Thơ Nho Việt Nam từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV

Tài liệu Thơ Nho Việt Nam từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV: ... Ebook Thơ Nho Việt Nam từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV

pdf154 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1843 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Thơ Nho Việt Nam từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BOÄ GIAÙO DUÏC ÑAØO TAÏO TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC SÖ PHAÏM TP. HOÀ CHÍ MINH HUYØNH QUAÙN CHI THÔ NHO VIEÄT NAM TÖØ GIÖÕA THEÁ KYÛXIV ÑEÁN GIÖÕA THEÁ KYÛ XV Chuyeân ngaønh: Vaên hoïc Vieät Nam Maõ soá: 62 22 34 01 LUAÄN AÙN TIEÁN SÓ NGÖÕ VAÊN NGÖÔØI HÖÔÙNG DAÃN KHOA HOÏC: 1. PGS. MAI CAO CHÖÔNG 2. PGS-TS. ÑOAØN THÒ THU VAÂN TP. HOÀ CHÍ MINH - 2010 LÔØI CAM ÑOAN Toâi xin cam ñoan ñaây laø coâng trình nghieân cöùu khoa hoïc cuûa rieâng toâi. Caùc taøi lieäu, keát quaû nghieân cöùu trong luaän aùn laø trung thöïc vaø chöa töøng ñöôïc ai coâng boá trong baát kyø coâng trình naøo khaùc. Taùc giaû luaän aùn NHÖÕNG CHÖÕ VIEÁT TAÉT ÑhSP: Ñaïi hoïc Sö Phaïm ÑhTH: Ñaïi hoïc Toång Hôïp GD: Giaùo duïc HvCTQG: Hoïc vie än Chính Trò Quoác Gia KHXH: Khoa Ho ïc Xaõ Hoäi KTNN: Kieán Thöùc Ngaøy Nay NCGDVH: Nghieân cöùu giaûng daïy vaên hoïc Q: quyeån Nxb: Nhaø xuaát baûn TcKHCT: Taïp chí Khoa Hoïc Chính Trò TcVH: Taïp chí Vaên Ho ïc TcVHNN: Taïp chí Vaên Ho ïc Nöôùc Ngoaøi TtVHNN: Trung taâm Vaên hoaù Ngoân ngöõ TcTH: Taïp chí Trieát hoïc VHGD vaø TN: Vaên hoaù Giaùo Duïc vaø Thanh Nieân VHTT: Vaên Hoaù Thoâng Tin MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Theo tiến trình vận động của thơ ca Việt Nam, đến giữa thế kỷ XIV ta thấy thơ có dấu hiệu chuyển biến. Thơ Thiền phát triển mạnh và chiếm địa vị chủ đạo từ thế kỷ X đến đầu thế kỷ XIV; nhưng đến giữa thế kỷ XIV thì lực lượng sáng tác, số lượng tác phẩm thơ Thiền đã giảm thiểu. Thơ ca từ giữa thế kỷ XIV về sau tiếp tục phát triển, nhưng lực lượng sáng tác chủ yếu là nhà nho. Nhìn chung số lượng tác giả, tác phẩm thơ phát triển. Quan niệm nghệ thuật, cảm hứng thơ ca thời gian này chủ yếu là thuộc về loại hình tác giả nhà nho. Nguyên nhân sâu xa của sự thay đổi này là sự thay đổi vị thế của tư tưởng Phật giáo đối với xã hội. Vị thế thượng tôn của tư tưởng Phật giáo trên phương diện văn hóa xã hội được thay thế bởi tư tưởng Nho giáo. Giờ đây, Nho giáo ảnh hưởng đến nhiều phương diện văn hóa - xã hội Đại Việt. Về văn học, các nhà văn nhà thơ đã sáng tác bằng quan niệm nghệ thuật và cảm hứng chịu ảnh hưởng Nho giáo. Quan niệm nghệ thuật và cảm hứng này đã thay đổi nhiều so với trước đây. Hiện tượng Nho giáo thay thế địa vị Phật giáo và đi dần đến độc tôn cũng đã diễn ra tương tự ở các nước Đông Á (tuy có những chênh lệch ít nhiều về thời gian tùy theo hoàn cảnh từng quốc gia). Hiện tượng chuyển đổi địa vị văn hóa của Thiền và Nho đã ảnh hưởng lớn đến diện mạo văn học, thơ ca các quốc gia này. Ở nước ta, sau thế hệ Huyền Quang, thơ Thiền không còn nhiều. Một số bài thơ ảnh hưởng Thiền như “Mai thôn phế tự”, “Đề Gia Lâm tự”… (Trần Quang Triều và thi xã Bích Động); “Hạnh ngộ”, “Đề Cam Lộ tự”, “Tương tịch, ký Nam Sơn thiền sư…” (Trần Minh Tông) (1300-1357) có thể xem là những cố gắng duy trì ảnh hưởng của thơ Thiền. Cũng từ đây, lực lượng sáng tác đã có sự phân hóa, thơ Thiền cũng không còn thịnh như trước, chất Thiền trong thơ cũng không còn đậm đà như trước. Từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV thơ Nho đã hoán đổi vai trò thượng tôn của thơ Thiền. Trong khoảng một thế kỷ này, thơ Nho đã thể hiện tương đối trọn vẹn tính chất độc đáo của nó. Nó tồn tại và phát triển như một mạch thơ, một dòng thơ, có tư tưởng – cảm hứng chủ đạo, có quan niệm nghệ thuật và đặc điểm thể cách, ngôn ngữ khác biệt với thơ Thiền trước đó. Sự khác biệt này gợi cho chúng ta nhiều suy nghĩ. Trong khi đó nhiều công trình nghiên cứu về mảng văn học nhà Nho đã tiếp tục ra đời. Những công trình nghiên cứu về văn học nhà Nho cũng tiếp tục phát triển song song với những công trình nghiên cứu về văn học Phật giáo, văn học Thiền. Trong đó, ta có thể kể đến những công trình tiêu biểu như “Nho giáo và văn học Việt Nam Trung cận đại” (Trần Đình Hượu). Cũng trong mạch đó, công trình “Loại hình học tác giả văn học, nhà nho tài tử và văn học Việt Nam” (Trần Ngọc Vương) (1995) [181] đi vào nghiên cứu loại hình tác giả nhà nho tài tử. Ở “Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung” (1998), Trần Ngọc Vương bàn đến “văn chương Nho giáo” [184, 114], “Văn học nhà nho thế kỷ XIV – XVII” [184,134]. Tác phẩm “Văn học Trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa” (Trần Nho Thìn) [153] đã có những ý kiến nhận xét lại những di sản của tác giả Trần Đình Hượu trong nghiên cứu văn học nhà nho. Những công trình này đã làm cho việc nghiên cứu thơ văn nhà nho thêm nhiều sinh khí. Các nhà nghiên cứu đã thật sự chú ý đến thơ văn nhà nho, thơ Nho. Nhiều công trình nghiên cứu về thơ văn nhà nho đã tập trung chú ý đến thời gian từ giữa thế kỷ XV về sau. Tuy nhiên vấn đề không chỉ đơn giản như vậy. Thơ Thiền tuy mất dần ưu thế nhưng vẫn còn tồn tại. Một số tác giả đã nghiên cứu về thơ Thiền trong thời gian này. Thơ Thiền trong sự nghiệp thơ ca của Nguyễn Trãi đã được nghiên cứu bởi nhiều công trình như quyển “Nguyễn Trãi” của Nguyễn Thiên Thụ [155], “Từ tâm sự qua mọi giai đoạn của cuộc đời đến Thiền trong thơ Nguyễn Trãi” của Thạch Trung Giả [39], “Về cảm quan Phật giáo trong thơ văn Nguyễn Trãi” của Nguyễn Hữu Sơn [143], “Nguyễn Trãi: Huyễn – Thực và Sắc – Không” (Trần Ngọc Ninh) [162]… (Nếu xét riêng thì mạch thơ Thiền Lê - Nguyễn vẫn tiếp tục lưu chuyển thầm lặng qua Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Minh Hành, Nguyên Thiều, Ngô Thời Nhậm, Nguyễn Du… Nó tồn tại khiêm tốn bên cạnh thơ Nho). Tính chất Thiền trong thơ đầu thế kỷ XV (tiêu biểu là trong thơ Nguyễn Trãi) được nhiều nhà nghiên cứu chú ý. Hiện tượng này đã nói lên tính phức tạp của vấn đề nếu tìm hiểu thơ Nho thời điểm giữa thế kỷ XIV. Trong cùng một thời gian có sự xuất hiện hai loại hình văn học chịu ảnh hưởng bởi hai tư tưởng triết học khác nhau. Như vậy, từ sự thay đổi địa vị của Nho và Thiền về mặt văn hóa – xã hội cũng như sự khác biệt về nội dung và nghệ thuật của thơ Nho và thơ Thiền đã góp phần xác định sự khác biệt của hai mạch thơ Nho và thơ Thiền. Sự phức tạp vì có cả thơ Thiền trong sáng tác của các nhà nho (như trường hợp Nguyễn Trãi…) là lý do dẫn đến đề tài “Thơ Nho Việt Nam từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV”. Việc nghiên cứu đề tài sẽ góp phần làm sáng tỏ những phức tạp của thơ Nho Việt Nam trong khoảng một thế kỷ. Đó là một thế kỷ thơ Nho biểu hiện như một dòng thơ với những đặc điểm độc đáo trong lịch sử thơ ca dân tộc. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Mục đích nghiên cứu của Luận án là nhằm tìm hiểu rõ hơn về khoảng một thế kỷ thơ Nho với tư cách một dòng thơ. Nội dung đề tài là tìm hiểu, nghiên cứu về nguồn gốc phát sinh, cơ sở hình thành, diện mạo, đặc điểm của dòng thơ này nhằm đóng góp thành quả vào lĩnh vực nghiên cứu thơ văn của các nhà nho Việt Nam. Từ việc xác định lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu, chúng ta cần tìm hiểu lịch sử vấn đề thông qua những công trình nghiên cứu của những người đi trước, những khuynh hướng nghiên cứu có liên quan. 3. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ Từ lâu “thơ Nho” đã được giới nho sĩ quý trọng, sưu tập và lưu giữ. Qua nhiều thế hệ, mỗi thế hệ có cách nhìn nhận, đánh giá, nghiên cứu thơ Nho với những định hướng và những mức độ khác nhau. Trong quá khứ và gần đây đã có những ý kiến ít nhiều liên quan vấn đề thơ Nho. Xác định được những giá trị vô giá của thơ ca nhà nho có thể kể đến trước tiên là những công trình sưu tập – biên tập thơ Nho cổ. Các công trình này cho ta nhiều thông tin có giá trị nghiên cứu thơ Nho. Trước hết qua các tác phẩm thi lục, thi tuyển... các tác phẩm thơ ca của các nhà nho chính thức được lưu giữ, trân trọng cùng với những ý kiến đề cao. Đó là những tác phẩm như: “Việt âm thi tập” (1433) (Phan Phu Tiên soạn, Lý Tử Tấn phê điểm, tuyển thơ thời Trần - Lê), “Tân tuyển Việt âm thi tập” (1459) (Chu Xa, Lý Tử Tấn, tuyển thơ thời Trần - Lê), “Cổ kim thi gia tinh tuyển” (Dương Đức Nhan, tuyển thơ thời Trần, Hồ, Lê) (?), “Trích diễm thi tập” (1497) (Hoàng Đức Lương, tuyển thơ thời Trần đến đầu thời Lê), “Toàn Việt thi lục” (1768) (Lê Quý Đôn, tuyển thơ thời Lý đến đời Hồng Đức), “Hoàng Việt thi tuyển” (1788) (Bùi Huy Bích, tuyển thơ thời Lý, Trần đến cuối thời Lê)... Các công trình này có tác dụng lưu giữ những thi phẩm cổ trong đó có thơ Nho, đồng thời còn ít nhiều cho thấy những quan niệm sáng tác, phê bình của những nhà nho xưa. Các công trình này đã lưu giữ những thi phẩm và những ý kiến, nhận định quí báu của người xưa truyền lại cho đến ngày nay. Trong những công trình thuộc loại này, các nhà nho vừa sưu tập, biên tập vừa phản ánh suy nghĩ của mình về văn học dân tộc, với niềm tự hào về văn hóa dân tộc. Lý Tử Tấn đã có những đóng góp quan trọng trong buổi đầu sưu tập thơ văn cổ. Qua đó, ông bày tỏ niềm tự hào về nền thơ của Đại Việt: “Nước Việt ta từ thời lập quốc đến nay, có nhiều nhà thơ nổi tiếng với đời” (“Tân tuyển Việt âm thi tập”) [94, 51]. Trong số những nhà thơ đó ta thấy có rất nhiều nhà thơ Nho. Càng ngày, phong trào sáng tác của các nhà nho càng lên cao. Phan Phu Tiên nhận định về một thời đại rất xem trọng thơ văn. Ông nhận xét là: “mấy đời gần đây, các bậc vua chúa, các quan công khanh và sĩ đại phu chẳng ai mà không để tâm tới việc học thuật, sớm tối ngâm vịnh” (“Đề tựa tập thơ Việt âm mới san định”- Phan Phu Tiên) [117, 74]. Thơ Nho đã trở thành sinh hoạt tinh thần của kẻ sĩ. Thơ Nho trở thành nơi để gởi gắm ý chí, khát vọng, tâm sự của nhà nho. Cho đến thời gian này, Hoàng Đức Lương vẫn còn xem trọng thơ Thiền bên cạnh thơ Nho khi phân trần: “đâu phải nhà nho không bằng nhà Phật học” (Tựa Trích diễm thi tập) [118, 431-432]. Qua đó cho thấy vị thế của đội ngũ trí thức trẻ càng lớn mạnh nhưng thái độ tôn trọng thơ Thiền vẫn còn. Nói chung nhờ vào đây, ta có được những nguồn tư liệu tham khảo khi nghiên cứu về thơ Nho đồng thời những tài liệu này cũng góp phần tái hiện không khí thời đại. Bên cạnh những tài liệu về nguyên tác thơ Nho là các ý kiến nhận xét, phê bình bổ sung vào kho tàng lý luận về thơ Nho. Nguyễn Dữ, Lê Quý Đôn, Bùi Huy Bích... đều có một số ý kiến liên quan đến thơ Nho. Trong “Truyền kỳ mạn lục”, Nguyễn Dữ đã có nhận định đề cao thơ Nho giữa thế kỷ XV trở về trước và phê bình mạnh mẽ thơ Nho cuối thế kỷ XV: “Thơ ông Chuyết Am (Lý Tử Tấn) kỳ lạ mà tiêu tao,... thơ ông Cúc Pha (Nguyễn Mộng Tuân)... có vẻ mềm mại, nhưng có thể khiến cho làng phong nhã thì chỉ duy những bài thơ đầy lòng trung ái của Nguyễn Ức Trai...” [24, 251-252]. Đây là một trong những nhận định đánh giá nhiều nhà thơ mà chủ yếu là những nhà thơ trong giai đoạn chúng ta khảo sát. Qua “Vân đài loại ngữ”, Lê Quý Đôn (1726 - 1784) đã thu thập những kinh nghiệm lý luận, phê bình từ văn học cổ của Trung Quốc có liên quan đến phương pháp phê bình và sáng tác thơ Nho (Quyển V: Văn nghệ) [34, 89 -120]. Tiếp theo, học trò ông là Bùi Huy Bích (1741-1818) đã có ý thức về sự vận động dựa trên tiêu chuẩn nghệ thuật khá chính xác. Bùi Huy Bích viết trong “Lịch triều