Thực trạng công tác dạy nghề của các trường dạy nghề và các trung tâm dạy nghề

PHẦN 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC DẠY NGHỀ I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN LIÊN QUAN TỚI CÔNG TÁC DẠY NGHỀ Nghề và trình độ nghề Nghề là một hình thức phân công lao động, đòi hỏi kiến thức lý thuyết tổng hợp và thói quen thực hành để hoàn thành những công việc nhất định. Với một nghề đào tạo có một mục tiêu đào tạo. Hệ thống mục tiêu giáo dục nghề nghiệp phân hóa theo chiều ngang được thể hiện ở “Bản danh mục nghề đào tạo” do Nhà nước ban hành, đó là một văn bản quy phạm đối với công t

doc71 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1500 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng công tác dạy nghề của các trường dạy nghề và các trung tâm dạy nghề, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ác đào tạo nghề. Trình độ nghề của người lao động thể hiện ở mặt chất lượng của sức lao động. Nó thể hiện ở mức độ hiểu biết về lý thuyết, về kỹ thuật sản xuất và kĩ năng lao động để hoàn thành những công việc có trình độ phức tạp nhất định thuộc một nghề nào đó. Các nghề đào tạo ghi trong danh mục nghề đào tạo có thể được đào tạo ban đầu ở các trình độ nghề khác nhau, đó là sự phân hóa mục tiêu đào tạo theo chiều sâu. Có hai trình độ nghề được đào tạo ban đầu là; Công nhân kĩ thuật, nhân viên nghiệp vụ (đào tạo dài hạn): Người lao động được trang bị kiến thức và kĩ năng nghề diện rộng , bậc thợ tương đương là 3/7. Công nhân bán lành nghề (được đào tạo ngắn hạn): người lao động dược trang bị một hoặc một số kĩ năng nghề nhất định nhằm phổ cạp nghề. Trình độ nghề liên quan chặt chẽ tới lao động phức tạp. Lao động có trình độ lành nghề là lao động có chất lượng cao hơn, là lao động phức tạp hơn.Trong cùng một đơn vị thời gian, lao động lành nghề thường tạo ra một giá trị lớn hơn. Chuyên môn Chuyên môn là hình thức phân công lao động sâu sắc hơn sự chia nhỏ của nghề.Do đó đòi hỏi kiến thức lí thuyết và thói quen thực hành trong phạm vi hẹp và sâu hơn. Đào tạo nguồn nhân lực Đào tạo nguồn nhân lực là quá trình trang bị kiến thức nhất định về trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động để họ có thể đảm nhận một công việc nhất định. Đào tạo nguồn nhân lực bao gồm : Đào tạo kiến thức phổ thông (giáo dục phổ thông) Đào tạo kiến thức chuyên nghiệp (giáo dục chuyên nghiệp). Chia ra: Đào tạo cán bộ chuyên môn (Đào tạo đại học,cao đẳng, trung học chuyên nghiệp) và đào tạo nghề (đào tạo công nhân kĩ thuật, nhân viên kĩ thuật nghiệp vụ, phổ cập nghề cho người lao động ) II. ĐÀO TẠO NGHỀ Khái niệm: Đào tạo nghề là quá trình giáo dục kĩ thuật sản xuất cho người lao động để họ nắm được một nghề, một chuyên môn, bao gồm cả người đã có nghề, có chuyên môn rồi hay học để làm nghề, chuyên môn khác . Phân loại đào tạo nghề Căn cứ vào đối tượng học nghề: -Đào tạo mới : áp dụng cho những người chưa có chuyên môn, chưa có nghề. Đào tạo lại: áp dụng cho những người đã có nghề, có chuyên môn song vì lý do nào đó nghề của họ không còn phù hợp nữa đòi hỏi phải chuyển sang nghề, chuyên môn khác. Đào tạo nâng cao trình độ lành nghề: là quá trình bồi dưỡng nâng cao kiến thức và kinh nghiệm làm việc để người lao động có thể đảm nhận những công việc khác phức tạp hơn. Căn cứ vào thời gian đào tạo nghề: Đào tạo ngắn hạn: Thời gian dưới một năm. Đào tạo dài hạn: Thời gian từ một đến ba năm. Căn cứ vào loại hình đào tạo: Loại hình đào tạo nghề được hiểu là mô hình đào tạo những người lao động có chức năng trực tiếp thực hiện các qui trình, qui phạm sản xuất ở trình độ sơ cấp với những dấu hiệu đặc trưng: Tính chất và diện nghề, mục tiêu đào tạo, văn bằng chứng chỉ, trình độ tuyển sinh, những nét đặc trưng của nội dung và quá trình đào tạo … Theo đó thì ứng với 2 trình độ nghề nêu trên thì có 2 loại hình đào tạo là : Đào tạo công nhân kĩ thuật, nhân viên