Thụ lý vụ án hành chính, Thực trạng & Giải pháp

Trang Lời cảm ơn Lời giới thiệu Chương một: Những vấn đề lý luận chung về thụ lý vụ án hành chính ….. 05 Khái quát chung về thụ lý vụ án hành chính …………………………... 05 Khái niệm thụ lý vụ án hành chính ……………………………….… 05 Vị trí vai trò của thụ lý trong thủ tục tố tụng hành chính …………… 10 Căn cứ thụ lý vụ án hành chính ………………………………………... 13 Thời điểm thụ lý vụ án hành chính …………………………………….. 27 Chương hai: Thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về thụ lý vụ án hành chính ………………

doc67 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1542 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thụ lý vụ án hành chính, Thực trạng & Giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
…………………………………………………. 28 1.1 Thụ lý vụ án hành chính theo pháp luật hiện hành……………………... 28 1.2 Thực tiễn việc thụ lý vụ án hành chính những năm năm gần đây ……... 39 1.3 Nguyên nhân của những hạn chế trong việc thụ lý vụ án hành chính …. 41 Chương ba: Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thụ lý vụ án hành chính ……………………………………………………………………….. 47 Quan điểm hoàn thiện pháp luật về thụ lý vụ án hành chính …………... 47 Mục tiêu và phương hướng …………………………………………..… 48 Các giải pháp cụ thể …………………………………………………… 48 Công tác xây dựng pháp luật ………………………………………... 49 Công tác phổ biến, tuyên truyền và giáo dục pháp luật ……………. 55 Kiện toàn tổ chức và đội ngũ cán bộ, Thẩm phán hành chính ……… 56 Công tác tổng kết thực tiễn xét xử hành chính ……………………… 59 Các biện pháp khác …………………………………………………. 59 Kết luận …………………………………………………………………… 61 Danh mục tài liệu tham khảo và chú thích ……………………………... 63 LỜI GIỚI THIỆU 1. Tính cấp thiết của đề tài. Việc “dân” kiện “quan” xưa nay vốn không phải là điều hiếm lạ trong lịch sử đất nước Việt Nam. Dưới thời phong kiến với những trói buộc của luật lệ hà khắc, việc khiếu kiện đó có thể phải đổi bằng cả tính mạng của các bậc quân thần. Từ khi chính quyền dân chủ nhân dân được thành lập (02/09/1945), ngay từ những ngày đầu dựng nước, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm tới công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo nói chung, giải quyết khiếu kiện hành chính nói riêng. Thực tiễn đặt ra yêu cầu cần phải có hệ thống pháp luật hoàn thiện và cũng chính thực tiễn góp phần kiểm nghiệm tính hiệu quả của hệ thống pháp luật đó; vì vậy, sự thừa nhận quyền khiếu kiện hành chính cũng như việc thành lập Toà hành chính (năm 1996) đã đáp ứng được nhu cầu bức xúc của thực tiễn- của việc đổi mới phương thức giải quyết khiếu kiện hành chính, sự mong mỏi chính đáng của xã hội là để bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật từ phía các cơ quan nhà nước. Nói cách khác, nó là chiếc “chìa khoá vàng” để giải quyết những khúc mắc của “lòng dân”. Tuy nhiên, muốn nâng cao hiệu lực quản lý hành chính nhà nước, thúc đẩy kinh tế phát triển, đảm bảo thực thi tốt các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên trong quan hệ quản lý hành chính nhà nước, thì việc ban hành một hệ thống các quy định về thủ tục tố tụng hành chính phù hợp và thực hiện chúng nghiêm chỉnh trên thực tế là việc làm cần thiết. Ngày 21 tháng 5 năm1996, Uỷ ban thường vụ Quốc Hội Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá IX đã thông qua Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, (Pháp lệnh này đã được sửa đổi, bổ sung một số điều vào ngày 25 tháng 12 năm 1998) làm căn cứ pháp lý để tổ chức thực hiện việc xét xử hành chính ở nước ta. Có thể nói, với sự kiện này, trong kho tàng các phương thức bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong quản lý nhà nước có thêm một phương thức mới, thuộc loại rất quan trọng: Cơ quan hành chính- cơ quan công quyền đóng vai trò là bị đơn duy nhất trong các vụ án hành chính mà Toà án xét xử [Tr 511- 16]. Căn cứ vào Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính và những văn bản pháp lý liên quan, những khiếu nại của công dân chưa được giải quyết thoả mãn có thể được khởi kiện ra Toà hành chính. Mặc nhiên, gánh nặng đơn thư khiếu nại của các cơ quan hành chính phần nào đã được giảm đi, góp phần củng cố lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ, nâng cao ý thức tự giác đấu tranh của nhân dân đối với các sai phạm trong quản lý hành chính nhà nước. Song, bên cạnh đó, vẫn còn nhiều những đơn thư khiếu nại của nhân dân chưa thoả mãn mà vẫn không được giải quyết theo con đường khởi kiện ra Toà. Lượng đơn khởi kiện còn “ùn lại” trước “cửa quan” là rất lớn. Nguyên nhân chính là do thủ tục tố tụng hành chính mà trước hết là công tác thụ lý vụ án hành chính chưa thực sự phù hợp với đòi hỏi của cuộc sống, nó đã và đang bộc lộ những hạn chế cần phải khắc phục. Thực tế cho thấy rằng, việc hoàn thiện công tác thụ lý vụ án hành chính là một quá trình đòi hỏi phải thường xuyên tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và nghiên cứu đổi mới phù hợp với nhiệm vụ, yêu cầu của từng giai đoạn lịch sử, trên cơ sở nhận thức ngày một đầy đủ và khoa học hơn về thủ tục tố tụng hành chính. Đứng trước thực trạng trên, tôi xin mạnh dạn chọn đề tài luận văn: “Thụ lý vụ án hành chính, thực trạng và giải pháp” , mong rằng luận văn sẽ đóng góp phần nào cho việc hoàn thiện cơ chế khiếu kiện hành chính ở nước ta. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ theo chiều sâu những vấn đề lý luận và thực tiễn về thụ lý vụ án hành chính. Chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân của nó trong việc thụ lý vụ án hành chính. Từ đó tìm ra những giải pháp nhằm đảm bảo cho việc giải quyết các khiếu kiện hành chính đạt hiệu quả. - Phân tích một số vấn đề lý luận về thụ lý vụ án hành chính, các căn cứ để thụ lý vụ án hành chính; - Phân tích làm sáng tỏ thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về thụ lý vụ án hành chính những năm vừa qua, chỉ ra những hạn chế và kiến nghị những giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả trong việc xét xử hành chính của Toà án; Phương pháp nghiên cứu. Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa. Cụ thể là phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và các phương pháp khác như: phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp lịch sử cụ thể… Bố cục của luận văn. Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm có ba chương: - Chương một: Những vấn đề lý luận chung về thụ lý vụ án hành chính; - Chương hai: Thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về thụ lý vụ án hành chính ở Việt Nam; - Chương ba: Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thụ lý vụ án hành chính; Trong quá trình nghiên cứu đề tài, mặc dù được thầy giáo hướng dẫn tận tình chỉ bảo và sự nỗ lực của bản thân, song trong khuôn khổ của luận văn tốt nghiệp đại học, trình độ bản thân có hạn , đề tài đòi hỏi phải nghiên cứu theo chiều sâu. Vì vậy, không thể tránh khỏi những thiếu sót, kính mong nhận được sự chỉ bảo và lượng thứ của các thầy cô giáo, các bạn đọc. Hy vọng sau này có dịp, chúng ta sẽ trở lại đề tài này một cách toàn diện, sâu sắc hơn nữa. SINH VIÊN CỦA THẦY CÔ Nguyễn Hữu Thành CHƯƠNG MỘT ***** NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỤ LÝ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH 1.1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỤ LÝ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH. Khái niệm thụ lý vụ án hành chính. Công cuộc đổi mới đòi hỏi sự hoàn thiện nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa. Sự hình thành và quá trình phát triển tư pháp hành chính ở nước ta thể hiện là lô gích tất yếu của hướng tăng cường dân chủ, tăng cường các phương thức, biện pháp bảo vệ công dân trong quan hệ hành chính với các cơ quan Nhà nước và đấu tranh, hạn chế các việc làm tuỳ tiện, trái pháp luật từ phía các cơ quan, cán bộ công chức Nhà nước có thẩm quyền. Với sự xác lập cơ chế xét xử hành chính này, “việc xem xét, thụ lý và giải quyết vụ án hành chính thuộc về trách nhiệm của hệ thống Toà án nhân dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” [Tr 515- 16]. Theo cuốn Đại từ điển Tiếng Việt, thụ lý (Pháp ngữ gọi là enrôler l’affaire; Anh ngữ gọi là handle a case in a law court) có nghĩa là việc “chịu cái lẽ phán xử của pháp luật. Đương sự thụ lý không khiếu nại gì”. Còn theo cuốn Hán Việt từ điển thì thụ lý là “sự chấp nhận án kiện để phân xử”. Trong khoa học pháp lý, không phải ngẫu nhiên mà thuật ngữ “thụ lý” lại được sử dụng một cách phổ biến như vậy. Đồng nghĩa với cụm từ này, ta có thể thấy các cụm từ khác cũng ít nhiều có nghĩa tương tự, ví như : “ Chấp nhận” hay “Đồng ý”… Tuy nhiên, việc sử dụng thuật ngữ đúng và khoa học phải xuất phát từ ngữ cảnh của nó. Xét về mặt cấu trúc ngữ pháp, thụ lý được xem là một động từ chỉ hoạt động – diễn tả một trong những hoạt động có mục đích của con người. Khi nhà nước xuất hiện, phần lớn các công việc trong xã hội do nhà nước quản lý. Trong quản lý nhà nước, người có thẩm quyền phải dựa trên cơ sở quyền lực nhà nước để “buộc các cá nhân, tổ chức trong xã hội phải phục tùng” [Tr 13- 21]. Cũng chính vì thế mà hành vi “thụ lý” của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thể hiện một quan hệ không bình đẳng và chỉ đơn phương quyết định, (cơ quan nhà nước có thẩm quyền không thể thoả thuận về việc có thụ lý hay không thụ lý). Dưới góc độ luật tố tụng hành chính, “thụ lý” thường được hiểu là việc Toà án chính thức tiếp nhận và giải quyết công việc thuộc thẩm quyền của mình (thụ lý vụ án hành chính). Do vậy, để làm rõ khái niệm “thụ lý vụ án hành chính”, thì bên cạnh việc tìm hiểu khái niệm thụ lý trên đây còn cần phải nắm được những vấn đề lý luận chung về “vụ án hành chính”. Vụ án (case, trial- Tiếng Anh; affaire, procès- Tiếng Pháp) theo Từ điển Tiếng Việt (Nxb Đà Nẵng- Trung tâm từ điển học, Hà Nội- Đà Nẵng 1998) có nghĩa là “sự việc không hay và rắc rối xảy ra”. Dưới góc độ tố tụng hành chính, vụ án được hiểu là vụ việc Toà án có trách nhiệm giải quyết theo yêu cầu hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức để bảo vệ một cách hữu hiệu các quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức, cơ quan khỏi sự xâm hại một cách trái pháp luật từ quyền hành pháp. Thực tiễn quản lý hành chính nhà nước diễn ra hết sức đa dạng, phức tạp. Sự xung đột về lợi ích giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân là rất phổ biến. Đó là lý do làm nảy sinh các tranh chấp, bất đồng. Các tranh chấp nảy sinh trong các lĩnh vực khác nhau của hoạt động quản lý hành chính nhà nước có thể là tranh chấp giữa các chủ thể quản lý hành chính nhà nước với nhau (như là tranh chấp về thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính…), cũng có thể là tranh chấp giữa chủ thể quản lý hành chính nhà nước với đối tượng quản lý hành chính nhà nước… Đối với tranh chấp giữa các chủ thể quản lý hành chính nhà nước với nhau thì việc giải quyết chúng sẽ thuộc thẩm quyền của các cơ quan hành chính nhà nước, vì đó là công việc nội bộ của hệ thống quản lý hành chính nhà nước. Còn đối với tranh chấp giữa chủ thể quản lý hành chính nhà nước với đối tượng quản lý hành chính nhà nước (có thể hiểu là tranh chấp hành chính theo nghĩa hẹp), chúng phát sinh từ quan hệ pháp luật hành chính giữa một bên là chủ thể quản lý hành chính nhà nước mang quyền lực nhà nước và một bên là đối tượng quản lý hành chính có nghĩa vụ phải phục tùng quyền lực ấy. Khi thực thi công vụ, cơ quan nhà nước và các cán bộ có thẩm quyền thường phải ban hành những văn bản quản lý hoặc những quyết định hành chính, hành vi hành chính nhằm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Việc ban hành các