thi sao” (Tiểu dẫn) là: “Nước Việt ta từ đời Trần đến buổi đầu Lê (giữa thế kỷ XV) khí thơ có hơi hồn hậu, đến thời Hồng Đức thì lời thanh tao bóng bẩy, về sau dần dần yếu ớt, đến thời Trung hưng thì vụng về...” (“Lịch triều hiến chương loại chí”– Văn tịch chí) [19, 181]. Từng giai đoạn thơ Nho đã được ý thức với những nét cơ bản nhất của nó. Các tác giả cũng không quên bình luận những điểm chung nhất của mỗi giai đoạn. Qua đó, chúng ta thấy cách đánh giá, thẩm định của chính các nhà nho về thơ Nho. Trong các thế hệ nhà nho, các bậc cao sĩ được nhiều người kính trọng đồng thời cũng là những tác giả thơ Nho. Lê Quý Đôn đã dựa theo phong độ, phẩm chất của họ để chọn ra những nhân vật tiêu biểu (Kiến văn tiểu lục) [32, 298-300]. Theo tiêu chí đó, ông chọn được ở triều Trần chỉ năm người: Chu An, Đặng Tảo, Trương Đỗ, Bùi Mộng Hoa, Trần Đình Thâm. Thời Lê sơ theo Lê Quý Đôn thì có thể chọn Nguyễn Thiên Tích, Bùi Cầm Hổ, Nguyễn Thì Trung... Điều này lại trùng hợp ngẫu nhiên vì đó là những nhà nho nổi tiếng trong khoảng giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV! Từ giữa thế kỷ XV về sau, phong độ kẻ sĩ như thời trước dần dần giảm đi. Đến giữa niên hiệu Hồng Đức (Lê Thánh Tông) và từ những năm Đoan Khánh (Lê Uy Mục) những người khí tiết khảng khái thật “thưa thớt”, đồng thời “tập tục sĩ phu thối nát” [32, 301]. Như vậy, những nhà nho giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV có vị trí đặc biệt trong các thế hệ nho sĩ nước ta qua các thời đại. Thơ ca của họ vì thế cũng được các thế hệ quan tâm, tìm hiểu. Các nhà nho xưa đánh giá rất cao các tác giả thơ Nho thời gian này. Nhìn chung những nhà nho xưa vẫn lấy triều đại làm tiêu chí để phân kỳ thơ Nho và đánh giá cao thơ thời Lý – đầu thời Lê. Tuy tiêu chí lấy triều đại làm cơ sở cũng như lấy “đức nghiệp” để đánh giá có thể chưa thật sự đi vào bản chất văn chương nhưng nó cũng có những bổ ích nhất định cho nghiên cứu và đánh giá thơ văn nhà nho. Đến đầu thế kỷ XX, các học giả vẫn còn quan điểm tôn trọng thơ Nho. Các nhà nghiên cứu đã có những ý kiến khác nhau, bổ sung cho những ý kiến trước đó. Tác phẩm “Việt Hán văn khảo” của Phan Kế Bính tiếp tục những quan niệm, những nguyên lý thơ văn cổ của các nhà nho. Tác giả này viết về cái hay trong thơ, đó là “cái hay kỳ cổ, cái hay hào kiệt, cái hay hồn hậu, cái hay thanh sảng...” [101, 342]. Những ý kiến đó không khác gì ý kiến các nhà nho xưa. Đến Phan Kế Bính, ta vẫn chưa thấy gì khác nhiều so với những quan niệm tương đối ổn định từ truyền thống. Trong buổi giao thời, ở nhóm “Nam phong tạp chí” và một số nhà nghiên cứu như Nguyễn Hữu Tiến (Nam âm thi văn khảo luận), Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc (Nam thi hợp tuyển)... vẫn quan tâm thơ văn nhà nho. Phạm Quỳnh viết “Quan niệm về thơ của người ta người Tàu” (Nam Phong tạp chí, số 05). Tùng Vân viết “Phái nhà nho khoảng 30 năm nay với sự học cũ” (số 195). “Các bậc danh nho nước ta” (Nam Phong tạp chí, các số 53, 54, 55 (10/1921-01/1922). (Ở đây, nội dung trích lại từ “Lịch triều hiến chương loại chí”). Quan niệm của Chương Dân về thơ đăng trong Nam Phong tạp chí vẫn là quan niệm của thơ Nho nói chung: “Thơ làm ra cốt để tả cái tâm tình của mình mà cũng có ích cho người xem” [22, 354]. Bên cạnh đó mục Văn uyển của Nam Phong tạp chí thường tuyển cả thơ của những nhà nho xưa và những thi nhân đương thời. Phạm Quỳnh chú ý đến cái khó trong thơ Đường luật và bắt đầu phê bình thơ Đường luật – thể thơ quan trọng của nhà nho. Tác giả thấy thơ Đường “hay quá, khéo quá, phần nhân công nhiều mà vẻ tự nhiên ít” (Quan niệm về thơ của người ta người Tàu) [47, 261]. Đây cũng là một đặc điểm của thể loại thơ Nho. Ngoài sự quan tâm, các nhà nghiên cứu đầu thế kỷ XX cũng đã tìm hiểu một số khía cạnh khác nhau của thơ nhà nho. Đến đầu thế kỷ XX thơ văn của các nhà nho nói chung vẫn tiếp tục được chú ý nhưng đã bắt đầu có những nhận xét đánh giá lại vấn đề một cách thích hợp hơn. Ngoài ra, những công trình nghiên cứu, tuyển tập, lịch sử văn học như “Những áng văn hay” do Tr. N. K, Thiếu Sơn biên tập (Nam ký thư quán, H,1933) và đặc biệt Dương Quảng Hàm với “Việt Nam văn học sử yếu” (1943), “Việt Nam thi văn hợp tuyển” (1941), “Quốc văn trích diễm” (1953)... đều chú ý đến tác giả, tác phẩm thơ Nho. Cả Việt Nam văn học sử yếu lẫn Quốc văn trích diễm (Dương Quảng Hàm) đều có biểu liệt kê tác giả tác phẩm theo thứ tự thời gian. Dương Quảng Hàm đã đánh giá cao thơ văn nho thời Lý - Trần. Theo ông, các nhà nho phần nhiều đều có công nghiệp, phẩm cách thanh cao. Hơn nữa, “người cầm quyền trong nước là người trong phái nhà nho” [48, 78]. Nho sĩ đã được xem như một “phái”, “phái nhà nho”. Trong phái đó, các tác giả nổi bật cũng đồng thời là “các bậc cao sĩ nước Nam”. Thơ của các tác giả nhà nho có một vị trí đặc biệt trong quan niệm của các nhà nghiên cứu. Tuy đến thời điểm này, thơ văn nhà nho đã được tìm hiểu với cái nhìn mới của người trí thức Tây học nhưng họ vẫn chưa tách thơ Thiền, thơ Nho ra thành những mạch riêng. Quan niệm thơ của các nhà nho vẫn được nói chung, gồm cả thơ Thiền, thơ chịu ảnh hưởng tư tưởng Lão –Trang. Đối với các nhà nghiên cứu lịch sử văn học tiếp theo, họ có nhiều thời gian hơn, công trình của họ có những nhận định liên hệ đến thơ Nho với những mức độ khác nhau. Các nhà nghiên cứu lịch sử văn học có thể được xếp theo các nhóm khác nhau. Nhóm các tác giả phân chia lịch sử văn học theo giai đoạn lịch sử - xã hội - văn học có thể kể đến các công trình như “Lịch sử văn học Việt Nam” (T2) (Đại học Sư Phạm Hà Nội), “Văn học Việt Nam thế kỷ X – nửa đầu thế kỷ XVIII” (Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Chương), “Lịch sử văn học Việt Nam” (T1) (Ủy Ban KHXH, 1980)… Các nhà nghiên cứu lịch sử văn học theo lịch sử triều đại có thể kể đến Dương Quảng Hàm, Nguyễn Đổng Chi (Việt Nam cổ văn học sử), Phạm Thế Ngũ (Việt Nam văn học sử giản ước tân biên)… Cả hai nhóm tác giả các công trình lịch sử văn học nói trên đều đánh giá cao thơ ca nhà nho thế kỷ XIV- XV. Ngay cả những nhà nghiên cứu lịch sử văn học dựa theo thế hệ tác giả như trường hợp Thanh Lãng cũng đánh giá cao thơ ca nhà nho thế kỷ XIV- XV. Một số công trình đã có những ý kiến cần tham khảo. Tài liệu văn học sử của Phạm Thế Ngũ cho rằng thời Trần là thời “thịnh đạt nhất”, “thi gia nẩy lên khắp làng nho” [121, 120]. Ngô Tất Tố đã viết “Trong rừng văn chương hồi ấy (Lý – Trần), phái Nho giáo đã tiến bộ hơn phái Phật giáo” [163, 116]. Các tác giả đã có ý thức rõ về văn chương của “phái” Nho. Đồng thời các tác giả cũng ý thức được sự phát triển của dòng văn chương này. Tuy vậy, thể loại thơ và văn của nhà nho vẫn thường được khảo sát chung với nhau. Mặt khác, khuynh hướng nghiên cứu lịch sử văn học dựa trên cơ sở các dòng phái đã có xuất hiện. Cơ sở của những quan điểm này thường chịu ảnh hưởng những hệ hình và quan điểm của người phương Tây. Một số nhà nghiên cứu đã thử đi theo hướng này. Theo khuynh hướng này, ta có thể kể đến một số trường hợp như ở “Văn học phân tích toàn thư” (Thạch Trung Giả) [40, 35]. Tác giả chia văn học Việt Nam gồm cả văn học cổ ra thành bốn dòng: Tả thực, ấn tượng, tương trưng, thần bí (tương ứng với văn học thế giới) [40, 473-483]. Công trình “Lịch sử văn học Việt Nam” (Lê Hữu Mục) [111] có cách phân chia trường phái rõ nét. Tác giả này phân chia văn học cổ Việt Nam thành ba trường phái: Trường phái văn học “Thiền tông” (Thế kỷ XI – XIII), trường phái văn học “Cổ điển” (thế kỷ XIV – XVI), trường phái văn học “Nôm na” (thế kỷ XVII – XIX). Ở tập I, tác giả chủ yếu kiến giải và định hình hai trường phái văn học Thiền tông và văn học Cổ điển. Cơ sở của trường phái ở đây được xác định dựa trên loại hình tác giả. Hơn nữa nó còn là quá trình đi dần đến “đoạn tuyệt” với phái văn học Phật giáo. Theo tác giả này, trường phái văn học Cổ điển năm 1304 -1385 là sự thay đổi giảm dần của văn học ảnh hưởng Phật giáo và tăng dần của văn học ảnh hưởng Nho giáo. Đây là một cách tiếp cận sử dụng trường phái văn học làm cơ sở. Có thể nói, các công trình viết về lịch sử văn học Việt Nam thời trung đại thường quan tâm đến vấn đề văn học ảnh hưởng Nho giáo với những mức độ khác nhau. Bên cạnh những công trình lịch sử văn học, ta có thể kể đến một số công trình xoay quanh vấn đề “ảnh hưởng của Nho giáo đối với văn học Việt Nam”, “văn học nhà nho”. Trong đó, những bước đi đầu có thể kể đến tác phẩm “Tâm lý và tư tưởng của Nguyễn Công Trứ” (Nguyễn Bách Khoa) (1944) [154, 121-227]. Có lẽ ông là người đầu tiên dùng khái niệm “nhà nho tài tử”. Theo ông, nhà nho tài tử chỉ “thiên trọng về văn học” [154, 167]. Công trình này chỉ giới hạn trong phạm vi một tác giả văn học. Tiếp đến, đó là bài “Ảnh hưởng của Hán học đối với văn học Việt Nam” (Đặng Thai Mai phát biểu tại Viện Đông phương, Liên Xô cũ (1974) [18, 2]. Bài phát biểu chủ yếu quan tâm vào Hán học đối với văn học Việt Nam, đặc biệt lưu ý văn học Lý – Trần. Đến những năm cuối thế kỷ XX, các công trình nghiên cứu, các bài viết công bố trên các tạp chí bàn về những vấn đề có liên quan đến thơ Nho khá phong phú. Các nhà nghiên cứu đã bắt đầu đi sâu vào nghiên cứu thơ văn nhà nho nói chung. Trong đó ta có thể kể đến những công trình tiêu biểu như “Nho giáo và văn học Việt Nam Trung cận đại” (Trần Đình Hượu). Tác giả đã hướng vào trọng tâm là “văn học do nhà nho viết” [61, 09], “văn học nhà nho viết theo quan niệm Nho giáo” [63, 10], “ảnh hưởng của Nho và nhà nho đối với văn học” [61, 16]. Từ đây tác giả cũng xác định loại hình tác giả nhà nho hành đạo, ẩn dật, tài tử như là cơ sở ban đầu để đi xa hơn trong nghiên cứu. Cũng trong mạch nghiên cứu đó, công trình “Loại hình học tác giả văn học, nhà nho tài tử và văn học Việt Nam” (Trần Ngọc Vương) (1995) [181] đi vào nghiên cứu loại hình tác giả nhà nho, đặc biệt là nhà nho tài tử với những đặc điểm riêng. Từ đó, tác phẩm tìm hiểu những thế hệ nhà nho mang phẩm chất tài tử, nhất là trong thơ ca Việt Nam từ thế kỷ XVIII về sau. Ở tác phẩm “Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung” (1998), Trần Ngọc Vương bàn đến “văn chương Nho giáo” [184, 114], “Văn học nhà nho thế kỷ XIV – XVII” [184, 134]. Các nhà nghiên cứu nhìn chung đã đạt nhiều thành tựu trong nghiên cứu loại hình văn học nhà nho. Ở các công trình này, diện mạo văn học nhà nho được kiến giải ngày càng phong phú. Người đọc có thể có cái nhìn bao quát về thơ văn nhà nho ở nước ta. Tuy nhiên các công trình này vẫn chưa nghiên cứu thơ Nho như là một dòng thơ có những đặc điểm khác với thơ Thiền. Nó đã ít nhiều tiếp nối những thành tựu của thơ Thiền Lý – Trần. Ở một công trình khác, tác phẩm “Những vấn đề thi pháp văn học Trung đại Việt Nam” (1999) đã xác định có sự phân biệt của hai loại hình tác giả. Trong công trình này, tác giả Trần Đình Sử đã nhìn nhận: “Có thể phân biệt nhà thơ Thiền và nhà thơ Nho” [139, 12]. Tuy công trình này nghiên cứu rất nhiều mặt của văn học Trung đại Việt Nam nhưng tác giả đã lưu ý đến thơ Thiền và thơ Nho. Trường hợp này công trình chú ý đến loại hình tác giả văn học. Từ cơ sở này, nhà nghiên cứu nói chung đã đi khá sâu vào nghiên cứu văn chương Nho giáo. Bên cạnh đó, những công trình về lý luận văn học và thơ ca cổ đã tiếp tục tìm hiểu những quan niệm lý luận, phê bình của người xưa và nêu ra nhiều nhận định thú vị. Những công trình như “Từ trong di sản” (1981) [167], “Về quan niệm văn chương cổ Việt Nam” (Phương Lựu) (1985) [94], “Quan