Thơ thiền đời Lý và đời Trần - Những điểm tương đồng và dị biệt

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ------------------------- Nguyễn Thái Quân THƠ THIỀN ĐỜI LÍ VÀ ĐỜI TRẦN - NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ DỊ BIỆT Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SỸ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. ĐOÀN THỊ THU VÂN Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2011 LỜI CẢM ƠN Sau một thời gian khá dài, dưới sự định hướng, chỉ dạy và sửa chữa của người hướng dẫn, đến giờ phút này, Luận văn Thạc sĩ của tôi đã

pdf92 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2762 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thơ thiền đời Lý và đời Trần - Những điểm tương đồng và dị biệt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
được hoàn thành. Cho phép tôi được bày tỏ lòng cảm ơn chân thành đến tất cả quý Thầy Cô trong Khoa Ngữ văn, những người đã dạy dỗ và truyền thụ cho tôi nhiều kiến thức quý báu từ khi tôi còn học Đại học cho đến bây giờ. Đặc biệt, tôi xin được gửi lời tri ân sâu sắc đến: PGS.TS. Đoàn Thị Thu Vân Những sự dạy bảo và hướng dẫn, động viên và khích lệ, quan trọng hơn nữa là tấm gương nghiên cứu khoa học, giáo dục của Cô đã giúp tôi có đ ủ tâm lực để hoàn thành Luận văn này. Bên cạnh đó, tôi cũng xin được cảm ơn tất cả Thầy Cô của Phòng Sau Đại học và Thư viện Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Ban Lãnh đạo và nhân viên Thư viện Khoa học Tổng hợp đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong thời gian đi tìm tài liệu nghiên cứu. Cuối cùng, tôi xin kính chúc Cô Đoàn Thị Thu Vân và tất cả quý Thầy Cô dồi dào sức khỏe, hạnh phúc và tiếp tục có những cống hiến tốt nhất cho sự nghiệp khoa học, giáo dục của nước nhà./. Học viên Nguyễn Thái Quân MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài: Văn hoá là động lực để phát triển xã hội. Vì vậy, việc bảo bảo tồn, kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá mà ông cha đã để lại là một nhu cầu cấp thiết trong thời buổi hội nhập như ngày nay. Một trong những di sản văn hoá vô cùng quý báu của dân tộc mà chúng tôi muốn đề cập đến là thơ Thiền. Thơ Thiền là một đối tượng nghiên cứu hấp dẫn nhưng phức tạp, vừa liên quan đến tôn giáo, triết học, vừa liên quan đến nguyên tắc thể loại văn học thuộc về một thời đại nhất định. Tuy nhiên, hiện nay việc nghiên cứu thơ Thiền trên thế giới chỉ tập trung nhiều vào các quốc gia Trung Quốc, Nhật Bản…. Ở Việt Nam, giới nghiên cứu cũng quan tâm đến thơ Thiền nhưng thường có xu hướng nghiên cứu so sánh thơ Thiền Lí Trần với thơ Thiền Trung Quốc, thơ Thiền Nhật Bản hoặc nghiên cứu thơ Thiền Lí Trần nói chung mà chưa có sự tách rời để so sánh thơ Thiền đời Lí và thơ Thiền đời Trần nhằm thấy được những điểm tương đồng cũng như những điểm dị biệt và ý nghĩa của chúng. Như chúng ta biết thời đại Lí Trần là thời đại của sự phục hưng dân tộc, đặc biệt là phục hưng văn hoá, trong đó có văn học. Sự đóng góp của thơ ca Phật giáo vào thành tựu văn hoá thời kì này là không nhỏ. Nhưng đời Lí và đời Trần dù sao cũng là hai triều đại khác nhau nên văn hoá, văn học dưới mỗi triều đại cũng có chỗ khác nhau dù quả thật, chúng có nhiều đặc điểm chung khó tách bạch dẫn đến sự ra đời các thuật ngữ, khái niệm: văn học Lí Trần, thơ ca Lí Trần, thơ Thiền Lí Trần…….Vì vậy, sự nghiên cứu so sánh thơ Thiền đời Lí và thơ Thiền đời Trần là việc làm cần thiết. Vả lại, thơ văn Lí Trần nói chung, thơ Thiền Lí Trần nói riêng đã được đưa vào giảng dạy ở các bậc trung học phổ thông, đại học và cả sau đại học. Thực tiễn dạy và học thơ Thiền Lí Trần đã hình thành nhận xét: hấp dẫn và thú vị nhưng cũng thâm sâu khó thấu. Từ thực tiễn này, người viết thiết nghĩ việc nghiên cứu thơ Thiền Lí Trần xem ra rất có ích, trước hết là đối với bản thân người viết đang dạy Văn ở bậc phổ thông, và sau đó hy vọng đề tài này sẽ có chút đóng góp đối với những người đang tham gia học tập, giảng dạy và nghiên cứu thơ Thiền Lí Trần. Từ những nguyên nhân nói trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài "Thơ Thiền đời Lí và đời Trần - những điểm tương đồng và dị biệt" với mong muốn góp thêm một tiếng nói về một khía cạnh mới của thơ Thiền Lí - Trần. 2. Lịch sử vấn đề: Thơ Thiền đã được nghiên cứu từ thế kỉ XV với nhiều hình thức như: sưu tầm, tuyển chọn, giới thiệu, dịch thuật, phê bình…trực tiếp hoặc gián tiếp trong nhiều công trình khác nhau. Do chưa có công trình nào nghiên cứu so sánh thơ Thiền đời Lí và đời Trần nên trong phần Lịch sử vấn đề nầy, chúng tôi xin được lược thuật những công trình nghiên cứu về thơ Thiền theo hai loại sau: - Loại nghiên cứu, sưu tầm, tuyển chọn hoặc giới thiệu thơ văn Lí Trần nói chung. - Loại nghiên cứu, sưu tầm, tuyển chọn hoặc giới thiệu thơ Thiền Lí Trần nói riêng. Trước tiên xin được đề cập đến loại nghiên cứu, sưu tầm, tuyển chọn hoặc giới thiệu thơ văn thời Lí Trần nói chung. Việc sưu tầm, tuyển chọn thơ văn Lí Trần bắt đầu với Việt âm thi tập của Phan Phu Tiên 1433 (sau được Chu Xa hiệu đính, Lí Tử Tấn phê bình, khắc in năm 1459). Hơn nửa thế kỉ sau đó, hàng loạt những công trình khác lần lượt ra đời như: Quần hiền phú tập (Hoàng Sần Phu), Cổ kim chế từ tập (Lương Như Hộc), Việt điện u linh tục bổ (Nguyễn Văn Chất), Tinh tuyển chư gia luật thi (Dương Đức Nhan), Đại Việt sử kí toàn thư (Ngô sĩ Liên), Quốc triều chương biểu tập (Trần Văn Mô), Lĩnh Nam chích quái (Vũ Quỳnh và Kiều Phú sưu tầm), Trích diễm thi tập (Hoàng Đức Lương) soạn xong năm 1497. Đến thế kỉ thứ XVIII, Lê Quý Đôn trên cơ s ở những tài liệu trước đó, đã viết nên Toàn Việt thi lục (ra đời khoảng những năm 1760-1767). Trong tác phẩm này, ông biên soạn thơ văn nước ta từ đời Lí đến đời Hồng Đức. Bên cạnh Toàn Việt thi lục, ông còn viết Kiến văn tiểu lục gồm 12 phần, đáng chú ý là ph ần Thiên chương. Phần này ghi chép tên những nhân vật đã làm những bài bia, bài minh ở các chùa, quán vào các triều Lí Trần và giới thiệu, phê bình một số thơ văn thời Lí Trần. Một lần nữa, trong Đại Việt thông sử, thiên Văn nghệ chí, Lê Quý Đôn đã nêu ra mục lục các sách của các tác gia đi trước từ đời Lí đến đời Trần. Như vậy có thể nói rằng đóng gớp của nhà bác học thời Lê này vào công việc sưu tầm, tuyển chọn và bảo lưu thơ văn Lí Trần là rất lớn. Đến nửa cuối thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX, Phạm Đình Hổ trong Vũ trung tùy bút có dành một số bài để phân tích một số hiện tượng, đặc điểm cùng sự phát triển của các thể tài văn học Việt Nam. Trong những bài này, có bài ông viết về những nhân vật nổi tiếng thời Lí Trần như: Phạm Ngũ Lão, Lý Đạo Tái (Huyền Quang)…và thơ văn của họ. Thậm chí, ông còn đưa ra nhận định văn thơ thời Lí Trần: “Ta thường xét về văn hiến nước ta, văn đời Lí thì cổ áo xương kính…..đến đời Trần lại kém hơn đời Lí nhưng cũng còn điển nhã hoa thiệm, nghị luận phô bày đều có sở trường cả…..thơ đời Lí già dặn, súc tích, thơ đời Trần tinh vi, trong trẻo đều có sở trường tột bực…” Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí còn dành cả phần Văn tịch chí để giới thiệu văn học nước ta từ thời Lí Trần đến nửa đầu thế kỉ XIX. Rất tiếc là không thấy ông đề cập đến thơ thời Lí. Từ thế kỉ thứ XX đến nay, công tác sưu tầm, tuyển chọn, nghiên cứu và giới thiệu văn học Lí Trần ngày càng rầm rộ hơn, quy mô hơn và chuyên sâu hơn. Trên Nam Phong tạp chí (tập 20) Đinh Văn Chấp đã phiên d ịch hàng loạt thơ thời Lí Trần với chủ ý đáng trân trọng là “…chép lại câu văn của tổ quốc kẻo lâu ngày thất thác…”. Bên cạnh đó là hoạt động dịch và giới thiệu thơ văn Lí Trần của Thi Nham, Nguyễn Lợi, Hoa Bằng…cũng được xem là những đóng góp cho công việc nghiên cứu văn học thời đại này. Tiếp theo là những tài liệu thuộc loại nghiên cứu, sưu tầm, tuyển chọn hoặc giới thiệu thơ Thiền Lí Trần. Đầu tiên có thể kể đến hai công trình Văn học đời Lí và Văn học đời Trần (1942) của Ngô Tất Tố. Trong hai tác phẩm này, tác giả đã ghi nguyên âm chữ Hán, phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ, chú thích, chú giải, dịch thuật các tác phẩm thơ văn Phật giáo thời Lí Trần nhưng chưa thấy có quan điểm so sánh thơ văn đời Lí với thơ văn đời Trần. Càng về sau, việc nghiên cứu thơ Thiền Lí Trần được chú ý nhiều hơn với rất nhiều công trình khoa học, bài viết, chuyên luận, khảo luận. Trước hết có thể kể đến bài viết Mối quan hệ lâu đời giữa văn học Việt Nam và văn học Trung Quốc của Giáo sư Đặng Thai Mai, đăng trên TCVH số 7-1961. Dù đặt trọng tâm vào mối quan hệ giữa văn học Viêt Nam và văn học Trung Quốc nói chung nhưng thơ ca Phật giáo Việt Nam được nhắc đến khá rõ nét trong sự đối sánh với thơ Đường, thơ Tống. Kiều Thu Hoạch trong bài viết Tìm hiểu thơ văn của các nhà sư Lí Trần đăng trên TCVH số 6-1965 đã cất công nghiên cứu thơ văn của các nhà sư từ đời Lí đến đầu đời Trần như Viên Chiếu, Mãn Giác, Không Lộ, Đạo Hạnh, Tuệ Trung, Huyền Quang…Qua bài viết này, tác giả không chỉ phân tích cảm hứng Thiền và cảm hứng thế tục trong thơ của các Thiền sư mà còn thể hiện quan điểm cho rằng việc nghiên cứu thơ Thiền Lí Trần là việc làm cần thiết “Văn thơ Lí Trần không còn lại bao nhiêu. Riêng đời Lí, ngoài mấy bài chiếu, hịch của vua chúa, những thơ văn khác đều thuộc về Thiền sư. Do đó, đánh giá cho đúng phần thơ văn này cũng là một việc làm cần thiết trong công tác nghiên cứu văn học sử.” Nguyễn Đăng Thục cũng có những bài viết về Phật giáo và văn học Phật giáo Việt Nam như Tinh thần văn nghệ Phật giáo Việt Nam; Tinh thần Thiền học Việt Nam đăng trên Báo Tư Tưởng số 4-1971. Trong hai bài viết này, tác giả cũng rải rác bàn luận về sự ảnh hưởng của thơ Thiền Trung Hoa đối với tư tưởng thơ Thiền Việt Nam. Tiếp đó, Trần Thị Băng Thanh trong bài viết đăng trên TCVH số 5-1972 - Một vài tìm tòi bước đầu về văn bản văn thơ Lí Trần – đã khảo sát ba tác phẩm văn học Thiền Tông là Khoá hư lục, Tam tổ thực lục và Thánh đăng ngữ lục. Theo tác giả thì đây là ba tác phẩm còn nhiều vấn đề phải bàn về nguồn gốc và dị bản của chúng. Từ những năm 70, 80 Nguyễn Huệ Chi đã viết và cho đăng hàng loạt bài bàn về văn học Lí Trần trên Tạp chí Văn học như Từ nghĩa rộng đến nghĩa hẹp của chữ “văn học” trong quá khứ đến việc phân loại các loại hình văn h ọc Lí Trần, TCVH số 5-1976; Trần Tung, một gương mặt lạ trong làng thơ Thiền thời Lí Trần, TCVH số 4-1977; Các yếu tố Phật, Nho, Đạo được tiếp thu và chuyển hóa như thế nào trong đời sống tư tưởng và văn học thời đại Lí Trần, TCVH số 6-1978; Mãn Giác và bài thơ Thiền nổi tiếng của ông, TCVH số 5-1987; Đề nghị một cách hiểu mối quan hệ giữa văn học đời Trần và cuộc kháng chiến chống xâm lược đời Trần, TCVH số 3-1988; Hội nhập văn hóa dưới thời Lí Trần, nhìn từ một trung tâm Phật giáo tiêu biểu – Quỳnh Lâm, TCVH số 2-1992. Trong loạt bài viết này, bên cạnh việc nghiên cứu văn thơ Lí Trần nói chung, thơ văn của một số gương mặt Thiền sư (Trần Tung, Mãn Giác) nói riêng, tác giả còn quan tâm lí giải mối quan hệ giữa văn học đời Trần (trong đó có thơ Thiền) với cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông và cả sự ảnh hưởng của Tam giáo đối với tư tưởng và văn học thời đại Lí Trần. Một đóng góp quan trọng của Nguyễn Huệ Chi trong loạt bài viết này là đã dựa vào tình hình thực tế của công tác sưu tầm, dịch thuật, giới