quyết định hành chính và đơn phương thực hiện các hành vi hành chính đó là biểu hiện tập trung nhất thẩm quyền của các chủ thể quản lý hành chính nhà nước, đồng thời cũng là phương thức chuyển tải nội dung áp đặt ý chí của chủ thể quản lý hành chính nhà nước tới các đối tượng quản lý thuộc quyền. Song, xuất phát từ tính chủ động, sáng tạo trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước mà xu hướng lạm quyền, vi quyền, tuỳ tiện, thiếu căn cứ pháp lý,… hoặc làm tổn hại đến quyền và lợi ích chính đáng của công dân là điều không thể tránh khỏi. Nói cách khác, sự sử dụng quyền lực nhà nước, áp đặt ý chí nhà nước của chủ thể quản lý hành chính nhà nước luôn chứa đựng khả năng làm xuất hiện sự phản kháng có ý thức của đối tượng quản lý hành chính chịu sự áp đặt ý chí nói trên. Sự phản kháng đó thể hiện thái độ, sự đánh giá đối với hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước, đồng thời thể hiện sự mong muốn và lợi ích của đối tượng quản lý hành chính nhà nước. Khi có sự xâm hại quyền, lợi ích do có sự áp đặt ý chí nhà nước của chủ thể quản lý hành chính nhà nước, sự phản kháng của đối tượng quản lý chủ yếu được thể hiện thông qua các khiếu kiện hành chính đối với các hành vi, quyết định hành chính nêu trên. Nội dung và mức độ gay gắt của khiếu kiện hành chính chủ yếu phụ thuộc vào nội dung và mức độ xâm hại các quyền, lợi ích từ phía các chủ thể quản lý hành chính nhà nước. Vụ án hành chính phát sinh không nằm ngoài những khiếu kiện đó. Việc giải quyết chúng cũng phải theo những cách thức đặc biệt nhằm bảo đảm giải quyết các tranh chấp ấy thực sự khách quan, công bằng, dân chủ, đúng pháp luật. Tuy nhiên, thuật ngữ “vụ án hành chính” chỉ chính thức được thừa nhận trong khoa học pháp lý, khi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính được Uỷ ban thường vụ Quốc Hội ban hành năm 1996. Điều 1 Pháp lệnh quy định: “Cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức theo thủ tục do pháp luật quy định có quyền khởi kiện vụ án hành chính để yêu cầu Toà án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình”. Trước đây, những quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc các trường hợp kể trên chỉ được giải quyết bằng con đường “thủ tục hành chính” và thông qua việc thực hiện bởi bộ máy hành chính và công chức của họ. Sự tồn tại của cơ chế “Bộ trưởng- Quan toà” đã bộc lộ những hạn chế vốn có như: trật tự “tự xử lý mình”, giải quyết không kịp thời, không khách quan, … hay ép phải chấm dứt giải quyết khiếu tố bằng quyết định giải quyết cuối cùng vẫn luôn luôn hiện hữu. Đến nay, việc thừa nhận quyền khiếu kiện hành chính tại Toà án không nhằm thay thế cũng như không làm triệt tiêu thẩm quyền giải quyết khiếu nại của các cơ quan hành chính nhà nước, mà chỉ nhằm khắc phục những hạn chế trong việc giải quyết khiếu kiện hành chính của các cơ quan này. Như vậy, bên cạnh quyền được khởi kiện các vụ án về hình sự, dân sự, kinh tế và lao động thì công dân được quyền khởi kiện vụ án hành chính theo quy định của pháp luật. Để có vụ án hành chính, pháp luật không chỉ có những quy định ràng buộc đối với người khởi kiện mà pháp luật còn có những quy định đối với chủ thể tiến hành tố tụng, nhất là Toà án. Vụ án hành chính được thụ lý giải quyết, trước hết nó phải thuộc thẩm quyền của Toà án nhất định mà pháp luật đã ghi nhận . Tóm lại, “vụ án hành chính là vụ án được phát sinh tại Toà án có thẩm quyền theo quy định của pháp luật tố tụng hành chính , do cá nhân, cơ quan nhà nước hoặc tổ chức khởi kiện yêu cầu toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước một quyết định hành chính, hành vi hành chính” (Giáo trình Luật tố tụng hành chính. Trường Đại học luật Hà Nội, Nxb Công an Nhân dân- Hà Nội 2001). Các hoạt động để đi đến “thụ lý vụ án hành chính” là những hành vi tố tụng đầu tiên mà Toà án phải tiến hành để đi đến quyết định có hay không có các giai đoạn tiếp theo của vụ án hành chính. Vì vậy, có thể nói, thụ lý vụ án hành chính trước hết là một trong những quyền và nghĩa vụ của Toà án . Điều này xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của Toà án trong xét xử hành chính. Toà hành chính là cơ quan chuyên xét xử các vụ án hành chính nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức, cơ quan khi có các quyết định hành chính, hành vi hành chính xâm phạm; bảo vệ pháp chế và kỷ luật nhà nước trong quản lý hành chính. Có nghĩa là, Toà án sẽ thụ lý vụ án nếu như việc khởi kiện của cá nhân, cơ quan, tổ chức có căn cứ pháp luật và theo trình tự do pháp luật quy định. Đồng thời, Toà án cũng có quyền không thụ lý vụ án và trả lại đơn kiện… nếu như việc khởi kiện của cá nhân, cơ quan, tổ chức không có căn cứ pháp luật, không tuân thủ trình tự do pháp luật quy định. Thụ lý vụ án hành chính không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ; việc hiện hữu Toà án với tư cách là cơ quan bảo vệ pháp luật nên Toà án không thể từ chối nghĩa vụ của mình. Nói cách khác, Toà án sẽ phải thụ lý mà không có quyền trả lại đơn kiện hay thực hiện những biện pháp khác nếu như việc khởi kiện của người khởi kiện theo đúng quy định của pháp luật. Vì thế, một trong những yêu cầu đối với Toà án khi tiến hành kiểm tra những điều kiện cần thiết để thụ lý vụ án hành chính phải luôn luôn xuất phát từ lợi ích của những người tham gia tố tụng, phải đảm bảo trật tự, vô tư, khách quan. Hơn nữa, một khi Toà án đã thụ lý vụ án thì cũng có nghĩa là vụ án sẽ được giải quyết. Do vậy, nó luôn đặt ra trách nhiệm rất lớn đối với Toà án đã thụ lý để Toà án giải quyết vụ án hành chính có hiệu quả và đúng pháp luật. Tóm lại, thụ lý vụ án hành chính là việc Toà án chấp nhận đơn khởi kiện của người khởi kiện hay quyết định khởi tố của Viện Kiểm Sát theo đúng quy định của pháp luật để vào sổ thụ lý vụ án (Giáo trình Luật tố tụng hành chính. Trường Đại học luật Hà Nội, Nxb Công an Nhân dân- Hà Nội 2001). Giữa khởi kiện, khởi tố và thụ lý vụ án hành chính có mối quan hệ chặt chẽ bởi những lý do sau: Thứ nhất: Khởi kiện, khởi tố vụ án hành chính là cơ sở để Toà án thụ lý vụ án; không có khởi kiện, khởi tố thì sẽ không có việc thụ lý vụ án của Toà án. Theo tinh thần của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính thì, khởi kiện là quyền tự “định đoạt” thuộc về cá nhân, tổ chức, cơ quan đối với việc yêu cầu Toà án phán quyết về quyết định hành chính, hành vi hành chính mà theo họ là trái pháp luật, xâm hại trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Khởi kiện chính vì vậy là một sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ giữa người khởi kiện với Toà hành chính thuộc Toà án nhân dân có thẩm quyền. Chức năng của Toà án nói chung và của Toà hành chính nói riêng là xét xử các vụ án hành chính để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện. Có thể khẳng định rằng, khởi kiện vụ án hành chính là tiền đề đối với hoạt động thụ lý của Toà án. Khởi tố vụ án hành chính là quyền của Viện Kiểm Sát. Việc khởi tố của cơ quan này cũng chính là hành vi tố tụng để mở đầu cho cả quá trình Toà án giải quyết vụ án hành chính [Tr 87, 15]. Thứ hai: Việc khởi kiện, khởi tố vụ án hành chính có được chấp nhận hay không lại phụ thuộc vào hoạt động thụ lý của Toà án. Toà án chỉ thụ lý vụ án hành chính khi nó thoả mãn những căn cứ luật định. Toà án sẽ trả lại đơn kiện khi việc khởi kiện, khởi tố rơi vào một trong những trường hợp pháp luật quy định phải trả lại đơn kiện. Mặt khác, thông qua những trường hợp Toà án trả lại đơn kiện sẽ làm cho việc khởi kiện tuân thủ những quy định của pháp luật, hạn chế tình trạng khởi kiện tràn lan. 1.1.2 Vị trí vai trò của thụ lý trong thủ tục tố tụng hành chính. Trong hoạt động tố tụng hành chính, khởi kiện và thụ lý vụ án được coi là giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng. Trong giai đoạn này, Toà án xem xét nội dung, thủ tục vụ án để quyết định có đưa vụ án ra Toà án xem xét hay không. Vì vậy, việc xét xử vụ án hành chính có đúng pháp luật hay không đúng pháp luật phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động thụ lý. Nếu không có việc thụ lý vụ án hành chính thì sẽ không có quá trình tố tụng hành chính tiếp theo. Hơn nữa, thụ lý vụ án hành chính có ý nghĩa pháp lý quan trọng, vì nó đặt trách nhiệm của Toà án là phải giải quyết vụ án trong thời hạn pháp luật quy định kể từ ngày thụ lý vụ án. Để hiểu rõ được vị trí, vai trò của thụ lý vụ án trong thủ tục tố tụng hành chính cần thiết nắm được quá trình tố tụng hành chính khi giải quyết một vụ án hành chính. Hoạt động tố tụng giải quyết các vụ án hành chính phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc vụ án. Đây là trình tự có tính chất bắt buộc trong việc giải quyết vụ án. Giai đoạn đầu tiên là giai đoạn khởi kiện, khởi tố và thụ lý vụ án. Nếu như khởi kiện, khởi tố vụ án hành chính là quyền của người khởi kiện và của Viện Kiểm Sát thì thụ lý vụ án hành chính được xem là quyền và nghĩa vụ của Toà án. Việc chấp nhận đơn của người khởi kiện, quyết định khởi tố của Viện Kiểm Sát và vào sổ thụ lý vụ án của Toà án có một ý nghĩa hết sức quan trọng, không chỉ chính thức làm phát sinh trách nhiệm của Toà án trong việc giải quyết vụ án hành chính, mà còn giúp cho Toà án có những nhận định ban đầu cần thiết về tình trạng tranh chấp hành chính, phương hướng giải quyết vụ việc và hạn chế tình trạng thụ lý những vụ việc không thuộc thẩm quyền xét xử hành chính của mình, là cơ sở để Toà án nhân dân tiến hành việc giải quyết vụ án hành chính, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Với ý nghĩa đó, thụ lý vụ án hành chính không chỉ có vị trí, vai trò trong giai đoạn này mà còn có vai trò, vị trí không thể thiếu trước khi tiến hành các giai đoạn khác của việc giải quyết một vụ án hành chính. Giai đoạn chuẩn bị xét xử là giai đoạn tiếp theo sau khi có quyết định thụ lý vụ án hành chính của Toà án. Trong trường hợp Toà án trả lại đơn kiện thì sẽ không tồn tại giai đoạn này. Do đó, việc thụ lý vụ án hành chính là cơ sở cần thiết để Toà án có thẩm quyền tiến hành thu thập chứng cứ, xác minh các tình tiết liên quan đến vụ án bằng những biện pháp khác nhau, bước đầu nhận định bản chất của quyết định, hành vi hành chính bị kiện để từ đó có thể ra một trong các quyết định: Quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án, đình chỉ việc giải quyết vụ án. Giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hành chính là giai đoạn tiếp tục sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử của Toà án có thẩm quyền. Trong giai đoạn này, những tình tiết, tài liệu, chứng cứ do các đương sự cung cấp từ giai đoạn khởi kiện và thụ lý vụ án… sẽ là cơ sở quan trọng trong việc ra phán quyết về tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc và quyết định việc bồi thường thiệt hại (nếu có) cho người khiếu kiện. Mặt khác, việc thụ lý đơn khiếu kiện hành chính còn làm phát sinh những quyền hạn cụ thể của Toà án trong xét xử hành chính. Toà án chỉ sử dụng những quyền hạn đó trong quá trình giải quyết những vụ án đã được thụ lý. Một khi đơn kiện đã được thụ lý thì cũng có nghĩa vụ án hành chính đã phát sinh và vụ án đó phải được giải quyết bằng bản án hay quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án. Ngoài ra, trong giai đoạn xét xử phúc thẩm vụ án hành chính, giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm, giai đoạn thi hành bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, việc thụ lý vụ án hành chính cũng có ý nghĩa quan trọng, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, cơ quan… Cũng cần bàn thêm rằng, trường hợp những bản án hay quyết định của Toà án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, nhưng