niệm văn học của Nho gia” (Phương Lựu) [99, 24-37], “Người xưa bàn về văn chương” (tập I) (Đỗ Văn Hỷ) [66], “Thơ trong con mắt người xưa” (Phạm Quang Trung) [165]... đã có nhiều đóng góp, tiếp tục tìm hiểu, bổ sung những cơ sở lý luận, cảm thụ, tiếp nhận thơ ca nhà nho. Ngoài ra, ở các bài viết trên Tạp chí Văn học, các nhà nghiên cứu đều đưa ra những ý kiến có liên quan về phương thức tiếp cận, đánh giá văn chương Nho giáo hoặc một số phương diện cụ thể của thơ Nho. Các bài nghiên cứu có thể kể đến như: “Bàn về một số khía cạnh trong thơ tình đời Trần” (Bùi Văn Nguyên) [115], “Các yếu tố Phật Nho Lão được tiếp thu và chuyển hóa như thế nào trong đời sống và văn hóa thời đại Lý Trần” (Nguyễn Huệ Chi) [14], “Về diễn biến của thơ trữ tình thời Trần” Nguyễn Phạm Hùng) [55], “Về ảnh hưởng nhiều mặt của Nho giáo trong văn học Việt Nam Cổ, Cận đại” (Trần Đình Hượu) [62], “Mối quan hệ giữa cái tôi nhà nho và thực tại trong văn chương cổ” (Trần Nho Thìn) [150], “Giới hạn của nội dung nhân đạo chủ nghĩa văn chương Nho giáo” (Trần Ngọc Vương) [182],... Đây là những ý kiến thú vị đóng góp vào lĩnh vực nghiên cứu thơ văn nhà Nho nhất là về mặt phương pháp luận. Thời gian gần đây, trong tư thế đối sánh “khác chủng loại”, công trình “Khảo sát một số đặc trưng nghệ thuật thơ Thiền Việt Nam thế kỷ XI – XIV” (Đoàn Thị Thu Vân) (1996) đã có đề cập đến thơ Nho. Trong quá trình nghiên cứu về thơ Thiền, tác giả đã xác định “Thơ Nho được hiểu là thơ của các tác giả theo hệ tư tưởng Nho gia và đề cập đến những vấn đề thuộc phạm trù triết học, đạo đức Nho giáo” [169, 143]. Đây là những cơ sở ban đầu để xác định thơ Nho. Tác giả đã dùng quan niệm này để so sánh thơ Nho với thơ Thiền và tìm thấy những dấu hiệu khác biệt của thơ Thiền và thơ Nho. Nhìn chung ở nước ta, việc nghiên cứu trào lưu, trường phái nhất là trong văn học cổ chưa được chú ý nhiều. Một số công trình nghiên cứu gần gũi với nghiên cứu trường phái đã xuất hiện. Những công trình như “Nguồn suối Nho học và thơ ca Bạch Vân cư sĩ” (Lê Nguyễn Lưu) (1999) [92], “Đoạn trường tân thanh dưới cái nhìn của Nho gia – Thiền gia” (Nguyễn Thạch Giang) (2005) [43],… đã ra đời. Qua đó ta thấy có một số ý kiến thú vị khi nhìn tác giả, tác phẩm văn học dưới cái nhìn có cơ sở từ một hoặc hai trường phái tư tưởng triết học. Thông thường ở đây thì dòng mạch văn học Nho dường như được người ta chú ý hơn thơ Nho. Cơ sở đặc điểm thơ Nho Việt Nam giữa thế kỷ XIV – giữa thế kỷ XV do sự tác động của Nho giáo. Tuy nhiên Nho giáo đã tác động không đồng đều đến từng tác giả. Thái độ và cách thức tiếp thu của các tác giả trong từng hoàn cảnh và giai đoạn lịch sử cũng khác nhau. Trong khi nghiên cứu văn chương nhà nho, yếu tố “Việt” trong tiếp thu Nho giáo cũng được nghiên cứu, ví dụ “Một số đặc điểm của Nho Việt” (Nguyễn Hùng Hậu) [51], “Việt Nho qua một số tác phẩm văn học trung đại Việt Nam” (Bùi Duy Tân) [144]… Tuy chưa phải là những kết luận sau cùng nhưng đó là những gợi mở về đặc điểm Nho giáo ở Việt Nam. Từ đó, việc nghiên cứu về bản sắc thơ Nho có định hướng thích hợp. Tuy nhiên, luận án không đi vào phân biệt Việt Nho với Hán Nho, Tống Nho mà chỉ tập trung vào vấn đề thơ Nho Việt Nam. Đã có một số công trình nghiên cứu có liên quan đến thơ Nho cùng với tính chất dòng phái. Các công trình có liên quan đến phái thơ Nho có thể kể đến tác phẩm “Trong dòng chủ lưu của văn học Việt Nam chủ nghĩa yêu nước” của Trần Văn Giàu (1984) [45]. Tác phẩm đã có gợi ý khá lý thú về thơ Nho Việt Nam với đỉnh cao Nguyễn Trãi. Trần Văn Giàu xem Nguyễn Trãi là “người đứng đầu một văn phái yêu nước, thân dân” [45, 164]. Và theo ông, ““văn phái” có nghĩa hạn chế là một số nhà văn cùng một thời kỳ lịch sử, theo cùng một khuynh hướng nhất định, gồm một hệ thống nét đặc sắc không thấy ở những người khác, ở các thời khác” [45, 165]. Đây là môt cơ sở có tính qui ước để tác giả đi sâu hơn nghiên cứu về chủ nghĩa yêu nước trong văn học. Các công trình nghiên cứu về văn học Nho giáo như “Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại” (Trần Đình Hượu) (1964,...) [61], “Mối quan hệ giữa cái tôi nhà nho và thực tại trong văn chương cổ” (Trần Nho Thìn) (1994) [150], “Loại hình học tác giả văn học, nhà nho tài tử và văn học Việt Nam” (Trần Ngọc Vương) (1995) [181], “Bi kịch tinh thần của nhà nho Việt Nam với tính cách là một nhân vật văn hóa (khảo sát qua trường hợp Nguyễn Trãi” (Trần Nho Thìn) (2001) [152], “Ý thức văn học cổ trung đại Việt Nam” (Đoàn Lê Giang) (2001) [41]… cũng đã có tác dụng gợi mở về vấn đề thơ các nhà nho. Các tác giả đã tìm ra những kinh nghiệm tiếp cận vấn đề khá lý thú, đặc biệt là phương pháp loại hình trong nghiên cứu văn chương các nhà nho. Tác phẩm “Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại” (Trần Đình Hượu) [61] có một ý nghĩa quan trọng trong lịch sử nghiên cứu văn chương nhà nho. Đặc biệt, bài “Về ảnh hưởng nhiều mặt của Nho giáo trong văn học Việt Nam cổ cận đại” [61, 48-56] đã tập hợp những bài giảng từ năm 1964 về sau, trong đó tác giả dành nhiều tâm huyết cho việc “khảo sát văn học do nhà nho viết, viết theo quan niệm Nho giáo...” [61, 10]. Trên nhiều phương diện, tác giả đã đạt được những thành tựu quan trọng trong nghiên cứu văn chương nhà nho nói chung. Bên cạnh đó, Trần Ngọc Vương đã có một số công trình có ý nghĩa bổ sung, hiện thực hóa có hệ thống những tư tưởng khoa học của Trần Đình Hượu như “Loại hình học tác giả văn học, nhà nho tài tử và văn học Việt Nam” (1995) [181], “Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung” (1998) [184]. Ở “Loại hình học tác giả văn học, nhà nho tài tử và văn học Việt Nam” [181], tác giả đã đi vào tìm hiểu và phát hiện sự thay đổi của hệ thống chủ đề, đề tài, hệ thống hình tượng [181, 114-170], sự thay đổi hệ thống thể loại, ngôn ngữ [173- 182] ở văn chương nhà nho tài tử. Tác giả tiếp tục nghiên cứu về thơ văn nhà nho ở công trình tiếp theo - “Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung”. Công trình này khai thác khá toàn diện về văn chương nhà nho Việt Nam. Đặc biệt quan trọng là các bài: “Một số vấn đề lý luận khi nghiên cứu văn chương Nho giáo ở Việt Nam” (Trần Ngọc Vương) [184, 114- 120], “Văn học nhà nho Việt Nam từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVII” (Trần Ngọc Vương) [184, 134-146]. Một số vấn đề có tính chất phương pháp luận trong nghiên cứu văn chương nhà nho đã được đặt ra trong tác phẩm. Theo đó, Văn học Việt Nam từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX có thể cho thấy “nội hàm khái niệm “văn học dân tộc” gần như trùng khớp với nội hàm khái niệm “văn học nhà nho ở Việt Nam” [184, 118]. Vì thế, vấn đề đặt ra là người nghiên cứu cần giải quyết những vấn đề “về mặt lý luận mối quan hệ giữa cái nội sinh bản địa và cái ngoại nhập, giữa những đặc trưng mang tính thuần túy phản ánh bản sắc dân tộc với những thuộc tính mang tính khu vực” (Trần Ngọc Vương) [184, 118]. Tác phẩm đã tiếp tục khuynh hướng nghiên cứu đã được đặt ra từ nhà nghiên cứu đi trước - Trần Đình Hượu. Tác giả đã đạt được nhiều thành công quan trọng, từ đó việc nghiên cứu thơ văn nhà nho Việt Nam có được khá nhiều kinh nghiệm nghiên cứu. Tuy nhiên gần đây, công trình “Văn học Trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa” (Trần Nho Thìn) (2003) [153] đã có những ý kiến nhận xét lại những di sản của Trần Đình Hượu. Theo đó, tác giả đã nêu những vấn đề cần quan tâm khi“nghiên cứu hiện tượng văn học sử trong khuôn khổ hệ thống văn học của nhà nho” [153, 20-21]... Bên cạnh đó, “Ý thức văn học cổ trung đại Việt Nam” (Đoàn Lê Giang) (2001) đã bàn đến những quan niệm có liên quan đến thơ Nho: quan niệm về mối quan hệ của “văn học và vận mệnh đất nước” [41, 60 - 68], quan niệm về “thơ và Chí, Tâm của kẻ sĩ quân tử” (Đoàn Lê Giang) [41, 68 - 76]... Nói chung, những ý kiến này đã góp phần làm giàu thêm những cơ sở phương pháp luận, những kinh nghiệm nghiên cứu văn học nhà nho và một số có thể vận dụng trong nghiên cứu thơ Nho. Ở nước ta, việc nghiên cứu thơ Nho Việt Nam đã có những tiền đề quan trọng về nội dung, phương pháp. Nó đã có những gợi mở, thử nghiệm, thành tựu, nhưng nhìn chung vẫn c._.ần tiếp tục khai thác. 4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu chính của luận án là thơ Nho Việt Nam trong khoảng một thế kỷ (từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV). Thơ Nho ở đây là thơ của các tác giả nhà nho, chịu ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo, cảm hứng Nho giáo, quan niệm thẩm mỹ Nho giáo. Thơ Nho Việt Nam là những bài thơ của các nhà nho Việt Nam, chịu ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo, cảm hứng Nho giáo, quan niệm thẩm mỹ Nho giáo. Ở luận án, thơ Nho được nghiên cứu như một dòng văn học trong khoảng thời gian từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV nhằm làm sáng tỏ diện mạo và đặc điểm của nó trong khoảng thời gian một thế kỷ này. 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Trong quá trình làm luận án, nhiều phương pháp khoa học khác nhau đã được vận dụng. Tùy theo từng công đoạn, tùy theo từng trường hợp cụ thể mà người viết vận dụng các phương pháp khoa học phù hợp để thực hiện luận án. Về phương pháp luận nghiên cứu thơ Nho: Từ Nho giáo đến thơ văn nhà nho nói chung đã có nhiều công trình, nhiều nhà nghiên cứu đã đạt nhiều thành tựu đáng khâm phục. Thông thường ta có thể chọn hướng tiếp cận từ Nho giáo tác động đến thơ văn nhà Nho. Tuy nhiên người viết vẫn phải căn cứ, đối chiếu với văn hóa dân tộc, tâm lý dân tộc, yếu tố Việt trong tiếp thu Nho giáo, sự tác động qua lại của Nho giáo và tư tưởng Thiền - Lão trong văn học Nho giáo Việt Nam, tính chất dân tộc trong văn học. Đối với thơ Nho, bên cạnh việc tìm thấy mối quan hệ của Nho đến thơ, ta cần tìm thấy những tác động phức tạp của Nho đến thể loại, ngôn ngữ, giọng điệu, không gian – thời gian trong thơ Nho. Mặt khác ta cũng cần đi vào tìm hiểu sự tác động của Nho đến việc lựa chọn và triển khai các chủ đề, cái tôi trữ tình trong thơ Nho cho đến những quan niệm nghệ thuật trong thơ Nho. Trong đó những quan niệm nghệ thuật thơ Nho phản ánh tư tưởng nghệ thuật Nho giáo thế nào trong môi trường văn hóa xã hội Việt Nam giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV. Để giải quyết nhiều vấn đề đặt ra, luận án cần phải sự dụng một số phương pháp nghiên cứu nhất định như: Phương pháp lịch sử – xã hội, phương pháp nghiên cứu theo thi pháp học, phương pháp liên ngành (kết hợp những ưu thế từ nhiều ngành khoa học (Văn, Sử, Triết). Ngoài ra luận án còn sử dụng thường xuyên các thao tác khoa học cơ bản: tổng hợp, phân tích, so sánh... Các phương pháp được vận dụng theo trình tự của luận án: Phương pháp lịch sử – xã hội và phương pháp liên ngành dùng cho Chương 1. Phương pháp lịch sử – xã hội được vận dụng bên cạnh phương pháp liên ngành nhằm trình bày những vấn đề chung nhằm làm cơ sở cho những chương sau. Phương pháp phân tích - tổng hợp được sử dụng cho chương 2. Chương này cũng vận dụng kết hợp với phương pháp liên ngành nhằm làm sáng tỏ những đặc điểm nội dung của thơ Nho từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV (căn cứ vào việc khảo sát những văn bản thơ Nho được sáng tác trong thời gian này). Người viết cũng vận dụng Thi pháp học để nghiên cứu đặc điểm nghệ thuật thơ Nho ở chương 3. Ở chương này phương pháp phân tích – tổng hợp cũng được vậnsử dụng nhằm làm sáng tỏ những đặc điểm nghệ thuật của thơ Nho từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV (căn cứ vào việc khảo sát những văn bản thơ Nho được sáng tác trong thời gian này). Phương pháp liên ngành được vận dụng trong nghiên cứu từng chương và liên hệ giữa các chương. 6. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN Thành quả nghiên cứu của Luận án “Thơ Nho Việt Nam từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV” có một số đóng góp nhất định trong lĩnh vực khoa học và thực tiễn. - Ý nghĩa khoa học: Qua những cố gắng nghiên cứu thơ Nho, luận án đi vào tìm hiểu đặc điểm khoảng một thế kỷ thơ Nho từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV. - Ý nghĩa thực tiễn: Việc nghiên cứu thơ Nho giữa thế kỷ XIV – giữa thế kỷ XV thông qua đặc điểm nội dung và nghệ thuật của thơ Nho đóng góp một phần nhỏ vào việc nghiên cứu và giảng dạy Lịch sử văn học thế kỷ XIV- XV cũng như thơ ca thế kỷ XIV- XV. 7. CẤU TRÚC LUẬN ÁN Luận án gồm phần mở đầu, phần nội dung (có ba chương), phần kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục. MỞ ĐẦU Giới thiệu sơ lược về lý do chọn đề tài, lịch sử vấn đề, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu (Từ trang 01 đến trang 18). CHƯƠNG 1. Những vấn đề chung của thơ Nho Việt Nam từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV (Từ trang 20 đến trang 86) Đây là chương xác định khái niệm thơ Nho Việt Nam; bối cảnh lịch sử, diện mạo thơ Nho giữa thế kỷ XIV – giữa thế kỷ XV. Trên cơ sở đó chúng tôi phác họa con đường vận động của dòng thơ này. CHƯƠNG 2. Những cảm hứng trong thơ Nho Việt Nam từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV (Từ trang 87 đến trang 123). Chương này trình bày cảm hứng chủ đạo của thơ Nho Việt Nam từ giữa thế kỷ XIV - giữa thế kỷ XV. CHƯƠNG 3. Một số phương diện thi pháp của thơ Nho Việt Nam từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV (Từ trang 124 đến trang 174). Chương này nghiên cứu về thể loại, ngôn ngữ, giọng điệu, hình tượng con người, không gian – thời gian nghệ thuật của thơ Nho thời gian này. KẾT LUẬN (Từ trang 175 đến trang 179). Nhận định khái quát về thơ Nho Việt Nam từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV, phương hướng nghiên cứu kế tiếp. TÀI LIỆU THAM KHẢO (Tài liệu tham khảo gồm có tất cả 192 tài liệu, trong đó có 185 tài liệu tiếng Việt và 10 tài liệu nước ngoài) (trang 180 - 196). PHỤ LỤC PHỤ LỤC 1. Những từ ngữ trong thơ Nho Việt Nam từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV có liên quan đến “Nho” (Từ trang 197 đến trang 201) PHỤ LỤC 2. Nguyên tác bài “Thích An Nam sự thi” (Ý Tông triều cử tử) (“Toàn Đường thi”, quyển 784) (Từ trang 202 đến trang 204). CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA THƠ NHO VIỆT NAM GIỮA THẾ KỶ XIV ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XV 1. 1. VỀ KHÁI NIỆM “THƠ NHO” Đối tượng nghiên cứu của Luận án là thơ Nho Việt Nam trong giới hạn thời gian từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV. Việc xác định đối tượng và phạm vi nghiên cứu này có liên quan đến một số khái niệm khác như Nho hoc, Nho gia, nho sĩ, thơ Nho, thơ nhà nho, thi luận Nho gia... Nho học: một học phái quan trọng thời cổ đại ở Trung Quốc. Về sau Nho học trở thành tư tưởng chính trị chính thống của chế độ phong kiến Trung Quốc và một số nước lân cận. Nho học lấy tư tưởng Nhân nghĩa (Trung thứ) làm hạt nhân. Nho gia: chỉ phương diện học phái của Nho học. Ở Việt Nam, nó còn bao hàm nghĩa Nho sĩ (nhà nho). Nho sĩ: người thời xưa theo Nho học hay có khi chỉ chung trí thức ở các nước chịu ảnh hưởng Nho học. Thơ Nho: xuất hiện trong tương quan so sánh với thơ Thiền, trước hết được xác định là những tác phẩm thơ sáng tác trong thời gian từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV ở Việt Nam. Thơ Nho là thơ của các tác giả nhà nho chịu ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo, quan niệm văn học Nho giáo, cảm hứng Nho giáo. Thơ Nho, do đó, không hoàn toàn đồng nhất với thơ nhà nho vì ở thơ nhà nho có khi có xen lẫn cả cảm hứng Thiền hoặc Lão – Trang. Ở Trung Quốc người ta còn dùng đến khái niệm Thi luận (ví dụ “Trung quốc thi luận sử”, “Khổng Tử luận thi và Khổng Tử thi luận”...). Đó là kho tàng những lý luận thơ ca, những quan niệm về thơ nói chung vô cùng phong phú và phát triển theo thời gian. Thi luận chính thống của Nho gia Trung Quốc thường được nhắc đến qua những quan niệm và lý luận thơ ca của Khổng Tử, Tuân Tử, Mạnh Tử, Lưu Hướng, Mao Hanh - Mao Trành, Trịnh Huyền, Lưu Hiệp, Đỗ Phủ, Nghiêm Vũ... Trong đó, phần lớn là những ý kiến mang tính chất kinh điển. Qua đó, có thể thấy không ít những khác nhau về quan niệm nghệ thuật thơ ca của nhà nho, những kiến giải khác nhau về mối quan hệ thơ với đạo, chí, dụng, tình... Càng về sau những lý giải này càng thêm phong phú (Ví dụ có những chú giải khác nhau về “Kinh thi”, có sự ra đời của rất nhiều “thi thoại”, “thi phẩm”). Mạch thi luận này cũng là những vấn đề quan trọng của Kinh học – môn học tìm hiểu và giải thích kinh điển Nho gia. “Văn dĩ tải đạo” là mệnh đề được quan tâm của Kinh học, nó phản ánh sự ảnh hưởng Nho giáo đến thơ văn của các nhà nho . Ở Việt Nam, “thi luận” của Nho gia được nhiều nho sĩ. Gần đây, một số công trình về bàn về Nho giáo - văn học có thể thấy như “Quan niệm văn học (và mỹ học) của phái Nho gia” trích trong “Tinh hoa lý luận văn học cổ điển Trung Quốc” (Phương Lựu) [99, 23-30], phần “Sự tiến triển của quan niệm Nho gia chính thống” trong “Cấu trúc và lịch sử của lý luận văn học cổ điển Trung Hoa” (Phương Lựu) [100, 541-544]... Thực trạng thơ Nho ở nước ta như một bức tranh có những nét riêng biệt, độc đáo và sáng tạo. Thơ Nho Đại Viêt được hình thành với một lực lượng sáng tác phong phú nhưng không đồng nhất. Đôi khi những tác giả nhà nho lại có cả thơ Thiền như Trần Minh Tông, Phạm Mại, Nguyễn Trãi… nên cũng cần phải chú ý những bài thơ mang cảm hứng Thiền tông của các tác giả nhà nho khi nghiên cứu. Chọn lọc những tác phẩm thơ ca trong thời gian khoảng một trăm năm này, trước hết cần chọn những tác phẩm chủ yếu chịu ảnh hưởng tư tưởng Nho. Những tác phẩm chịu ảnh hưởng tư tưởng Thiền sâu đậm hay Lão – Trang quá nhiều cũng cần nên cân nhắc cụ thể. Những tác phẩm như “Đình Thủy vương công” (Chu An) [178, 54], “Tạp hứng, 2” (Lý Tử Tấn) [09, 364-365], “Thuật chí” (Lý Tử Cấu) [09, 386-387]... chịu ảnh hưởng khá nhiều bởi tư tưởng Lão Trang nên khó có thể xếp vào thơ Nho. Những tác phẩm khác như “Lễ Để sơn” (Lê Thiếu Dĩnh) [09, 408]) và gần một số bài thơ của Nguyễn Trãi (“Du Nam Hoa tự” [123, 383-384), Thu dạ khách cảm” [123, 306, 307], ,“Tiên Du tự” [123, 37-373], “Mộc cận” [123, 471])... lại là những bài thơ mang phong cách Thiền nên cũng không thể xếp vào thơ Nho Tính sơ lược trong “Thơ văn Lý Trần” (tập 3) [178], thấy có khoảng 11 tác phẩm chịu ảnh hưởng tư tưởng Thiền - Lão như: “Đề Dương Công Thủy Qua đình” (Chu An) [178, 54- 55], “Đề Huyền Thiên Cực cung” (Chu An) [178, 157], “Đề Nguyệt Giản Đạo Lục...” (Trần Nguyên Đán) [178, 169], “Ngẫu đề” (Trần Nguyên Đán) [178, 192], “Tống Lãm Sơ Quốc sư hoàn sơn” (Phạm Nhân Khanh) [178, 315], “Du Côn Sơn” (Nguyễn Phi Khanh) [178, 423], “Đề Huyền Thiên tự” (Nguyễn Phi Khanh) [178, 466], “Thiên Khánh Hựu Quốc khởi Tảo” (Nguyễn Phi Khanh) [178, 474], “Cầu siêu” (Sư chùa Yên Quốc) [178, 515], “Phong Thủy đình quan ngư” (Phạm Nhữ Dực) [178, 569]... Những tác phẩm này cũng không thể xếp vào thơ Nho để nghiên cứu. Tuy vậy trong thực tế có khá nhiều trường hợp các yếu tố Nho – Lão – Phật hòa trộn vào nhau, hòa tan vào nhau trong bản thân người nho sĩ và trong thơ văn mà họ sáng tác. Sự thâm nhập và hòa tan vào nhau này khá phức tạp tùy thuộc vào từng tác giả và ở mỗi tác phẩm khác nhau. Ở đây, cũng thấy có sự đan xen, sự tiếp thu văn học dân gian vào trong thơ Nho, nổi bật nhất là trường hợp thơ Nôm của Nguyễn Trãi (“Quốc âm thi tập”). Vấn đề yếu tố Việt trong thơ Nho cũng là một vấn đề rất phức tạp. Yếu tố Việt vừa xâm nhập chính vào sự tiếp thu Nho giáo vừa trực tiếp đi vào thơ Nho. Yếu tố Việt là yếu tố bản địa vừa là tố chất cơ bản của người sáng tác thơ Nho. Các tác giả thơ Nho chủ yếu là những nhà nho Việt. Họ đã sáng tác bằng tâm sự, nỗi lòng riêng tư của những trí thức Đại Việt. Thơ Nho cũng mang hơi thở cuộc sống dân tộc, đi cùng với những thăng trầm của dân tộc. Bản thân các tác giả thơ Nho chủ yếu là những quan lại và thậm chí là những nhà vua. Họ là những người trực tiếp hoặc gián tiếp có những trọng trách trong nhà nước phong kiến Đại Việt. Cũng vì thế yếu tố Việt trong thơ Nho là một yếu tố quan trọng cùng tồn tại trong mỗi tác giả, trong mỗi bài thơ Nho. Vấn đề thơ Nho từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV cần tìm hiểu về quá trình hình thành, xác định mốc thời gian, những giai đoạn chuyến biến của thơ Nho có ý nghĩa quan trọng. Ban đầu, thơ Nho chỉ tồn tại khiêm tốn bên cạnh thơ Thiền và nó bị phản ứng mạnh bởi tinh thần "bài Ngô". Chỉ khi đất nước độc lập, các vua Lý – Trần chủ động vận dụng Nho giáo thì Nho học mới có địa vị và từng bước hình thành dòng thơ Nho. Cho đến đời Trần, thơ Nho từng bước phát triển và hoàn thiện song song với quá trình phát triển của thơ Thiền. Số lượng tác giả – tác phẩm thơ Nho ngày càng nhiều, có thể thấy cuối đời Trần các thế hệ nho sĩ Chu An – Phạm Sư Mạnh – Lê Quát… đã ảnh hưởng đến văn hóa đương thời. Hàn Thuyên được đánh giá như là người mở đầu một phong trào cải cách văn hóa, nhiều văn tập – thi tập đã ra đời trong thời gian này. Nội dung các thi tập cho thấy dấu vết Tống Nho nhưng bên cạnh đó tính dân tộc, tính khoan hoà, tính riêng tư, tính “Việt” cũng rất đậm nét. Dòng thơ Nho từng bước có diện mạo, định hình. Điều này đặc biệt có dấu hiệu khá rõ vào nửa sau thế kỷ XIV. "Vào nửa sau thế kỷ XIV, khuynh hướng Nho giáo trong văn học đã gia tăng” [125, 172]. Trong thời gian đó, ngay cả Nguyễn Trung Ngạn cũng đã nói lên cảm hứng Nho giáo trong bối cảnh và không khí Phật giáo: “Giang sơn tín mỹ phi ngô thổ” (Du Nhạc Lộc tự) [09, 135]. Càng ngày, các nho sĩ càng ý thức làm sáng tỏ những bản sắc cao đẹp của thơ Nho, xác lập ưu thế của thơ Nho. Điều này đã diễn ra trong một thời gian dài. Đó là quá trình dài mà người Nho sĩ tự ý thức, tự hào với kỹ năng sống, kỹ năng sáng tạo nghệ thuật mới. Các nhà nho thời này đã tự ý thức trách nhiệm của mình. Ý thức mới của họ là “đại công xuất nhậm thuộc ngô nho” (Ra công gánh vác việc lớn, thuộc về nhà nho ta) (Tống Kinh Doãn Nguyễn công... - Nguyễn Phi Khanh) [178, 420]. Ý thức mới này cũng góp phần hình thành một quan niệm thơ riêng. Mặt nào đó ta có thể nhận thấy thơ Nho đã lấy hệ tư tưởng Nho giáo và tư tưởng dân tộc làm “vốn văn hóa” trong khi văn hóa Nho giáo đã phát huy ảnh hưởng từ thượng tầng đến hạ tầng xã hội. Các tác giả thơ Nho cũng không ngừng phát huy vai trò của mình trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực văn hóa - văn học. Tuy xác định hơi muộn hơn thực tế đôi chút, nhưng trong “Tựa Quần hiền phú tập” đã có những nhận định về phái (thơ văn) nhà nho trong bước đầu xây dựng. Từ thời Trần đến đầu Lê, kẻ sĩ rất nhiều, thế mà văn chương để lại chỉ có vài người thôi: “Nguyễn Nhữ Bật (thời Vãn Trần, tác giả “Quan Chu nhạc phú”) khơi nguồn, Đào Sư Tích (người phản đối Hồ Quý Ly), Lý Chuyết Am (Tử Tấn), Nguyễn Cúc Pha (Mộng Tuân), Trình Mật Liên (Thuấn Du) (Thông Phán châu Vũ Ninh nhà Hồ?), Nguyễn Ức Trai (Nguyễn Trãi) làm cho gợn sóng” (Tựa Quần hiền phú tập) [179, 242-243]. Lời tựa “Quần hiền phú tập” đã ví văn học Nho như một dòng sông linh động. Dù chưa đề cập đến những thành tựu trước đó nhưng nó đã phản ánh quy luật vận động và phát triển của thơ Nho từ khoảng giữa thế kỷ XIV đến khoảng giữa thế kỷ XV. Người xưa đã xem Nguyễn Nhữ Bật thuộc thế hệ tiên phong vào cuối đời Trần, Đào Sư Tích tiếp nối (dẫn nước) và hàng loạt các nhà thơ danh tiếng Lý Tử Tấn, Nguyễn Mộng Tuân, Trình Thuấn Du, Nguyễn Trãi tiếp tục truyền thống… Thơ Nho như một chuyến xe khởi hành trên một con đường, xuất phát từ Đinh - Lý nhưng mở rộng và tự giác xác định từ nửa thế kỷ cuối đời Trần. Từ Huyền Quang (1254- 1334) đến Trương Hán Siêu (?