thiệu thơ Lí Trần để gợi ra phương thức nghiên cứu đặc thù cho văn học giai đoạn này, định hình một số nguyên tắc tìm hiểu thơ văn Lí Trần và văn học Trung đại Việt Nam. Nổi bật nhất trong công tác nghiên cứu thơ văn Lí Trần có thể kể đến bộ Thơ văn Lí Trần gồm ba tập của Viện Văn học (tập I xuất bản năm 1977, tâp II xuất bản năm 1988, tập III xuất bản năm 1978). Bộ sách này được soạn dưới sự chỉ đạo của giáo sư Đặng Thai Mai và giáo sư Cao Xuân Huy, do giáo sư Nguyễn Huệ Chi làm chủ biên. Trong công trình đồ sộ này, những người biên soạn không chỉ ghi nguyên văn chữ Hán, phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ của các tác phẩm thơ văn Lí Trần mà còn đưa vào đó nh ững lời tựa, lời giới thiệu mở đầu của những nhà làm tuyển tập tiền bối như: Phan Phu Tiên, Lí Tử Tấn, Hoàng Đức Lương, Lê Quý Đôn…để người đọc có thể hiểu thêm ý kiến của người xưa về công việc sưu tập thơ văn Lí Trần. Bên cạnh đó, các soạn giả còn chú thích, khảo đính công phu để mạnh dạn khắc phục lại những chỗ nhầm lẫn mà các công trình trư ớc đó đã mắc phải. Có thể nói rằng, với bộ Thơ văn Lí Trần, diện mạo của văn học thời đại Lí Trần đã được dựng lại một cách đầy đủ và sáng rõ. Từ đầu những năm 90 đến nay, công tác nghiên cứu các tác phẩm thơ văn Phật giáo được các nhà nghiên cứu chú ý nhiều hơn, sâu sát hơn. Việt Nam Phật giáo sử luận, (NXB Văn học, Hà Nội, 1992) của Nguyễn Lang (Thích Nhất Hạnh) dù là công trình nghiên cứu về lịch sử Phật giáo Việt Nam, đề cập đến khía cạnh hệ thống và sử liệu Phật giáo nhưng cũng có trích dẫn nhiều bài thơ Thiền đặc sắc thời Lí Trần. Hà Văn Tấn có bài viết Vấn đề văn bản học các tác phẩm văn học Phật giáo Việt Nam đăng trên TCVH số 4-1992. Cũng như Trần Thị Băng Thanh trong Một vài tìm tòi bước đầu về văn bản thơ văn Lí Trần, Hà Văn Tấn đã khảo sát ba trường hợp mà chính Thiền uyển tập anh đã lưu ý. Đó là trường hợp ba bài kệ của sư Tịnh Không, sư Nguyện Học và sư Không Lộ. Qua sự trích dẫn và đối chiếu văn bản, tác giả thể hiện sự băn khoăn, hoài nghi khoa học vì có quá nhiều điểm giống nhau giữa bài kệ của sư Tịnh Không với bài kệ của Thiền sư Giáp Sơn (Trung Quốc), giữa bài kệ của sư Nguyện Học với bài kệ của Thiền sư Huệ Tư (Trung Quốc), giữa bài thơ của sư Không Lộ với bài thơ của Lý Tường (Trung Quốc). Còn trong Hai trăm năm lịch sử văn học nhà Lí (Bài giảng tại Đại học Sư phạm Sài Gòn, niên khóa 1970-1971) Phạm Văn Diêu đã nhận định rằng: hình thức nghệ thuật văn học thời Lí chịu ảnh hưởng tuyệt đối của thi văn Trung Hoa. Nhưng nói về hình thức nghệ thuật của văn học đời Lí và cả đời Trần một cách khá đầy đủ, chi tiết và công phu phải kể đến cuốn Khảo sát đặc trưng nghệ thuật của thơ Thiền Việt Nam từ thế kỉ XI đến thế kỉ XIV, (Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Học và NXB Văn học, 1996) của Đoàn Thị Thu Vân. Trong cuốn sách này tác giả đã tiến hành khảo sát những đặc trưng nghệ thuật của thơ Thiền thời Lí Trần như: ngôn ngữ, hình tư ợng, thể loại, kết cấu, giọng điệu….Bên cạnh đó còn dành riêng một chương để so sánh thơ Thiền Lí Trần với thơ Nho cùng thời, với thơ Thiền Trung Quốc và với thơ Haiku của Nhật Bản. Trong chuyên luận mang tên Thơ Thiền Việt Nam - những vấn đề lịch sử và tư tưởng nghệ thuật (NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội, 1998), Nguyễn Phạm Hùng đã đi từ việc khái quát tình hình nghiên cứu thơ Thiền ở Viêt Nam đến việc trình bày khái niệm “thơ Thiền”, “đặc điểm thơ Thiền” Việt Nam nói chung và thơ Thiền Lí Trần nói riêng. Đồng thời, tác giả còn tuyển chọn rất nhiều bài thơ Thiền tiêu biểu từ thời Lí Trần đến đời Nguyễn. Thơ Thiền đời Lí và thơ Thiền đời Trần được dành cho hai chương riêng biệt nhau nhưng chỉ tiếc rằng chưa thấy có sự so sánh giữa chúng. Năm 1999, Nguyễn Duy Hinh cho ra đời công trình nghiên cứu Tư tưởng Phật giáo Việt Nam (NXB KHXH, Hà Nội). Trong công trình này, tác giả bàn về lịch sử tư tưởng triết học Phật giáo là chính nhưng cũng có tham cứu, dẫn giải khá nhiều thơ Thiền thời Lí Trần. Cũng năm đó, Đi giữa đôi dòng (NXB KHXH, Hà Nội) của Phạm Tú Châu được xuất bản. Ngoài việc nhấn mạnh giá trị văn học của Thiền uyển tập anh, tác giả còn đề cập đến vấn đề “ảnh hưởng công án” của thơ Thiền Trung Quốc đối với thơ Thiền Việt Nam qua bài Độc Phật sự đại minh lục hữu cảm của Trần Thánh Tông. Thơ Thiền Lí Trần cũng được nghiên cứu rải rác trong các công trình viết về vấn đề ảnh hưởng của văn học Trung Quốc đối với văn học Việt Nam, của thơ Thiền Trung Quốc đối với thơ Thiền thời Lí Trần như bài viết Hán văn Lí Trần, thời kì cổ điển của 10 thế kỉ Hán văn Việt Nam thời độc lập (Hán Nôm số 1-1999) của Phạm Văn Khoái. Trong bài viết này, về mặt ngôn ngữ, tác giả có quan điểm cho rằng ngôn ngữ thơ Thiền Việt Nam chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ Hán văn thời Tiên Tần, Lưỡng Hán và ngôn ngữ kinh điển Phật giáo Trung Hoa. Ở chuyên luận Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam (NXBGD, Hà Nội, 1999) của Trần Đình Sử, tuy thơ Thiền Lí Trần chỉ được nhắc đến rải rác để minh hoạ cho những luận cứ về thi pháp văn học Trung đại nhưng những nhận định về thơ Thiền Lí Trần mà tác giả đưa ra hết sức xác đáng: “Thơ Thiền Việt Nam thời Lí Trần ngay cả nhan đề cũng mang hình thức kệ……sang đời Trần, cảm giác Thiền thú được tăng lên và sang đời Lê thì phai dần…” Luận án Tiến sĩ Ngữ văn Ý thức văn học cổ trung đại Việt Nam (ĐHKHXH & NV TP. HCM, 2001) của Đoàn Lê Giang đã đề cập đến sự hình thành, vận động và phát triển của ý thức văn học cổ trung đại Việt Nam. Trong đó có chương I, mục 1.3.2- “Ý thức văn học của các Thiền sư thời Lí Trần” đã bàn đến những ảnh hưởng của tư tưởng Lão Trang vào thơ Thiền Việt Nam thời Lí Trần mà theo tác giả, Tuệ Trung thượng sĩ là một ví dụ tiêu biểu nhất. Năm 2002, tác giả Nguyễn Hữu Sơn qua công trình Loại hình tác phẩm Thiền uyển tập anh (NXB KHXH, Hà Nội) đã trích dẫn một số bài thơ Thiền đời Lí và phân tích chúng trong sự so sánh với Thiền Trung Hoa. Cùng năm 2002, trong Văn học Phật giáo thời Lí Trần - diện mạo và đặc điểm (NXB Đại học Quốc gia TP.HCM), Nguyễn Công Lý đã nghiên c ứu Phật giáo và văn học Phật giáo thời Lí Trần một cách công phu ở những phương diện: lực lượng sáng tác, hệ thống thể loại, văn tự - ngôn ngữ, đề tài….. Năm 2003, Minh Chi tiếp tục đóng góp cho công tác nghiên cứu thơ Thiền Lí Trần bằng các công trình: Phật giáo và triều đại Lí Trần; Thơ Thiền thời Lí; Truyền thống văn học và Phật giáo Việt Nam. Những công trình này đã giúp ngư ời đọc có được những hiểu biết hết sức căn cơ về thơ Thiền Lí Trần thông qua hệ thống luận chứng dồi dào, công phu. Một người có đóng góp lớn lao cho công tác nghiên cứu Phật học và thơ Thiền Lí Trần cũng cần được kể đến là Lê Mạnh Thát. Nhiều công trình nghiên cứu về Phật giáo và văn học Phật giáo Việt Nam của tác giả như: Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam; Toàn tập Trần Thái Tông; Toàn tập Trần Nhân Tông; Lịch sử Phật giáo Việt Nam (3 tập) đã và đang là những công trình có uy tín, là chỗ dựa tin cậy cho những ai nghiên cứu về Phật giáo và thơ văn Phật giáo Việt Nam. Những năm gần đây, những công trình nghiên cứu về Phật giáo và văn học Phật giáo không ngừng được công bố. Những công trình này hầu hết đều ít nhiều có nghiên cứu thơ Thiền với điểm nhìn so sánh nhưng ch ỉ là so sánh thơ Thiền Việt Nam với thơ Thiền Trung Quốc, Triều Tiên hoặc thơ Haiku của Nhật Bản. Chẳng hạn, Vấn đề tính xác thực của các tác phẩm và việc nghiên cứu thơ Thiền thời Lí (TCKHXH số 4-2004) của Nguyễn Phạm Hùng đã khảo sát một số trường hợp trùng lắp tư liệu giữa thơ Thiền Việt Nam và Trung Quốc; Basho (1644-1694) và Huyền Quang (1254-1334) – sự gặp gỡ với mùa thu hay sự tương hợp về cảm thức thẩm mỹ (NCVH số 7-2005) của Lê Từ Hiển so sánh thơ Thiền Việt Nam với thơ Haiku Nhật bản thông qua hai tác giả tiêu biểu Basho và Huyền Quang; Lịch sử tư tưởng Thiền từ Veda Ấn Độ đến Thiền tông Trung Quốc (NXB KHXH Hà Nội, 2005) của Hoàng Thị Thơ cũng dành một mục Thơ Thiền để đề cập đến thơ Thiền Việt Nam và Trung Quốc. Nhật Chiêu thì có hàng loạt các bài viết đăng trên Văn hóa Phật giáo từ số 8 đến số 11-2005 bàn về thơ Thiền của Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng Sĩ, Huyền Quang…. Luận án Tiến sĩ Ngữ văn Nghiên cứu so sánh thơ Thiền Lí Trần (Việt Nam) với thơ Thiền Đường Tống (Trung Quốc) (ĐHKHXH & NV TP.HCM, 2007) của Lê Thị Thanh Tâm là công trình đứng trên điểm nhìn so sánh rõ nét nhất. Luận án tập trung so sánh thơ Thiền Lí Trần với thơ Thiền Đường Tống bao gồm hai nội dung lớn: Vấn đề nhân sinh quan Phật giáo Thiền tông (thể hiện qua hình tượng con người) và vấn đề bản thể luận Phật giáo Thiền tông (thể hiện qua hình tư ợng thiên nhiên). Nhờ vậy mà thơ Thiền Lí Trần được xem xét với nhiều đặc điểm về cả nội dung lẫn hình thức, giúp ích rất nhiều cho chúng tôi khi tiến hành nghiên cứu đề tài này. Quyển Con người nhân văn trong thơ ca Việt Nam sơ kì trung đại (NXBGD, 2007) của Đoàn Thị Thu Vân cũng là một tài liệu có ý nghĩa đối việc hoàn thành luận văn này. Tác giả đã giới thiệu vẻ đẹp của con người nhân văn trong thơ thời Lí, thời Trần (chủ yếu là thơ Thiền) và thời Lê sơ trong sự so sánh với nhau. Sự đối sánh này cũng là m ột trong những ngọn nguồn cảm hứng để chúng tôi chọn làm luận văn với đề tài “Thơ Thiền đời Lí và đời Trần – những điểm tương đồng và dị biệt”. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là thơ Thiền Việt Nam đời Lí và đời Trần trong sự đối sánh với nhau để thấy được những điểm tương đồng và dị biệt giữa chúng thể hiện ở các phương diện như: tác giả, tư tưởng, cảm hứng, hình tượng, ngôn ngữ, giọng điệu, thể loại và kết cấu. Sự so sánh đối chiếu này được thực hiện dựa trên sự tiếp thu và kế thừa những quan điểm của những người đi trước về nội dung cũng như nghệ thuật của thơ Thiền Lí Trần. Tuy nhiên, việc so sánh thơ Thiền Lí Trần với thơ Thiền Đường Tống (Trung Quốc), thơ Thiền Triều Tiên, thơ Haiku của Nhật Bản… không nằm trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này. 4. Phương pháp nghiên cứu: Khi nghiên cứu đề tài này, chúng tôi đặt thơ Thiền đời Lí và thơ Thiền đời Trần trong hệ thống văn học Trung đại Việt Nam và văn học Phật giáo Thiền tông Việt Nam. Vì tính chất phức tạp của đối tượng nghiên cứu, trong đề tài này, người viết sử dụng những phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau: - Phương pháp so sánh - Phương pháp phân tích thi pháp học - Phương pháp nghiên cứu liên ngành Trong quá trình triển khai đề tài, chúng tôi còn sử dụng một số phương pháp khác như thống kê, phân loại để làm cơ sở cho việc phân tích, đánh giá và so sánh thơ Thiền đời Lí và đời Trần. Các phương pháp nói trên được vận dụng đan xen và hỗ trợ lẫn nhau ở các chương. 