bản án hay quyết định này bị Viện Kiểm Sát cùng cấp hoặc trên một cấp kháng nghị hoặc bị kháng cáo của những chủ thể có quyền theo quy định của Điều 55 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính và việc kháng cáo đó trong thời hạn pháp luật quy định,… thì Toà án cũng vẫn phải tiến hành thụ lý vụ án hành chính ở cấp phúc thẩm (Tuy nhiên, ở cấp phúc thẩm, việc thụ lý này không tách riêng thành một giai đoạn độc lập như khi xét xử sơ thẩm vụ án hành chính). Việc phân định các giai đoạn tố tụng của vụ án hành chính chỉ mang tính chất tương đối. Thực tế áp dụng các giai đoạn này diễn ra liên tục, tạo nên sự liên hoàn trong khi giải quyết vụ án hành chính. Như vậy, để đảm bảo cho việc ra được bản án hoặc quyết định của Toà án phù hợp với thực tế khách quan, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước cũng như của người khởi kiện, hoạt động thụ lý vụ án hành chính chiếm vai trò quan trọng, làm cơ sở pháp lý cho các giai đoạn tiếp theo của quá trình giải quyết vụ án hành chính. Mặt khác, thụ lý vụ án hành chính còn góp phần giảm bớt những mâu thuẫn, tranh chấp kéo dài trong nội bộ nhân dân, tạo niềm tin cho các cơ quan pháp luật nói chung và Toà án nói riêng. Điểm quan trọng nhất của thụ lý vụ án hành chính là cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ án sau khi nhận được đơn kiện trong thời gian nhất định phải ra được một trong các quyết định: Quyết định thụ lý vụ án hoặc quyết định trả lại đơn kiện cho người khởi kiện khi có những căn cứ nhất định… Khi đã thừa nhận khởi kiện và thụ lý vụ án hành chính là giai đoạn đầu tiên của tố tụng hành chính thì giai đoạn này bao giờ cũng có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc. Thời điểm bắt đầu của giai đoạn này được tính từ khi Toà án nhận được đơn kiện của người khởi kiện và thời điểm kết thúc được tính từ khi Toà án có một trong các quyết định kể trên. Tuy nhiên, còn có những Toà án chưa nhận thức hết vị trí, tầm quan trọng của thụ lý vụ án hành chính dẫn đến tình trạng thụ lý chậm, kéo dài, nhiều trường hợp nhận đơn khởi kiện một vài tháng mới xem xét để thụ lý. Việc thụ lý chậm, kéo dài đã vi phạm các quy định của pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức dễ dẫn đến bức xúc mà vi phạm hình sự… 1.2 CĂN CỨ THỤ LÝ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH. Về nguyên tắc, Toà án chỉ thực hiện thẩm quyền xét xử hành chính của mình khi có đơn khởi kiện hoặc quyết định khởi tố vụ án. Nhưng, trách nhiệm giải quyết vụ án hành chính của Toà án cũng không mặc nhiên phát sinh từ khi có quyết định khởi tố hay có đơn khởi kiện vụ án hành chính. Pháp luật quy định quyền quyết định thụ lý vụ án hành chính thuộc về Toà án trên cơ sở những điều kiện (căn cứ) nhất định để hạn chế khiếu kiện tràn lan và kiểm tra những diều kiện cần thiết cho việc giải quyết có hiệu quả, đúng pháp luật các vụ án hành chính. Như vậy, căn cứ thụ lý vụ án hành chính là những cơ sở do pháp luật quy định mà dựa vào đó để Toà án xem xét có thụ lý vụ án hành chính hay không thụ lý vụ án hành chính. Căn cứ thụ lý vụ án hành chính có một số đặc điểm sau: - Căn cứ thụ lý vụ án hành chính là những quy định cụ thể của pháp luật. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Hệ thống các văn bản pháp luật là phương tiện để chuyển tải các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và nhà nước. Do đó, có thể khẳng định, hệ thống văn bản pháp luật nói chung và pháp luật về tố tụng hành chính nói riêng là cơ sở pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quan hệ pháp luật. Các căn cứ thụ lý vụ án hành chính được đề cập ở chương này do Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính quy định. - Việc xem xét các căn cứ này trước khi tiến hành thụ lý vụ án là bắt buộc. Toà án không thể thụ lý vụ án sau đó mới xem xét các căn cứ pháp luật quy định. Điều đó sẽ dẫn đến tình trạng khởi kiện tràn lan, thụ lý cả những vụ việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án,… làm ảnh hưởng tới các hoạt động bình thường khác của Toà án nhân dân. - Những căn cứ này là cơ sở cho Toà án thực hiện chức năng xét xử của mình. Nếu pháp luật tố tụng hành chính không quy định cụ thể những căn cứ thụ lý vụ án hành chính thì sẽ rất khó khăn cho Toà án khi thụ lý vụ án, khi tiến hành các giai đoạn tiếp theo trong quá trình giải quyết một vụ án, như giai đoạn chuẩn bị xét xử, giai đoạn xét xử sơ thẩm,… Khái quát lại, về nguyên tắc, Toà án không có thẩm quyền thụ lý vụ án hành chính vô điều kiện mà chỉ thực hiện việc thụ lý vụ án khi đơn khởi kiện, quyết định khởi tố thoả mãn những căn cứ pháp luật quy định. Ở các nước khác nhau trên thế giới thì căn cứ thụ lý vụ án hành chính có những đặc thù riêng. Luật tố tụng hành chính của Trung Quốc quy định: Toà án chỉ thụ lý vụ án hành chính khi có đầy đủ các điều kiện sau đây: - Nguyên đơn là công dân, pháp nhân hoặc các tổ chức khác phải chứng minh có hành vi hành chính cụ thể xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình. - Có bị đơn cụ thể, có địa chỉ cụ thể; có yêu cầu cụ thể và có căn cứ chứng minh yêu cầu đó; việc khởi kiện này thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án theo quy định của pháp luật tố tụng [Điều 37, 38- 25]. Ở nước ta, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính không quy định thành điều riêng về các điều kiện (căn cứ) thụ lý vụ án hành chính. Xét một cách tổng thể các quy định pháp luật hiện hành về điều kiện thụ lý vụ án hành chính thì Toà án quyết định thụ lý vụ án hành chính khi có đủ các điều kiện sau : § Thứ nhất: Người khởi kiện có năng lực chủ thể theo quy định của pháp luật tố tụng hành chính. Người khởi kiện vụ án hành chính bao gồm cá nhân, cơ quan nhà nước hay tổ chức cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc cán bộ công chức cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm bởi quyết định kỷ luật buộc thôi việc nên đã khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền. Để xác định tư cách pháp lý của người khởi kiện cần căn cứ vào quy định tại các Điều 21, Điều 22, Điều 23 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính. Theo tinh thần của các điều luật này thì người khởi kiện là cá nhân phải từ đủ 18 tuổi trở lên. Nếu đương sự là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần thì thực hiện quyền nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng thông qua người đại diện. Trường hợp không có ai đại diện cho họ, Toà án sẽ cử một người thân thích của họ hoặc yêu cầu một cơ quan, tổ chức cử một thành viên đại diện cho họ. Nói cách khác, người khởi kiện phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi tố tụng hành chính. Năng lực pháp luật tố tụng hành chính là khả năng được hưởng những quyền tố tụng hành chính như quyền khởi kiện vụ án hành chính, các quyền chủ thể khi tham gia vào các giai đoạn của quá trình tố tụng hành chính… và phải gánh vác các nghĩa vụ tố tụng hành chính tương ứng như nghĩa vụ cung cấp bản sao quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc mà mình khởi kiện,… Năng lực hành vi tố tụng hành chính là khả năng tự mình sử dụng đúng đắn các quyền và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của người khởi kiện do pháp luật tố tụng hành chính quy định. Tuy nhiên, người khởi kiện có thể uỷ quyền cho bất kì người nào đại diện cho mình tham gia tố tụng, trừ những trường hợp bị pháp luật ngăn cấm như: Không có quốc tịch Việt Nam, không cư trú ở Việt Nam; chưa đủ 18 tuổi; bị bệnh tâm thần; đã bị khởi tố về hình sự hoặc bị kết án nhưng chưa được xoá; cán bộ Toà án, Viện Kiểm Sát; người giám định, người phiên dịch, người làm chứng trong vụ án; người thân thích với Thẩm phán, Hội thẩm, Thư kí Toà án, Kiểm sát viên đang tham gia giải quyết vụ án (Điều 22 Pháp lệnh). Bên cạnh những vấn đề liên quan đến độ tuổi, khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của người khởi kiện cũng như việc uỷ quyền…, pháp luật còn quy định cho phép đương sự tự mình hoặc có thể nhờ luật sư hay người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình. Đồng thời, “một người có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nhiều đương sự trong cùng một vụ án, nếu quyền lợi của những người đó không đối lập nhau”. (Khoản 1, Khoản 2 Điều 23 Pháp lệnh). Đó là một số quy định của pháp luật liên q._.uan đến năng lực hành vi tố tụng của người khởi kiện. Nếu người khởi kiện là cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế hoặc tổ chức xã hội thì họ tham gia tố tụng thông qua người lãnh đạo, người đứng đầu, người đại diện được uỷ quyền của cơ quan, tổ chức đó. Người lãnh đạo, người đứng đầu cơ quan, tổ chức là người có chức vụ, người này có thể được bổ nhiệm hoặc do bầu cử. Nếu là người được uỷ quyền thì chỉ thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng trong phạm vi được uỷ quyền. § Thứ hai: Vụ việc khởi kiện, khởi tố thuộc thẩm quyền của Toà án đang xem xét vụ việc. Về điều kiện này, trước hết cần xác định đối tượng khởi kiện, khởi tố phải là các quyết định, hành vi phù hợp với quy định của pháp luật, mà cụ thể đối tượng đó phải là quyết định hành chính (cá biệt), hành vi hành chính (hành động hoặc không hành động của cán bộ, công chức khi thừa hành công vụ), quyết định kỷ luật buộc thôi việc theo nghĩa quy định tại các Khoản 1, 2 và 3 Điều 4 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính. Theo quy định này thì: Quyết định hành chính là quyết định bằng văn bản của cơ quan hành chính Nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể, về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính. Hành vi hành chính là hành vi của cơ quan nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật. Quyết định kỷ luật buộc thôi việc là quyết định bằng văn bản của người đứng đầu cơ quan, tổ chức để áp dụng hình thức kỷ luật buộc thôi việc đối với cán bộ, công chức giữ chức vụ từ Vụ trưởng và tương đương trở xuống thuộc quyền quản lý của mình theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức. Đây là điểm khác biệt giữa luật tố tụng hành chính nước ta với luật hành chính một số nước trên thế giới. Một số nước trên thế giới, nơi có hệ thống luật tố tụng hành chính khá phát triển, có những quy định cho phép cá nhân, tổ chức khởi kiện đối với văn bản pháp quy. Ví dụ : Ở Cộng hoà liên bang Đức, công dân có thể khởi kiện trực tiếp một văn bản pháp quy. Việc chấp nhận một vụ kiện chống lại văn bản pháp quy dẫn đến việc huỷ bỏ chính văn bản đó chứ không chỉ từ chối việc áp dụng nó. Luật Tây Ban Nha còn quy định ngay cả khi hết thời hạn có thể kiện ra trước Toà, công dân vẫn có thể yêu cầu Toà hành chính tuyên bố một văn bản pháp quy nào đó là bất hợp pháp, vi phạm pháp luật. Luật của Pháp cũng quy định tương tự như vậy, mọi khiếu nại trực tiếp chống lại văn bản pháp quy sẽ được khiếu nại trong thời hạn hai tháng kể từ ngày văn bản đó được công bố. Pháp luật mở khả năng rộng rãi cho công nhân có quyền kịên một văn bản pháp quy với lý do là văn bản đó liên quan đến quyền lợi ích của họ. Ngoài ra, luật tố tụng hành chính một số nước khác như Italia, Bồ Đào Nha, Đan Mạch, Lúch xăm bua,… cũng quy định như vậy. Như vậy, khác với pháp luật nước ta, luật tố tụng hành chính của các nước trong cộng đồng Châu Âu dù thể hiện dưới những hình thức khác nhau đều cho phép công dân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện đối với các văn bản pháp quy vi phạm. Có điểm khác nhau này có thể do một vài nguyên nhân như: Ở một số nước này, việc tổ chức bộ máy nhà nước đều ít nhiều đều vận dụng thuyết tam quyền phân lập, trong đó có sự đối trọng, kiềm chế giữa ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Và có lẽ còn một lý do khác, đó là do tính chất của một văn bản pháp qui của họ khác với tính chất văn bản của nước ta. Văn bản pháp qui của một số nước này có một số qui định rất cụ thể và có thể áp dụng ngay và trong đó có chứa đựng những mệnh lệnh cụ thể có liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích của các cá nhân, cơ quan, tổ chức. Do vậy, rất có thể sẽ làm thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ và họ sẽ có quyền khởi kiện tại Toà án yêu cầu toà án giải quyết. Tuy nhiên, để có một vụ án hành chính được giải quyết tại Toà án, đảm bảo được quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức, cơ quan thì pháp luật tố tụng hành chính Việt Nam đã quy định về “tiền tố tụng”. Đó là hoạt động bắt buộc phải có đối với bên khởi kiện khi muốn khởi kiện một vụ án hành chính: Một là: Cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu theo quy định tại các điều từ Điều 19 đến Điều 25 của Luật khiếu nại, tố cáo nhưng hết thời hạn giải quyết quy định tại Điều 36 của Luật khiếu nại, tố cáo mà khiếu nại không được giải quyết và cũng không tiếp tục khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo; Hai là: Cá nhân, tổ chức, cơ quan đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu theo quy định tại Điều 19 đến Điều 25 của Luật khiếu nại, tố cáo nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại và cũng không tiếp tục khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo. Đối với cán bộ, công chức giữ chức vụ từ Vụ trưởng và tương đương trở xuống theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức có quyền khởi kiện vụ án hành chính về quyết định kỷ luật buộc thôi việc đối với mình, nếu đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại và cũng không tiếp tục khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo (Điều 2 Pháp lệnh 1998). Việc quy định như trên có ý nghĩa tạo điều kiện cho cơ quan nhà nước tự sửa chữa những quyết định, hành vi hành chính của mình. Đối với những công dân do chưa nắm chắc thông tin nên đã khiếu nại đối với những quyết định hành chính, hành vi hành chính hợp pháp, thì sẽ có cơ hội được cơ quan hành chính nhà nước giải thích về những căn cứ pháp lý của những quyết định hay hành vi hành chính đó và công dân có thể tự rút đơn kiện. Điều này làm đỡ tốn kém thời gian, công sức và tiền bạc của công dân, bởi vì thủ tục khiếu nại hành chính nhanh chóng, tiết kiệm hơn rất nhiều so với thủ tục tố tụng tại Toà án. Ngoài ra, khi khởi kiện vụ án hành chính ra Toà án thì tính hợp pháp của đối tượng khởi kiện sẽ được Toà án đưa ra xem xét, còn khi khiếu nại tới cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì cả tính hợp pháp và tính hợp lý của quyết định, hành vi hành chính đều được xem xét giải quyết. Hơn nữa, việc quy định giai đoạn “tiền tố tụng” hành chính nói chung còn phù hợp với thông lệ thế giới, ví dụ: Pháp, Đức, Thuỵ Điển, Trung Quốc… Tuy rằng, có nơi quy định trình tự đó là bắt buộc, có nơi không bắt buộc [Tr 522- 16]. Ngoài điều kiện về đối tượng khởi kiện, khởi tố, vụ việc đang được Toà án xem xét thụ lý còn phải thuộc thẩm quyền xét xử hành chính nói chung của Toà án theo Điều 11 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính và thuộc thẩm quyền xét xử hành chính cụ thể của Toà án mình theo quy định tại Điều 12 và Điều 13 của Pháp lệnh này. Theo Điều 11 Pháp lệnh, các vụ việc thuộc thẩm quyền xét xử hành chính của Toà án bao gồm có 9 loại việc như: Khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính; khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng biện pháp buộc tháo dỡ nhà ở, công trình, vật kiến trúc kiên cố khác v.v. Ngoài ra, Toà án còn có thẩm quyền xét xử hành chính đối với các khiếu kiện khác theo quy định của pháp luật. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì các khiếu kiện này là: Khiếu kiện quyết định của Ban chủ nhiệm, Hội đồng khen thưởng, kỉ luật của Đoàn luật sư theo Pháp lệnh luật sư; khiếu kiện các quyết định liên quan đến việc chấp nhận đơn yêu cầu cấp văn bằng bảo hộ hoặc từ chối cấp văn bằng bảo hộ theo Nghị định 63/CP ngày 24 tháng 10 năm 1996 của Chính Phủ quy định chi tiết về sở hữu công nghiệp (Đã được sửa đổi bổ sung bằng Nghị định 06/2001/NĐ- CP ngày 01/02/2001); khiếu kiện đối với hành vi từ chối công chứng, chứng thực của người có thẩm quyền theo Nghị định 75/CP ngày 08 tháng 12 năm 2000 của Chính Phủ về công chứng, chứng thực. Ngoài ra, theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính ngày 01 tháng 10 năm 2002 thì Toà án còn có thẩm quyền xét xử hành chính đối với các khiếu kiện: Quyết định xử phạt vi phạm hành chính; quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm việc xử lý vi phạm hành chính; quyết định giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục, đưa vào cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính (Điều 119 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002). § Thứ ba: Thời hiệu khởi kiện vẫn còn theo quy định tại các Khoản 1 và 2 Điều 30 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung năm 1998. Cụ thể là: “1 – Người khởi kiện đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính phải làm đơn yêu cầu Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu theo quy định của luật Khiếu nại, tố cáo mà khiếu nại không được giải quyết hoặc kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu mà không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại đó. Cán bộ, công chức khởi kiện đối với quyết định kỉ luật buộc thôi việc phải làm đơn yêu cầu Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu mà không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại đó. Đối với vùng sâu, vùng xa, vùng đi lại khó khăn thì các thời hạn khởi kiện nói trên là bốn mươi lăm ngày. 2 - Trong trường hợp vì ốm đau, thiên tai, địch hoạ, đi công tác, học tập ở nơi xa hoặc vì những trở ngại khách quan khác mà người khởi kiện không khởi kiện được trong thời hạn quy định tại Khoản 1 Điều này, thì thời gian có trở ngại đó không tính vào thời hiệu khởi kiện”… Thời hiệu khởi kiện là một khoảng thời gian nhất định do pháp luật quy định ; trong khoảng thời gian đó, người khởi kiện có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Nếu hết thời hạn đó, người khởi kiện không khởi kiện thì sẽ mất quyền khởi kiện. Như vậy, thời hiệu khởi kiện trước hết là một khoảng thời gian, tuy nhiên, đây không phải là khoảng thời gian thông thường mà là khoảng thời gian do pháp luật quy định. Thực tế hiện nay, trong nhân dân hầu hết còn có nhận thức là có thể khiếu kiện ra Toà án đối với mọi quyết định hành chính hay hành vi hành chính mà họ cho là trái pháp luật, không phân biệt còn trong thời hiệu khởi kiện hay đã hết thời hiệu khởi kiện. Để khắc phục tình trạng này thì công tác phổ biến tuyên truyền pháp luật trong nhân dân để họ hiểu được phải thực hiện quyền khởi kiện của mình trong khoảng thời gian nhất định là điều rất quan trọng . Pháp lệnh không quy định cụ thể là việc khiếu nại đó có cần phải được thụ lý để giải quyết hay không, nhưng trong trường hợp quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 2 Pháp lệnh thì có thể khởi kiện vụ án hành chính ngay cả khi việc khiếu nại không được thụ lý giải quyết theo quy định của Luật khiếu nại, tố cáo. Trong trường hợp này, thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu có thể được ước lượng tương đối bằng thời hạn thụ lý cộng với thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định của Luật khiếu nại, tố cáo. Đối với các trường hợp khiếu nại đã được thụ lý thì thời điểm phát sinh quyền khởi kiện vụ án hành chính được xác định tuỳ thuộc vào việc khiếu nại có được giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định hay không. Nếu khiếu nại được giải quyết bằng quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu trong thời hạn Luật khiếu nại tố cáo quy định, thì thời điểm phát sinh quyền khởi kiện vụ án hành chính là ngày người khiếu nại nhận được quyết định đó. Trong trường hợp người giải quyết khiếu nại không ban hành quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu đúng thời hạn Luật khiếu nại, tố cáo quy định, hoặc có quyết định này nhưng người khiếu nại không nhận được quyết định đó, thì thời điểm phát sinh quyền khởi kiện vụ án hành chính được tính từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu theo quy định của Luật khiếu nại tố cáo. Tuy vậy, nhưng Luật khiếu nại, tố cáo và Nghị định 67 CP không hề quy định thời hạn gửi quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu tới người khiếu nại. Bên cạnh đó, pháp luật cũng không quy định cụ thể về thời hiệu khởi tố vụ án hành chính , mà chỉ quy định chung chung là Viện Kiểm Sát khởi tố vụ án hành chính khi không có ai khởi kiện. Do đó, việc xác định thời điểm Viện Kiểm Sát có quyền khởi tố vụ án hành chính cũng gặp nhiều khó khăn. § Thứ tư: Việc khởi kiện, khởi tố vụ án hành chính phải được thực hiện theo hình thức và nội dung theo quy định của pháp luật . Theo quy định tại Khoản 3 và 4 Điều 30 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính thì việc khởi kiện vụ án hành chính phải được thực hiện bằng đơn. Cụ thể, đơn kiện phải có các nội dung chính sau đây: Ngày, tháng, năm làm đơn; Toà án được yêu cầu giải quyết vụ án hành chính; tên, địa chỉ của người khởi kiện, người bị kiện; nội dung quyết định hành chính hoặc quyết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ, công chức hay tóm tắt diễn biến của hành vi hành chính; nội dung quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu (nếu có); cam đoan không khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo; các yêu cầu đề nghị Toà án giải quyết. Đơn kiện phải do người khởi kiện ký; nếu họ là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần, thì phải do người đại diện của họ ký. Kèm theo đơn kiện phải có các tài liệu chứng minh cho yêu cầu của người khởi kiện. Tuy Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính không quy định cụ thể về hình thức và nội dung của việc khởi tố, song việc Viện Kiểm Sát khởi tố vụ án hành chính không chỉ nhằm mục đích thực hiện quyền công tố mà còn thay mặt cho người có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm hại bởi các quyết định hành chính, hành vi hành chính, chính thức yêu cầu Toà án bảo vệ quyền lợi cho họ khi không thể tự mình và cũng không có ai khởi kiện cho họ. Do vậy, việc khởi tố vụ án hành chính phải được thực hiện bằng quyết định khởi tố với những nội dung tương tự như đối với đơn khởi kiện và kèm theo quyết định khởi tố là những tài liệu chứng minh cho yêu cầu khởi tố của Viện kiểm sát. Trên đây là những quy định của pháp luật về những căn cứ thụ lý vụ án hành chính. Đây là cơ sở pháp lý để Toà án khi tiến hành thụ lý một vụ án hành chính kiểm tra, đối chiếu xem việc khởi kiện của người khởi kiện có tuân thủ những quy định của pháp luật không và để việc thụ lý vụ án hành chính của Toà án có căn cứ pháp luật. Nhưng, ý nghĩa sâu xa hơn là đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hành chính được nhanh chóng, khách quan và đúng pháp luật. Với mục đích để tránh cho việc khởi kiện một cách tràn lan, lợi dụng quyền khởi kiện cũng như ra quyết định trả lại đơn kiện không có căn cứ, xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, Điều 31 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính quy định: Toà án sẽ trả lại đơn kiện (không thụ lý vụ án) trong những trường hợp sau: 1. Người khởi kiện không có quyền khởi kiện. Đó là các trường hợp: Người khởi kiện không có năng lực pháp luật (bao gồm những người không có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm hại bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính bị kiện…), người khởi kiện không có năng lực hành vi (đó là những cá nhân công dân chưa đủ 18 tuổi, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần mà tự mình đệ đơn kiện). Đối với người có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức và khă năng điều khiển hành vi thì người tiến hành tố tụng phải đưa họ đi kết luận giám định y khoa, để xác định có hay không có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần. Các trường hợp: Công dân không được uỷ quyền hoặc được uỷ quyền nhưng uỷ quyền không hợp lệ, hoặc thực hiện quá phạm vi uỷ quyền; quyết định hành chính, hành vi hành chính không liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện thì Toà án cũng trả lại đơn kiện; người khởi kiện là cơ quan nhà nước, tổ chức tham gia tố tụng không thông qua người lãnh đạo, người đứng đầu cơ quan, tổ chức đó khi khởi kiện; công dân không phải là người thừa kế hợp pháp quyền và lợi ích hợp pháp của công dân là người khởi kiện đã chết và không được Toà án chấp nhận cũng thuộc trường hợp người khởi kiện không có quyền khởi kiện . 