-1354), Chu An (1292 – 1370) – những người được thờ ở Văn miếu - là một bước chuyển từ thơ Thiền đến thơ Nho. (Lúc đó có sự chứng kiến của Trần Anh Tông – nhà vua, nhà văn hoá). Đầu đời Lê, thơ Nho đã hoàn toàn trở thành một dòng thơ chính thống, chiếm lĩnh toàn diện. Quá trình đó đã có nguồn gốc từ việc xây dựng Văn miếu thời Lý, cho đến Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông cố vận động phục hồi tinh thần dung hòa Tam giáo. Nhưng càng về sau, phần lớn triều đình và giới trí thức mới càng đề cao Nho giáo rất mạnh mẽ. Ở nước ta, quá trình sinh thành thơ Nho được xem như hệ quả của quá trình phát triển của giới nho sĩ xét về mặt chức năng kéo dài đến năm thế kỷ (Thế kỷ X – XIV). Đó là quá trình đóng góp của nhiều thi nhân, nhiều thế hệ, kể cả các nhà vua và quan lại triều đình. Giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV là một thế kỷ thơ với những thành tựu đáng kể. Tuy là những thành tựu ban đầu nhưng nó phản ánh gần như trọn vẹn những đặc điểm cơ bản của thơ Nho về nội dung – nghệ thuật. Thơ Nho khoảng 100 năm này trong sáng, tích cực và phản ánh đúng lý tưởng của người nho sĩ chân chính. Nó cũng phản ánh trọn vẹn lý tưởng thẩm mỹ Nho học trong thi ca. Trong thời gian đó, Nguyễn Trãi là dấu son, là đỉnh cao của đường biểu diễn dòng thơ Nho. Đến thế hệ Nguyễn Trãi, thơ Nho đã bước qua giai đoạn hình thành và đi vào ổn định, phát triển. Tính từ khi Trung Hoa xâm lăng đất Việt cho đến khi dòng thơ Nho chính thức hình thành đã hơn mười lăm thế kỷ. Bằng những phương thức, những điều kiện, những mối tương tác khác nhau, văn hóa phương Bắc đã tác động nhiều đến thi ca Đại Việt với mục đích riêng. Nhưng lợi dụng điều đó, các thế hệ thi nhân nước ta đã truyền vào thơ một dòng máu khác – dòng máu của văn hóa Việt để xây dựng cho đất nước mình một dòng thơ ngang tầm thời đại, có bản sắc riêng, có thể sánh vai các truyền thống thi ca khu vực. Các học giả Trung Quốc thường chủ quan và chưa đánh giá đúng mức khi nhận xét về nền văn học chữ Hán của nước ta nhưng họ cũng không thể phủ nhận những sáng tạo và bản sắc dân tộc [189]. Đó là sức sống và nội lực của sự sáng tạo trong văn học dân tộc. Nhìn chung, thơ Nho từ giữa thế kỷ XIV – giữa thế kỷ XV có thể được xem là một chặng đường, một mạch thơ riêng, tiếp nối và kế thừa thành tựu thơ trước đó. Thơ Nho càng ngày càng hưng thịnh và có khuynh hướng chuyển dần thành độc tôn. Bước đường thơ Nho giữa thế kỷ XIV – giữa thế kỷ XV nằm trong hành trình liên tục của thơ Nho Việt Nam thời Trung đại và có thể chia thành hai giai đoạn: -Từ bắt đầu thời Vãn Trần (năm 1341) (Trần Dụ Tông lên ngôi) đến năm 1400; với những tác giả tiêu biểu như Chu An (? -1370), Phạm Sư Mạnh (1297 -1370), Lê Quát (1300 -1375), Trần Nguyên Đán (1325 -1390)... Thơ ca họ phản ánh khí thế đang lên của Nho học, hào khí dân tộc, âm hưởng chiến thắng. Lý tưởng Nho giáo được sùng thượng vì nó đang tạo ra một thiết chế phù hợp, khuyến khích đạo đức, khuyến khích sự trong sáng, minh bạch. Thơ ca mang lý tưởng Nho giáo với giọng điệu trong trẻo, hồn hậu (thơ Chu An, Trần Nguyên Đán,…). Phạm Đình Hổ cho là "có cái sở trường tột bậc của của thơ đời Hán, đời Đường" [53, 181]. Ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo đã gia tăng mạnh mẽ lên thơ ca giai đoạn này nhưng mạch chính là khuynh hướng tư tưởng “hướng nội”, phê phán Phật. - Từ năm 1400 đến hết đời vua Lê Nhân Tông (năm 1459): Nho giáo trong giai đoạn này là Nho giáo mang bản sắc dân tộc, nó trở thành một bản chất quan trọng của văn hóa Đại Việt. Đây là một kiểu Nho giáo tích cực, dung dị trên nền tinh thần nhân văn Đại Việt. Chặng đường này tương ứng với phần lớn hai thế hệ nho sĩ Hồ Quý Ly và Nguyễn Trãi. Thế hệ nho sĩ Hồ Quý Ly (1376 -1407) gồm Nguyễn Phi Khanh (1380 -1482), Phạm Nhữ Dực (Giáo thụ đời Hồ), Đặng Dung (? – 1413)… Tuy có khi bị xem là Ngụy triều nhưng họ đã chính thức đưa Nho giáo lên địa vị độc tôn. Điều cần lưu ý là cuộc khởi nghĩa của nhà sư Thiệu Nhiên (Phạm Sư Ôn) (?-1390) làm vua Trần Thuận Tông phải rời Thăng Long đã để lại nhiều ảnh hưởng cũng như sự hạn chế Phật giáo. Thơ giai đoạn này mang tâm trạng tha hương, ly tán, ẩn dật của những nho sĩ yêu nước trong cảnh vong quốc điêu tàn; giọng điệu thơ bi phẫn, thống thiết… Kế đó là thế hệ Nguyễn Trãi (1380 -1442) gồm cả Nguyễn Mộng Tuân (?- ?), Vũ Mộng Nguyên (1380 -?), Lý Tử Tấn (1378-?), Nguyễn Thiên Tích (? -?)… Thi ca của họ phản ánh khá nhiều mặt của cuộc chiến chống ngoại xâm và tâm trạng phức tạp sau chiến thắng. Thơ Nguyễn Trãi với bút pháp mới, không công thức mà bình dị, đề cao đời sống dân dã. Thơ của ông gần gũi với những người dân đã đi theo Lê Lợi gian khổ giành độc lập. Nhìn chung, nội dung thơ ca đã có biểu hiện vượt ngoài những giới hạn của kinh điển Nho giáo. Ngoài ra, cũng có thể chia thơ Nho từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV ra làm 3 chặng đường, dựa vào hoàn cảnh lịch sử và sự thăng trầm của các triều đại. Ba chặng đường đó có thể xác định như sau: 1. Thời Vãn Trần, 2. Thời Hồ và Hậu Trần, 3. Thời khởi nghĩa Lam Sơn – Đầu nhà Lê. Hơn một thế kỷ thơ ca đã thực sự vận động qua những bước đi riêng. Dù sao, từ giữa thế kỷ XIV – giữa thế kỷ XV thơ vẫn được khẳng định là thể loại thu hút sự chú ý nhất với nhiều thành tựu đáng kể bên cạnh các thể loại khác như văn bia, văn chính luận, sử ký, truyện truyền kỳ… Tuy bị đánh giá là ít phong cách rõ nét nhưng thật ra mỗi nhà thơ vẫn có những thành tựu nên không thể nhầm lẫn với những nhà thơ khác. Thơ Nguyễn Trung Ngạn phóng khoáng theo hành trình xa rộng, thơ Phạm Sư Mạnh có khí thế hào hùng nơi biên tái, thơ Đặng Dung có nỗi bi phẫn thời thế, thơ Nguyễn Phi Khanh là tình cảm sâu lắng với cuộc đời – với nỗi đau đời, Nguyễn Trãi với lời thơ trung hậu tài hoa… Thơ của họ cũng khác với Thái Thuận – nhà thơ có những vần thơ trẻ trung, táo bạo, dáng dấp những nhà nho tài tử đầu tiên ở nửa cuối thế kỷ XV. Hành trình thơ Nho cũng có những thăng trầm như cuộc đời. Thơ Nho giữa thế kỷ XIV – giữa thế kỷ XV là chặng đường đi dần đến vinh quang của thi ca Nho giáo. Việc chọn hai mốc thời gian giữa thế kỷ XIV và giữa thế kỷ XV để xác định giới hạn nghiên cứu có những ý nghĩa nhất định. Thời gian này về bối cảnh văn hóa tư tưởng của Đại Việt thì Phật giáo đã tạm rút lui về am thanh chùa vắng và thầm lặng lan tỏa vào mạch sống dân tộc. Trong khi đó, Nho giáo thắng thế dần dần chiếm vị trí độc tôn. Vào nửa sau thế kỷ XIV khuynh hướng Nho giáo trong văn học đã gia tăng… Từ sau kháng chiến chống Minh thắng lợi (năm 1428), Nho giáo càng hưng thịnh. Lực lượng sáng tác thi ca chủ yếu là giới nho sĩ. Văn học nửa đầu thế kỷ XV so với nửa cuối thế kỷ XV về mặt nội dung, cảm hứng có đôi chút khác biệt. Văn học nửa đầu thế kỷ XV cảm hứng chính là cảm hứng lịch sử, ca ngợi chiến công oanh liệt, hào khí của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, ca ngợi thiên nhiên đất nước. Trong thơ thời đó “quan niệm hiện thực và nhân dân đậm nét” (125, 173]. Đây là điểm khác biệt của thơ Nho từ giữa thế kỷ XIV- giữa thế kỷ XV với thơ Nho sau đó. Văn học nửa cuối thế kỷ XV cũng thể hiện nội dung yêu nước, bộc lộ niềm tự hào dân tộc, cảm hứng ca ngợi thiên nhiên đất nước thái bình, nhưng nặng về thù phụng xướng họa. Lê Quý Đôn nhận xét về thời Lê Thánh Tông: “sĩ tử tập lối văn bóng bẩy, đẽo gọt từng câu” (Kiến văn tiểu lục) [32, 300]. Thơ ca nhiều khi đi vào a dua, tán tụng. Dần dần lối học khoa cử đã làm cho học phong kém đi, phẩm chất thơ ca chữ Hán cũng giảm đi. Từ giữa thế kỷ XIV, cụ thể là từ năm 1341 (bắt đầu thời Vãn Trần) thơ ca có khuynh hướng “hướng nội”. Ở đây, lời hùng ca thời Thịnh Trần được thay thế bởi lời ca bi tráng. Đời sống xã hội cuối thời Trần, sự xâm lăng của giặc Minh đã để lại nhiều bài thơ có khuynh hướng này. Tuy nhiêu, sau chiến thắng giặc Minh thì hào khí dân tộc lại dâng cao. Không khí đó cũng đi vào trong thơ. Giữa thế kỷ XV, ta có thể lấy thời điểm năm 1459 (chấm dứt thời vua Lê Nhân Tông) để phân chia hai giai đoạn văn học (nửa đầu và nửa sau thế kỷ XV). Nửa đầu thế kỷ XV là giai đoạn tiến bộ của xã hội phong kiến, văn học có nhiều biểu hiện vượt ra ngoài ý thức hệ Nho giáo. Luận án chọn giới hạn nghiên cứu một thế kỷ thơ Nho từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV là chọn lấy giai đoạn thơ Nho đậm chất dân tộc, tích cực, chưa bị phân hóa. Giai đoạn này được Thanh Lãng gọi là văn học đối kháng Trung Hoa. Việc xác định giới hạn thời gian nghiên cứu tạo điều kiện tập trung vào đối tượng nghiên cứu. Tóm lại, thông qua việc giải quyết các vấn đề về khái niệm, giới hạn nghiên cứu, thơ Nho Việt Nam từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV đã có những cơ sở lý thuyết xác định. Đây là một dòng thơ có những nét đặc biệt về quá trình hình thành, phát triển, đặc điểm, bản chất. Nó chịu ảnh hưởng Nho giáo tích cực buổi đầu, kể cả mặt tích cực của tư tưởng Tống Nho. Đồng thời tư tưởng Nho giáo trong thơ ca được các nhà thơ Nho Việt Nam tiếp thu, sáng tạo nên mang đậm tính hiện thực, tính dân tộc. 1.2. DIỆN MẠO THƠ NHO VIỆT NAM TỪ GIỮA THẾ KỶ XIV ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XV 1.2.1. Sự hình thành dòng thơ Nho từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV 1.2.1.1. Sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo Nho giáo truyền đến Việt Nam làm ảnh hưởng đến nhiều mặt văn hóa Việt Nam. Nho giáo ảnh hưởng đến các thể loại văn học Việt Nam thời trung đại, trong đó có thơ ca. Nho giáo tác động đến thi ca là nhân tố quan trọng đi đến hình thành thơ Nho. Nho giáo được truyền vào Việt Nam từ đầu triều Bắc Thuộc (cuối đời Tây Hán). Nội dung Nho giáo thời gian này bị cắt xén và lợi dụng phục vụ cho công cuộc cai trị. Những nhân vật tiêu biểu trong thời gian này là Tích Quang (đời Hán), Nhâm Diên (đời Hán), Sĩ Nhiếp (đời Hán), Lý Cầm, Lý Tiến (đời Hán), Trương Trọng (đời Hán), Ngu Phiên (đời Hán), Đỗ Tuệ Độ (đời Tấn), Tông Xác (đời Nam Bắc triều), Tinh Thiều (đời Nam Bắc Triều)... Cuối triều Bắc thuộc, từ thời thuộc Đường (618-907) về sau, một số ít nho sĩ thi đỗ Mậu Tài (Tú tài), Hiếu Liêm (Cử nhân), làm quan ở địa phương hoặc ở Trung Quốc. Những nhân vật tiêu biểu thời gian này là Khương Công Phụ, Khương Công Phục... (thời Đường). Trong thời Bắc thuộc, văn hóa Trung Hoa đã có mặt, nguy cơ “Hán hóa” Đại Việt lên cao. Tuy Nho học bước đầu ở Đại Việt còn ít người học, nhà trường không nhiều nhưng Nho học ngày càng tăng ảnh hưởng trên vùng đất mới. Mảnh đất phương Nam đã tiếp nhận, Nam phương hoá, Đại Việt hoá Nho giáo trên nền văn hoá dân tộc. Nó gây nên không ít xung đột văn hoá, gây nên sự mất cân bằng nhưng để rồi lập lại sự cân bằng mới. Nho giáo