5. Đóng góp của đề tài: - Ý nghĩa khoa học: So sánh làm rõ những nét tương đồng và dị biệt giữa thơ Thiền đời Lí và thơ Thiền đời Trần nhằm rút ra được ý nghĩa của điều này, và từ đó, có thể xác định rõ nét hơn những giá trị đặc sắc của thơ Thiền mỗi triều đại nói riêng, thơ Thiền thời đại Lí – Trần nói chung trên cơ sở của mỹ học Thiền. - Ý nghĩa thực tiễn: Việc nghiên cứu thơ Thiền nói chung và thơ Thiền Lí Trần nói riêng đã tr ải qua một thời gian khá dài với công lao sưu tập, dịch thuật, giới thiệu… của nhiều nhà khoa học. Từ những gợi ý của các công trình nghiên cứu nói trên, chúng tôi đã chọn đề tài này với hy vọng đây là hướng tiếp cận ít nhiều gần gũi và hữu ích cho việc nghiên cứu, tiếp nhận và giảng dạy thơ Thiền Lí Trần, đặc biệt là ở bậc đại học. 6. Cấu trúc của luận văn: Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tư liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung luận văn bao gồm ba chương: Chương 1: Khái quát về Thiền Tông Việt Nam và thơ Thiền Lí Trần. 1.1. Khái quát về Thiền tông Việt Nam 1.1.1. Quá trình du nhập của Phật giáo Thiền tông vào Việt Nam. 1.1.2. Đặc điểm của Thiền tông Việt Nam. 1.1.3. Về khái niệm “Thiền” và “thơ Thiền”. 1.2. Thơ Thiền Việt Nam thời Lí Trần 1.2.1. Phật giáo Thiền tông thời đại Lí Trần 1.2.2. Thơ Thiền Lí Trần Chương 2: Những điểm tương đồng giữa thơ Thiền đời Lí và thơ Thiền đời Trần. 2.1. Về tác giả 2.2. Về tư tưởng 2.3. Về cảm hứng 2.4. Về hình tượng 2.5. Về ngôn ngữ 2.6. Về giọng điệu 2.7. Về thể loại 2.8. Về kết cấu Chương 3: Những điểm dị biệt giữa thơ Thiền đời Lí và thơ Thiền đời Trần. 2.1. Về tác giả 2.2. Về tư tưởng 2.3. Về cảm hứng 2.4. Về hình tượng 2.5. Về ngôn ngữ 2.6. Về giọng điệu 2.7. Về thể loại 2.8. Về kết cấu Chương 1- TỔNG QUAN VỀ THIỀN TÔNG VIỆT NAM VÀ THƠ THIỀN LÍ TRẦN 1.1. Thiền tông Việt Nam 1.1.1. Quá trình du nhập của Phật giáo Thiền tông vào Việt Nam Phật giáo là một tôn giáo có nguồn gốc ở Ấn Độ, ra đời vào khoảng thế kỉ thứ VII TCN trong lòng xã hội Ấn Độ cổ đại với sự thành lập của những nhà nước chủ nô chuyên chế và sự phân biệt đẳng cấp xã hội gay gắt. Phật giáo ra đời là để chống lại sự phân biệt đẳng cấp này. Đây là một trào lưu tư tưởng phản ánh đấu tranh giai cấp có những nguyên cớ sâu xa trong lòng xã hội và văn hoá – tư tưởng Ấn Độ cổ đại. Từ Ấn Độ, Phật giáo nhanh chóng truyền sang các quốc gia lân cận như: Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên, Sri-lan-ka….tạo thành một vùng lãnh thổ rộng lớn chịu ảnh hưởng của văn hoá và tư tưởng Phật giáo. Phật giáo truyền vào Việt Nam chủ yếu theo ba con đường với những thời điểm hoàn toàn khác nhau: Phật giáo từ Ấn Độ (Nam Ấn) trực tiếp truyền sang Việt Nam vào khoảng thế kỉ II sau CN; Phật giáo từ Ấn Độ truyền sang Trung Quốc rồi truyền đến Việt Nam với Thiền sư Tì-ni- đa- lưu- chi vào thế kỉ VI và cuối cùng là Phật giáo được truyền trực tiếp từ Trung Quốc sang Việt Nam với Thiền sư Vô Ngôn Thông vào thế kỉ IX. Phật giáo truyền vào Việt Nam rất sớm bằng đường biển từ Nam Ấn sang khoảng thế kỉ thứ II sau CN. Thời kì đầu, theo Nguyễn Lang, các tu sĩ đi theo các thuy ền buôn Ấn Độ vào Việt Nam và truyền bá đạo Phật với những tín ngưỡng đơn sơ như: thờ Phật, đốt trầm, tụng kinh, chữa bệnh, trừ tà, bày phép cúng dường, bố thí cho dân bản địa, cũng như truyền pháp Tam quy, Ngũ giới cho người dân ở đây chứ chưa giảng dạy kinh điển gì [ ]. Tiếp theo là hệ thống kinh điển văn hệ Bát nhã (chủ yếu là kinh điển Đại thừa mang tính Thiền học của Phật giáo vùng Nam Ấn như: Kim cương, Tượng đầu tịnh xá, Bát thiên tụng Bát nhã, Bát nhã tâm kinh, Bát nhã ba la mật, Đại bát niết bàn… ) truyền sang cùng với sự phát triển của trung tâm Phật giáo Luy Lâu. Theo Thiền uyển tập anh, trước khi Phật giáo truyền bá vào Trung Quốc thì ở kinh đô Luy Lâu (Bắc Ninh - Giao Châu) đã “xây hơn hai mươi ngọn tháp, được độ năm trăm tăng sĩ và dịch được mười lăm bộ kinh”. Những người đầu tiên truyền bá Phật giáo ở Việt Nam là Mâu Bác, Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương (hay Cương Lương Lâu Chi) và Ma-ha-kỳ-vực. Tuy nhiên, về thời điểm Phật giáo truyền vào Việt Nam vẫn tồn tại nhiều ý kiến khác nhau. Nguyễn Công Lý trong Bản sắc dân tộc trong văn học Thiền tông thời Lí Trần trên cơ sở đọc tiểu sử các vị Thiền sư và sự suy luận đã có quan ý kiến cho rằng “Trước Mâu Bác và Khương Tăng Hội, đạo Phật đã được truyền bá rộng ở đất Giao Châu và có những danh tăng nên hai ông mới có điều kiện tu học rồi truyền đạo ở đây.….trước thế kỉ thứ II sau CN, đạo Phật đã truyền vào việt Nam rồi. Có lẽ là từ thế kỉ thứ I sau CN cũng nên.”[25]. Phật giáo cũng được truyền từ Ấn Độ sang Trung Quốc rồi mới truyền đến Việt Nam với Thiền sư Tỳ-ni-đa-lưu-chi. Ông được xem là Tổ thứ nhất của phái Thiền đầu tiên ở Việt Nam. Theo Thiền uyển tập anh, Thiền sư là người miền Nam nước Thiên Trúc (Nam Ấn Độ), dòng dõi Bà la môn, từ nhỏ có chí vượt lên thế tục, từng đi nhiều nơi trong nước Tây Trúc mong được truyền tâm ấn của Phật, nhưng pháp duyên chưa gặp gỡ. Sau đó lại sang Trung Quốc học đạo với Tổ thứ ba là Tăng Xán, được Tổ truyền pháp. Tỳ-ni-đa-lưu-chi đã dịch kinh Tượng đầu Tịnh xá – một trong những bộ kinh Đại thừa quan trọng thuộc hệ Bát nhã, trong đó nh ấn mạnh “tư tưởng vô trú, siêu việt có và không” là tư tưởng từng được Long Thọ (Tổ thứ 14 của Thiền Tông Ấn Độ) xiển dương với bài “Bát bất” mở đầu cuốn Trung luận”. Năm 580, ông sang Giao Châu truyền đạo, trụ trì tại chùa Pháp Vân (Luy Lâu - tên cũ của Bắc Ninh) và dịch kinh Tổng trì. Năm 594 ông truyền tâm ấn cho Pháp Hiền rồi mất. Phái Thiền của ông gọi là phái Thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi. Phái Thiền này rất coi trọng việc tu định, tham Thiền. Đây chính là pháp môn của Bồ-đề-đạt-ma – đại biểu cho Thiền Tông Ấn Độ. Thiền phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi, theo Thiền uyển tập anh, truyền thừa được 19 đời với những Thiền sư đắc pháp như: Pháp Hiền, Pháp Thuận, Vạn Hạnh, Đạo Hạnh, Khánh Hỷ, Huệ Sinh…..Phái Thiền này còn gọi là phái Thiền Nam Phương. Phật giáo cũng được truyền trực tiếp từ Trung Quốc sang Việt Nam với Thiền sư Vô Ngôn Thông, thế kỉ IX. Thiền sư Vô Ngôn Thông vốn người Quảng Châu (Trung Quốc), thuở nhỏ ham thích môn Không học (Phật học), bỏ gia sản đến thụ nghiệp tại chùa Song Lâm ở Vụ Châu. Tính sư cẩn trọng, trầm lặng, nói ít hiểu nhiều, thông đạt sự lí, vì thế người đương thời gọi là Vô Ngôn Thông. Ngài đắc pháp từ Thiền sư Bách Trượng, học trò đời thứ ba của Lục Tổ Huệ Năng. Năm 820, ngài sang nước ta truyền đạo, hình thành nên Thiền phái Vô Ngôn Thông. Dòng Thiền này mang đậm dấu ấn của Thiền Tông Trung Hoa với tư tưởng: chân lí không phải ở đâu xa mà ở ngay hiện tiền, ở trong bản thân mỗi người, nhưng chân lí ấy chỉ có thể tu chứng trực tiếp chứ không thể nào nắm bắt được qua ngôn ngữ, văn tự, sách vở…, đó là “đốn ngộ”, là “bất lập văn tự”, cũng là tinh thần câu nói rất tiêu biểu cho dòng Thiền Nam Tông Trung Hoa của Thiền sư Bách Trượng: “Tâm địa nhược không, tuệ nhật tự chiếu” (Nếu tâm đất trống không, mặt trời trí tuệ sẽ tự chiếu sáng.). Theo Thiền uyển tập anh, Thiền phái Vô Ngôn Thông truyền thừa được 15 đời và có nhiều Thiền sư đắc đạo như: Khuông Việt, Viên Chiếu, Mãn Giác, Ngộ Ấn, Tịnh Không, Quảng Nghiêm….. 1.1.2. Đặc điểm của Thiền tông Việt Nam Như đã trình bày ở trên, Phật giáo truyền vào Việt Nam bằng ba con đường ở ba thời điểm hoàn toàn khác nhau. Ba con đường này có thể quy về hai ngả: từ Ấn Độ truyền sang bằng đường biển và từ Trung Quốc sang bằng đường bộ. Thời kì đầu, phật giáo Việt Nam chủ yếu là sản phẩm của sự tiếp nhận trực tiếp Phật giáo từ Ấn Độ truyền sang. Về sau, hướng tiếp nhận này giảm dần, trong khi đạo Phật từ Trung Quốc truyền sang chiếm ưu thế hơn. Từ Trung Quốc, Phật giáo với ba tông phái là Thiền Tông, Tịnh Độ Tông và Mật Tông được truyền vào Việt Nam. Trong ba tông phái này thì Thiền Tông là tông phái phát triển mạnh nhất và có nhiều đặc sắc nhất mà nổi bật là phái Thiền Thảo Đường do Thiền sư Thảo Đường sáng lập vào đời nhà Lí và phái Thiền Trúc Lâm ở đời Trần do Trần Nhân Tông sáng lập. Hai Thiền phái này đã t ạo nên bản sắc của Phật giáo Thiền Tông Việt Nam với những đặc điểm: Là sự dung hòa giữa ba nguồn du nhập; có sự khác biệt với Phật giáo Ấn Độ, Trung Quốc do mang dấu ấn của văn hóa bản địa; chủ trương “phá chấp”, “đốn ngộ”, nhập thế, đưa Thiền vào đời sống thực tiễn; tích hợp tích cực với Nho và Lão - Trang. Theo An Nam chí lược của Lê Trắc, Thiền uyển tập anh và các sách của Trần Văn Giáp, Nguyễn Lang thì phái Thiền Thảo Đường do Thiền sư Thảo Đường và vua Lí Thánh Tông sáng lập nên tại chùa Khai Quốc (Trấn Quốc) ở kinh đô Thăng Long. Khi Lí Thánh Tông chinh phạt Chiêm Thành về có bắt được một số tù binh, trong đó có một Thiền sư người Trung Quốc đang cùng thầy truyền đạo ở Ch._.iêm Thành (thuộc dòng Thiền Tuyết Đậu Minh Giác – tức Thiền phái của Thiền sư Trùng Hiển ở núi Tuyết Đậu). Nhà vua giao cho quan Tăng lục làm nô. Một hôm Tăng lục đi vắng trong khi đang viết dở cuốn Ngữ lục, sư Thảo Đường xem xong, có chữa lại, quan Tăng lục về thấy, lấy làm lạ và tâu lên vua. Khi được hỏi về Phật pháp, Thảo Đường ứng đối trôi chảy nên vua phong làm Quốc sư. Ông là người là đức hạnh, được vua bái làm thầy Về yếu chỉ của Thiền phái này, trong bài văn Cảnh sách, Thảo Đường đã nêu : ‘‘Thiền bản vô môn, phi túc cụ linh căn, đa địa kì đồ, mạt kiếp dung lưu, thành nan ngộ nhập. Quán tâm vi thế, như vô bát nhã chi tuệ, hãn năng giai chứng. Duy hữu niệm Phật nhất môn, tối vi điệp cảnh, tự cổ chí kim, ngu trí đồng tu, nam nữ cộng thú, vạn vô nhất nhất như tứ liệu giả sở minh. Chỉ yếu tự biện khẳng tâm, vật nhi tự chi bất đắc’’ (Thiền môn vốn không có cửa vào nhất định, không phải là người có linh căn thì phần nhiều rơi vào đường lầm lạc, trọn đời trôi nổi, khó mà giác ngộ. Phép quán tâm thì rất tế nhị, tinh vi, nếu không có trí tuệ bát nhã, ít có thể đạt tới chứng nghiệm. Chỉ có lối niệm Phật rất là mau lẹ, tiện lợi. Từ xưa đến nay, người thông minh, kẻ ngu độn đều tu được, đàn ông đàn bà đều chuộng, muôn người không một ai sai lầm như bốn lời đã tỏ rõ. Chỉ cần phân tích lấy tâm mình, chớ nghi ngờ là mình làm không được). Từ đó có thể suy luận, đặc điểm của Thiền Thảo Đường là sự dung hợp cả Thiền Tông, Tịnh Độ Tông và Mật Tông, nghĩa là k ết hợp cả ‘‘đốn ngộ” và ‘‘tiệm ngộ”. Những người thượng căn thượng trí thì phù hợp với Thiền quán để có thể tự ‘‘đốn ngộ” mà không cần tụng niệm, không cần câu nệ kinh kệ, văn tự. Còn những người hạ căn hạ trí thì phù hợp với pháp môn niệm Phật (tụng niệm kinh Phật) để dần dần có thể giác ngộ (‘‘tiệm ngộ”). Chính vậy mà Thiền Thảo Đường phù hợp với mọi tầng lớp trong xã hội. Rất tiếc là Thiền phái này chủ yếu được các vua quan triều Lí tiếp nhận mà không truyền bá rộng rãi trong nhân dân nên dần dần bị mai một cùng với sự thay đổi triều đại từ Lí sang Trần[24]. Trên cơ sở tiếp thu Phật học của các sư Viên Chứng, Đại Đăng, Tiêu Dao, Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông mà trực tiếp là Tuệ Trung Thượng Sĩ, Trần Nhân Tông đã khai sáng nên phái Thiền Trúc Lâm trên núi Yên Tử - một Thiền phái hoàn toàn Việt Nam và cũng là Thiền phái duy nhất đời Trần. Tông chỉ của Thiền phái này là sự kế thừa, dung hợp giữa các tư tưởng Thiền của phái Vô Ngôn Thông và Lâm Tế ở Trung Quốc, phát triển cho phù hợp với tình hình dân tộc Việt Nam lúc bấy giờ. Thiền Trúc Lâm còn dung hợp cả Thiền Tông và Tịnh Độ Tông, giữa ‘‘đốn ngộ” và ‘‘tiệm ngộ”, vừa truyền đạo bằng những công án hiểm hóc theo kiểu «Bất lập văn tự; Trực chỉ nhân tâm; Kiến tính thành Phật» vừa bằng những lời lẽ truyền giảng rõ ràng, cụ thể và dễ hiểu. Kế thừa tinh thần Phật tại tâm, ngoài tâm không có Phật và Phật tính bình đẳng, Phật tánh không khác, Thiền phái