2. Thời hiệu khởi kiện đã hết mà không có lý do chính đáng. Vấn đề thời hiệu khởi kiện đã được đề cập trong phần 1.2 Chương này. Nếu vụ án hành chính đã hết thời hiệu khởi kiện nói trên thì mặc dù đơn khởi kiện của người khởi kiện thoả mãn các điều kiện khác nhưng Toà án cũng sẽ không thụ lý vụ án. Song, khi có những lý do chính đáng (là những lý do khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người khởi kiện, khiến người khởi kiện không thực hiện được quyền khởi kiện), thì thời gian bị trở ngại khách quan đó không tính vào thời hiệu khởi kiện. Trở ngại khách quan có thể là do thiên nhiên gây nên hoặc người khởi kiện gặp phải rủi ro, tai nạn mà họ không thể thực hiện được quyền khởi kiện của mình. 3. Chưa hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu quy định tại điều 36 Luật khiếu nại, tố cáo và chưa có quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu. Thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu theo quy định tại Điều 36 Luật khiếu nại, tố cáo là: “Không quá 30 ngày kể từ ngày thụ lý để giải quyết. Đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết khiếu nại có thể kéo dài hơn, nhưng không quá 45 ngày kể từ ngày thụ lý để giải quyết. Ở vùng sâu, vùng xa, đi lại khó khăn thì thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý để giải quyết; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết khiếu nại có thể kéo dài hơn, nhưng không quá 60 ngày, kể từ ngày thụ lý để giải quyết ”. 4. Đã hết thời hiệu khiếu nại quy định tại Điều 31 Luật khiếu nại, tố cáo mà không khiếu nại. Theo Điều 31 Luật khiếu nại, tố cáo, thời hiệu khiếu nại là 90 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hành chính hoặc biết được có hành vi hành chính. Trong trường hợp vì ốm đau, thiên tai, địch hoạ, đi công tác, học tập ở nơi xa hoặc vì những trở ngại khách quan khác mà người khiếu nại không thực hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hiệu thì thời gian có trở ngại đó không tính vào thời hiệu khiếu nại. 5. Chưa có quyết định giải quyết lần đầu đối với khiếu nại quyết định kỷ luật buộc thôi việc. Quyết định kỷ luật với hình thức buộc thôi việc là loại quyết định áp dụng hình thức kỷ luật nghiêm khắc nhất mà hậu quả của quyết định đó là việc cán bộ, công chức không còn là đối tượng áp dụng của quy chế công vụ, không còn là người được đảm nhận các công vụ, nhiệm vụ của cán bộ, công chức. Vì vậy, việc kỷ luật buộc thôi việc cán bộ, công chức ở trong trường hợp này không còn đơn thuần là công việc nội bộ trong cơ quan, tổ chức mà đã ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lao động của cán bộ, công chức với tư cách là công dân. Việc pháp luật quy định quyết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ, công chức là đối tượng khởi kiện hành chính là hợp lý. Song, pháp luật cũng giới hạn phạm vi khiếu kiện vụ án hành chính đối với một số cán bộ, công chức nhất định về quyết định đó; và khi chưa có quyết định giải quyết lần đầu đối với khiếu nại quyết định kỷ luật buộc thôi việc thì Toà án sẽ trả lại đơn kiện để tránh sự can thiệp quá sâu của Toà án vào hoạt động nội bộ của các cơ quan, tổ chức khác… 6. Đã có quyết định giải quyết khiếu nại của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo. Khiếu nại tiếp đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo chính là việc công dân yêu cầu cơ quan nhà nước phải tự kiểm điểm mình, xem xét lại những quyết định hành chính, hành vi hành chính do mình ban hành và cũng là cơ hội để những cơ quan này tự đánh giá việc thực thi quyền lực nhà nước đối với công dân và vì công dân, nghĩa là tự phán xét các quyết định hành chính hoặc hành vi công vụ của mình. Nếu các tranh chấp hành chính đã được giải quyết ngay bởi các cơ quan hành chính và cấp hành chính thì thường nhanh chóng, đơn giản, vừa có lợi cho công dân, vừa có lợi cho cơ quan hành chính nhà nước. Vì vậy, Pháp lệnh 1998 có quy định: cá nhân, tổ chức sau khi đã khiếu nại đến chính cơ quan nhà nước, cán bộ công chức đã ra quyết định hành chính, hành vi hành chính, nếu không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại đó thì có quyền khiếu nại đến cơ quan giải quyết khiếu nại tiếp theo hoặc khởi kiện đến Toà án. Một khi đã có quyết định giải quyết khiếu nại của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo thì Toà án sẽ trả lại đơn kiện, không tiến hành thụ lý vụ án. (Thẩm quyền giải quyết khiếu nại các lần tiếp theo được quy định tại Mục 21 Chương II từ Điều 19 đến Điều 29 Luật khiếu nại, tố cáo). Tuy nhiên, nếu so sánh điểm này với Pháp lệnh luật sư ngày 25 tháng 07 năm 2001 thì lại có sự khác biệt. Cụ thể: Có những trường hợp giai đoạn tiền tố tụng hành chính chỉ cần qua một lần khiếu nại theo thủ tục hành chính, nhưng cũng có trường hợp phải khiếu nại đến lần thứ hai theo thủ tục hành chính rồi mới có thể khởi kiện vụ việc ra Toà án. Ví dụ: Theo Khoản 2 Điều 41 Pháp lệnh luật sư thì: “Cá nhân, tổ chức có quyền khiếu nại đối với quyết định của Ban chủ nhiệm, Hội đồng khen thưởng kỷ luật của Đoàn luật sư khi có căn cứ cho rằng quyết định đó là xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Chủ nhiệm Đoàn luật sư có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định của Ban chủ nhiệm. Chủ tịch Hội đồng khen thưởng, kỷ luật của Đoàn luật sư có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định của Hội đồng khen thưởng, kỷ luật. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định của Ban chủ nhiệm, Hội đồng khen thưởng kỷ luật của Đoàn luật sư mà đã được Chủ nhiệm Đoàn luật sư hoặc Chủ tịch Hội đồng khen thưởng kỷ luật của Đoàn luật sư giải quyết nhưng vẫn còn khiếu nại. Nếu không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, thì người khiếu nại có quyền khiếu nại lên Bộ trưởng Bộ tư pháp hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án theo quy định của pháp luật.” 7. Sự việc đã dược giải quyết bằng bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án. Ví dụ: Quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ hay bản án sơ thẩm không bị kháng cáo… Bởi vì ở đây, sự việc đã được giải quyết . Nếu muốn xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì các đương sự có thể theo đuổi tiếp vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm. Trong trường hợp nhận thấy bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật là không đúng, thì Thủ tướng Chính phủ có quyền yêu cầu Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm Sát nhân dân tối cao xem xét, giải quyết theo thẩm quyền và trả lời Thủ tướng Chính phủ trong thời hạn 30 ngày (Điều 8 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính). 8. Việc được khởi kiện không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án. Thẩm quyền mà điều luật này đề cập tới là thẩm quyền theo loại việc. Thẩm quyền theo loại việc được quy định tại Điều 11 và Điều 12 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính. Đương nhiên, một khi vụ việc không thuộc thẩm quyền thì Toà án không thể thụ lý để giải quyết. Tóm lại, khi thấy việc khởi kiện vụ án hành chính được thực hiện bởi đúng chủ thể, đúng thủ tục, trình tự, thời hạn pháp luật quy định, thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án,… thì Toà án sẽ tiến hành thụ lý vụ án hành chính. Việc thụ lý đã đặt ra cho Toà án một trách nhiệm rất lớn và có nhiều ý nghĩa. Toà án sẽ không thụ lý vụ án và trả lại đơn kiện cho người khởi kiện nếu như họ thuộc vào một trong các trường hợp không thụ lý vụ án: Người khởi kiện không có quyền khởi kiện; thời hiệu khởi kiện đã hết mà không có lý do chính đáng ... 1.3 THỜI ĐIỂM THỤ LÝ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH . Trong thủ tục tố tụng hành chính, việc xác định thời điểm thụ lý vụ án hành chính cũng có ý nghĩa rất quan trọng, bởi nó liên quan đến việc xác định thời điểm phát sinh trách nhiệm của Toà án trong quá trình giải quyết vụ án hành chính qua các giai đoạn tiếp theo của tố tụng hành chính. Vậy, ngày Toà án thụ lý vụ án hành chính được xác định là ngày nào ? Điều 32 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính quy định :…“Toà án thụ lý vụ án vào ngày người khởi kiện xuất trình biên lai nộp tiền tạm ứng án phí. Trong trường hợp người khởi kiện được miễn nộp tiền tạm ứng án phí thì Toà án thụ lý vụ án vào ngày nhận được đơn kiện”. Như vậy thì ngày thụ lý vụ án hành chính được xác định tuỳ thuộc vào trường hợp người khởi kiện có thuộc diện được miễn nộp tiền tạm ứng án phí hay không. Có thể nói, nộp tiền tạm ứng án phí không phải là điều kiện thuộc về nội dung vụ kiện nhưng cũng cần thiết để Toà án quyết định thụ lý vụ án hành chính hay không thụ lý vụ án hành chính. Khi nhận được đơn kiện, Toà án phải tiến hành xem xét theo quy định chung những căn cứ thụ lý, căn cứ không thụ lý vụ án hành chính để đi đến quyết định có thụ lý vụ án hành chính hay trả lại đơn kiện. CHƯƠNG HAI ***** THỰC TRẠNH PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THỤ LÝ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH Ở VIỆT NAM THỤ LÝ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH. Xã hội hiện hữu như là một chỉnh thể bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau, tất cả các lĩnh vực ấy đều đòi hỏi có sự điều chỉnh của pháp luật ở một chừng mực nhất định. Trong đó, thủ tục tố tụng hành chính đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sự vận hành của nền hành chính quốc gia, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống nhân dân. Tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng hành chính, mọi chủ thể đều phải thực hiện theo đúng những trình tự thủ tục pháp luật quy định, từ bước khởi kiện, thụ lý- xét xử- cho đến thi hành án. Và mặc nhiên sẽ không có “đường tắt” khi các chủ thể tham gia vào quan hệ tố tụng này. Pháp luật về xét xử hành chính là một lĩnh vực pháp luật mới xuất hiện ở nước ta. Về mặt hình thức thể hiện cũng như nội dung của các văn bản tuy còn ở một mức độ khiêm tốn, song như chúng ta đã biết, nó đã góp phần không nhỏ vào việc bảo vệ quyền, tự do và lợi ích hợp pháp của công dân thông qua hoạt động tố tụng hành chính . Ngày 21 tháng 5 năm 1996, Uỷ ban thường vụ Quốc Hội đã thông qua Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (gọi tắt là Pháp lệnh), Pháp lệnh này có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 7 năm 1996. Để triển khai thực hiện Pháp lệnh, ngày 6 tháng 7 năm 1996 Toà án nhân dân tối cao ra Công văn số 39/ KHXX Hướng dẫn thi hành một số