thời Lý – Trần cũng là Nho giáo trong sự dung hợp Tam giáo. Cho đến giữa thế kỷ XIV, tuy Nho giáo cũng được chú trọng nhưng về cơ bản Phật vẫn giữ vị trí cao hơn. Từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV, vai trò của Nho giáo trong đời sống xã hội và văn hóa Việt Nam đã có sự thay đổi. Nho giáo giữ vai trò thượng tôn. Sau khi chiến thắng giặc Nguyên (1288), nhà Trần có khuynh hướng xa rời quần chúng. Mô hình điền trang thái ấp nhà Trần đã không phát huy được sức lao động và ruộng đất canh tác. Nhiều hiện tượng tiêu cực xã hội đã xảy ra, đất công bị chiếm dụng... Cũng vì thế, Nho giáo dần dần thay thế vị trí của Phật giáo và đi đến độc tôn. Từ giữa thế kỷ XIV, trong lòng xã hội Đại Việt một thế lực xã hội đã ra đời. Thế lực đó âm thầm phát triển, phát huy ảnh hưởng trong môi trường một xã hội mở, một xã hội giàu tinh thần dân chủ, bình đẳng truyền thống – đó là tầng lớp Nho sĩ, là tầng lớp trí thức mới thay thế cho tầng lớp trí thức cũ là các nhà sư. Các nhà sư trước đây đã có một vai trò hết sức to lớn trong đoàn kết dân tộc, chống quân phiệt hóa nhà nước, đề cao tinh thần tự chủ và đối kháng Trung Hoa. Nhưng từ giữa thế kỷ XIV, họ đã từng bước nhường vị thế quốc giáo cho Nho giáo một cách thầm lặng. Thời Vãn Trần (nửa cuối thế kỷ XIV) tương ứng các triều vua Trần Dụ Tông (1341- 1369), Nghệ Tông (1370-1372), Duệ Tông, Phế Đế, Thuận Tông)... Nho giáo vươn lên mạnh mẽ và khẳng định vai trò lịch sử của mình. Giới nho sĩ ngày càng đông, đổ đạt cao. Những nhân vật tiêu biểu có thể kể là Chu An, Trần Nguyên Đán, Lê Quát, Phạm Sư Mạnh, Chu Đường Anh... đã xây dựng được niềm tin ở xã hội. Nho giáo lúc này về cơ bản có dấu hiệu Tống nho (sự kiện ra đời của Quốc Học viên và Tứ thư, Ngũ kinh được giảng giải ở đây từ năm 1253). Về học thuật thì “theo Huấn hỗ học của Hán nho và Đường nho” [78, 385]. Nhưng triều đình đại diện là vua Trần Nghệ Tông - đã tiếp tục tư tưởng của Trần Minh Tông – và làm chậm lại sự đề cao đạo Nho cũng như ảnh hưởng sâu rộng của Tống nho. Có thể nói trong thời gian này có ảnh hưởng đến văn hóa Việt là Hán Nho, Đường Nho, Tống Nho. Tống Nho có vẻ nổi bật hơn trong khối hỗn hợp đó nhưng vẫn chưa ảnh hưởng bằng Phật giáo và nó có nhiều dấu hiệu bị Việt hóa. Đến đời Hồ và Hậu Trần, Nho giáo đã hoàn toàn thay thế vị trí Phật giáo. Nho giáo tiếp tục đi đến độc tôn và ảnh hưởng mạnh mẽ đến chính trị xã hội nước ta. Hồ Quý Ly phê phán Tống nho, đề cao Chu Công, chuộng thực tế. Ông viết sách “Minh đạo” như một hướng đi riêng, Việt hóa Nho. Nhưng về bản chất các nhân vật thời gian này như Lý Tử Tấn, Nguyễn Phi Khanh... lại có thiện cảm với Tống nho. (Câu “Nghi thủy xuân phong dữ vật tâm” trong bài “Du Phật Tích sơn đối giang ngẫu tác” của Nguyễn Phi Khanh “lấy ý từ câu “Bàng hoa tùy liễu quá tiền xuyên” của Trình Minh Đạo” [178, 395]. Có thể nói Nho giáo thời gian này Tống Nho có ảnh hưởng nhưng gặp nhiều đối kháng. Yếu tố Việt trong Nho giáo có biểu hiện khá nhiều. Những nhân vật tiêu biểu thời gian này là Hồ Quý Ly, Đặng Dung, Nguyễn Phi Khanh... Không bao lâu, vào thời Minh thuộc (1407- 1428), nhà Minh tiếp tục đem sách vở Tống Nho vào nước ta. Đến Khởi nghĩa Lam Sơn và Lê sơ, Nho giáo tiếp tục giữ vị trí quan trọng nhưng ban đầu Nho học được vận dụng phục vụ kháng chiến (không giống khuynh hướng triết học của Tống Nho). Sau kháng chiến, các nhà nho thời gian này (như Nguyễn Trãi) vẫn còn ảnh hưởng văn hóa thời Lý – Trần. Nho giáo trog thời gian hòa bình lập lại từ năm 1428 cho đến năm mở khoa thi Tiến sĩ 1442 về cơ bản vẫn là Tống nho, nhưng chưa rõ nét. Nhưng bên cạnh đó, vai trò Nguyễn Trãi trong khuynh hướng Việt hóa và phục hưng văn hóa thời Lý Trần rất đáng kể. (Thực tế vai trò của Nguyễn Trãi vẫn ảnh hưởng cho đến khi ông mất – năm 1442). Những nhân vật nho sĩ tiêu biểu ở thời gian này là Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn... Nhìn chung, để xác định ảnh hưởng của Nho học vào văn học nước ta cũng tùy vào từng thời kỳ. Nếu nói thời gian này Nho giáo ở nước ta là Tống nho thì đó chỉ là khái quát. Không thể không chú ý đến yếu tố Việt đã ảnh hưởng đáng kể bởi bốn nguyên nhân: Thứ nhất: ảnh hưởng tư tưởng dung hòa tam giáo thời Trần. Thứ hai: tư tưởng bài Tống nho triều Trần – Hồ. Thứ ba: tư tưởng khôi phục văn h._. thiết. Các phạm trù: “Văn”, “Mỹ”, “Giao – Cảm”, “Dương cương”, “Âm nhu”… có phải là những phạm trù Mỹ học thơ Nho Việt Nam? Cần đối chiếu thi luận kinh học Nho gia Trung Quốc và thi luận của các nhà nho Việt để khai thác thêm những thành quả nghiên cứu mới hay không? Đó là những vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu. Từ việc nghiên cứu thơ Nho, người viết hy vọng sẽ đóng góp thêm một ý kiến vào lĩnh vực nghiên cứu thơ thế kỷ XIV- XV của nền thơ ca Việt Nam. Cuối cùng, điều lắng đọng lại trong thơ Nho phải chăng là những suy nghĩ của nho sĩ về chính trị xã hội. Đó là những thông điệp kín đáo mà họ muốn gởi đến cho vua chúa và quan lại. Thông điệp đó không ngoài nội dung là đường lối nhân nghĩa, chính sách thân dân, sự cần thiết xây dựng đạo đức bản thân, đạo đức xã hội. Chỉ có đạo đức mới đem lại thành công cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Với bấy nhiêu điều, thơ Nho vẫn luôn mang đến cho cho tương lai những nỗi ưu ái đáng ngạc nhiên và gây xúc động cho người sau. Những suy nghĩ về thể chế chính trị, nền vương đạo và cách ứng xử của bản thân là cơ sở cho rất nhiều nội dung trong thơ Nho. Từ những điều này, tác giả thơ Nho thể hiện lòng yêu nước, thương dân, đề cao đạo lý, xúc động trước thời cuộc hay để lại cảm giác cô đơn trong tâm hồn. Đó cũng là cơ sở cho cái “tình” trong sáng thanh cao, gần với trạng thái tâm lý và phẩm chất đạo đức của thánh nhân. Nó là bản sắc của những nhà nho chân chính và cũng là một phần quan trọng trong bản sắc thơ Nho. Có thể vì thế, thơ Nho thường đề cao đạo lý, chuyển tải đạo lý. Tuy không bay bổng như thơ lãng mạn, không thúc giục kêu gọi như thơ ca phục vụ chính trị, thơ Nho có một sắc màu riêng, thanh nhã, bình dị nhưng vẫn làm cho người sau yêu mến. TÀI LIỆU THAM KHẢO I. TIẾNG VIỆT 1) Dư Quan Anh (Chủ biên) (1993), Lịch sử văn học Trung Quốc (T2), (Lê Huy Tiêu, Lương Duy Thứ… dịch), Nxb GD, Hà Nội. 2) Đào Duy Anh (1957), Hán - Việt từ điển, Nxb Trường Thi, Sài Gòn. 3) Vũ Tuấn Anh (1995), Sự vận động của cái tôi trữ tình trong thơ Việt nam từ 1945 đến nay (Luận án Phó Tiến sĩ), Viện Văn học, Hà Nội. 4) Aristote, Lưu Hiệp (1999), Nghệ thuật thơ ca, Văn tâm điêu long, Nxb Văn học, Hà Nội. 5) Bùi Văn Ba (1991), Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học Trung đại Việt Nam, (Luận án Tiến sĩ), ĐHSP Hà Nội I, Hà Nội. 6) Đỗ Tùng Bách (2000), Thơ thiền Đường Tống, (Phước Đức dịch), Nxb Đồng Nai. 7) Bùi Huy Bích (1957), Hoàng Việt thi văn tuyển, (T1), Nhóm Lê Quí Đôn dịch, Nxb Văn hóa, Hà Nội. 8) Bùi Huy Bích (1957), Hoàng Việt thi văn tuyển, (T2), Nhóm Lê Quí Đôn dịch, Nxb Văn hóa, Hà Nội. 9) Bùi Huy Bích (2007), Hoàng Việt thi tuyển, Nhóm Lê Quí Đôn dịch, TTNC Quốc học - Nxb Văn học, Hà Nội. 10) Nguyễn Văn Bình (1998), “Nhân cách nhà nho trong con người Nguyễn Trãi” – TC TH, số 4, tr. 28-31. 11) Nguyễn Tài Cẩn (1998), Ảnh hưởng Hán văn Lý Trần qua thơ và ngôn ngữ thơ Nguyễn Trung Ngạn, Nxb GD, Hà Nội. 12) Nguyễn Kim Châu (2000), Thơ tứ tuyệt trong văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường ĐHSP Tp. HMC. 13) Nguyễn Đổng Chi (1970), Việt Nam cổ văn học sử, Phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách văn hóa xuất bản, Sài Gòn. 14) Nguyễn Huệ Chi (1978),“Các yếu tố Phật Nho Lão được tiếp thu và chuyển hóa như thế nào trong đời sống và văn hóa thời đại Lý Trần”, TC VH, số 6, tr. 76-94. 15) Nguyễn Huệ Chi (1992), “Hiện tượng hội nhập văn hóa dưới thời Lý – Trần nhìn từ một trung tâm Phật giáo tiêu biểu: Quỳnh Lâm”, TCVH, số 4, trang 13- 21. 16) Nguyễn Huệ Chi (2003), “Mấy đặc trưng loại biệt của của văn học Việt Nam từ thế kỷ XV đến hết thế kỷ XIX” , TCVH, số 5, trang 7-14. 17) Nguyễn Đình Chú (1999), “Vấn đề "ngã”và "phi ngã" trong văn học Việt Nam Trung cận đại ”, TCVH, số 5, tr. 38-54. 18) Nguyễn Đình Chú (2004), “Trở lại vấn đề ảnh hưởng của Nho giáo đối với nền văn học Việt Nam thời trung cận đại”, tham luận Hội thảo khoa học về Nho giáo, viện Hán nôm (Việt Nam) và viện Harvard (Hoa Kỳ). 19) Phan Huy Chú (1974), Lịch Triều hiến chương loại chí, (T. IX) – Văn tịch chí – Tố Nguyên Nguyễn Thọ Dực dịch, Uỷ ban Dịch thuật – Bộ VHGD và TN xuất bản, Sài Gòn. 20) Lê Củng (1998), Việt phong (Một nền văn hoá cổ truyền thuần tuý Việt…), Nxb Văn nghệ Tp. HCM. 21) Chương Dân (1918), “Nam âm thi thoại”, TC Nam Phong, số 11, tr. 300-309. 22) Chương Dân (1918), “Nam âm thi thoại”, TC Nam Phong, số 12, tr. 353-355. 23) Lê Anh Dũng (1994) – Con đường Tam giáo ở Việt Nam: từ khởi nguồn đến thế kỷ XIX, Nxb TP.HCM 24) Nguyễn Dữ (1952), Truyền kỳ mạn lục, (Ngô Văn Triện dịch), Nxb Tân Việt, Sài Gòn. 25) Nguyễn Đăng Duy (1998), Văn hóa tâm linh, Nxb Hà Nội. 26) Đại Việt sử ký toàn thư (T1) (2004), (Cao Huy Giu dịch – Đào Duy Anh hiệu đính), Nxb VHTT, Hà Nội. 27) Đại Việt sử ký toàn thư (T2) (2004), (Cao Huy Giu dịch – Đào Duy Anh hiệu đính), Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 28) Quang Đạm (2006), Tư văn qua các triều đại, Nxb Lao động – Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây. 29) Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học, Hà Nội. 30) Kim Định (1973), Cơ cấu Việt Nho, Nxb Nguồn Sáng, Sài Gòn. 31) Kim Định (1961), Cửa Khổng – Nxb Ra Khơi , Sài Gòn. 32) Lê Quý Đôn (1962), Kiến văn tiểu lục, (Phạm Trọng Điềm dịch), Nxb Sử học, Hà Nội. 33) Lê Quý Đôn (1972), Vân đài loại ngữ, (T1) (Tạ quang Phát dịch), Uỷ ban Dịch Thuật xuất bản, Sài Gòn. 34) Lê Quý Đôn (1972), Vân đài loại ngữ, (T2) (Tạ quang Phát dịch), Uỷ Ban Dịch thuật xuất bản, Sài Gòn. 35) Lê Quý Đôn (1973), Vân đài loại ngữ, (T3) (Tạ quang Phát dịch) –Uỷ ban Dịch thuật xuất bản, Sài Gòn. 36) Lê Quý Đôn (1995), Quần thư khảo biện, (Nguyễn Như Diện dịch), Nxb KHXH, Hà Nội. 37) Hà Minh Đức (chủ biên) (2003), Lý luận văn học, Nxb GD, Hà Nội. 38) Lâm Ngữ Đường (1965), Thưởng thức tự nhiên, Trong: Nghệ thuật về sống đẹp, (Nguyễn Hiến Lê dịch), Nxb Tao Đàn, Sài Gòn. 39) Thạch Trung Giả (1975), “Từ tâm sự qua mọi giai đoạn của cuộc đời đến thiền trong thơ của Nguyễn Trãi”, TC Hải Triều Âm, số 9, 10, tháng 4, tr. 163-193. 40) Thạch Trung Giả (1999), Văn học phân tích toàn thư, Nxb. Văn học, Hà Nội. 41) Đoàn Lê Giang (2001), Ý thức văn học Cổ Trung đại Việt Nam, (Luận án Tiến sĩ Ngữ văn), ĐHQG TP.HCM, Trường ĐH KHXH và NV TP.HCM. 42) Đoàn Lê Giang (2001), Văn học cổ điển Việt Nam trong thế giới Đông Á, trong Bình luận văn học niên giám 2006,Nxb Văn hóa Sài Gòn 2006, trg 07-61. 43) Nguyễn Thạch Giang (2005), Đoạn trường tân thanh dưới cái nhìn của Nho gia – Thiền gia, Nxb Văn hóa Sài Gòn, Tp. HCM. 44) Trần Văn Giàu (1955), “Vai trò của quần chúng trong sự thay đổi các triều đại Lê, Lý, Trần, Hồ”, TC Văn Sử Địa, số 1, tr. 27-40. 45) Trần Văn Giàu (1984), Trong dòng chủ lưu của Văn học Việt Nam tư tưởng yêu nước, Nxb TPHCM. 46) Nguyễn Thị Bích Hải (1996), Thi pháp thơ Đường một số phương diện chủ yếu, (Luận án Phó Tiến sĩ Ngữ văn), Trường ĐHSP Hà Nội. 47) Dương Quảng Hàm, Quốc văn trích diễm, Nxb Bốn Phương, Sài Gòn. 1953. 