Trúc Lâm còn dung hoà Tam giáo, đặc biệt chịu ảnh hưởng của tư tưởng Lão – Trang, chủ trương dung hợp Thiền định, ngồi thiền niệm Phật, thọ trì cấm giới, khuyến thiện ngăn ác, bố thí từ bi, tôn trọng phép nước, kính thờ vua, hiếu thảo với cha mẹ….Với tinh thần «Nhất thiết duy tâm đạo», «Vạn pháp vô thường» những người theo Thiền phái này có một nhân sinh quan tích cực, xem sống chết là lẽ thường, thịnh suy là quy luật tự nhiên, không tham sống sợ chết, không tham cầu danh lợi, sẵn sàng quên mình vì ngư ời (Vô ngã vị tha). Phải chăng đó chính là nguyên nhân sâu xa hình thành tinh thần thời đại với những con người tự tin, phóng khoáng, tạo nên hào khí Đông A ngút trời? Thiền Tông Việt Nam có sự khác biệt với Thiền Tông Trung Quốc, Thiền Tông Ấn Độ do mang đậm dấu ấn của văn hoá bản địa. Đó là sự gắn bó giữa đạo và đời. Rất nhiều Thiền sư vừa làm việc nước vừa làm việc đời. Những lúc quốc gia đứng trước nguy cơ mất còn thì các vị sẵn sàng nhập thế giúp nước; những lúc đất nước yên bình, dân chúng ấm no thì xuất thế, lui về chốn núi non, am chùa để tu tập Thiền và di dưỡng tinh thần, sống cuộc sống tự do tự tại, gần gũi thiên nhiên. Nước Đại Việt thời Lí Trần tuy là một quốc gia độc lập nhưng vẫn luôn đứng trước nguy cơ xâm lược của phương Bắc nên ở thời này, nhiều nhà sư, nhà Thiền học đã có công lớn đối với đất nước trong việc chính trị - ngoại giao, giúp vua trị nước, an dân, phát triển xã hội, được vua phong là Quốc sư, Đại sư hoặc kính trọng như thầy như sư Khuông Việt (Ngô Chân Lưu), Pháp Thuận, Giác Hải, Mãn Giác, Không Lộ, Huệ Sinh, Khánh Hỷ, Thông Biện, Viên Thông…. Sư Vạn Hạnh còn là người có vai trò đ ặc biệt trong sự hình thành nên cơ nghiệp của vương triều nhà Lí. Thời đại Lí Trần xem Phật giáo là Quốc giáo. Những người theo Phật chiếm số lượng rất lớn với đầy đủ giai tầng trong xã hội. Dưới có thứ dân, trên có vua quan, hoàng tộc, quý tộc. Sách xưa còn ghi: « Thiên hạ Lí Trần bán vi tăng» (Thiên hạ thời Lí Trần một nửa là tăng chúng). Có những vị vua xuất gia đi tu như Lí Huệ Tông, Trần Nhân Tông (Đệ nhất tổ phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử). Một số vị vua tu tại gia như Lí Thánh Tông (người cùng với Thiền sư Thảo Đường khai sáng nên dòng Thiền Thảo Đường và là thế hệ thứ hai của dòng Thiền này), Lí Anh Tông, Lí Cao Tông, Trần Thánh Tông, Trần Anh Tông….Nhiều người xuất thân từ hoàng tộc đi tu hoặc trở thành cư sĩ như Mãn Giác thi ền sư (Lí Trường- con quan Trung Thư Viên Ngoại Lang), Linh Nhân Hoàng Thái Hậu (Ỷ Lan Nguyên Phi- vợ vua Lí Thánh Tông, mẹ vua Lí Nhân Tông), Diệu Nhân ni sư (Lí Ngọc Kiều – con trưởng của Phụng Kiền Vương, gọi vua Lí Thánh Tông bằng chú ruột), Tuệ Trung thượng sĩ (Tr ần Tung, con cả của An Sinh Vương Trần Liễu, anh ruột Hương Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn)... Còn quan lại, trí thức trong xã hội tu Phật thì nhiều không kể xiết. Về tổ chức chính quyền, triều đình nhà Lí còn dành hẳn một hệ thống ngạch quan cho người tu hành (ngạch Tăng ban) để đặt ra phẩm trật, chế độ và trọng dụng các tăng sĩ lỗi lạc. Các vị quan lại trong Tăng ban không chỉ có quyền điều khiển đời sống tinh thần của xã hội mà còn có vai trò rất lớn trong địa hạt chính trị và kinh tế. Có vị sư được phong Tăng thống (người đứng đầu Giáo hội Phật giáo) như sư Khuông Việt (dòng Thiền Vô Ngôn Thông), sư Huệ Sinh, sư Khánh Hỷ (dòng Thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi); có vị được phong Quốc sư như sư Thông Biện (dòng Thiền Vô Ngôn Thông), sư Viên Thông (dòng Thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi) v.v… Có vị được vua mời làm cố vấn để bảo ban việc nước như sư Vạn Hạnh, sư Mãn Giác… Có vị được giao làm công tác ngoại giao như sư Pháp Thuận v.v… Đó là chưa kể có vị vua vốn xuất thân từ chốn Thiền môn như vua Lí Thái Tổ (được sư Vạn Hạnh nuôi dạy từ nhỏ ở chùa Tiên Sơn). Ngoài ra, để có thể phù hợp với thực tiễn của Đại Việt, một quốc gia còn non trẻ và nhỏ hơn rất nhiều so với nước phương Bắc, Thiền Tông thời Lí Trần đã dung hợp với tín ngưỡng dân gian bản địa. Bằng chứng là Phật Tổ được biết đến như một siêu nhân có nhiều quyền phép: «Phật là tên thụy, như là tên thần của Tam Hoàng, tên thánh của Ngũ Đế. Phật là ông tổ đầu tiên của đạo đức, nguồn gốc của thần minh…..Phật có thể biến hoá huyền ảo, có thể tròn, có thể vuông, có thể già, có thể trẻ, có thể biến đi, có thể hiện ngay… ». Việc giới thiệu, hình dung Phật như một siêu nhân như thế phù hợp với yêu cầu của một dân tộc nhỏ bé và luôn bị nước Hán rộng lớn nhòm ngó, muốn được giải phóng, được lãnh đạo bởi một lãnh tụ có phép thần thông để có thể chuyển yếu thành mạnh, chuyển bại thành thắng. Thiền Tông Việt Nam đề cao tinh thần tự do, ‘‘phá chấp’’ - cởi bỏ mọi sự ràng buộc, không vướng mắc vào bất kì vật gì dù đó là Phật hay Pháp: Pháp bản như vô pháp Phi hữu, diệc phi không (Pháp vốn không có pháp Không phải có mà cũng không phải không có) (Đáp Lí Thái Tông tâm nguyên chi vấn I - Huệ Sinh) Tinh thần phá chấp còn thể hiện ở yêu cầu người học Thiền phải buông bỏ tất cả để cho tâm được trống không, an nhiên. Nhờ đó mới lĩnh h ội được tinh tuý của Thiền học. Nguyên tắc chính yếu trong truyền thụ Thiền học là «Dĩ tâm truy ền tâm». Chính vì vậy không ít những Thiền sư đã bày tỏ quan niệm buông bỏ triệt để «Vong thân, vong thế, dĩ đô vong». Bởi không phải ngồi Thiền, tụng kinh niệm Phật là có thể đắc đạo. Và có mấy ai thành Phật bằng đường tu hành: Đắc thành chính giác hãn bằng tu Chỉ vị lao lung trí tuệ ưu. (Mấy ai thành Phật bởi tu hành Chỉ trói cùm thêm trí óc mình.) (Cảm hoài – Bảo Giám) Cho nên chỉ có những người mê hoặc mới tìm cầu Thiền, Phật: Mê chi cầu đạo Hoặc chi cầu Thiền Thiền Phật bất cầu Uổng khẩu vô nghiên (ngôn) (Mê, phải cầu Phật Hoặc, phải cầu Thiền Chẳng cầu Thiền, Phật Mím miệng ngồi yên) (Thị Tịch - Diệu Nhân ni sư) Mạnh mẽ hơn nữa, Quảng Nghiêm còn khẳng định nam nhi phải tự có chí «xung thiên», không nên đi theo vết mòn của Như Lai: Nam nhi tự hữu xung thiên chí Hưu hướng Như Lai hành xứ hành (Làm trai lập chí xông trời thẳm Theo lối Như Lai luống nhọc mình) (Hưu hướng Như Lai) không câu chấp vào cái «có» cũng không bận lụy vào cái «không»; bởi vì, nếu ta cho là «có» thì là có mà nghĩ rằng «không» thì cũng là không, «có» và «không» như bóng trăng in đáy nước, chỉ là ảo ảnh mà thôi : Tác hữu trần sa hữu Vi không nhất thiết không Hữu không như thủy nguyệt Vật trước hữu không không (Có thì có tự mảy may, Không thì cả thế gian này cũng không. Vầng trăng vằng vặc in sông Chắc chi có có không không mơ màng?) (Hữu không- Đạo Hạnh) Tất cả đều phải «tuỳ duyên» (tuỳ theo thời điểm, cơ duyên mà hành xử), «vô vi» (thuận theo tự nhiên), không tìm cầu tha lực mà phải tự quay về với chính mình, thắp sáng lên ngọn đuốc soi đường đi cho chính mình với quan niệm «Ưng vô sở trụ, nhi sinh kì tâm». Thiền, Phật hay sự giác ngộ có ở bất cứ nơi đâu, bất cứ hành động nào, không cần phải cầu tìm. Vì «Hà sa cảnh thị bồ đề đạo ; Nghĩ hướng bồ đề cách vạn tầm» (Cát sông Hằng nơi nào cũng là Phật ; Thế mà người ta cứ tưởng đạo còn cách xa vạn dặm) (Đáp Từ Đạo Hạnh chân tâm chi vấn - Kiều Trí Huyền) và «Hành diệc Thiền, toạ diệc Thiền; Nhất đoá hồng lô hoả lí liên» (Đi cũng Thiền, ngồi cũng Thiền; Trong lò lửa đỏ một đoá sen) (Phật tâm ca – Tuệ Trung)… Có quan niệm như thế con người mới có thể «Cư trần lạc đạo» như Trần Nhân Tông đã khái quát và được xem là yếu chỉ của Thiền Trúc Lâm Yên Tử: Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên Cơ tắc xan hề khốn tắc miên Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền (Cư trần lạc đạo phú) Thiền Tông Việt Nam cũng chủ trương xem trọng thực tại hiện tiền, không coi trọng quá khứ hay tương lai: Đãn tri kim nhật nguyệt Thuỳ thức cựu xuân thu? (Biết thời gian của hôm nay Xuân xưa, thu cũ ai hay biết gì?) (Nhật nguyệt I – Thiền Lão) Xem «bốn núi» sinh, lão, bệnh, tử là lẽ thường nhiên: Sinh lão bệnh tử Tự cổ thường nhiên (Sinh, lão, bệnh, tử Lẽ thường tự nhiên) (Thị tịch – Diệu Nhân) Coi nhẹ sự nhục vinh, giàu sang phú quý, không lo sợ trước lẽ đời suy thịnh vì nhục vinh hay giàu sang phú quý vốn là phù phiếm, vô thường và pháp thân như bóng chớp hiện hữu đó rồi lại trở về hư không: Đốt đốt phù vân hề phú quý Hu hu quá khích hề niên quang (Chà chà! Giàu sang chừ như áng mây nổi Chao ôi! Ngày tháng chừ như bóng ngựa chạy qua khe cửa) (Phóng cuồng ngâm – Tuệ Trung) Thân như điện ảnh hữu hoàn vô Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô Mạc vận thịnh suy vô bố uý Thịnh suy như lộ thảo đầu phô (Thân như bóng chớp có rồi không Cây cối xuân tươi thu não nùng Mặc cuộc thịnh suy, đừng sợ hãi Kìa kìa! Ngọn cỏ giọt sương đông) (Thị đệ tử - Vạn Hạnh) Thiền Tông Việt Nam cũng xem tr ọng sự «đốn ngộ» (giác ngộ tức khắc) và đòi h ỏi phải xoá bỏ «nhị kiến» (cái nhìn phân ra hai cực tốt - xấu, thiện - ác… khiến người ta không nhận thấy được bản chất của sự vật, hiện tượng) để có thể nhận thức được «chân tính» (bản tính vốn có hay còn gọi là “chân như”, “tự tính”, “Phật tính”). Chính vì thế mà có không hiếm những trường hợp khi được hỏi về yếu chỉ Thiền thì câu trả lời của các Thiền sư dường như không hề ăn nhập gì với vấn đề được hỏi. Hay có khi không nói gì, có khi trả lời bằng một cái tát hoặc mấy gậy đánh, để người học đạo có thể tỉnh ngộ ngay tức thì và lĩnh hội sâu xa điều mà người dạy muốn «tâm truyền». Trong Lâm Tế ngữ lục, khi được hỏi «Đại ý Phật pháp là gì?», sư Lâm Tế không nói gì mà chỉ «đưa phất trần lên» và «đánh cho một gậy». Những biểu hiện này có nguồn gốc sâu xa từ «Niêm hoa vi tiếu» - câu chuyện giữa Phật Tổ và Đại Ca Diếp. Khi học trò hỏi Tuệ Trung thượng sĩ về «Thanh tịnh pháp thân», thượng sĩ ứng khẩu đọc ngay: «Ra vào trong nước đái trâu; chui rúc giữa đống phân ngựa». Ở một chỗ khác, khi môn đồ hỏi «Làm thế nào để bước vào xứ Phật?», câu trả lời cũng lại kì hoặc như thế: «Gãi ngứa phải đâu ngứa của người; Đói ăn, bụng ấy chính nhà ngươi», v.v… Dù trong hai triều đại Lí và Trần, Phật giáo đóng vai trò là qu ốc giáo nhưng Thiền Tông Việt Nam không chèn ép các học phái tư tưởng khác mà ngược lại còn dung hợp với các giáo phái khác để cùng phát triển. Đặc biệt, Thiền Tông đã tích hợp tích cực với Nho và Lão –Trang tạo nên một nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc theo quan điểm «Tam giáo đồng nguyên». Bằng chứng là Lí Thánh Tông dù là một người theo Phật và còn là ngư ời sáng lập dòng Thiền Thảo Đường nhưng «vì muốn khai hoá cho dân, vua cho lập văn miếu, làm tượng Chu Công, Khổng Tử và 72 vị tiền hiền để thờ» [7].. Kế thừa Lí Thánh Tông, những vua đời sau dù theo Phật giáo nhưng rất am hiểu Nho học. Những nhân tài phò vua giúp nước ngoài những người được các Thiền sư tiến cử «Trước Nhân Tông chưa có khoa cử, những kẻ thông minh nhanh nhẹn đều phải do bọn Thích đạo lựa chọn và cất nhắc cho» [40] số còn lại đều là những người được tuyển chọn từ các khoa thi Tam giáo. Đến đời Trần, dù Phật giáo vẫn được xem là quốc giáo nhưng Nho giáo từ vị trí khiêm tốn đã được nâng lên nhờ sự xem trọng của các vua quan triều Trần. Rất nhiều Thiền sư cũng là người tinh thông cả Tam giáo như Khuông Việt, Cứu Chỉ, Thông Biện, Mãn Giác, Ngộ Ấn, Bảo Giám, Bản Tịnh, Minh Trí… Thiền sư Cứu Chỉ đã thể hiện sự hiểu biết uyên thâm