quy định của Pháp lệnh; Thanh tra nhà nước ra Thông tư số 1118/TTNN ngày 10/07/1996 Hướng dẫn một số vấn đề về khiếu nại hành chính; Nghị định 70/CP ngày 12/06/1997 của Chính phủ về án phí, lệ phí Toà án, trong đó có một phần quy định về án phí hành chính. Có thể nói, đây là một nỗ lực rất lớn của Toà án nhân dân tối cao và Thanh tra nhà nước… nhằm đưa Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính sớm đi vào cuộc sống. Song, cho tới khi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính sửa đổi, bổ sung ngày 25 tháng 12 năm 1998 được ban hành thì Pháp lệnh ngày 21/5/1996 và Công văn 39/KHXX là hai văn bản chủ yếu nhằm triển khai hoạt động tố tụng hành chính. Về mặt số lượng, cho tới nay các văn bản pháp luật về xét xử hành chính mới chỉ chưa đầy mười văn bản. Tất nhiên, chúng ta không thể chỉ đánh giá thực trạng pháp luật xét xử về hành chính thông qua số lượng các văn bản được ban hành để điều chỉnh hoạt động này, nhưng đây cũng là một vấn đề cần phải quan tâm trong quá trình hoàn thiện pháp luật tố tụng hành chính. Tiếp đó, ngày 01 tháng 01 năm 1999, Luật khiếu nại, tố cáo có hiệu lực; ngày 05 tháng 01 năm 1999, Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính cũng có hiệu lực thi hành. Như vậy, hệ thống văn bản pháp luật đóng vai trò là cơ sở pháp lý cho việc quản lý hành chính nhà nước nói chung và cho việc thụ lý vụ án hành chính nói riêng của Toà án. Căn cứ vào những quy định cụ thể của pháp luật mà các cơ quan nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình. Điều đó cũng hoàn toàn phù hợp với Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước Xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính, và nhiệm vụ chính trị của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đề ra: “Khắc phục tình trạng trùng chéo, đùn đẩy trách nhiệm, gây khó khăn, chậm chễ trong công việc và giải quyết khiếu kiện của dân. Nâng cao vai trò của Toà hành chính trong việc giải quyết các khiếu kiện hành chính” [Tr 217- 2]. Tuy nhiên, một thực tế là, về mặt hình thức pháp lý, các văn bản pháp luật về xét xử hành chính hiện nay còn bộc lộ nhiều điểm không phù hợp với Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật ngày 12 tháng 11 năm 1996 đã được sửa đổi, bổ sung ngày 27 tháng 12 năm 2002, chưa tạo ra một khung pháp luật đầy đủ nhằm giải quyết tốt các khiếu kiện hành chính của công dân, tổ chức thông qua hoạt động xét xử hành chính, ảnh hưởng trực tiếp tới việc cá nhân, tổ chức khi khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án, gây khó khăn cho Toà án trong việc thụ lý cũng như xét xử vụ án hành chính. Chủ yếu các văn bản trực tiếp hướng dẫn thi hành pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính do Toà án nhân dân tối cao ban hành đều tồn tại dưới dạng “Công văn”. Trong khi đó, theo tinh thần của Điều 1, Điều 17 và Điều 67 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao ban hành nhất thiết phải tồn tại dưới hình thức “Nghị quyết”. Do vậy, việc sử dụng thuật ngữ “Công văn” của Toà án nhân dân tối cao để hướng dẫn thi hành “Pháp lệnh” là không đúng về mặt hình thức văn bản. Về mặt nội dung, có thể nói ngay sau khi được thông qua, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996 đã bộc lộ nhiều điểm bất hợp lý. Khắc phục những tồn tại của Pháp lệnh, ngày 25 tháng 12 năm 1998, Uỷ ban thường vụ Quốc Hội đã thông qua Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính. Về cơ bản, những tồn tại trong Pháp lệnh năm 1996 đã được Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung khắc phục, song những hạn chế cũng như sự bất cập, không hợp lý vẫn còn tồn tại. Tuy nhiên, luận văn chỉ xin được trình bày những bất cập trong lĩnh vực thụ lý vụ án hành chính: § Thứ nhất: Về đối tượng khởi kiện, khởi tố vụ án hành chính. Vấn đề này hiện nay còn nhiều vướng mắc khi áp dụng để giải quyết các vụ án hành chính. Theo quy định tại Điều 2 Pháp lệnh thì cá nhân, cơ ._.oạt động từ ngày 01 tháng 07 năm 1996. Sự ra đời của Toà hành chính được đánh giá như là một thiết chế mới góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt nam, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân thông qua các phán quyết của Toà án về tính hợp pháp của các quyết định hành chính và hành vi hành chính. Tuy nhiên, qua phân tích thực trạng thụ lý vụ án hành chính một số năm gần đây cũng như nguyên nhân của thực trạng đó, có thể thấy xét xử hành chính chưa đạt hiệu quả cao trong việc bảo đảm quyền, tự do và lợi ích hợp pháp của công dân. Trên cơ sở tham khảo một số quan điểm của những chuyên gia về lĩnh vực này và sự nhận thức của bản thân, tôi xin đưa ra một số giải pháp trước mắt cũng như lâu dài đối với thực trạng thụ lý vụ án hành chính hiện nay như sau: Về công tác xây dựng pháp luật. Hoàn thiện pháp luật về thụ lý vụ án hành chính và những văn bản pháp luật khác có liên quan. § Thứ nhất: Rà soát lại toàn bộ các văn bản có liên quan đến hoạt động thụ lý vụ án hành chính, khắc phục những điểm có mâu thuẫn. Trước hết cần khắc phục mâu thuẫn giữa Thông tư 1118/ TTNN của Thanh tra nhà nước với Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (điểm này đã được trình bày trong phần thực trạng pháp luật). Trên cơ sở khắc phục những mâu thuẫn, chồng chéo, Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao cần ban hành Nghị Quyết hướng dẫn thi hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, Chính Phủ cần ban hành một văn bản hướng dẫn chung ở cấp độ Nghị Định, tiếp đến là các văn bản điều chỉnh về các vấn đề liên quan đến các lĩnh vực đối tượng khởi kiện, khởi tố; căn cứ thụ lý, không thụ lý vụ án hành chính... Không nên để tình trạng văn bản hướng dẫn thi hành Pháp lệnh lại tồn tại dưới hình thức “Công văn”, như Công văn 39/KHXX hoặc Công văn 07/HC của Toà án nhân dân tối cao. § Thứ hai: Khắc phục mâu thuẫn giữa Khoản 1 Điều 4 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính với Điều 12 của Pháp lệnh, tránh tình trạng coi cả Toà án, Viện Kiểm Sát, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc Hội đều là các cơ quan hành chính nhà nước. § Thứ ba: Về trình tự, điều kiện khởi kiện, khởi tố vụ án hành chính. Để thụ lý và giải quyết một cách có hiệu quả các khiếu kiện hành chính, cần xác định rõ mối quan hệ giữa cơ chế giải quyết khiếu nại theo trình tự hành chính tại các cơ quan hành chính nhà nước với cơ chế giải quyết theo trình tự tố tụng hành chính tại Toà án với các căn cứ pháp luật cụ thể, đầy đủ và hợp lý cho việc phân định thẩm quyền khi nảy sinh tranh chấp. Do vậy, việc xác định rõ trình tự, điều kiện khởi kiện, khởi tố vụ án hành chính luôn là vấn đề trọng tâm của cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính. Qua xem xét các quan điểm lập pháp về giải quyết khiếu kiện hành chính trong những năm vừa qua, có thể nhận thấy các ý kiến về trình tự khiếu kiện hành chính tập trung thành ba quan điểm cơ bản sau: - Quan điểm thứ nhất cho rằng: Cần quy định trình tự giải quyết khiếu nại qua hai cấp ở cơ quan hành chính (lần đầu của cơ quan bị khiếu nại và lần thứ hai của cơ quan cấp trên trực tiếp), sau đó, nếu người khiếu nại không đồng ý thì khởi kiện ra Toà [Tr 8, 30]. - Quan điểm thứ hai cho rằng: Nên quy định người khiếu nại có quyền lựa chọn (hoặc khởi kiện ra Toà án, hoặc tiếp tục khiếu kiện lên cấp trên) sau khi đã giải quyết khiếu nại lần đầu [Tr 12, 14]. - Quan điểm thứ ba cho rằng: Cần quy định người khiếu nại được quyền lựa chọn việc khởi kiện ra Toà án ở bất kỳ giai đoạn giải quyết nào, không phải cam đoan về việc không tiếp khiếu lên cơ quan cấp trên, không cần văn bản trả lời của cơ quan, tổ chức bị khiếu nại đối với bất cứ loại việc nào, trừ các trường hợp đã có quyết định giải quyết cuối cùng của Thủ tướng Chính phủ [Tr 12, 14]. Cơ sở của quan điểm thứ ba là bảo đảm quyền tự do lựa chọn cơ quan giải quyết của người khiếu kiện. Việc khởi kiện ra Toà án không nhất thiết phải qua giai đoạn giải quyết khiếu nại theo thủ tục hành chính. Tuy nhiên, việc đề cao quyền tự do lựa chọn của người khiếu kiện mà không chú trọng bảo đảm cơ hội tự kiểm tra, tự sửa chữa sai phạm của cơ quan hành chính nhà nước ít nhiều ảnh hưởng tới hiệu quả của công tác giải quyết khiếu kiện hành chính nói chung. Thực tế cho thấy, quản lý hành chính nhà nước vốn phức tạp và đa dạng, nên đôi khi cơ quan hành chính nhà nước đã không có được căn cứ chắc chắn để ra quyết định của mình; việc tạo điều kiện cho họ xem xét lại quyết định, hành vi của mình là cần thiết, khi có khiếu kiện, nếu thấy cần thiết họ có thể thay đổi, huỷ bỏ quyết định của mình hoặc của cấp dưới. Mặt khác, cá nhân, tổ chức, cơ quan là người chịu tác động của quyết định hành chính, hành vi hành chính có thể không có đủ thông tin để thấy được tính đúng đắn của quyết định hoặc hành vi đó. Cho nên, nếu được giải thích cặn kẽ và đầy đủ thông tin, nhận thấy những đòi hỏi của mình là vô lý, có thể họ sẽ rút đơn kiện. Do vậy, quy định giải quyết khiếu nại là trình tự bắt buộc trước khi khởi kiện ra Toà án không chỉ tạo cơ hội cho cơ quan hành chính nhà nước có thể tự kiểm tra và tự sửa chữa những sai sót trong quá trình hoạt động của mình, mà còn có thể sớm giải quyết các khiếu kiện không cần đến việc tố tụng trước Toà án, làm giảm nhẹ gánh nặng công việc cho Toà án. Hơn nữa, việc thi hành án hành chính là vấn đề phức tạp, Toà án không thể tổ chức cưỡng chế thi hành án hành chính đối với các cơ quan hành chính nhà nước, việc thi hành án hành chính chắc chắn chỉ có thể dựa vào chính các cơ quan hành chính nhà nước. Vì vậy, việc giải quyết dứt điểm khiếu kiện hành chính bằnh thủ tục hành chính cũng có ý nghĩa trong việc khôi phục kịp thời các quyền, lợi ích hợp pháp cho người khiếu nại. Mặt khác, kết quả của việc giải quyết khiếu nại theo thủ tục hành chính cũng là căn cứ quan trọng giúp Toà án có thể giải quyết nhanh chóng, đúng pháp luật các vụ án hành chính. Cơ sở của quan điểm thứ hai là vừa đảm bảo quyền tự sửa chữa sai sót của cơ quan bị khiếu kiện, vừa bảo đảm trong chừng mực nhất định quyền lựa chọn của người khiếu kiện. Quan điểm này đã được thể hiện trong Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 và Pháp lệnh 1998. Qua phân tích ở các phần nêu trên cho thấy, quy định hiện hành về trình tự khiếu kiện có nhiều hạn chế. Thực tế, nhiều cơ quan hành chính đã không có thái độ tích cực trong việc thụ lý, giải quyết khiếu nại, gây khó khăn cho việc khởi kiện ra Toà án. Mặt khác, việc quy định sau khi đã khiếu nại lần đầu, người khiếu nại chỉ có quyền lựa chọn hoặc là khiếu nại tiếp theo, hoặc khởi kiện ra Toà án là hơi cứng nhắc, chưa thực sự đảm bảo quyền tự do lựa chọn của người khiếu kiện và gây tâm lý căng thẳng cho họ. Cơ sở của quan điểm thứ nhất là bảo đảm quyền tự sửa chữa của cơ quan bị khiếu kiện và quyền kiểm tra của cơ quan cấp trên. Bên cạnh đó, quy định như vậy cũng đảm bảo cho người khiếu nại có thể tiếp khiếu theo thủ tục hành chính mà vẫn có thể khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án. Hơn nữa, việc giải quyết khiếu nại hai lần trước khi khởi kiện ra Toà án sẽ là cơ sở tham khảo quan trọng, giúp Toà án có thể giải quyết nhanh chóng vụ án hành chính. Tuy vậy, có thể thấy rằng, việc quy định khiếu nại lần đầu là trình tự bắt buộc trước khi khởi kiện ra Toà như hiện nay đã là hạn chế rất lớn đối với việc khởi kiện của cá nhân, tổ chức, cơ quan. Do đó, nếu quy định như quan điểm thứ nhất thì chắc chắn sẽ hạn chế một cách đáng kể các khiếu kiện hành chính ra Toà án. Trong khi đó, từ năm 1996, thẩm quyền xét xử hành chính được xác lập cho Toà án đã tạo ra một cơ chế giải quyết mới có nhiều ưu việt. Cơ chế này cho phép người