48) Dương Quảng Hàm (1968), Việt Nam văn học sử yếu, Trung tâm Học liệu xuất bản, Sài Gòn. 49) Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2004), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb GD, Hà Nội. 50) Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1999), Lý luận văn học vấn -đề và suy nghĩ, Nxb GD, Hà Nội. 51) Nguyễn Hùng Hậu (2005), “Một số đặc điểm của Nho Việt”, TC Nghiên cứu tôn giáo”, số 01, tr. 36-40. 52) Hồng Đức quốc âm thi tập (1962) (Phạm Trọng Điềm, Bùi Văn Nguyên chú giải), Nxb Văn hóa, Hà Nội. 53) Phạm Đình Hổ (1998), Vũ trung tuỳ bút, Nxb Văn nghệ, Tp. HCM. 54) Hội thảo quốc tế lần III “Nho giáo tại Việt Nam” (kỷ yếu), (19 - 21/7/2001). 55) Nguyễn Phạm Hùng (1980), “Về diễn biến của thơ trữ tình thời Trần” – TCVH, 4, tr. 76 -80. 56) Nguyễn Phạm Hùng (1989), “Sự xuất hiện khuynh hướng trong văn học Việt Nam cổ”, TCVH, số 1, tr. 58 -71. 57) Nguyễn Phạm Hùng (1996), Thơ văn Lý Trần nhìn từ thể loại, Nxb GD, Hà Nội. 58) Nguyễn Phạm Hùng (1998), Thơ Thiền Việt Nam những vấn đề lịch sử và tư tưởng nghệ thuật, Nxb ĐHQG HN, Hà Nội. 59) Phạm Ngọc Hùng, Đặng Viết Ngoạn (biên tập) (1982), Kỷ niệm 600 năm sinh Nguyễn Trãi, Nxb KHXH, Hà Nội. 60) Cao Xuân Huy (1995), Tư tưởng Phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu, Nxb Văn học, Hà Nội. 61) Trần Đình Hượu (1964), Nho giáo và văn học Trung cận đại, Nxb VHTT, Hà Nội. 62) Trần Đình Hượu (1991), “Về ảnh hưởng nhiều mặt của Nho giáo trong văn học Việt Nam Cổ, Cận đại”, TCVH, số 3, tr. 18-20 và t 75. 63) Trần Đình Hượu (1993), “Con người Việt Nam với truyền thống văn hóa Nho giáo hóa”, TC KHXH, số 17, tr. 69-72. 64) Chu Hy (1968), Chu dịch bản nghĩa (Nguyễn Duy Tinh dịch), Trung tâm Học Liệu, Sài Gòn. 65) Đỗ Văn Hỷ (1983), “Cái hay trong thơ xưa dưới con mắt nhà thơ xưa”, TCVH, số 4. 66) Đỗ Văn Hỷ (1993), Người xưa bàn về văn chương (T1), Nxb KHXH, Hà Nội. 67) Đinh Gia Khánh (chủ biên) (1976), Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (Thế kỷ X – thế kỷ XVII), Nxb Văn học, Hà Nội. 68) Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Chương (1997), Văn học Việt Nam thế kỷ X – Nửa đầu thế kỷ XVIII, Nxb GD, Hà Nội. 69) Đinh Gia Khánh (2007), Đinh Gia Khánh tuyển tập (tập 2), Nxb GD, Hà Nội. 70) Vũ Ngọc Khánh (2006), Văn thần Việt Nam, Nxb VHTT, Hà Nội 71) Khổng Cấp (1972), Trung Dung, (Nguyễn Xuân Giáo dịch), Trung Tâm Học Liệu xuất bản, Sài Gòn. 72) Khổng Tử (1950), Luận ngữ (Đoàn Trung Còn dịch), Nxb Trí Đức tòng thư, Sài Gòn. 73) Khổng Tử (1999), Kinh Lễ, (Nguyễn Tôn Nhan dịch), Nxb Văn học, Hà Nội. 74) Khổng Tử (2001), Thượng Thư, (Nhượng Tống dịch), Nxb Văn học, Hà Nội. 75) Khổng Tử (2002), Xuân Thu tam truyện (t1), (Hoàng Khôi dịch), Nxb TPHCM. 76) M.B. Khrapchenko (2002), Những vấn đề lý luận và phương pháp luận nghiên cứu văn học, (Trần Đình Sử tuyển, giới thiệu), Nxb ĐHQG Hà Nội. 77) Trần Trọng Kim (1953), Việt Nam sử lược, Nxb Tân Việt, Sài Gòn. 78) Trần Trọng Kim (1965), Nho giáo, Nxb Tân Việt, Sài Gòn. 79) Kinh Lễ (1999), (Nguyễn Tôn Nhan dịch) – Nxb Văn Học, Hà Nội. 80) Kinh Thi (1992), (Tản Đà, Nghiêm Thượng Văn, Đặng Đức Tô dịch, chú giải), Nxb TP.HCM. 81) Konrat. N (1997)– Phương Đông và Phương Tây – những vấn đề triết học, triết học lịch sử, văn học Đông và Tây (Trịnh Bá Đĩnh dịch) – Nxb GD, Hà Nội. 82) Hàn Triệu Kỳ (2001), Ẩn sĩ Trung Hoa, (Cao Tự Thanh dịch), Nxb TP.HCM. 83) Lưu Cương Kỷ – Phạm Minh Hoa (2002), Chu Dịch và mỹ học, (Hoàng Văn Lâu dịch), Nxb VHTT, Hà Nội. 84) Nguyễn Lang (2000), Việt Nam Phật giáo sử luận (tập 1, 2, 3), Nxb Văn học, Hà Nội. 85) Thanh Lãng (1967), Bảng lược đồ văn học Việt Nam, (Q.Thượng) –Nxb Trình bày, Sài Gòn. 86) Thanh Lãng (1971), Văn học Việt Nam (I) – Đối kháng Trung Hoa, Phong trào Văn hóa xuất bản, Sài Gòn. 87) I. X. Lixêvich (1994), Tư tưởng văn học cổ Trung Quốc, (Trần Đình Sử dịch), Nxb GD, Hà Nội. 88) Mai Quốc Liên (chủ biên) (1999), Nguyễn Trãi (toàn tập tân biên), (T1) – TTNCQH, Nxb Văn học, Hà Nội. 89) Mai Quốc Liên (chủ biên) (1999), Nguyễn Trãi (toàn tập tân biên), (T2) – TTNCQH, Nxb Văn học, Hà Nội. 90) Mai Quốc Liên (chủ biên) (2000), Nguyễn Trãi (toàn tập tân biên), (T3) – TTNCQH – Nxb Văn học Hà Nội. 91) Nguyễn Thế Long (1995), Nho học ở Việt Nam, Nxb GD, Hà Nội. 92) Lê Nguyễn Lưu (1999), Nguồn suối Nho học và thơ ca Bạch Vân Cư sĩ, Nxb Thuận Hóa, Huế. 93) Trần Chí Lương (1999), Đối thoại với tiên triết về văn hoá phương Đông thế kỷ XXI, Nxb ĐHQG, Hà Nội. 94) Phương Lựu (1985), Về quan niệm văn chương cổ Việt Nam, Nxb Giáo Dục, Hà Nội. 95) Phương Lựu (1996), Văn hóa văn học Trung Quốc cùng một số liên hệ ở Việt Nam, Nxb GD, Hà Nội. 96) Phương Lựu (1997), Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học Trung đại Việt Nam, NXB GD, Hà Nội. 97) Phương Lựu (chủ biên) (1997), Lý luận văn học, Nxb GD, Hà Nội. 98) Phương Lựu (1997), Khơi dòng lý thuyết, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 99) Phương Lựu (1989), Tinh hoa lý luận văn học cổ Trung Quốc, Nxb GD, Hà Nội. 100) Phương Lựu (2004), Lý luận phê bình văn học, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng. 101) Huỳnh Lý, Vũ Đình Liên, Nguyễn Đình Chú... (1985), Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (quyển 2), Nxb Văn học, Hà Nội. 102) Nguyễn Công Lý (2001), “Mấy đặc điểm văn học Lý Trần”, TC HN, số 2, t8- 15. 103) Nguyễn Công Lý (2002), Văn học Phật giáo thời Lý Trần diện mạo và đặc điểm – Nxb ĐHQG TP.HCM. 104) Mạnh Tử (Thượng, Hạ) (1996) (Đoàn Trung Còn dịch) – Nxb Thuận Hóa – Huế. 105) Hà Thúc Minh, Trịnh Gia Đống (2001), “Tính tôn giáo và sự giải thích hiện đại về tư tưởng Nho gia”, TCKHCT, (HV CTQG, TPHCM), số 01. 106) Hà Thúc Minh (2001), “Đạo Nho phải chăng là tôn giáo”, TC KHCT (HV CTQG TP.HCM) Số 01, tr. 37-39. 107) Trần Văn Hải Minh (1991), Bách gia chư tử, Hội NCGDVH TP.HCM xb. 108) Từ Tôn Minh, Trương Lập Văn (1998), Lý - triết học phương Đông, Nxb KHXH, Hà Nội. 109) Mộng Bồi Nguyên (1998), Hệ thống phạm trù Lý học, Nxb. KHXH, Hà Nội. 110) Trần Ngọc Minh (1975), “Tư tưởng Việt Nam”, TC Hải Triều Âm, số 9, 10 (Tháng 4), tr. 50-88. 111) Lê Hữu Mục (1974), Lịch sử văn học Việt Nam (Ronéo), ĐHSP Sài Gòn. 112) Nguyễn Đăng Na (Chủ biên) (2004), “Tinh tuyển văn học Việt Nam” (T3), Nxb KHXH, Hà Nội. 113) Lê Hoài Nam (1994), Thơ cổ điển Việt Nam một số vấn đề hình thức và thể loại, Bộ GDĐT – Vụ Giáo viên, Hà Nội. 114) Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức (1968), Các thể thơ ca và sự phát triển của hình thức thơ ca trong văn học Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội. 115) Bùi Văn Nguyên (1975), “Bàn về một số khía cạnh trong thơ tình đời Trần”, TCVH, số 1, tr. 109-112. 116) Bùi Văn Nguyên (1984), Văn chương Nguyễn Trãi, Nxb ĐH và THCN, Hà Nội. 117) Bùi Văn Nguyên (Chủ biên) (1995) – Tổng tập văn học Việt Nam (T4) – Nxb KHXH, Hà Nội. 118) Bùi Văn Nguyên (Chủ biên) (1995), Tổng tập văn học Việt Nam (T5), Nxb KHXH, Hà Nội. 119) Trần Nguyên Nguyệt (2001), “Mối quan hệ Tam giáo trong lịch sử tư tưởng Việt Nam thời kỳ Trung thế kỷ qua cách nhìn nhận hệ thống”, TC KHXH, số 4, tr. 71-73. 120) Phạm Thế Ngũ (1968), Khảo luận về thơ cũ Trung Hoa, (Phỏng dịch từ – Cựu thi lược luận, Lương Xuân Phương), Phạm Thế xuất bản, Sài Gòn. 121) Phạm Thế Ngũ (1996), Việt Nam văn học giản ước tân biên (T1), Nxb Đồng Tháp. 122) Phạm Thế Ngũ (1997), Việt Nam văn học giản ước tân biên (T2), Nxb Đồng Tháp. 123) Nguyễn Trãi (toàn tập) (1976)– Nxb KHXH – Hà Nội. 124) Nhiều tác giả (1999), Lịch sử văn hóa Trung Quốc, (T2), Nxb VHTT, Hà Nội. 125) N. I. Niculin (2006), Dòng chảy văn hóa Việt Nam, Nxb VHTT, Hà Nội. 126) Trần Ngọc Ninh (2009), “Nguyễn Trãi Huyễn – Thực và Sắc – Không”, TC Hồn Việt, số 25, tr. 11-12, 62-63. 127) Lê Lưu Oanh (1998), Thơ trữ tình Việt Nam 1975 - 1990, Nxb ĐHQG Hà Nội. 128) Lê Văn Quán (2002), “Nguyễn Trãi với Chu Dịch”, TC HN, số 4, tr. 24-30. 129) Trần Lê Sáng (1981), Cuộc đời và thơ văn Chu Văn An, Nxb Hà Nội. Hà Nội. 130) Ngô Thì Sĩ (1997), Đại Việt sử ký tiền biên (Thượng), Nxb KHXH, Hà Nội. 131) Lê Văn Siêu (2003), Việt Nam văn minh sử – (Thượng), Nxb Lao Động, Hà Nội. 132) Mộng Bình Sơn (1966), Ảnh hưởng Kinh Dịch trong văn học và cuộc sống, Nxb Văn học, Hà Nội. 133) Nguyễn Hữu Sơn (1993), “Về con người cá nhân trong văn học cổ nhìn từ góc độ lý thuyết”, TCVH, số 3, tr. 7-11. 134) Nguyễn Hữu Sơn (2000), “Về cảm quang Phật giáo trong thơ văn Nguyễn Trãi”, TCVH, số 6, tr. 75-80. 135) Nguyễn Hữu Sơn (2005), Văn học Trung Đại Việt Nam – Quan niệm con người và tiến trình phát triển, Nxb KHXH, Hà Nội. 136) Stephen Aldiss (2001), Nghệ thuật Zen, Tư Tam Định - Minh Châu dịch, Nxb VHTT, Hà Nội. 137) Trần Đình Sử (1996), Lý luận và phê bình, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 138) Trần Đình Sử (1997), Những thế giới nghệ thuật thơ, Nxb Giáo Dục, Hà Nội. 139) Trần Đình Sử (1999), Những vấn đề thi pháp văn học Trung đại Việt Nam, Nxb GD, Hà Nội. 140) Trần Đình Sử (2001), “Tư tưởng tự do trong truyền thống văn học cổ Việt Nam” – TCVH, số 01, tr. 17-22. 141) Trần Đình Sử (2003), Thi pháp Truyện Kiều, Nxb GD, Hà Nội. 142) Thái Bá Tân (2001), Thơ cổ Phương Đông, Nxb Lao động, Hà Nội . 143) Bùi Duy Tân (1999), Khảo và luận một số tác gia – tác phẩm văn học Trung đại Việt Nam (Tập 1), Nxb GD. Hà Nội. 144) Bùi Duy Tân (2005), “Việt Nho qua một số tác phẩm văn học Trung đại Việt Nam”, TCVH, số 01, tr. 18-26. 145) Lê Tắc (2002), An Nam chí lược, (Trần Kinh Hòa dịch), Nxb Thuận Hóa – TT Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội. 146) Quách Tấn (1998), Thi pháp thơ Đường, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh. 147) Khâu Chấn Thanh (2001), Lý luận văn học nghệ thuật cổ điển Trung Quốc, (Mai Xuân Hải dịch), Nxb Văn học, Hà Nội. 148) Trần Thị Băng Thanh (Chủ biên) (2004), Tinh tuyển văn học Việt Nam (T4), Nxb KHXH, Hà Nội. 149) Lê Sĩ Thắng (1977), “Nho giáo trong lịch sử Việt Nam”, TCTH số 2, tr.109- 112. 150) Trần Nho Thìn (1994), “Mối quan hệ giữa cái tôi nhà nho và thực tại trong văn chương cổ”, TCVH, Số 2, tr. 32-37. 151) Trần Nho Thìn (2000), “Thơ Mới nhìn từ thơ cũ: vấn đề loại hình học của thơ Hiện đại và thơ Trung đại”, TCVH số 01, tr. 37-46. 152) Trần Nho Thìn (2001),“Bi kịch tinh thần của nhà nho việt nam với tính cách là một nhân vật văn hóa (khảo sát qua trường hợp Nguyễn Trãi)”, TCVH, số 7, tr. 49-60. 153) Trần Nho Thìn (2003), Văn học Trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, Nxb GD, Hà Nội. 154) Trần Nho Thìn (2007), Nguyễn Công Trứ về tác gia và tác phẩm, Nxb GD, Hà Nội. 155) Nguyễn Thiên Thụ (1973), Nguyễn Trãi, Nxb Lửa Thiêng, Sài Gòn. 156) Nguyễn Khắc Thuần (1997), Đại cương lịch sử văn hóa Việt Nam (T3) (Nho giáo với quá trình tham gia vào đời sống và tư tưởng Việt Nam – Nho giáo thời Bắc thuộc, thời độc lập, thời nội chiến), Nxb GD, Hà Nội. 157) Thái Thuận (2002), Lữ Đường thi (tuyển dịch), (dịch giả Quách Tấn), Nxb Văn học, Hà Nội. 158) Đỗ Minh Thúy (1997), Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học, Nxb VHTT, Hà Nội. 159) Trần Thị Hồng Thúy (1966), Ảnh hưởng của Nho giáo đối với chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống, (Luận án Phó Tiến sĩ Triết học), Viện Triết học, Hà Nội. 160) Nguyễn Tài Thư (1996), Vấn đề con người trong Nho học sơ kỳ, (Luận án Phó Tiến Sĩ), Viện Triết học, Hà Nội. 161) Nguyễn Tài Thư (1997), Nho học và Nho học ở Việt Nam – một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Viện Triết học xuất bản, Hà Nội. 162) Chu Quang Tiềm (1999), Tâm lý văn nghệ, Nxb TP. Hồ Chí Minh. 163) Ngô Tất Tố (1960), Văn học thời Lý, Nxb Khai Trí, Sài Gòn. 164) Phạm Quang Trung (1996), Tìm hiểu quan niệm thơ cổ Việt Nam, (Luận án Phó Tiến sĩ), ĐH Sư Phạm TP.HCM. 165) Phạm Quang Trung (1999), Thơ trong con mắt người xưa, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 166) Tu Weiming (Harvard), Đạo, học và chính trị trong học thuyết nhân văn Nho giáo cổ điển, www.hcmussh.edu.vn/USSH/ImportFile/Magazine/Journal13090625058 167) Từ trong di sản (1981), Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội 168) Ủy ban Khoa Học Xã Hội, Lịch sử văn học Việt Nam, (T1), Nxb KHXH, Hà Nội. 169) Đoàn Thị Thu Vân (1981), Khảo sát một số đặc trưng nghệ thuật của thơ Thiền Việt Nam Thế kỷ XI - XIV, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học - Nxb Văn học, Hà Nội. 1981. 