kĩ thuật – nghiệp vụ Đào tạo công nhân kĩ thuật bán lành nghề . Căn cứ vào hình thức đào tạo: Đào tạo tại nơi làm việc : Là hình thức đào tạo trực tiếp, chủ yếu là thực hiện ngay trong quá trình sản xuất do doanh nghiệp tổ chức. Doanh nghiệp phân công những người công nhân có trình độ văn hoá, trình độ nghề nghiệp và có phương pháp sư phạm nhất định vừa sản xuất vừa hướng dẫn thợ học nghề. Các lớp cạnh doanh nghiệp: Đối với những nghề phức tạp, việc đào tạo trong sản xuất không đáp ứng được yêu cầu cả về số lượng và chất lượng. Vì vậy, các doanh nghiệp phải tổ chức các lớp đào tạo riêng cho mình hoặc các doanh nghiệp cùng ngành. Hình thức này không đòi hỏi phải có đầy đủ cơ sở vật chất kĩ thuật riêng, không cần bộ máy chuyên trách mà dựa vào điều kiện sẵn có của doanh nghiệp. Chương trình đào tạo gồm hai phần: Đào tạo tại các trường chính quy Để đáp ứng yêu cầu sản xuất ngày càng phát triển trên cơ sở kĩ thuật hiện đại, tổ chức các trung tâm dạy nghề, các trường dạy nghề tập trung, qui mô tương đối lớn, đào tạo công nhân có trình độ lành nghề cao Hệ thống cơ sở dạy nghề Bao gồm: Trường dạy nghề Trường trung học và cao đẳng có hoạt động dạy nghề Trung tâm có hoạt động dạy nghề : + Trung tâm dạy nghề + Trung tâm dịch vụ – việc làm + Trung tam giáo dục kĩ thuật tổng hợp + Trung tâm hướng nghiệp dạy nghề Các lớp dạy nghề : + Lớp dạy nghề của xí nghiệp + Lớp dạy nghề tư nhân III. TRƯỜNG DẠY NGHỀ VÀ TRUNG TÂM DẠY NGHỀ Trường dạy nghề Đặc điểm cơ bản Trường dạy nghề là loại hình cơ sở dạy nghề có đặc điểm sau: Có mục tiêu đào tạo thanh niên có bằng tốt nghiệp phổ thông trung học cơ sở trở lên đạt trình độ công nhân kĩ thuật, nhân viên kĩ thuật nghiệp vụ Có nội dung chương trình đào tạo hoàn chỉnh toàn diện . Có phương thức đào tạo thao quy trình chính quy, chuẩn mực và tập trung theo thời gian quy định từ 1 đến 3 năm. Nghề đào tạo ổn định và nằm trong danh mục nghề đào tạo do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền duyệt và ban hành. Có quyền cấp bằng nghề cho học sinh tốt nghiệp theo quy định. Có bộ máy tổ chức, lãnh đạo trường, có các phòng ban hoàn chỉnh theo quy chế. Có đủ đội ngũ giáo viên chuyên trách, cơ hữu, có đủ lực lượng cán bộ, CNVC đảm bảo nhiệm vụ đào tạo theo quy mô thiết kế, đảm bảo tỉ lêj quy định cho từng loại ngành nghề. Có đầy đủ cơ sở vật chất kĩ thuật đảm bảo phục vụ cho đào tạo đạt chất lượng theo quy mô thiết kế. Trên đây là những tiêu chuẩn quy định chung cho các loại trường dạy nghề nhằm đảm bảo chức năng chủ yếu và vai trò, vị trí của trường là đơn vị cơ sở của hệ thống giáo dục nghề nghiệp. Bên cạnh đó trường dạy nghề cũng có quyền đào tạo ngắn hạn, không chính quy, đào tạo lại và bồi dưỡng nghề với phương thức mềm dẻo, linh hoạt cho mọi người lao động. Phân loại trường dạy nghề theo hình thức sở hữu và quyền quản lý trực tiếp Trường dạy nghề công lập Trường dạy nghề Trung ương do các Bộ, ngành Trung ương quản lý. Trường dạy nghề địa phương do các tỉnh thành phố quản lý. Trường dạy nghề ngoài công lập Trường dạy nghề bán công do Nhà nước đầu tư ban đầu về cơ sở vật chất, hoạt động theo cơ chế tự hạch toán thu chi, nhà nước không cấp ngân sách thường xuyên. Trường dạy nghề dân lập do cá nhân hoặc một nhóm cổ đông đứng ra tổ chức và quản lý. Trường dạy nghề tư thục do các tổ chức xã hội, các cơ quan, đoàn thể đứng ra tổ chức và quản lý. Trường dạy nghề thông qua hợp tác quốc tế. Trung tâm dạy nghề Trung tâm dạy nghề là một loại hình cơ sở dạy nghề có các đặc điểm sau: Mục tiêu đào tạo nói chung là ở mức chưa hoàn chỉnh, chưa toàn diện so với trình độ công nhân kĩ thuật, nhân viên kĩ thuật nghiệp vụ, thường là mục tiêu đào tạo theo phần hoặc một số phần của nghề. Nội dung chương trình đào tạo thường là do Trung tâm dạy nghề tự biên soạn hoặc tự chọn từ các chương trình chuẩn đã được Nhà nước ban hành phù hợp cới mục tiêu đào tạo phần nghề, một số phần