khiếu kiện có thể trực tiếp (hoặc nhờ luật sư) tranh tụng công khai, bình đẳng với người bị khiếu kiện. Đây là cơ chế giải quyết khiếu kiện mang tính dân chủ, phù hợp với xu thế xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa và đang được xã hội đặt niềm tin rất cao. Mặt nữa, việc giải quyết khiếu nại hai lần chắc chắn sẽ mất rất nhiều thời gian và tốn kém cho cơ quan nhà nước, người khiếu nại và những đối tượng khác có liên quan. Đồng thời còn làm chậm chễ việc bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của người khiếu kiện hành chính. Vì vậy, quy định đơn thuần như quan điểm thứ nhất cũng rất bất hợp lý. Mục đích của thụ lý và xét xử vụ án hành chính, trước hết là nhằm bảo vệ một cách hữu hiệu các quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức, cơ quan có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm hại bởi các quyết định hành chính, hành vi hành chính chứ hoàn toàn không phải là vì bảo đảm quyền tự sữa chữa hay là quyền tự kiểm tra của các cơ quan hành chính. Vì vậy, việc quy định trình tự, điều kiện khởi kiện, khởi tố và thụ lý vụ án hành chính phải xuất phát từ yêu cầu của xã hội, vì lợi ích của xã hội, tôn trọng ý chí chính đáng của những cá nhân, tổ chức, cơ quan có quyền lợi bị xâm phạm trong việc lựa chọn cơ quan bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho họ. Từ nhận định đó thiết nghĩ nên quy định: việc khởi kiện vụ án hành chính có thể được thực hiện ở bất kỳ giai đoạn nào của quá trình giải quyết khiếu nại theo thủ tục hành chính. Trừ trường hợp vụ việc đó đã được thụ lý nhưng chưa đến thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu và chưa có quyết định giải quyết khiếu nại hoặc là đã có quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật; Việc thụ lý vụ án hành chính của Toà án làm đình chỉ việc giải quyết khiếu nại theo thủ tục hành chính và làm chấm dứt quyền khiếu nại tiếp theo của người khởi kiện. Quy định như vậy không những mở rộng phạm vi lựa chọn của người khiếu kiện mà còn đảm bảo quyền tự sửa chữa sai sót của các cơ quan hành chính nhà nước; không những đề cao được trách nhiệm của Toà án và người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại mà còn bảo đảm tính tôn nghiêm của các quyết định giải quyết khiếu kiện đã có hiệu lực pháp luật. Đối với việc kiểm tra của các cơ quan cấp trên cần được xác định là công việc nội bộ mang tính thường xuyên của các cơ quan đó, chứ không phải là vì có khiếu nại thì cơ quan cấp trên mới có cơ hội kiểm tra việc thực hiện pháp luật của cơ quan cấp dưới. Mặt khác, quy định như vậy cũng hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 7 Chương VI Hiệp định giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Hợp chủng quốc Hoa kỳ về quan hệ thương mại. Cụ thể là: “Các bên duy trì các cơ quan tài phán và thủ tục hành chính và thủ tục tư pháp nhằm mục đích, ngoài những điều khác, xem xét và sửa đổi nhanh chóng theo yêu cầu của người bị ảnh hưởng các quyết định hành chính liên quan đến các vấn đề được quy định tại Hiệp định này. Các thủ tục này cần bao gồm cơ hội khiếu kiện mà không bị trừng phạt cho người bị ảnh hưởng bởi quyết định có liên quan. Nếu như quyền khiếu kiện ban đầu là quyền khiếu nại lên một cơ quan hành chính thì phải có cơ hội để khiếu nại quyết định của cơ quan hành chính đó lên một cơ quan tư pháp. Kết quả giải quyết khiếu kiện phải được trao cho người khiếu kiện và các lý do của quyết định đó phải được cung cấp bằng văn bản. Người khiếu kiện cũng phải được thông báo về quyền được khiếu kiện tiếp”. § Thứ tư: Để đảm bảo cho các Toà hành chính đi vào hoạt động một cách có hiệu quả, để “san sẻ” gánh nặng việc giải quyết khiếu nại của công dân với các cơ quan quản lý nhà nước, thiết nghĩ nên tăng thêm thời gian của thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính. Ví dụ, đối với các khiếu nại mà nội dung đơn giản và rõ ràng, thời hiệu khởi kiện là 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại; đối với các khiếu nại mà nội dung phức tạp, có nhiều tình tiết hoặc có nhiều người tham gia thì thời hiệu có thể là hai hoặc ba tháng...[Tr 42- 18]. Mặt khác, quy định thời gian bắt buộc phải giải quyết khiếu nại cho các cơ quan hoặc cán bộ có thẩm quyền giải quyết. Nếu không đáp ứng thời gian quy định thì phải chịu trách nhiệm pháp lý hoặc mặc nhiên thừa nhận nội dung khiếu nại của công dân, tổ chức là đúng đắn. Nếu quá thời gian quy định mà cơ quan hoặc người bị khiếu kiện vẫn “im lặng” thì người khiếu nại có quyền khởi kiện vụ án hành chính trước Toà án có thẩm quyền. § Thứ năm: Cần quy định cụ thể trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đối với quyền phán quyết của Toà án cả về tính hợp pháp và tính hợp lý của quyết định, hành vi bị khiếu kiện, hay chỉ xem xét chúng về tính hợp pháp ? Tránh quy định chung chung, gián tiếp là “Cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức theo thủ tục do pháp luật quy định có quyền khởi kiện vụ án hành chính để yêu cầu Toà án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình” như hiện nay tại Điều 1 của Pháp lệnh. Về vấn đề này, pháp luật tố tụng hành chính của nhiều nước đã có quy định cụ thể. Ví dụ, Luật tố tụng hành chính của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa có quy định “Toà án xét xử các việc hành chính bằng việc thẩm tra tính hợp pháp của các quyết định hành chính, hành vi hành chính’’ [Điều 5- 25]. Mặt khác, với quy định tại Điều 4 Pháp lệnh rằng người khởi kiện là người cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm thì dường như tính hợp pháp và tính hợp lý của quyết định hành chính, hành vi hành chính đều là đối tượng xem xét của Toà án. Hướng giải quyết nên chăng là cần có sự phân công rành mạch giữa hành pháp với tư pháp, không làm cho Toà án tựa hồ như cơ quan cấp trên của cơ quan hành chính. Và nếu pháp luật quy định theo hướng như vậy thì đồng thời pháp luật quy định về các quyết định, hành vi hành chính phải được quy định chặt chẽ, chi tiết ở mức có thể, cần thiết. Điều này một mặt hạn chế sự tuỳ tiện từ phía cơ quan có quyết định, hành vi hành chính và khi Toà án “xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” mới có cơ sở để bảo vệ người là đối tượng của các quyết định hành chính, hành vi hành chính. Về công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật. Tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật là hoạt động mang tính chất toàn xã hội với phương châm không ai được coi như không biết pháp luật. Chính vì vậy, việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật là nghĩa vụ và trách nhiệm của nhà nước. Nhà nước cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật nói chung, đặc biệt là pháp luật về tố tụng hành chính và pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo, đảm bảo cho mọi người dân hiểu đúng và đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình trong việc khiếu kiện và giải quyết các khiếu kiện hành chính, cụ thể: - Trước hết, cần đa dạng hoá các hình thức tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật về khởi kiện và thụ lý vụ án hành chính, như tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề về hoạt động này, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về pháp luật xét xử hành chính, tăng thời lượng phát sóng trên các kênh truyền hình hoặc chuyên mục trên đài phát thanh v.v. Coi trọng việc tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật trên các phương tiện thông tin đại chúng. Có thể nói, đây là hình thức tuyên truyền mang tính quảng đại quần chúng nhất, qua đó cần tập trung phổ biến những văn bản pháp luật mới ban hành, chỉ rõ trong trường hợp nào thì được khởi kiện tại Toà hành chính, các quyền và nghĩa vụ của công dân khi tham gia tố tụng v.v. Hơn nữa, cũng cần phải có sự hỗ trợ của nhà nước về giá để có thể in các tập hệ thống hoá các văn bản pháp luật với số lượng nhiều, giá thành thấp, phù hợp với mọi đối tượng. - Công tác tuyên truyền và phổ biến pháp luật phải gắn liền với công tác giáo dục pháp luật. Công tác giáo dục pháp luật trước hết cần tập trung cho các đối tượng là cán bộ, Thẩm phán hành chính qua các lớp bồi dưỡng ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Việc giáo dục kiến thức pháp lý cần thiết cho các cán bộ, Thẩm phán hành chính phải được tiến hành đồng bộ với việc giáo dục văn hoá, giáo dục ý thức chính trị, giáo dục đạo đức để người Thẩm phán hành chính vừa là người có tài, vừa là người có phẩm cách đạo đức. Trên cơ sở đó giải thích cho công dân biết được họ cần đến nơi nào và khi nào họ không được phép khiếu kiện, tránh trường hợp khiếu kiện tràn lan, lòng vòng, vượt cấp hay để quá thời hiệu khởi kiện. - Ngoài ra, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật nói chung và pháp luật tố tụng hành chính nói riêng phải được thực hiện thường xuyên, liên tục, không hạn chế về mặt thời gian, không gian; đồng thời nhà nước cũng phải dành một khoản kinh phí phù hợp cho công tác này để công tác tuyên truyền đạt hiệu quả thiết thực. Tóm lại, đối với công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật cần phải đạt được những mục tiêu sau: các cán bộ, Thẩm phán hành chính nắm bắt được đầy đủ nội dung các văn bản pháp luật hành chính cũng như các văn bản về tố tụng hành chính trên các lĩnh vực thuộc thẩm quyền thụ lý và xét xử của Toà hành chính, làm căn cứ để thụ lý các vụ án hành chính. Đối với quần chúng nhân dân, công tác tuyên truyền phải bảo đảm ít nhất cho họ nắm được trong trường hợp nào thì được khởi kiện vụ án hành chính, các quyền và nghĩa vụ của họ khi tham gia tố tụng hành chính. 1.3.3 Về kiện toàn tổ chức và đội ngũ cán bộ, Thẩm phán hành chính. Tuy chính thức đi vào hoạt động đã được 7 năm nhưng ở nhiều địa phương, vấn đề tổ chức các Toà hành chính vẫn chưa thực sự ổn định, thiếu trụ sở và các trang thiết bị, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, dẫn đến tình trạng làm việc tạm bợ, thiếu tập trung. Ở Pháp, hệ thống Toà án hành chính có ba cấp xét xử: Cấp sơ thẩm có 33 Toà hành chính; cấp phúc thẩm có 5 Toà; cấp Tối cao là Hội đồng Nhà nước. Do vậy, trong thời gian tới cần sớm kiện toàn về tổ chức của các cấp Toà án để có thể thực hiện tốt thẩm quyền xét xử hành chính của mình, bảo đảm quyền, tự do và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức, cơ quan. Tình trạng Thẩm phán hành chính kiêm nhiệm là một trong những nguyên nhân làm cho hoạt động thụ lý vụ án hành chính chưa đạt hiệu quả cao, đây là vấn đề cần được ngành Toà án và nhà nước quan tâm khắc phục ngay trong thời gian tới. Tăng cường đội ngũ cán bộ, Thẩm phán hành chính cả về mặt số lượng, cả về mặt chất lượng là một nhiệm vụ trước mắt của chúng ta. Đối với những nước phát triển, số lượng cán bộ, Thẩm phán của Toà hành chính rất lớn. Ví dụ: Tính đến ngày 01 tháng 07 năm 1993, Toà hành chính Thuỵ Điển đã có 887 cán bộ, Thẩm phán làm việc, trong đó có 575 người là Thẩm phán. Song song với việc đào tạo đội ngũ các cán bộ, Thẩm phán hành chính, cũng cần nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp, tính khách quan kiên định lập trường tư tưởng và ý thức trách nhiệm của Thẩm phán, cán bộ ngành Toà án để giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các khiếu kiện hành chính. Điều này cũng phù hợp với xu hướng chung của các nước trên thế giới. Ở Pháp, muốn được bổ nhiệm làm thành viên Hội đồng nhà nước hay Thẩm phán hành chính thì trước hết người đó phải tốt nghiệp trường Hành chính; ở cộng hoà liên bang Đức, Thẩm phán chuyên về hành chính được Bộ trưởng Bộ tư pháp Bang bổ nhiệm hay Tổng thống bổ nhiệm phải tốt nghiệp Đại học luật, có quá trình thực tập 