của mình về Nho giáo: «Khổng, Mặc cố chấp cái hữu. Lão, Trang chìm đ ắm cái vô. Sách vở thế tục không phải là phép giải thoát. Chỉ có Phật giáo là không chấp không và có liễu thoát sinh tử nhưng phải tu trì giữ giới tinh tiến» ; và sư Trí Thiền cũng đã có những quan niệm thể hiện tinh thần vừa phân biệt vừa hoà đồng giữa Phật và Nho: «Mấy lời nói của Như Lai chẳng phải là lời nói suông. Các phép ở thế gian này đều là hư ảo, không thực, chỉ có Đạo mới là thực, ta còn cần gì nữa. Vả lại, Nho gia thì nói đ ạo vua tôi, cha con, Phật Pháp thì nói về công đức của các bậc Thanh Văn, Bồ Tát. Hai giáo tuy có khác nhưng quy về chỉ một mối mà thôi. Nhưng muốn vượt qua nỗi khổ sinh tử, dứt khỏi sự cố chấp hữu vô, ngoài Phật giáo ra thì không thể đạt được» [36]. Phật và Nho tuy khác nhau ở thực hiện giáo lí nhưng cũng c ần thiết như nhau. Sự phân biệt chẳng qua là phân công để giúp ích cho đời. Trong khi Nho phải nhờ Phật để phát triển thì ngược lại, Phật cũng cần Nho để ổn định chính trị - xã hội, cai trị đất nước. Trần Thái Tông trong Thiền Tông chỉ nam tự đã trình bày rõ những nhiệm vụ của Phật và Thánh: «…phương tiện dẫn dụ đám người mê muội, con đường tắt sáng tỏ lẽ sinh tử, ấy là đạo giáo của đức Phật… Đặt mực thước cho hậu thế, làm khuôn khổ cho tương lai, ấy là trách nhiệm của bậc tiên thánh». Từ giữa đời Trần trở về sau, Phật giáo có dấu hiệu suy yếu và Nho giáo bắt đầu thịnh dần. Tuy vậy, rất nhiều nho sĩ vào những năm tháng cuối đời lại vào chùa để sống cuộc sống muối dưa thanh đạm như Trương Hán Siêu, Phạm Sư Mạnh… Ngoài Nho giáo, Thiền Tông Lí Trần còn dung hợp với tư tưởng Lão – Trang tạo cho Thiền Tông Việt Nam những nét hết sức đặc sắc. Dấu vết rõ nét nhất của sự dung hoà giữa Phật và Lão – Trang là sự ưa thích cảnh sống phóng khoáng, phiêu diêu, thoát tục của rất nhiều Thiền sư Lí Trần mà Trần Thái Tông và Tuệ Trung là đại biểu xuất sắc nhất. Những tác phẩm nổi tiếng như Phóng cuồng ngâm, Phật tâm ca, Thạch Thất, Ngọ thuỵ, Chu trung của Tuệ Trung và Khoá hư lục, Kí Thanh Phong am tăng Đức Sơn của Trần Thái Tông thể hiện rõ nhất điều này. Theo Nguyễn Công Lý, những bài thơ của nhóm Bích Động thi xã như Mai thôn phế tự, Hoàng châu đạo thượng tác, Đề Gia Lâm tự (Trần Quang Triều), Xuân nhật thôn cư, Nguyên nhật yết kiến Diên Quang tự Nguyệt Đàm thượng nhân (Nguyễn Ức), Phả Lại sơn tự, Tiên Du Vạn Phúc tự, Túc Thứu thượng nhân Thiền phòng, Trùng đáo Quỳnh Lâm Bích Động am lưu đề (Nguyễn Sưởng) đều ca ngợi thú vui nhàn tản, ca ngợi cảnh già lam thanh tịnh, ca ngợi thiên nhiên, thể hiện thái độ xem thường danh lợi, vừa mang ý vị Thiền đạo, vừa mang tính chất phóng nhiệm của Lão – Trang ( [26]. Ngoài ra, những «Thiền sư Việt Nam có khuynh hướng Lão – Trang rất nhiều, như Đạo Hạnh, Không Lộ, Giác Hải, Trí Thiền, Tĩnh Giới, Đạo Huệ, Viên Chiếu, Mãn Giác, Thiền Lão, Chân Không… » [37]. Tóm lại, Phật giáo Thiền Tông thời Lí Trần là kết quả của sự hoà hợp của ba nguồn du nhập nhưng có sự khác biệt với Thiền Tông Ấn Độ và Trung Quốc do chịu ảnh hưởng của văn hoá và thực tiễn của Đại Việt. Phật giáo Thiền Tông Lí Trần cũng có sự tích hợp với Nho giáo và Lão –Trang hình thành nên tư tưởng «Tam giáo đồng nguyên» đặc sắc của thời đại Lí Trần. 1.1.3. Về khái niệm ‘‘Thiền’’ và « thơ Thiền » 1.1.3.1. Khái niệm “Thiền”: «Thiền» theo Tự điển Hán – Việt của Thiều Chửu, "thiền" có nghĩa là l ặng nghĩ suy xét, đạo Phật lấy thanh tĩnh xét tỏ chân lí làm tôn chỉ nên gọi là «Thiền». Cũng gọi là «Thiền na»[5]. Còn theo Từ điển Phật học của Đoàn Trung Còn thì «Thi ền» là tiếng Phạn, gọi trọn chữ là «Thiền na» (Dhyana), cũng cùng nghĩa với Thiền định, tham Thiền, tư duy. Khái niệm này dùng với hai nghĩa động từ và danh từ[6]. Thiền là suy xét, thẩm nghĩ về đạo lí. Thiền cho lâu dài, cao viễn gọi là Nhập định, Đại định. Thiền là một cõi đạo nói ra không cùng, viết ra không xiết. Ấy là pháp môn giải thoát. Những người học đạo, giữ giới cần phải Thiền định. Nhờ Thiền định mới đắc Trí tuệ, giải thoát các sự phiền não: tham, sân, si. Thiền cũng là một nền hạnh trong sáu nền hạnh (Lục độ) mà một nhà tu trì thi hành từ đời này đến đời kia để đắc quả Phật Như Lai. Thiền không phải là ngồi yên một chỗ, im lặng và có những nghi thức tôn giáo rườm rà. Thiền là trú tâm chuyên nhất vào việc mình đang làm, hay vào th ời điểm hiện tại mình đang tồn tại, Thiền là buông bỏ và thuận theo tự nhiên, nhìn nhận mọi việc như nó là nó. Do đó, nếu trong cuộc sống tất cả mọi người đều chuyên tâm vào công việc và giây phút mình đang tồn tại, nếu tất cả đều có cái nhìn đúng đắn về sự việc thì mọi sự nghi hoặc, băn khoăn hay đau khổ do sự việc không thuận theo ý mình đ ều không còn nữa. Khi đó, cá nhân mỗi người sẽ được an lạc, và từ đó xã hội sẽ được an lạc, hạnh phúc. Thực hiện Thiền còn nhằm điều hoà và tạo sự cân bằng giữa hai yếu tố khoa học phát triển và tự nhiên trong con người. Thiền giúp thanh lọc không chỉ tâm con người mà còn làm cho cơ thể khoẻ mạnh, cải tạo và giải quyết được nhiều vấn nạn xã hội hiện đại. Khác với bất kì một hệ thống tư tưởng nào khác, “Thiền” không phải là một hệ thống khái niệm có thể lĩnh hội được bằng con đường lí trí hoặc phân tích khoa học. Tuỳ theo căn cơ, sở học, trình độ thực chứng của từng người, mỗi người có thể hiểu và lĩnh ngộ Thiền một cách rất khác nhau. Thiền có thể được hiểu là một phương pháp tu hành, một pháp môn giải thoát. Thiền là một khoa học thực nghiệm về tâm lí. Thiền là một giai đoạn tu luyện thứ bảy trong tám giai đoạn căn bản của khoa Yoga ở Bà La Môn giáo (giai đoạn Định niệm). Thiền là một thái độ sống, một phong cách sống của con người đã thực hiện được sự huyền đồng giữa Tiểu ngã với Đại ngã. Thiền là sự thức tỉnh của con người trước những ảo mộng của trần gian. Thiền còn là một phương pháp trị liệu của tâm hồn (Thiền liệu pháp)… Khi đi vào đời sống tâm linh và tư tưởng của Việt Nam, Thiền mang một số đặc trưng rất dễ nhận ra: Nhập thế (Thiền sư và người học Thiền sẵn sàng giúp vua, giúp nước, an dân), Vô ngôn (không câu nệ tụng niệm kinh kệ), Vô ngã (không có tự ngã), Vô thường (tất cả đều là hư ảo, luôn biến đổi), Tam giáo đồng nguyên (dung hoà với Nho giáo và Lão – Trang). 1.1.3.2. Khái niệm “thơ Thiền”: Trước năm 1975, trong các sách vở chưa có khái niệm “thơ Thiền” mà chỉ có các khái niệm kệ, thơ nhà chùa, thơ ca giới tu hành, thơ của các Thiền sư, thơ tăng… Mãi đ ến năm 1975, trong một số công trình nghiên cứu khái niệm “thơ Thiền” bắt đầu xuất hiện. Khái niệm này nhanh chóng được chấp nhận và sử dụng. Những công trình đầu tiên sử dụng khái niệm “thơ Thiền” phải kể đến là Huyền Quang và cách đọc thơ Thiền của Đỗ Văn Hỷ; Trần Tung, một gương mặt lạ trong làng thơ Thiền Lí Trần và Mãn Giác và bài thơ Thi ền nổi tiếng của ông của Nguyễn Huệ Chi. Sau đó, hàng loạt bài nghiên cứu của các nhà nghiên cứu khác liên tục được ra đời, khai thác những mặt khác nhau của thơ Thiền Việt Nam, đăng trên các báo, tạp chí, tập san khoa học trong những thập kỉ 80 và 90. Đến nay, khái niệm “thơ Thiền” đã được giới nghiên cứu sử dụng một cách phổ biến dù nội hàm của nó vẫn còn chưa được thống nhất. Từ trước đến nay có nhiều nhà nghiên cứu đã có những quan niệm khác nhau về khái niệm “thơ Thiền”. Đại thể, chúng tôi thấy có ba quan niệm khác nhau về nội hàm của khái niệm này đang tồn tại là: - Thơ Thiền chỉ là những bài kệ, tụng cổ, bài thơ triết lí, nhằm nêu lên một quan niệm hay một bài học Thiền nào đó dùng để ngộ đạo và truyền đạo. - Thơ Thiền không phải là kệ Thiền, cũng không phải là thơ ca thuần tuý. Nó nằm giữa kệ và thơ, vừa có ảnh hưởng triết lí Thiền, vừa mang những rung động có tính thẩm mỹ. - Thơ Thiền là thơ của các nhà sư và cả của những người không đi tu nhưng am hiểu và yêu thích Phật giáo, hình thức trực tiếp hay gián tiếp dùng hình ảnh, ngôn ngữ nhà Phật, nội dung trực tiếp hay gián tiếp nêu lên một triết lí Thiền, một bài học Thiền, một cảm xúc hay một tâm trạng Thiền khi nhận thức và giải minh thế giới. Cũng trong quan niệm này, thơ Thiền là một khái niệm có tính chất bao quát nhiều bộ phận thơ ca nhà chùa: kệ Thiền, tụng cổ, thơ triết lí, thơ thù tạc, tán tụng Thiền, cả thơ cảm xúc, tâm trạng Thiền. Lúc đầu, thơ Thiền chủ yếu là kệ. Về sau có sự xuất hiện của nhiều thể loại khác nhưng kệ vẫn là thể loại trung tâm của thơ Thiền. Tuỳ theo sắc độ Thiền đậm nhạt, bài thơ sẽ được xác định là “cận tâm” hay “viễn tâm” so với kệ. Có thể nói, càng về sau, thơ Thiền được mở rộng không chỉ về tác giả, nội dung mà còn cả về thể loại. Trong những quan niệm trên, quan niệm thứ ba là quan niệm đầy đủ và dễ chấp nhận. Cách xác định về thơ Thiền của Đoàn Thị Thu Vân trong Khảo sát những đặc trưng nghệ thuật của thơ thiền Việt Nam thế kỷ XI – thế kỷ XIV (NXB Văn học, 1996), thuộc về quan niệm thứ ba, được chúng tôi chọn để làm cơ sở nhận diện và nghiên cứu thơ Thiền trong đề tài này: Thơ Thiền là những bài thơ của các tác giả là Thiền sư hoặc không phải là Thiền sư nhưng hâm mộ Thiền, có nghiên cứu và hiểu biết về Thiền sáng tác để trực tiếp hay gián tiếp thuyết giảng về yếu chỉ Thiền Tông; bày tỏ cảm xúc mang ý vị Thiền trước cái đẹp của thiên nhiên, con người, cuộc sống; hoặc bày tỏ tâm tư đã giác ngộ chân lí, miêu tả cái đẹp vi diệu của thế giới bên trong tâm hồn con người. [44] 1.2. Thơ Thiền Việt Nam thời Lí – Trần 1.2.1. Phật giáo Thiền Tông với thời đại Lí – Trần: 1.2.1.1.Phật giáo Thiền Tông Việt Nam với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước: Như đã nói ở trên, đặc điểm của Thiền Tông Việt Nam là sự gắn kết giữa Đạo và Đời, là tinh thần “phá chấp”, “nhập thế”, là tư tưởng “vô ngã”. Cho nên những Thiền sư, những người tu Phật hoặc mến mộ Thiền học đều không câu nệ phân biệt việc đạo hay việc đời, không thoát ly thế sự mà nhập thế để giúp vua, giúp nước, lấy ý dân làm ý mình, yêu dân như con, đánh đuổi xâm lược để đem lại cuộc sống yên bình, ấm no cho nhân dân… Tất cả những điều đó góp phần tạo nên tinh thần nhân văn cao đẹp của thời đại Lí Trần. Những đóng góp của phật giáo Thiền Tông đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, thể hiện cụ thể ở hai phương diện: con người và tư tưởng. Về phương diện con người, nhiều Thiền sư cũng là những công dân có công lớn trong công cuộc xây dựng cũng như bảo vệ đất nước. Nhìn lại lịch sử thời đại Lí Trần, người đời sau không khỏi thán phục vì sự kết hợp đặc biệt này. Rất nhiều Thiền sư cũng đồng thời là nhà chính trị, ngoại giao đã đóng góp tài năng, trí tu ệ, học vấn trong cả lĩnh vực đối nội và đối ngoại, nhằm duy trì nền hoà bình tự chủ của dân tộc, tạo phước cho muôn dân. Đại sư Khuông Việt từng là người phò giúp Đinh Tiên Hoàng, v ề sau còn giúp Lê Đ ại Hành trị nước. Thiền sư Pháp Thuận từng phò tá nhà Tiền Lê, cùng với Đại sư Khuông Việt giữ những công việc cố vấn quan trọng dưới triều đại này, có lần được cử đi tiếp đón sứ giả nhà Tống là Lý Giác, làm cho sứ giả ngạc nhiên và kính phục. Thiền sư Vạn Hạnh giúp Lê Đại Hành chống giặc ngoại xâm giữ nước, sau lại giúp Lí Công Uẩn lên ngôi, lập nên vương triều Lí. Quốc sư Viên Thông làm quan đến chức Tả hữu giai Tăng Thống, từng trình bày với vua Lý Thần Tông về lẽ hưng vong, trị loạn của xã tắc, được các vua Lí Nhân Tông, Thần Tông, Anh Tông coi như công thần bậc nhất. Các Thiền sư Nguyện