170) Đoàn Thị Thu Vân (2007), Con người nhân văn trong thơ ca Việt Nam sơ kỳ trung đại, Nxb Giáo Dục, Hà Nội. 171) Lê Trí Viễn (2001), Đặc trưng văn học Trung đại Việt Nam, Nxb Văn nghệ Tp HCM. 172) Nguyễn Khắc Viện (1998), Bàn về đạo Nho, Nxb Trẻ TP.HCM. 173) Viện KHXH (2004), Ngữ văn Hán Nôm (Tập 2), Ngũ Kinh – Nxb KHXH, Hà Nội. 174) Viện Sử học (1980), Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý Trần, Nxb KHXH, Hà Nội. 175) Viện Văn học (1963), Mấy vấn đề về sự nghiệp và thơ văn Nguyễn Trãi nhân dịp kỷ niệm 520 năm ngày Nguyễn Trãi mất, Viện Văn học xb, Hà Nội. 176) Viện Văn học (1977), Thơ văn Lý, Trần (T1), Nxb KHXH, Hà Nội. 177) Viện Văn học (1988), Thơ văn Lý, Trần – (T2, Q Thượng), Nxb KHXH, Hà Nội. 178) Viện Văn học (1978), Thơ văn Lý Trần (T.3), Nxb, KHXH, Hà Nội. 179) Viện Văn học (1999), Tuyển tập 40 năm tạp chí Văn học 1960 -1999 (tập 2) Văn học Cổ – Cận đại Việt Nam, Nxb. Tp. HCM. 180) Vũ Văn Vinh (1996), “Những nhu cầu xã hội thúc đẩy sự phát triển của Nho giáo Việt Nam thời Trần”, TC TH, số 6, tr. 25-27. 181) Trần Ngọc Vương (1995), Loại hình học tác giả văn học, nhà nho tài tử và văn học Việt Nam , Nxb GD, Hà Nội. 182) Trần Ngọc Vương (1996), “Giới hạn của nội dung nhân đạo chủ nghĩa văn chương Nho giáo”, TCVH, số 7, tr. 21-27. 183) Trần Ngọc Vương (1996), “Một số vấn đề lý luận khi nghiên cứu văn chương Nho giáo Việt Nam”, TCVH, số 10, tr. 59-61. 184) Trần Ngọc Vương (1998), Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung, Nxb Văn học, Hà Nội. 185) Nguyễn Khắc Xuyên (2000), Thư mục tạp chí Nam Phong, Nxb Thuận Hoá – TT VH NN Đông Tây, Hà Nội. TIẾNG NƯỚC NGOÀI 1. Tiếng Anh 186) Book of poetry ( 30/8/2005). 187) George K. C. Yeh (1943), The Confucion conception of Jên, The China Socety, London. 188) Poetic Genius, Sage of poetry, Buddhist poet and poet Ghost ( (Chinadaily 30/8/2005). 2. Tiếng Hoa 189) 论汉语文学在越南文学中的地位 (Luận Hán ngữ Văn học tại Việt Nam Văn học trung đích địa vị) 7404&detail=1 190) 李 甦 平 (Lý Tô Bình),韩国儒学的特性及其历史作用 (Hàn quốc Nho học đích đặc tính cập kỳ lịch sử tác dụng), www.phil-postdoctor-cass.cn/asp-bin/news_images/138_1.doc 191) 梅运生 (Mai Vận Sinh), (1996)士族、古文经学与中古诗论 (Sĩ tộc, cổ văn kinh học dữ trung cổ thi luận) ( ) 192) 儒学词典 (Nho học từ điển) 193) 广 韵 (Quảng vận), ( ) 194) 懿宗朝举子 (Ý Tông triều cử tử), 刺安南事诗 (Thích An Nam sự thi), (全唐诗库) (Toàn Đường thi khố): 195) 曹建国 张玖青 (Tào Kiến Quốc, Trương Cửu Thanh (2002), 孔子论《诗》与《孔子诗论》之比较(Khổng Tử luận “thi” dữ “Khổng Tử thi luận” chi tỉ giảo), ( m) 196) 陈昭瑛 (Trần Chiêu Anh) (1995), 儒 家美学与经典诠释》内容介绍(Nho gia mĩ học dữ kinh điển thuyên thích), PHỤ LỤC PHỤ LỤC 1. NHỮNG TỪ NGỮ TRONG THƠ NHO VIỆT NAM TỪ GIỮA THẾ KỶ XIV ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XV CÓ LIÊN QUAN ĐẾN "NHO" Trong 280 từ ngữ - điển tích chọn lọc được sử dụng trong thơ Nho từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV, có 56 trường hợp sử dụng từ ngữ - điển tích liên quan đến kinh điển và sách vở Nho học, có 45 trường hợp sử dụng điển tích liên quan đến quan niệm Nho giáo, có 101 trường hợp sử dụng điển tích liên hệ đến các danh nho... Những tác phẩm kinh điển của Nho giáo được đề cập trong thơ Nho thời gian từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV: "Kinh thư": [178, 42], [178, 107], [178, 404], [178, 554], [123, 827],... (5 trường hợp). "Kinh thi" : [178, 162[, [178, 190], [178, 385], [123, 689], [123, 702], [123, 836], [09, 266]... (7 trường hợp). "Kinh Dịch": [178, 68], [178, 397], [178, 508], [178, 554], [178, 568], [123, 754], [123, 771], [123, 782], [09, 407],... (9 trường hợp). "Kinh Xuân Thu" : [178, 351],.. (1 trường hợp). "Kinh Lễ" : [178, 392], [178, 354], [178, 560], [123, 693], [123, 819], [09, 376], [178, 452]... (7 trường hợp). "Luận ngữ" : [178, 16], [178, 159], [178, 202], [178, 215], [178, 395], [178, 548], [178, 577], [178, 588], [09, 453],... (9 trường hợp). "Trung dung": [178, 454], [123, 787], [123, 799],... (3 trường hợp). "Cửu kinh": [09, 377],... (01 trường hợp). "Thái Huyền": [123, 694]... (01 trường hợp). "Lã thị Xuân Thu" : [178, 42]...(01 trường hợp). "Tả truyện" : [178, 69], [178, 404],... (2 trường hợp). "Sử ký" : [178, 474], [178, 545],... (2 trường hợp). "Quốc ngữ" : [178, 584].. (01 trường hợp). "Hán thư" : [178, 552].... (01 trường hợp). "Hậu Hán Thư": [178, 151], [178, 374].. (2 trường hợp). "Đường thư" : [178, 42], [178, 506],... (3 trường hợp). Những trường hợp sử dụng từ ngữ, điển tích có nội dung là những quan niệm Nho giáo hay những quan niệm ảnh hưởng Nho giáo trong thơ Nho: Xa thư [178, 100], kinh luân [178, 114], nhạc Thiều [178, 155], bồ luân [178, 162], sông Nghi [178, 162], tư văn [178, 215], xã tắc [09, 256], đại ẩn [178, 506], Minh luân (nhà thờ chính thờ Khổng Tử) [178, 557], cương thường [178, 583], tiên ưu [123, 669], bĩ thái [123, 792], tiêu trưởng [123, 769], thương y ý quốc [178, 16], qui khứ lai (Đào Tiềm) [178, 41], thương lương (tùy thời) : [178, 41]. Nhạc Thiều [178, 455], bạch y (ẩn dật) [178, 159], đan quế (đổ đạt) [178, 215], nhạn tháp (thi đổ Tiến sĩ) [178, 215], long môn [178, 215], lan (quân tử) [178, 372], rau cần (trường Quốc Tử Giám) [3, 397], lí tố ti (đi trên tơ trắng) [178, 397], hạc viên tâm (lòng viên hạc, ngao du) 123, 839], sài môn (cửa sài) [178, 419], lam thanh (quan niệm trò giỏi hơn thầy) : [178, 431], hoàng hoa (ủy lạo người đi sứ) [178, 506], sương lộ hiếu tư (kinh Lễ) [178, 523], đàn Hạnh (nơi Khổng Tử dạy học) [178, 537], treo cung (Lễ ký) [178, 545], hành tàng (Luận ngữ) [178, 548], nho quan đa ngộ thân [123, 680], ỷ lấy Nho [123, 713], tiểu nhân chi đức thảo (không thích cỏ) [123, 821], hiền [123, 823]... Những trường hợp sử dụng từ ngữ, điển cố có liên quan đến những danh nho nói chung : Nghiêu : [178, 120]... (01 trường hợp). Thuấn : [178, 126], ... (01 trường hợp). Nghiêu Thuấn : [478, 136], [178, 207], [123, 714], [123, 732],... (04 trường hợp). Thương Hiệt : [178, 309] (01 trường hợp). Vũ (Hạ) : [09, 424] (01 trường hợp). Phó Duyệt : [178, 42] (01 trường hợp), Y – Phó : [178, 42] (01 trường hợp). Tắc – Tiết : [178, 576] (01 trường hợp). Sào, Do : [178, 165], [123, 714] (2 trường hợp). Khương Thượng : [178, 24] (01 trường hợp). Chu Công : [178, 571] (01 trường hợp). Bá Di – Thúc Tề : [123, 697], [123, 735] (2 trường hợp). Khổng Tử : [178, 120], [178, 537], [178, 557], [123, 714], [123, 802] (5 trường hợp). Tăng tử : [178, 215], [178, 552] (2 trường hợp). Tăng Điểm : [178, 584] (1 trường hợp). Nhan Hồi : [178, 41], [123, 712], [123, 780], [09, 398] (04 trường hợp),... Mạnh Tử : [178, 41], [178, 557], [178, 559], [178, 588], [178, 583], [123, 748] (06 trường hợp). Tuân Tử : [178, 431] (01 trường hợp). Hàn Phi Tử : [09, 429] (01 trường hợp). Hạng Vương : [178, 130] (01 trường hợp). Phạm Lãi : [123, 804] (01 trường hợp). Tư Mã Tương: [178, 409], [123, 726] (02 trường hợp). Hán Cao Tổ : [178, 220] (01 trường hợp). Phàn Khoái, Hàn Tín : [178, 519] (01 trường hợp). Vương Bột : [178, 528] (01 trường hợp). Trương Hủ : [123, 756] (01 trường hợp). Nghiêm Tử Lăng : [178, 28] (01 trường hợp). Gia Cát : [178, 120], 178, 179], [123, 782] (03 trường hợp). Đổng Trọng Thư : [178, 175] (01 trường hợp). Tào Tháo : [178, 120] (01 trường hợp). Tào Thực : [123, 796] (01 trường hợp). Thục Đế : [123, 841] (1 trường hợp). Khuất Nguyên : [178, 159], [178, 327], [178, 356], [178, 565], [123, 781] (05 trường hợp). Đào Tiềm : [178, 41], [178, 159], [178, 441], [123, 771], [09, 424] (5 trường hợp). Liễu Hạ Huệ : [178, 397] (01 trường hợp). Huyền Huy: [123, 826] (01 trường hợp). Bá Nha – Tử Kỳ: [178, 42] (01 trường hợp). Đỗ Phủ : [178, 429], [178, 458], [178, 519], [178.571], [123, 664], [123, 682], [123, 736] (7 trường hợp). Lý Bạch : [178, 387], [123, 701], [123. 701] (03 trường hợp). Tô Đông Pha : [178, 130], [123, 682] (02 trường hợp). Tạ Linh Vận: [178, 404] (01 trường hợp). Bạch Cư Dị : [178, 49], 178, 434] (02 trường hợp). Trương Cửu Linh : [178, 409], [123, 700], [123, 701] (03 trường hợp). Bùi Độ : [178, 180], [178, 188] (02 trường hợp). Trình Minh Đạo : [178, 395] (01 trường hợp),... Trình Y Xuyên : [178, 400] (01 trường hợp),... Vương Hy Chi : [178, 405] (01 trường hợp),... Chu Đôn Di : [178, 555], [123, 682], [123, 766], [09, 376] (04 trường hợp)... Ngụy Trưng : [178, 42] (01 trường hợp). Phạm Trọng Yêm : [123, 716] (01 trường hợp). Lâm Bô : [123, 756] (01 trường hợp). Sự xuất hiện của các từ ngữ, điển tích có liên quan đến quan niệm Nho giáo, kinh điển Nho giáo và các danh nho cho thấy văn hóa và học thuật Nho giáo đã ảnh hưởng đến nhận thức, tư duy của các tác giả thơ Nho. PHỤ LỤC 2. Bài thơ “Thích An Nam sự thi” (Ý Tông triều cử tử) (“Toàn Đường thi”, quyển 784) 刺安南事诗 懿宗朝举子 南荒不择吏,致我交趾覆。联绵三四年,致我交趾辱。 懦者斗则退,武者兵益黩。军容满天下,战将多金玉。 刮得齐民疮,分为猛士禄。雄雄许昌师,忠武冠其族。 去为万骑风,住为一川肉。时有残卒回,千门万户哭。 哀声动闾里,怨气成山谷。谁能听鼓声,不忍看金镞。 念此堪泪流,悠悠颍川绿。 Nguồn: “Toàn Đường thư khố”: Phiên âm: Thích An Nam sự thi Nam hoang bất trạch lại Trí ngã Giao Chỉ phúc. Liên miêng tam tứ niên Trí ngã Giao Chỉ nhục. Nhu giả đấu tắc thoái Vũ giả binh ích độc Quân dong mãn thiên hạ Chiến tướng đa kim ngọc, Loát đắc tể dân sang… Khứ mã vạn kỵ phong Trụ vi nhất xuyên nhục Thời hữu tàn tốt hồi Thiên môn vạn hộ khốc Bất nhẫn khán kim thốc Niệm thủ khan lệ lưu Du du Vĩnh Xuyên lục... (Ý Tông triều Cử tử) Dịch nghĩa: “Những người cai trị một dãi đất An Nam nhỏ bé (Người ta) đã làm cho xứ Giao Chỉ cúng tôi nghiêng đổ (Người ta đã) làm cho xứ Giao Chỉ chúng tôi (thật là) nhục nhã (Người ta đã) tập thói quen hễ ra trận đánh nhau là lùi. (Mà) lúc đánh nhau thì đồ binh khí (lại) là cái thẻ viết (sớ tấu trình) Binh lính thì vơ vét hết mọi người trong thiên hạ. Chiến tướng (thì lại súng sính) nhiều vàng ngọc quá. (Đó là những của) bóc lột được bằng cách chích máu dân… (Thì) trơ ra chỉ còn một con sông đầy thây người chết Khi tàn cuộc trở về Nghìn cửa vạn nhà khóc. Tiếng than vang động cả làng mạc, Oán khí chồng chất thành non cao… (Thì) lòng bất nhẫn (mà) cố giữ nước mắt (khỏi) trào ra (Để) sao lục (câu chuyện) (gởi về) đất Dĩnh Xuyên dằng dặc ở xa”. [131, 326-327]. Tạm dịch: Oán trách việc An Nam Một dãi đất quê tôi Ai làm cho nghiêng đổ Ai làm Giao Chỉ tôi Đánh trận phải lùi bước? Vũ khí là sớ tấu! Vét hết người đi lính, Chiến tướng tham vàng ngọc. -Bóc lột chích máu dân! Dòng sông đầy người chết Khi tàn cuộc trở về Nghìn cửa vạn nhà khóc. Tiếng tan động làng mạc, Oán khí chất non cao… Lòng đau nước mắt trào, Khắc ghi câu chuyện ấy Hướng về quê hương xa…” (Một Cử nhân An Nam triều vua Đường Ý Tông) ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA5804.pdf
Tài liệu liên quan