2 năm v.v. Ở nước ta, theo Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002 và theo Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2002 (Điều 37) thì Thẩm phán phải là công dân Việt Nam trung thành với tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất, đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, có trình độ cử nhân luật và đã được đào tạo về nghiệp vụ xét xử, có thời gian làm công tác thực tiễn theo quy định của pháp luật, có năng lực làm công tác xét xử, có sức khoẻ để đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ được giao. Ngoài ra, do yêu cầu và mục đích của việc giải quyết các vụ án hành chính, ngoài kiến thức pháp lý cần thiết, Thẩm phán hành chính còn phải có kiến thức về quản lý nhà nước, có sự am hiểu về các lĩnh vực chuyên môn, kỹ thuật khác mà liên quan đến việc xét và giải quyết vụ án... Tuy vậy, có những tiêu chuẩn được đưa ra trên đây còn nặng về “lý thuyết”, không có tiêu chí để đánh giá như: Trung thành với tổ quốc, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa... Vì vậy, phải căn cứ vào yêu cầu của Toà án nhân dân các cấp để quyết định tiêu chuẩn của các Thẩm phán hành chính mà nhất thiết phải có trình độ Đại học luật. Hoạt động xét xử hành chính ẩn chứa trong nó nhiều vấn đề tế nhị, nhất là trong xu hướng lớn dần của quyền hành pháp như hiện nay. Muốn các phán quyết của Toà hành chính được khách quan, vô tư, công bằng, đúng pháp luật cũng nên cần đảm bảo: “Nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”... Bên cạnh đó, theo Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2002 và Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân 2002 thì nhiệm kỳ của Toà án các cấp là 5 năm, kể từ ngày được bổ nhiệm. Tuy vậy, tôi cho rằng để nâng cao trình độ và kỹ năng xét xử của Thẩm phán hành chính, cần bổ nhiệm Thẩm phán hành chính với nhiệm kỳ dài hơn, có thể là 10 năm. Việc bổ nhiệm Thẩm phán với nhiệm kỳ dài hơn tất nhiên cũng có những hạn chế nhất định nhưng, nó sẽ tạo cho Thẩm phán tư tưởng ổn định, tích luỹ kinh nghiệm, tự rút kinh nghiệm trong quá trình làm việc, từ đó có thể độc lập khi xét xử. Nhiều Thẩm phán hiện nay, khi biết mình sắp hết nhiệm kỳ thường có tâm lý ngại việc, sợ va chạm, sợ sai sẽ không được tái bổ nhiệm, cá biệt có một số thì lại có những biểu hiện tiêu cực... Trong nhiều trường hợp, do có sự yếu kém về đạo đức mà các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân không được bảo vệ, gây mất niềm tin của quần chúng vào chế độ. Tóm lại, “Dụng nhân như dụng mộc” (Hồ Chí Minh- Lời dậy của Người), bên cạnh việc tăng số lượng cán bộ Thẩm phán hành chính thì cũng cần đẩy mạnh việc kiện toàn tổ chức và cán bộ toàn ngành. 1.3.4 Về công tác tổng kết thực tiễn xét xử hành chính. Công tác này cũng cần được quan tâm đúng mức, kịp thời phản ánh những bất cập, hạn chế của pháp luật và thực hiện pháp luật về thụ lý vụ án hành chính mà các cấp Toà án đã gặp. Đảm bảo mỗi Thẩm phán, bên cạnh cuốn “Sổ tay về trao đổi nghiệp vụ giải quyết án hành chính” còn có cuốn sổ tay tổng kết thực tiễn xét xử vụ án hành chính. Điều này góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện thủ tục tố tụng hành chính nói chung và nâng cao hiệu quả của công tác thụ lý giải quyết vụ án hành chính nói riêng. 1.3.5 Các biện pháp khác. Bên cạnh việc tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao ý thức pháp luật của quần chúng nhân dân, đòi hỏi nhà nước phải bằng những quy định của pháp luật, đặt ra những chế tài nghiêm khắc nhằm xử lý đối với những cá nhân, tổ chức lợi dụng quyền khiếu kiện để khiếu kiện tràn lan, vu khống cho cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức gây mất ổn định cho quản lý hành chính nhà nước. Đặc thù của vụ án hành chính luôn có một bên chủ thể (Người bị kiện) là cơ quan hay cán bộ, công chức trong cơ quan nhà nước, còn chủ thể bên kia (Người khởi kiện ) là các cá nhân, tổ chức, cơ quan. Do vậy, khi xét xử các Thẩm phán phải triệt để tôn trọng các nguyên tắc xét xử như: “Nguyên tắc mọi công dân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội đều bình đẳng trước pháp luật khi tham gia tố tụng hành chính, nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”... Có như vậy mới nâng cao được chất lượng xét xử các vụ án hành chính, đồng thời tạo niềm tin cho quần chúng nhân dân đối với việc giải quyết các khiếu kiện hành chính bằng con đường tố tụng tại Toà án, hạn chế việc khiếu kiện cầu may. Còn những trường hợp lợi dụng quyền khiếu kiện để quấy rối, vu khống,... thì tuỳ mức độ nặng nhẹ có thể xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự... Thủ tục tố tụng hành chính của một đất nước phụ thuộc nhiều vào mô hình tổ chức của cơ quan xét xử hành chính tại chính nước đó. Xu hướng chung của các quốc gia trên thế giới đương đại là thành lập các Toà chuyên trách để thực hiện chức năng xét xử và phán quyết tính hợp pháp các quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước và cán bộ nhà nước có thẩm quyền khi thực thi quyền lực công trong từng lĩnh vực (như dân sự, lao động, hành chính...). Có thể nói, đem lại tính công bằng, bình đẳng giữa công dân với nhà nước là trách nhiệm cao cả của các cấp Toà án. Ở Pháp, Toà án hành chính được tổ chức thành một hệ thống độc lập với hệ thống cơ quan tư pháp, với Chính Phủ và với quyền lực chính trị; ở Trung Hoa thì Toà hành chính lại nằm trong hệ thống cơ quan tư pháp v.v. Đương nhiên, pháp luật tố tụng hành chính ở mỗi nước khác nhau đều có nét đặc thù riêng, biểu hiện cho chế độ chính trị của nhà nước đó. Ở nước ta, về mặt thời gian thì Toà hành chính mới đi vào hoạt động từ ngày 01 tháng 07 năm 1996- khi mà Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính được Uỷ ban thường vụ Quốc Hội khoá IX thông qua ngày 25/05/ 1996 có hiệu lực. Từ đó, các quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện, khởi tố được xem xét theo trình tự tố tụng hành chính tại Toà án, các tổ chức, cá nhân có thể yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình từ phía chính quyền thông qua con đường tố tụng tại Toà. Tuy vậy, việc khởi kiện, khởi tố không phải đơn thuần chỉ có đơn yêu cầu; quá trình giải quyết một vụ án hành chính phải thông qua nhiều giai đoạn tố tụng kế tiếp nhau, từ khi thụ lý cho đến khi đưa vụ án ra xét xử và kết thúc bằng một bản án có hiệu lực pháp luật. Trong đó, thụ lý vụ án hành chính được xác định là hoạt động tố tụng quan trọng của Toà án, có ý nghĩa quyết định có hay không có các giai đoạn tiếp theo của tố tụng hành chính. Toà án chỉ thụ lý vụ án hành chính khi người khởi kiện thoả mãn những căn cứ luật định. Mặc dù vậy, thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về thụ lý vụ án hành chính những năm qua cho thấy hoạt động này còn nhiều điều bất cập, các vi phạm xảy ra rất phổ biến, như trả lại đơn kiện hoặc đình chỉ việc giải quyết vụ án không đúng, thụ lý vụ án hành chính sai trình tự, thủ tục luật định hay thụ lý vụ án không thuộc thẩm quyền... Bên cạnh đó, pháp luật thực định cũng còn nhiều quy định chồng chéo, bất hợp lý. Điều đó còn minh chứng một điều là kỹ thuật lập pháp của chúng ta chưa cao, một số thuật ngữ sử dụng trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính cũng không hoàn toàn chính xác. Để nâng cao hiệu quả thụ lý và xét xử về các vụ án hành chính Toà án cần phải hoàn thiện pháp luật tố tụng hành chính và những văn bản pháp lý có liên quan; tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật; kiện toàn tổ chức ngành Toà án, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán hành chính và các chức danh tư pháp khác có liên quan tới xét xử hành chính. Tuy kết quả công tác thụ lý cũng như xét xử các vụ án hành chính những năm vừa qua chưa cao, nhưng điều đó đã thể hiện quyết tâm lớn của Đảng, Nhà nước đối với việc chăm lo cho quyền lợi chính đáng của cá nhân, tổ chức, cơ quan, kiên quyết đấu tranh xử lý các hành vi trái pháp luật trong bộ máy nhà nước, nhằm xây dựng một nền hành chính nhà nước thực sự trong sạch, vững mạnh, phục vụ tốt hơn nữa các quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Quá trình hoàn thiện pháp luật về thụ lý vụ án hành chính ở Việt Nam phải có bước đi thích hợp theo tiến trình phát triển mọi mặt của đời sống kinh tế- xã hội và tiến trình nhận thức ngày càng đầy đủ và khoa học về xét xử hành chính ở nước ta, trên cơ sở tham khảo có chọn lọc các kinh nghiệm xét xử hành chính của nước ngoài. THE AND ********** DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng Cộng Sản Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội 1996. Nghị quyết đại hội Đảng IX. Nghị quyết về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của hiến pháp năm 1992. Luật tổ chức Toà án, Viện kiểm sát năm 2002. Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 25/12/ 1998. Luật khiếu nại, tố cáo ngày 02/12/ 1998. Nghị định của Chính phủ số 67/1999/NĐ_CP ngày 07/08/ 1999 Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật khiếu nại, tố cáo. Thông tư số 1118-TT/TTNN ngày 20/07/ 1996 của Thanh tra nhà nước Hướng dẫn một số vấn đề về giải quyết khiếu nại hành chính hiện nay. Công văn số 39/KHXX ngày 06/07/ 1996 của Toà án nhân dân tối cao Hướng dẫn thi hành một số điều Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính. Pháp lệnh cán bộ, công chức 1998. Báo cáo tổng kết công tác ngành Toà án từ năm 1997- 2002. Hiệp định thương mại Việt- Mỹ. Sổ tay trao đổi nghiệp vụ giải quyết án hành chính 2001. Tờ trình số 525/TTNN của Chính phủ về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật khiếu nại, tố cáo. Giáo trình luật tố tụng hành chính. Tập thể tác giả Trường đại học luật Hà Nội. NXB Công an nhân dân 2001. Giáo trình luật hành chính Việt Nam. TS Nguyễn Cửu Việt. Nxb Đại học quốc gia năm 2000. Nguyễn Mạnh Hùng- Thẩm quyền xét xử hành chính của Toà án nhân dân. LV Thạc sỹ luật học. Hà Nội 2002. Nguyễn Thanh Bình- Hiệu quả xét xử hành chính của Toà án nhân dân nhìn từ giai đoạn của tố tụng hành chính. Tạp chí quản lý nhà nước số 4(24) 1997, tr 35, 36. TS Phạm Hồng Thái- Hiện đại hoá nền hành chính lý luận và thực tiễn. Tạp chí quản lý nhà nước số 4(24) 1997, tr 25, 26, 27. Đề tài khoa học: Quyết định hành chính, hành vi hành chính đối tượng xét xử của Toà án. TS. Phạm Hồng Thái. Học viện hành chính quốc gia. Hà Nội 1999. Nguyễn Văn Năm: Quyền lực nhà nước và việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992. Tạp chí luật học số 6/ 2000. Từ điển thuật ngữ luật học Nga- Trung- Pháp- Việt. NXB Khoa học xã hội- Hà Nội 1971. Đại từ điển Tiếng Việt. NXB Văn hoá thông tin- Trung tâm ngôn ngữ và văn hoá Việt Nam. 1998. Hán Việt từ điển- Nguyễn Văn Khôn. Nhà sách Khai Trí. Sài Gòn 1960. Bộ Tư Pháp: Luật tố tụng hành chính nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa (bản dịch tiếng Việt). Lê Bình Vọng: Một số vấn đề về tài phán hành chính ở Việt Nam. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1994. TS. Bùi Xuân Đức: Phân định tài phán hành chính và tư pháp hành chính. Tạp chí nhà nước và pháp luật số 4/1995. Tìm hiểu xét xử hành chính ở một số nước và lãnh thổ trên thế giới. NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội 1995. Thanh tra nhà nước: Báo cáo tổng thuật đề tài nghiên cứu khoa học “Toà án hành chính – những vấn đề lý luận và thực tiễn”. Hà Nội 12/1995. Thanh tra nhà nước: Tờ trình Chính phủ Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật khiếu nại, tố cáo số 525/ TTNN ngày 22/5/2002. CHÚ THÍCH Kí hiệu: [Tr ...- 1] có nghĩa đoạn trích ở Trang- Stt bài viết ở Danh mục TLTK ******** ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docI0053.doc
Tài liệu liên quan