Học, Tịnh Giới giúp dân trị bệnh, cầu mưa, được vua xem trọng; Thiền sư Trí Thiền giữ chức Cung hậu thư gia. Thiền sư Thường Chiếu giữ chức Lệnh đô tào. Thiền sư Huyền Quang nổi tiếng thơ hay văn giỏi, từng thay vua tiếp sứ phương Bắc… Bên cạnh đó các vua, quan, vương hầu, hoàng tộc đa số là Phật tử đều có những đóng góp lớn lao cho dân tộc và thời đại với những công đức còn được nhiều đời sau truyền tụng. Về phương diện tư tưởng, do thời đại Lí Trần lấy Phật giáo làm Quốc giáo nên tư tưởng từ bi, bác ái, hỷ xả, phá chấp cùng với tinh thần vô ngã và tư tư ởng thân dân đã chi phối con người thời đại này, làm cho họ có được những phẩm chất mà người đời sau khó theo kịp – tự tin, hào hùng, phóng khoáng, ngh ĩa hiệp. Những phẩm chất ấy thể hiện ở những hành động cao đẹp, hiếm thấy: làm vua ở ngôi cao lộc cả, vẫn không quên lo cho dân, thương dân như cha mẹ yêu con, khoan giảm tội cho người không hiểu biết pháp luật mà phạm phải, ban áo ấm cho tù nhân (Lí Thánh Tông), có thể dễ dàng lìa bỏ ngai vàng như “trút bỏ một chiếc giày rách” (Trần Thái Tông), dám tin dùng con của kẻ có thù nghịch với mình (Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông), xuất gia đi tu dù đang ở đỉnh cao phong độ (Trần Nhân Tông), luôn day dứt ăn năn về lỗi lầm của mình (Trần Minh Tông), làm bề tôi vì đại nghĩa mà bỏ qua tư thù (Trần Quốc Tuấn), làm bà hoàng mà chăm lo đến cuộc sống của muôn dân (Ỷ Lan Nguyên Phi)… 1.2.1.2. Phật giáo Thiền Tông Việt Nam với văn hóa và văn nghệ dân gian: Tuy có sự sa sút vào cuối đời Trần nhưng nhìn chung trong suốt thời đại Lí Trần, Phật giáo vẫn giữ vị trí Quốc giáo và đóng vai trò là h ệ tư tưởng chủ đạo chi phối toàn bộ đời sống văn hoá – xã hội (đã trình bày ở trên). Sự gặp gỡ giữa cá tính của con người Việt Nam (lạc quan, cởi mở, hào hiệp, nhân ái) với tinh thần thần bình đ ẳng, bác ái, vị tha và chủ trương “nhập thế” của Phật giáo đã tạo nên nền văn hoá Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc, mang dấu ấn Phật giáo rõ nét. Những công trình kiến trúc, điêu khắc nổi tiếng ở Việt Nam hoặc trực tiếp là kiến trúc, điêu khắc Phật giáo, hoặc ít nhiều chịu ảnh hưởng của Phật giáo. Thời Lí Trần, như sử gia Lê Văn Hưu đã viết: “Nhân dân quá nửa là sư sãi, trong nư ớc chỗ nào cũng có chùa chiền…”. Chính vì vậy mà nhiều công trình kiến trúc, điêu khắc nổi tiếng như “An Nam tứ đại khí” (vạc chùa Phổ Minh, tháp chùa Báo Thiên, chuông chùa Quy Điền, tượng Phật chùa Quỳnh Lâm) cũng là những công trình kiến trúc, điêu khắc Phật giáo. Phần lớn danh lam thắng cảnh của nước ta cũng là chùa chiền như: Chùa Diên Hựu (chùa Một Cột–Hà Nội), chùa Yên Tử (Quảng Ninh), Thiền Viện Trúc Lâm (Đà Lạt), chùa Dâu (còn có tên khác là Pháp Vân, Thiền Định, Duyên Ứng–Bắc Ninh), chùa Côn Sôn (Hải Hưng), chùa Keo (Thái Bình), chùa Trấn Quốc, chùa Láng, chùa Quán Sứ, chùa Liên Phái, chùa Hương (Hà Nội), chùa Đậu, chùa Trăm Gian, chùa Mía, chùa Thiên Trù - Hương Sơn (Hà Tây), chùa Thiên Mụ (Thừa Thiên-Huế), chùa Xá Lợi, chùa Vĩnh Nghiêm (Tp.HCM) [33] Chùa không chỉ là nơi tu hành mà từ xưa, nó còn là nơi diễn ra nhiều sinh hoạt văn hoá dân gian mà một trong những hình thức phổ biến của nó là những lễ hội Phật giáo. Người ta thống kê hàng năm trên nước ta có khoảng năm trăm lễ hội. Trong đó, lễ hội Phật giáo chiếm một số lượng rất lớn. Có thể kể đến hội chùa Thầy, lễ hội chùa Hương, lễ hội Quán Thế Âm, lễ Phật Đản, lễ Vu Lan, lễ hội Tắm Phật, lễ hội Yên Tử….Những lễ hội này, ngoài phần “lễ” có tính chất nghiêm trang của những lễ nghi Phật giáo còn có phần “hội” để mọi người vui chơi và tổ chức những sinh hoạt văn hoá truyền thống. Theo truyện Man Nương (Việt điện u linh tập), ngày hội Tắm Phật mùng 4 tháng 4 âm lịch hàng năm còn là dịp để trai gái bốn phương tụ họp về đây vui chơi, ca múa. Hội chùa Thầy từ mùng 5 đến mùng 7 tháng 3 âm lịch hàng năm không chỉ có những nghi thức tôn giáo mà còn có trò múa rối nước mang đậm sắc thái dân gian (múa rối tích Thạch Sanh, Tấm Cám hoặc các cảnh sinh hoạt dân dã như đi cày, chăn vịt, đấu vật…) mà ngày nay có tiếng vang ở nhiều nước. Trai thanh gái lịch gần xa tìm đến hội chùa Thầy còn để thỏa mãn tính mạo hiểm khi leo núi và khao khát bày tỏ tình yêu trong một khung cảnh thiên nhiên rộng mở như ca dao đã ghi lại: “Gái chưa chồng trông hang Cắc Cớ; Trai chưa vợ nhớ hội Chùa Thầy”. Hội chùa Đọi ngày 2._.ng nhảy lên ngọn trúc (trong bài Chí đạo vô nan – Tuệ Trung), lấy ý từ câu nói của Phu nhân ông Mai Thánh Du, đời Tống (Trung Quốc). “Oa giác mộng” nghĩa là giấc mộng sừng con sên, ý nói giấc mộng danh lợi (trong bài Đề Gia Lâm tự - Trần Quang Triều), lấy điển tích trong sách Trang Tử. Bên cạnh đó là những điển tích Phật giáo khá quen thuộc như: Thiếu Thất, Tào Khê, Hoàng Mai, Lư Thị, Nê ngưu, Thạch hổ, chấp chỉ vong nguyệt, Tây lai ý,…… Những khảo sát trên cho thấy thơ thiền đời Trần đã mượn và sử dụng những điển cố, điển tích, từ ngữ và cách diễn đạt của Nho và Lão Trang một cách rộng rãi, linh hoạt, sáng tạo. Điều đó cho thấy tinh thần cởi mở, phóng khoáng về mặt tư tưởng của các thiền sư - thi sĩ thời này, đồng thời cũng là một minh chứng hùng hồn cho sự khẳng định: Phật học đời Trần có sự giao hòa với những quan niệm nhân sinh tích cực của Nho học, gần gũi, dung hòa tích cực với Đạo học trong quan niệm về bản thể vũ trụ, trong cách nhìn biện chứng đối với vạn vật và trong quan niệm sống “tu tâm” (Phật) hay “quy chân phản phác” (Đạo) để trở về hòa đồng cùng với bản thể. Sở dĩ có được điều đó là bởi vì các thiền sư tinh thông Phật học thường cũng tinh thông cả Tam giáo và tìm thấy được ở Nho và Đạo những điểm đồng điệu. Về mặt từ ngữ, thơ thiền đời Trần khá phong phú các từ nghi vấn (hà, na, thùy, thục, quân bất kiến…), các từ phủ định (hưu, vật, mạc, bất, tu, phi, vô...) và các từ tán thán (đốt đốt, hu hu, di di…). Ví dụ như: Thùy phọc cánh tương cầu giải thoát Bất phàm hà tất mịch thần tiên? (Ai trói buộc chi tìm giải thoát Khác phàm đâu phải kiếm thần tiên?) (Sơn phòng mạn hứng – Trần Nhân Tông) Cảnh bức tây sơn mộ Hà thời tích thốn âm? (Vừng hồng đà gác núi Tấc bóng tiếc chăng ai?) (Nhật một vô thường kệ - Trần Thái Tông) Hay: Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền. (Trong nhà có báu, tìm đâu nữa, Trước cảnh vô tâm, chớ hỏi thiền). (Cư trần lạc đạo phú – Trần Nhân Tông) Nhược vị tâm không lai ứng cử Bất tao tiên thát tất tao quyền. (Nếu đem tâm không đến để dự thi Thì không bị roi quất cũng bị cú đấm). (Niêm tụng kệ - Trần Thái Tông) Hoặc: Đốt đốt phù vân hề phú quý Hu hu quá khích hề niên quang. (Ối ối! Giàu sang chừ, như áng mây nổi Chà chà! Năm tháng chừ, bóng ngựa lướt ngang!). (Phóng cuồng ngâm – Tuệ Trung) Di! Di! Di! Đốt! Đốt! Đốt! Đại hải trung âu nhàn xuất một Chư hạnh vô thường nhất thiết không. (Chà! Chà! Chà! Ối! Ối! Ối! Bọt trong biển cả thấy chìm nổi Muôn pháp vô thường nhất thiết không.) (Phật tâm ca – Tuệ Trung) Những từ ngữ này có tác dụng thể hiện sự trăn trở sâu sắc về sự hữu hạn của kiếp người và ý nghĩa c ủa đời người; đồng thời cũng hàm ch ứa trong đó những lời kêu gọi, khuyên bảo, cảnh tỉnh một cách ân cần, chí thiết, phần nào vượt ra ngoài truyền thống “vô ngôn” của thiền mà ở thơ thiền đời Lí ít khi bắt gặp. Cũng chính vì thế mà ngôn ngữ thơ thiền đời Lí đạt tính hàm súc cao hơn so với thơ thiền đời Trần. Bằng chứng là các bài thơ thiền đời Lí phần lớn có dung lượng nhỏ hơn so với thơ thiền đời Trần. 3.6. Giọng điệu: Giọng điệu trong thơ là phần linh hồn của tác phẩm, diễn tả cái ý ngoài lời, khi ngôn từ đã hết nhưng âm hưởng vẫn vang vọng lan truyền trong tâm hồn người đọc, tạo nên cái “dư ba” cho thơ. Thơ thiền Lí Trần có ba kiểu giọng điệu: giọng điệu điềm tĩnh, khách quan; giọng điệu khôi hài, trào lộng và giọng điệu tình cảm. Giọng thơ cũng là một trong những phương diện có sự khác biệt giữa thơ thiền đời Lí và đời Trần mà chúng tôi muốn đề cập sau đây. Do thiên về tính chất triết học nhiều hơn với mục đích trực tiếp giảng giải những yếu chỉ thiền học nên thơ thiền đời Lí chủ yếu mang giọng điệu điềm tĩnh, khách quan mà rất ít những bài mang giọng khôi hài, trào lộng.. Giọng điệu điềm tĩnh, khách quan phần nào thể hiện chủ trương “vô ngôn” của thiền. Giọng điệu này cũng thích h ợp với thể loại kệ (vốn chiếm đa số trong thơ thiền đời Lí) và cũng thích hợp với hoàn cảnh các thiền sư dặn bảo đồ đệ của mình những yếu chỉ thiền, thể hiện cái tâm an nhiên, bình thản của người đã đạt đạo trước lúc viên tịch. Mộc trung nguyên hữu hỏa Nguyên hỏa phục hoàn sinh. Nhược vị mộc vô hỏa Toản toại hà do manh. (Lửa trong cây có sẵn Dù tắt lại bùng ngay Nếu bảo cây không lửa Xát mạnh sao cháy cây). (Nguyên hỏa – Khuông Việt) Ly tịch phương ngôn tịch diệt khứ, Sinh vô sinh hậu thuyết vô sinh. Nam nhi tự hữu xung thiên chí Hưu hướng Như Lai hành xứ hành. (Thoát tịch diệt xong, bàn tịch diệt Sau vô sinh, hãy nói vô sinh. Làm trai lập chí xông trời thẳm Theo bước Như Lai luống nhọc mình). (Thị tịch – Quảng Nghiêm) Thu lai bất báo nhạn lai quy Lãnh tiếu nhân gian động phát bi. Vị báo môn nhân hưu luyến trước Cổ sư kỷ độ tác kim sư. (Thu về chẳng báo nhạn theo bay Cười nhạt người đời những xót vay. Thôi hỡi môn đồ đừng quyến luyến Thầy xưa mấy lượt hóa thầy nay). (Thị tịch cáo đại chúng – Đạo Hạnh) Tất cả những ví dụ vừa nêu trên đều là những bài kệ thị tịch – dặn dò môn nhân trước lúc qua đời. Các bài Thị đệ tử (Vạn Hạnh), Thị tịch (Ngộ Ấn), Cáo tật thị chúng (Mãn Giác), Chân dữ huyễn (Định Hương), Hữu tử tất hữu sinh (Vạn Trì Bát), Thị tịch (Bản Tịnh)... cũng là những trường hợp có giọng điệu như thế. Những bài kệ không phải được làm trước lúc thị tịch của các nhà sư như: Đáp Lí Thái Tông tâm nguyên chi vấn (Huệ Sinh), Đáp Từ Đạo Hạnh chân tâm chi vấn (Kiều Trí Huyền), Đáp tăng vấn (Hiện Quang), Hoa điệp (Giác Hải), Nhật nguyệt (Thiền Lão)… mà dùng để giác ngộ, truyền đạo khi có người đến tham vấn về đạo học cũng thường được đọc lên bằng giọng điệu khách quan, điềm tĩnh vừa thể hiện cái tâm trong sáng, không vướng mắc của các thiền sư, vừa góp phần khẳng định và làm tăng tính hùng biện cho những chân lí được các thiền sư đúc kết. Trong khi đó, ở thơ thiền đời Trần giọng điệu này không xuất hiện nhiều mà chủ yếu là giọng khôi hài, trào lộng tập trung trong loại thơ bàn luận về những công án thiền hay đối đáp giữa thầy và trò (như Niêm tụng kệ, Ngữ lục vấn đáp môn hạ (Trần Thái Tông), Tụng cổ, Đối cơ (Tuệ Trung), Sư đệ vấn đáp (Trần Nhân Tông) và giọng trữ tình trong các bài thơ có cảm hứng từ thiên nhiên, cuộc sống. Ở giọng điệu thứ nhất, có thể thấy nhiều bài thơ thiền đời Trần tuy mang tính chất lí luận nhưng tác giả đã khéo dùng những hình ảnh dí dỏm và cách diễn đạt khôi hài để làm cho lí luận không khô khan mà trở nên gần gũi, thú vị, giàu sức thu hút. Câu chuyện khổ cầu chân lí của Huệ Khả trước Bồ Đề Đạt Ma vốn nghiêm trang lại được Trần Thái Tông quan sát, thể hiện bằng giọng điệu trào lộng hóm hỉnh: Tâm kí vô tâm đạo hướng thùy? Mộng hồi á tử nhãn ma di. Lão tăng man đạo năng an cánh Tiếu sát bàng quan bất tự tri. (Tâm đã vô tâm nói với ai? Thằng câm tỉnh mộng mắt tròn ngây. Tăng già nói láo an rồi đó Cười ngất người ngoài chẳng tự hay). (Niêm tụng kệ - Trần Thái Tông) Góp phần tạo nên giọng điệu trào lộng phải kể đến những tác dụng của những hình ảnh