có chủ trương cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước tức là chuyển các doanh nghiệp quốc doanh sang hình thức cổ phần. Quá trình này diễn ra còn chậm nếu TTCK hình thành sẽ thúc đẩy quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước diễn ra nhanh hơn. II- Thực trạng TTCK ở Việt Nam hiện nay. 1. Thực trạng. Sự ra đời và đi vào hoạt động của trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh ngày 20/7/2000 đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quá trình xây dựng đồng bộ và hoàn thiện thị trường tài chính ở Việt Nam. Do mới ra đời, nên qui mô thị trường còn nhỏ bé, vai trò tác động đến nền kinh tế chưa lớn song nó đã cho phép các tổ chức và công chúng tham gia thị trường làm quen với một lĩnh vực đầu tư mới, tạo tiền đề vững chắc cho sự phát triển lành mạnh và ổn định của TTCK ở Việt Nam. Tính đến ngày 28/7/2001, Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện được 151 phiếu giao dịch với 14,2 triệu cổ phiếu và trên 500 nghìn trái phiếu, đạt tổng giá trị giao dịch 727 tỷ đồng, trong đó giao dịch cổ phiếu chiếm 90%. Thị trường cổ phiếu hoạt động sôi nổi thu hút được đông đảo nhà đầu tư quan tâm. Nếu như giá trị giao dịch thời kỳ đầu là 1 tỷ đồng/phiếu thì trong thời gian gần đây giá trị giao dịch giao động trong khoảng 8 đến 15 tỷ đồng/phiếu. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35137.doc