dí dỏm, khôi hài. Trong Niêm tụng kệ, rất nhiều những đoạn niêm, tụng sử dụng những hình ảnh như thế: Đàn không dây gảy khúc dương xuân Vang mãi muôn đời âm chẳng dứt. ………………………………………. Đứa trẻ lên ba ôm trống giấy Ông già tám chục khoác áo cầu. ………………………………… Bình sinh làm bạn với ma men Nhà ở thường như quán rượu quen Ví thử khoe mình người láu lỉnh Giữa đường phải cởi áo cầm tiền. (Niêm tụng kệ - Trần Thái Tông) Những chân lí thiền uyên thâm cũng được Tuệ Trung thể hiện bằng nhiều hình ảnh lạ lùng và những câu thơ có giọng điệu trào lộng, giễu cợt với mục đích đả phá những vọng kiến, lầm lạc hoặc cái nhìn nhị nguyên của người học đạo: ………………….. Cao giọng để im đi Bỏ bánh mà ăn bột. …………………… Người gỗ múa thác chi Gái đá thổi tất lật. …………………. Hai phía đều chẳng động Động ở phía nhà ngươi. ………………………. (Tụng cổ - Tuệ Trung) Muốn hay điều chân thực Hổ đá cắn dê vàng (Thị đồ - Tuệ Trung) Tâm kia, lại muốn tìm ma quỷ Cá vọt cành tre có khác đâu (Chí đạo vô nan – Tuệ Trung) Học đạo mênh mang ai có hay Gạch đem mài gạch, nhọc nhằn thay. (Thị học – Tuệ Trung) Ngoài giọng điệu khôi hài, trào lộng, thơ thiền đời Trần đa số là những bài mang giọng điệu trữ tình, đặc biệt ở những bài thơ bộc lộ nhiều tình cảm thế tục. Điều này thể hiện chủ trương đại chúng hóa Thiền tông ở đời Trần mà người khởi xướng là Trần Thái Tông. Tinh thần này được Tuệ Trung, Trần Nhân Tông… tiếp nối, phát huy và trở nên phổ biến, thuần thục ở Huyền Quang. Trên tinh thần và chủ trương đó, nhiều bài thơ của Trần Thái Tông, Tuệ Trung, Trần Nhân Tông... đặc biệt là những bài thơ của Huyền Quang, khó có thể phân biệt đâu là thiền, đâu là thế tục. Ở những bài thơ dạng này, chất triết lý Thiền tông và chất trữ tình thế tục đã hòa quyện vào nhau một cách nhuần nhuyễn, tạo ra một bộ phận thơ ca độc đáo, có sức hấp dẫn đặc biệt đối với bạn đọc nhiều thế hệ. 3.7. Thể loại: Tư tưởng thiền cởi mở, phóng khoáng và phá chấp triệt để cũng như chủ trương kết hợp giữa đốn ngộ và tiệm ngộ, vừa truyền đạo theo lối vô ngôn, vừa giác ngộ người khác bằng những lời lẽ ân cần, chí thiết của thiền học đời Trần không chỉ ảnh hưởng đến cảm hứng, hình tượng, ngôn ngữ, giọng điệu của thơ thiền thời này mà còn chi phối cả về mặt thể loại. Bằng chứng là trong thơ thiền đời Trần có nhiều thể loại không tìm thấy ở thơ thiền đời Lí. Đó là Niêm tụng kệ và Tụng cổ. Đây là hai thể loại đặc thù của đời Trần mà đời Lí chưa có. Hiện tượng này ngoài những nguyên nhân vừa nêu trên còn có nguyên nhân khác – đến đời Trần Thiền tông đã phát triển mạnh, ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống các tầng lớp và con người có nhu cầu trình bày những gì đã giác ngộ được. Niêm tụng kệ và Tụng cổ là hai thể loại mà ở đó có sự kết hợp giữa ngữ lục và kệ nhằm mục đích vừa diễn giải, vừa đúc kết những vấn đề cốt yếu của thiền để học trò dễ ghi nhớ. Theo tư liệu văn học Phật giáo thì ở đời Trần chỉ có hai tác giả có để lại tác phẩm thuộc thể loại này là Trần Thái Tông với Niêm tụng kệ trong Khóa hư lục và Tuệ Trung Thượng sĩ với Tụng cổ trong Thượng sĩ ngữ lục. Nhìn chung, về mặt hình thức, hai thể loại này có kết cấu gần giống nhau, gồm nhiều tiết, mỗi tiết bao gồm ba phần. Ở Niêm tụng kệ mỗi tiết gồm: cử, niêm và tụng. Còn ở Tụng cổ có khác đi chút ít, gồm: cử, luận (sư vân) và tụng. Cử là nêu lên một câu chuyện trong Phật thoại hoặc lời giảng đạo của các Tổ sư, cao tăng đời trước để làm lời dẫn có tính chất nêu vấn đề. Niêm (sư vân) là nêu ý ki ến của tác giả về vấn đề mà phần cử nêu ra bằng cách giải thích, bàn bạc, có khi bổ sung hay phản bác lại vấn đề đó, có tính chất bàn luận vấn đề. Tụng là phần tóm tắt những kiến giải của tác giả thành một bài kệ cô đọng, có vần, có hình ảnh để người học đạo tụng và ghi nhớ, phần này có tính chất giải quyết và kết thúc vấn đề. Nhìn khái quát hơn một chút, chúng ta thấy là thể loại Niêm tụng kệ và Tụng cổ là hình thức phát triển cao hơn và có kế thừa các thể loại kệ, ngữ lục và đối đáp thầy trò. Chính vì vậy mà nhìn chung, hình thức đối đáp giữa thầy và trò trong thơ thi ền đời Trần cũng phổ biến hơn trong thơ thiền đời Lí mặc dù đời Lí cũng có. Trong khi ở đời Lí thì thể loại Kệ lại phổ biến hơn rất nhiều so với đời Trần. Cụ thể là đời Lí có 36/47 đơn vị tác phẩm được khảo sát thuộc thể loại kệ (chiếm tỷ lệ 76,59%). Trong khi đó, con số này ít hơn nhiều ở đời Trần - chỉ có 6/62 đơn vị tác phẩm được khảo sát thuộc thể loại kệ (chiếm 9,68%). Xét về mặt dung lượng, thơ thiền đời Lí không có nhiều bài có dung lượng lớn như thơ thiền đời Trần (Phật tâm ca, Phóng cuồng ngâm, Phàm thánh bất dị, Sinh tử nhàn nhi dĩ, chùm thơ Cúc hoa, Giới am ngâm…). Xét về thể thơ, đời Lí sử dụng thể thơ ngũ ngôn nhiều hơn (có 23/47 bài viết theo thể ngũ ngôn), chiếm tỷ lệ 48,94%; trong khi đời Trần sử dụng thể thất ngôn nhiều hơn (có 41/62 bài viết theo thể thất ngôn), chiếm 66,13%. Hiện thực này có nguyên nhân từ chỗ: ở đời Lí Thiền tông chủ trương truyền đạo theo hướng “tâm truyền”, quan niệm “đốn ngộ” nên các thiền sư thường không cần những lời lẽ dông dài và dĩ nhiên những thể loại thơ có luật, ngắn gọn là phù hợp nhất trong sự lựa chọn của họ. Ngược lại, đến đời Trần, Phật giáo Thiền tông có phần phóng khoáng hơn: kết hợp giữa “đốn ngộ” và “tiệm ngộ”, giữa chủ trương “tâm truyền” và những lời lẽ cụ thể, ân cần, chí thiết giúp người học có thể bằng nhiều cách đến được bến bờ của sự giác ngộ. Chính vì thế mà các thiền sư đời Trần, bên cạnh việc sử dụng những thể loại thơ ngắn gọn súc tích, có dung lượng nhỏ, còn chú ý sử dụng các thể loại có dung lượng lớn hơn để phục vụ một cách đầy đủ nhất cho nhu cầu giảng giải những yếu chỉ thiền học vốn uyên thâm và khó chiếm lĩnh đối với những người còn thiếu căn cơ. 3.8. Kết cấu: Kết cấu là một yếu tố thuộc về nghệ thuật, góp phần tạo nên giá trị và sự hấp dẫn của tác phẩm văn học. Ở chương 2, chúng tôi đã kh ảo sát một số dạng kết cấu của thơ thiền Lí Trần nói chung. Đến đây, chúng tôi muốn đề cập đến sự dị biệt về mặt kết cấu giữa thơ thiền đời Lí và thơ thiền đời Trần, dù không nhiều nhưng thiết nghĩ cũng góp phần tạo nên cái nhìn toàn diện, đầy đủ hơn về thơ thiền của hai triều đại tưởng như không có gì khác nhau này. Trong thơ thiền đời Trần, dạng kết cấu trùng lặp được tìm thấy nhiều hơn so với thơ thiền đời Lí và chủ yếu tập trung trong các tác phẩm của Trần Thái Tông, Tuệ Trung, Trần Nhân Tông.Ví dụ ở bài Phật tâm ca (Tuệ Trung) với một kết cấu trùng lặp trong suốt 11 khổ thơ: 2 câu đầu (mỗi câu 3 chữ) cô đúc ý chính của cả khổ, những câu còn lại triển khai và làm rõ ý chính của khổ. Dạng kết cấu trùng lặp ở đây phát huy được tác dụng vốn có của nó – nhấn mạnh và khắc sâu vấn đề mà tác giả muốn thể hiện và muốn nhắn gửi tới người đọc, người nghe - “hãy bỏ cả tâm và Phật, đừng bám vào một cái nào cả”(ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm). Ở hai tác phẩm Niêm tụng kệ (Trần Thái Tông) và Tụng cổ (Tuệ Trung), kết cấu trùng lặp được sử dụng khá phổ biến. ………………………………………… Nêu: - Lão Tử nói: “Vinh nhục đều sợ như nhau”. Sư nói: Tay khéo vẽ nên ngàn sự vật, Lòng càng thêm nảy vạn lo âu. Tụng rằng: Nồng cởi áo ra, lạnh khoác vô Không nồng, không lạnh biết sao giờ? Xem màu liễu ngự hoa cung ấy, Lọ phải tìm xuân hỏng bốn mùa. Nêu: - Lâm Tế đến thăm tháp chủ. Tháp chủ hỏi: “Lễ Phật trước? Hay lễ Tổ trước?”. Sư đáp: “Tổ và Phật đều không lễ”. Tháp chủ hỏi: “Tổ, Phật với Trưởng lão có chuyện oan nghiệt gì mà không lễ?”. Sư phất tay áo đi ra. Sư nói: Được cởi đầu hổ, Chớ vuốt râu hùm. Tụng rằng: Một phen phất áo bước thong dong, Tháp chủ trừng trừng, giận chẳng xong. Phật, Tổ rốt cùng đều chẳng lễ, Ngọc ngân khe sớm, ánh thu trong. ……………………………………… (Tụng cổ - Tuệ Trung) Ví dụ vừa nêu là hai tiết trong Tụng cổ của Tuệ Trung. Tác phẩm cứ như thế kéo dài cho đến hết. Nguyên nhân trước tiên là bởi vì hai thể loại này vốn bao gồm nhiều tiết mà mỗi tiết lúc nào cũng g ồm ba phần và mỗi phần thực hiện một chức năng cố định. Dĩ nhiên là ngoài nguyên nhân tất nhiên đó còn có nguyên nhân khác - các thiền sư muốn đúc kết những yếu chỉ thiền lần lượt thành những bài kệ theo những dạng giống nhau, giúp học trò dễ “tụng”, dễ thuộc và dễ nhớ. Ngược lại, trong thơ thiền đời Lí, kết cấu giả thiết – kết luận chiếm tỷ lệ lớn hơn nhiều so với thơ thiền đời Trần. Ví dụ: Giáo ngoại khả biệt truyền, Hi di tổ Phật uyên. Nhược nhân dục biện đích, Dương diệm mịch cầu yên. (Truyền riêng ngoài giáo lí, Vi diệu ấy nguồn thiền. Nếu ai muốn phân biệt, Tìm khói trong hảo huyền). (Hi di – Tô Minh Trí) Hoặc: Trí giả do như nguyệt chiếu thiên, Quang hàm trần sát chiếu vô thiên. Nhược nhân yếu thức vô phân biệt, Lĩnh thượng phù sơ tỏa mộ yên. (Trí tuệ như trăng chiếu khắp trời, Sáng trùm trần thế chẳng riêng ai. Ví người hiểu lẽ không phân biệt, Núi phủ mây chiều cây cỏ tươi). (Cảm hoài – Bảo Giám) Hoặc là: Bất giác nữ đầu bạch Báo nhĩ tác giả thức Nhược vấn Phật cảnh giới Long Môn tao điểm ngạch. (Biết dùng gái đầu bạc Bảo ông người khéo biết Nếu hỏi cảnh giới Phật Cửa rồng gặp điểm trán). (Thị chúng kệ - Giác Hải) Dạng kết cấu này thường dùng trong những tác phẩm đề cập đến những vấn đề có nhiều tranh luận, hoài nghi nhằm đạt đến một sự khẳng định mạnh mẽ, giải quyết triệt để vấn đề. Giả thiết thường được nêu ở câu thứ ba trong một bài thơ tứ tuyệt còn hai câu đ ầu dùng để trình bày quan điểm của tác giả. Giả thiết thông thường là một phản đề được nêu ra với mục đích bác bỏ, khẳng định nó sai và kết luận là một chân lí được rút ra dưới dạng tường minh hoặc hàm ẩn dưới dạng những hình ảnh, những cách nói mang đặc trưng của mỹ học thiền là tùy vào từng bài và từng tác giả nhất định. Dạng kết cấu này ở đời Lí nhiều gấp rưỡi lần so với đời Trần bởi dạng kết cấu này thích hợp với phần lớn những bài thơ lí luận mang tính chất triết học đời Lí. *Ý nghĩa của những nét dị biệt giữa thơ thiền đời Lí và đời Trần: Thơ thiền đời Lí và thơ thiền đời Trần tồn tại và phát triển dưới hai triều đại khác nhau, trong hai khoảng thời gian khác nhau của lịch sử dân tộc nên cố nhiên sẽ tồn tại những điểm dị biệt bên cạnh những điểm tương đồng. Tuy nhiên, trước nay người ta thường gộp hai triều đại Lí và Trần thành một trong cái tên gọi chung là thời Lí Trần trong nghiên cứu văn hóa cũng như văn học. Khi nghiên cứu văn học thời Lí Trần, cụ thể là thơ thiền người ta thường nghiên cứu những nội dung như văn học Phật giáo thời Lí Trần, thơ thiền Lí Trần, văn học đời Lí, văn học đời Trần…, còn những dị biệt giữa văn học đời Lí và đời Trần, giữa thơ thiền đời Lí và đời Trần thì chỉ tìm thấy rải rác trong các công trình nghiên cứu của các vị tiền bối chứ chưa được chú trọng nghiên cứu một cách bài bản. Vì vậy, việc chỉ ra những điểm dị biệt giữa thơ thiền đời Lí và thơ thiền đời Trần ở đây, dù có lẽ chưa thật sự đầy đủ, xác đáng nhưng cũng có th ể góp thêm một khía cạnh nữa giúp cho cái nhìn về thơ thiền Lí Trần được toàn diện và sâu sắc hơn. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Quá trình đi từ thơ thiền đời Lí đến thơ thiền đời Trần là quá trình đ ại chúng hóa thơ thiền, giúp thơ thiền hòa nhập vào cuộc sống. Nếu như thơ thiền đời Lí tồn tại như những bài kệ thuyết giáo có giá trị văn học chủ yếu được biết đến trong phạm vi nhà chùa thì thơ thiền đời Trần đã vượt ra khỏi giới hạn đó và đã đi vào cuộc sống, tồn tại như những tác phẩm văn học thực thụ, đi vào lòng ngư ời đọc một cách tự nhiên và làm lay động tâm hồn biết bao nhiêu thế hệ. Trong lịch sử phát triển của thơ thiền, có thể nói rằng, thơ thiền đời Lí là sự khởi đầu tốt đẹp và tạo ra được nhiều thành tựu như những bông hoa sen đầu mùa, hàm tiếu, tinh khôi, còn đọng quanh mình những giọt sương sớm long lanh. Để đến thời Trần, những bông hoa sen ấy được tắm mình trong ánh nắng bình minh và rộ nở, mang đến cho cuộc đời ngàn hoa rực rỡ, ngát hương. Thơ thiền Lí Trần từ khi ra đời cho đến nay đã hơn mười thế kỉ, vậy mà những giá trị và sức hấp dẫn của nó vẫn còn nguyên vẹn, vẫn trẻ trung và tươi mới, là một kho tri thức vô tận để mọi người tìm tòi, nghiên cứu, giống như mảnh đất nhiều phù sa, màu mỡ mà trải bao năm tháng qua người nông phu cứ gieo trồng nhiều loại cây khác nhau mà vẫn có được những vụ mùa bội thu. Những năm gần đây, thơ thiền được chú trọng rất nhiều trong học tập, nghiên cứu, cũng như sáng tác. Nhiều bài thơ thiền đương đại cũng chịu ảnh hưởng và phảng phất hương vị của thiền Lí Trần. Như vậy có thể nói rằng thơ thiền Lí Trần cũng có ý nghĩa quan trọng góp phần làm phong phú cho nền thơ ca dân tộc. Thời gian gần đây, văn hóa thời Lí Trần được Nhà nước chú trọng khôi phục, nhất là trước dịp Đại lễ kỉ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội. Nhiều công trình văn hóa (vật chất và tinh thần) được kiến tạo hoặc trùng tu nhằm làm sống lại cái hào khí của dân tộc Việt Nam, tiến tới bảo lưu những bản sắc văn hóa dân tộc trước xu thế hội nhập của thời đại mới. Đó cũng chính là những minh chứng hùng hồn cho giá trị của văn hóa Lí Trần trong đó có Phật giáo Thiền tông và thơ thiền Lí Trần./. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Thích Phước An (1992), Thiền Sư Huyền Quang và con đường trầm lặng mùa thu, TCVH, số 4-1992. 2. Nguyễn Huệ Chi (1992), Hiện tượng hội nhập văn hoá dưới thời Lí –Trần nhìn từ một trung tâm Phật giáo tiêu biểu:Quỳnh Lâm, TCVH số 4-1992. 3. Minh Chi (1992), Góp phần tổng kết Phật giáo đời Trần, TCVH số 4-1992. 4. Trương Văn Chung (1998), Tư tưởng triết học của Thiền phái Trúc Lâm đời Trần, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 5. Thiều Chửu (1999), Tự điển Hán – Việt, NXB VH-TT, Hà Nội. 6. Đoàn Trung Còn (1997), Từ điển Phật học, NXB TP.HCM. 7. Quỳnh Cư và Đỗ Đức Hùng (1995), Các triều đại Việt Nam, NXB Thanh Niên, Hà Nội, 1995. 8. Ngô Di (Đồ Nam dịch 1973), Thiền và Lão Trang, Nhóm người học Phật xuất bản, Tp.HCM. 9. Nguyễn Duy, Kevin Bowen, Nguyễn Bá Chung (2005) Tuyển tập thơ Thiền Lí – Trần=Zen poems from early Viet Nam, NXBVH Sài Gòn, TPHCM. 10. Dương Quảng Hàm (1941), Việt Nam văn học sử yếu, Nha học chính Đông Pháp, Hà Nội. 11. Thích Nhất Hạnh (2009), Lâm Tế ngữ lục, NXB Văn hoá Sài Gòn, Tp.HCM. 12. Nguyễn Duy Hinh (1992), Phật giáo với văn học Việt Nam,TCVH, số 4-1992. 13. Nguyễn Phạm Hùng (1998), Thơ Thiền Việt Nam –những vấn đề lịch sử và tư tưởng nghệ thuật, NXB Đại học quốc gia, Hà Nội. 14. Nguyễn Phạm Hùng (1998) “Trên hành trình văn h ọc Trung đại”, Trần Thái Tông – nhà thơ sám hối, NXBĐHQG Hà Nội. 15. Nguyễn Phạm Hùng (2001), “Trên hành trình văn h ọc Trung đại”, Thơ Thiền vẫn trẻ trung tươi mới, NXBĐHQG Hà Nội. 16. Nguyễn Phạm Hùng (2001), “Trên hành trình văn h ọc Trung đại”, Trần Nhân Tông giữa cảnh đời hư thực, NXBĐHQG Hà Nội. 17. Nguyễn Phạm Hùng (2001), “Trên hành trình văn học Trung đại”, Dòng thơ Thiền thế sự trong văn học Việt Nam cổ, NXBĐHQG Hà Nội. 18. Nguyễn Phạm Hùng (2001), “Trên hành trình văn h ọc Trung đại”, Hình tượng con trâu trong thơ Thiền, NXBĐHQG Hà Nội. 19. Nguyễn Phạm Hùng (2001), “Trên hành trình văn h ọc Trung đại”, Thơ Thiền và việc lĩnh hội thơ Thiền thời Lí, NXBĐHQG Hà Nội. 20. Nguyễn Phạm Hùng (2001), “Trên hành trình văn h ọc Trung đại”, Trần Tung và những khúc ca phóng cuồng, NXBĐHQG Hà Nội. 21. Trần Quê Hương (2010), Thơ văn thiền sư Lí - Trần, NXB Tổng hợp, Tp.HCM. 22. Phạm Ngọc Lan (1986), Chất trữ tình trong thơ Thiền đời Lí, TCVH, số 4-1986. 23. Phạm Ngọc Lan (1992), Trần Nhân Tông –cảm hứng Thiền trong thơ, TCVH số 4- 1992. 24. Nguyễn Hữu Lợi (1974), Chùa Một Cột với tinh thần Phật giáo Việt Nam, Tạp chí Tư Tưởng 1-1974. 25. Nguyễn Công Lý (1997), Bản sắc dân tộc trong văn học Thiền Tông thời Lí-Trần, NXB Văn Hoá Thông Tin, Tp.HCM. 26. Nguyễn Công Lý (2002), Văn học Phật giáo thời Lí Trần – diện mạo và đặc điểm, NXB ĐHQG TP.HCM. 27. Thích Phước Sơn (1992), Nhìn khái quát Phật giáo dưới đời Trần, TCVH, số 4-1992. 28. Nguyễn Hữu Sơn (1992), Tìm hiểu những đặc điểm nghệ thuật của “Thiền uyển tập anh”, TCVH, số 4-1992. 29. Nguyễn Hữu Sơn (2006), Phật giáo Việt Nam và những đóng góp của cho nền văn học dân tộc, Hà nội. 30. Lê Thị Thanh Tâm (2006), Con người hành hương trong thơ Thiền Lí –Trần và Đường –Tống, TCNCVH, số 3-2006. 31. Lê Thị Thanh Tâm (2007), Luận Án Tiến Sỹ Ngữ Văn, Nghiên cứu so sánh thơ Thiền Lí –Trần (Việt Nam )và thơ Thiền Đường –Tống (Trung Quốc ). 32. Hà Văn Tấn (1992), Vấn đề văn bản văn học các tác phẩm văn học Phật giáo Việt Nam,TCVH, số 4-1992. 33. Võ Văn Tường (1994), Những ngôi chùa nổi tiếng Việt Nam, NXB VH-TT, Hà Nội, 1994. 34. Trần Thị Băng Thanh (1992), Thử phân định hai mạch cảm hứng trong dòng văn học Việt Nam mang đậm dấu ấn Phật giáo trung đại,TCVH, số 4-1992. 35. Lê Mạnh Thát (2002), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập III, NXB Tp.HCM. 36. Ngô Đức Thọ, Nguyễn Thị Nga (1990), Thiền uyển tập anh, Phân viện nghiên cứu Phật học, NXBVH Hà Nội. 37. Nguyễn Đăng Thục (1967), Thiền học Việt Nam, Lá Bối, Sài Gòn. 38. Nguyễn Đăng Thục (1972), Thiền học Trần Thái Tông, Viện Đại Học Vạn Hạnh, NXB Sài Gòn. 39. Nguyễn Đăng Thục (1972), Tư tưởng Thiền dân tộc của Vạn Hạnh, báo Tư Tưởng - 1972. 40. Ngô Tất Tố (1960), Văn học đời Lí, Khai Trí xuất bản, Sài Gòn. 41. Ngô Tất Tố (1960), Văn học đời Trần, Khai Trí xuất bản, Sài Gòn. 42. Thích Thanh Từ (1997), Tham đồ hiển quyết và thi tụng các Thiền sư đời Lý, Thiền viện Thường Chiếu, Tp.HCM. 43. Đoàn Thị Thu Vân (1992), Một vài nhận xét về ngôn ngữ thơ Thiền Lí –Trần,TCVH, số 2-1992. 44. Đoàn Thị Thu Vân (1996), Khảo sát một số đặc trưng nghệ thuật của thơ Thiền Việt Nam từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIV, Trung tâm nghiên cứu Quốc học và Nhà Xuất Bản Văn Học, Hà Nội. 45. Đoàn Thị Thu Vân (1998), Khoảnh khắc “quên”trong thơ Thiền, TCVH, số 4-1998. 46. Đoàn Thị Thu Vân (1998), Thơ Thiền Lý Trần, NXB Văn Nghệ, Tp.HCM. 47. Đoàn Thị Thu Vân (2007), Con người nhân văn trong thơ ca sơ kỳ Trung đai, NXBGD, Tp.HCM. 48. Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam (1995), Thiền học thời Trần, NXB Hà Nội. 49. Viện Văn học (1977), Thơ văn Lí Trần (tập I), NXB KHXH Hà Nội. 50. Viện Văn học (1988), Thơ văn Lí Trần (tập II), NXB KHXH Hà Nội. 51. PHỤ LỤC CÁC TÁC PHẨM ĐƯỢC KHẢO SÁT ĐỜI LÍ 1. Khuông Việt (Ngô Chân Lưu) –Thiền sư 1. Nguyên hoả (Nguyên hoả) 2. Vạn Hạnh (Nguyễn Vạn Hạnh) –Thiền sư 2. Thị đệ tử (Bảo các đổ đệ) 3. Định Hương –Thiền sư 3. Chân dữ huyễn (Chân và huyễn) 4. Huệ Sinh (Lâm Khu) –Thiền sư 4. Đáp Lý Thái Tông tâm nguyện chi vấn I (Trả lời Lý Thái Tông hỏi về tâm nguyện 1) 5. Đáp Lý Thái Tông tâm nguyện chi vấn II (Trả lời Lý Thái Tông hỏi về tâm nguyện 2) 5. Lý Thái Tông 6. Thị chư thiền lão tham vấn thiền chỉ 6. Lý Nhân Tông 7. Tán Giác Hải thiền sư Thông Huyền đạo nhân 7. Thiền Lão 8. Nhật nguyệt I 9. Nhật nguyệt II 8. Vạn Trì Bát 10. Hữu tử tất hữu sinh 9. Hứa Đại Xả 11. Chân tính 10. Đàm Khí (Ngộ Ấn) –Thiền sư 12. Thị tịch (Dặn lại trước khi mất) 11. Viên Chiếu (Mai Trực) –Thiền sư 13. Tâm không (Cái tâm là không) 14. Tham đồ hiển quyết 12. Mãn Giác (Lý Trường) –Thiền sư 15. Cáo tật thị chúng (cáo bệnh bảo mọi người) 13. Chân Không –Thiền sư 16. Cảm hoài (Cảm hoài) 17. Đáp đệ tử diệu đạo chi vấn 14. Thuần Chân–Thiền sư 18. Thị đệ tử Bản Tịch (Bảo đệ tử là Bản Tịch) 15. Diệu Nhân Ni Sư (Lý Ngọc Kiều) –Thiền sư 19. Sinh lão bệnh tử (Sinh lão bệnh tử) 16. Kiều Trí Huyền–Thiền sư 20. Đáp Từ Đạo Hạnh chân tâm chi vấn (Trả lời Từ Đạo Hạnh hỏi về chân tâm) 17. Từ Đạo Hạnh (Từ Lộ) –Thiền sư 21. Thất châu 22. Hữu không (Có và không) 23. Thị tịch cáo đại chúng (Sắp mất bảo mọi người) 18. Lê Thị Ỷ Lan 24 Sắc không (Sắc và không) 19. Không Lộ–Thiền sư 25. Ngư nhàn (Cái nhàn của làng chài) 20. Giác Hải (Nguyễn Giác Hải) –Thiền sư 26. Thị chúng kệ 27. Hoa điệp (Hoa và bướm) 21. Nguyễn Khánh Hỷ–Thiền sư 28. Đáp Pháp Dung sắc, không, phàm, thánh chi vấn (Trả lời Pháp Dung hỏi về sắc, không, phàm, thánh) 22. Phan Trường Nguyên–Thiền sư 29. Thị đạo (Nói về đạo) 23. Bảo Giám (Kiều Phù) –Thiền sư 30. Cảm hoài I (Cảm hoài 1) 31. Cảm hoài II (Cảm hoài 2) 24. Đạo Huệ –Thiền sư 32. Sắc thân dữ diệu thể I (Sắc thân và diệu thể 1) 33. Sắc thân diệu thể II (Sắc thân và diệu thể 2) 25. Nguyễn Nguyện Học–Thiền sư 34. Đạo vô ảnh tượng (Đạo không hình bóng) 35. Liễu ngộ thân tâm(Hiểu rõ thân và tâm) 26. Kiều Bản Tịnh (Bản Tịch –ĐTTV) –Thiền sư 36. Kính trung xuất hình tượng (Bóng hiện trong gương) (Thị tịch-ĐTTV) 27. Tịnh Không: 37. Nhất nhật hội chúng. 28. Nguyễn Quảng Nghiêm–Thiền sư 38. Hưu hướng Như Lai (Đừng theo bước Như Lai) (Thị tịch-ĐTTV) 29. Tô Minh Trí –Thiền sư 39. Hy di 40. Tầm hưởng (Tìm tiếng vọng) 30. Phạm Thường Chiếu–Thiền sư 41. Tâm (Tâm) 42. Đạo (Đạo) 31. Tịnh Giới (Chu Hải Ngung) –Thiền sư 43. Hãn tri âm I(Ít tri âm 1) 44. Hãn tri âm II (Ít tri âm 2) 32. Nguyễn Y Sơn–Thiền sư 45. Hoá vận (Biến hoá và vần chuyên) 33. Hiện Quang (Lê Thuần) –Thiền sư 46. Đáp tăng vấn (Trả lời một tăng đồ) 34. Đoàn Văn Khâm 47. Vãn Quảng Trí thiền sư ĐỜI TRẦN 1. Trần Thái Tông – Vua + Thiền sư 1. Kí Thanh Phong am tăng Đức Sơn 2. Phổ thuyết sắc thân kệ 3. Phổ thuyết hướng thượng nhất lộ kệ 4. Sơ nhật vô thường kệ 5. Nhật một vô thường kệ 6. Sơ dạ vô thường kệ 7. Bán dạ vô thường kệ 8. Niêm tụng kệ. 9. Ngữ lục vấn đáp môn hạ. 2. Tuệ Trung –Thiền sư + quý tộc 10. Phỏng Tăng Điền đại sư 11. Thị chúng 12. Thị học 13. Ngẫu tác 14. Chí đạo vô nan 15. Tâm vương 16. Thị tu Tây Phương bối 17. Thoát thế 18. Thị đồ 19. An định thời tiết 20. Vạn sự quy như 21. Thế thái hư huyễn 22. Hoạ Hưng Trí Thượng Vị hầu 23. Thị chúng 24. Đốn tỉnh 25. Phật tâm ca 26. Phóng cuồng ngâm 27. Sinh tử nhàn nhi dĩ 26. Phàm thánh bất dị 28. Mê ngộ bất dị 29. Vật bất năng dung 30. Thủ nê ngưu 31. Trì giới kiêm nhẫn nhục 32. Đối cơ 33. Tụng cổ 3. Trần Thánh Tông– Vua + Thiền sư 34. Độc Đại Tuệ ngữ lục hữu cảm I 35. Độc Đại Tuệ ngữ lục hữu cảm II 36. Tự thuật 37. Độc Phật Sự Đại Minh Lục hữu cảm 38. Sinh tử. 4. Trần Nhân Tông – Vua +Thiền sư 39. Đăng Bảo Đài sơn 40. Xuân cảnh 41. Xuân vãn 42. Nguyệt 43. Sơn phòng mạn hứng I 44. Sơn phòng mạn hứng II 45. Cư trần lạc đạo phú 46. Sư đệ vấn đáp. 5. Trần Quang Triều 47. Đề Gia Lâm tự 6. Pháp Loa–Thiền sư 48. Thị tịch 7. Huyền Quang–Thiền sư 49. Địa lô tức sự 50. Đề Đạm Thuỷ tự 51. Tảo thu 52. Cúc hoa III 53. Cúc hoa IV 54. Diên Hựu tự 55. Ngọ thuỵ 56. Thạch thất 57. Trú miên 8. Trần Anh Tông 58. Vân Tiêu am 59. Ký Phổ Tuệ tôn giả I 60. Ký Phổ Tuệ tôn giả II 9. Trần Minh Tông - Vua 61. Giới am ngâm 62. Tặng Huyền Quang tôn giả. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA5704.pdf
Tài liệu liên quan