nghề theo nhu cầu người học. Hoạt động đào tạo chủ yếu theo phương thức không chính quy, đa dạng, linh hoạt phù hợp với từng loại nghề và nhu cầu người học. Ngành nghề đào tạo có thể ổn dịnh hoặc không ổn dịnh, có thể thay đổi linh hoạt theo nhu cầu sản xuất hoặc dịch vụ ở địa phương và nhu cầu người học. Trung tâm dạy nghề không có đủ tư cách pháp nhân cấp bằng nghề, chỉ được cấp chứng chỉ nghề cho người tốt nghiệp, các khoá học đều là ngắn hạn dưới một năm. Bộ máy lãnh đạo có thể không hoàn chỉnh, không có đầy đủ các phòng ban như ở trường dạy nghề. Chỉ có một số cán bộ, giáo viên chuyên trách cơ hữu, còn lại là sử dụng linh hoạt lực lượng ngoài biên chế theo phương thức hợp đồng là chủ yếu. Cơ sở vật chất kĩ thuật không lớn như ở các trường dạy nghề mà chỉ có một số cho những nghề đào tạo tương đối ổn định lâu dài, còn phần lớn là biến động theo sự thay đổi của ngành nghề đào tạo hoặc là cơ sở vật chất kĩ thuật của các đơn vị sản xuất, dịch vụ phối hợp đào tạo hoặc thuê, mượn. Quy mô đào tạo của trung tâm dạy nghề thường được tính theo số lượt người học hàng năm, số lượt học sinh / năm. Trung tâm dạy nghề thường là bán công (Nhà nước đầu tư xây dựng cơ bản) hoặc là dân lập, tư thục nhưng đều tồn tại và phát triển thông qua nguồn thu học phí, sản xuất hay dịch vụ kết hợp trong quá trình đào tạo. Trung tâm dạy nghề đóng vai trò là một cơ sở dạy nghề của địa phương (chủ yếu là quận, huyện ), các tổ chức đoàn thể xã hội, các doanh nghiệp… có chức năng phổ cập nghề cho nhân dân lao động, góp phần phát triển kinh tế – xã hội của địa phương, của doanh nghiệp. IV. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÔNG TÁC ĐÀO TẠO NGHỀ. Nhận thức của xã hội về đào tạo nghề Nhận thức của xã hội về đào tạo nghề tác động mạnh đến công tác đào tạo nghề, ảnh hưởng rõ rệt nhất của nó là tới lượng học sinh đầu vào của các cơ sở doanh nghiệp. Nếu mọi người trong xã hội đánh giá được đúng đắn hơn tầm quan trọng của việc học nghề thì trước hết lượng lao động tham gia đào tạo nghề sẽ chiếm một tỉ lệ lớn hơn so với toàn bộ lao động trên thị trường và sẽ có cơ cấu trẻ hơn, đa dạng hơn. Hơn nữa, nếu xã hội nhận thức được rằng giỏi nghề là một phẩm chất quý giá của người lao động, là cơ sở vững chắc để có việc làm và thu nhận ổn định thì công tác đào tạo nghề sẽ nhận thêm nhiều nguồn lực hỗ trợ cần thiết của xã hội để phát triển mạnh hơn. Thực tế công tác đào tạo nghề hiện nay chưa được xã hội nhận thức đầy đủ và đúng đắn. Việc làm chuyển biến nhận thức của từng gia đình và toàn xã hội sẽ có ý nghĩa quan trọng trong dạy nghề và học nghề. Không ít gia đình học sinh coi việc vào đại học như là con đường duy nhất để tiến thân, kiếm được việc làm nhàn hạ. Một người thợ bậc cao về làng không một ai biết tới nhưng một “cậu cử” mới ra trường vẫn được coi là danh giá, nên người. Trong con mắt của nhiều người, một người thợ bậc cao ở xí nghiệp vẫn không oai bằng người lao động ở cơ quan Nhà nước. Hơn nữa, một cán bộ Nhà nước tốt nghiệp đại học vẫn có thể học lên đến thạc sĩ hoặc tiến sĩ nhưng người thợ bậc 3, bậc 4 vẫn khó tìm được cơ hội để học lên hoặc nâng cao tay nghề. Điều này dẫn đến nhiều thanh niên bằng mọi các để thi vào đại học, né trnáh đi học nghề, coi việc vào trương nghề là “vạn bất đắc dĩ”. Cơ sở vật chất, trang thiết bị của các cơ sở dạy nghề Đây là yếu tố hết sức quan trọng, nó tác động trực tiếp tới chất lượng đào tạo nghề. Ứng với mỗi nghề dù đơn giản hay phức tạp cũng cần phải có các máy móc trang thiết bị chuyên dùng phục vụ cho giảng dạy và học tập. Trang thiết bị đào tạo nghề giúp cho học sinh có điều kiện thực hành để hoàn thành kỹ năng sản xuất. Điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy nghề càng tốt, càng hiện đại bao nhiêu, theo sát với máy móc phục vụ vho sản xuất bao nhiên thì học sinh có thể thích ứng, vận dụng nhanh chóng với sản xuất trong doanh nghiệp bấy nhiêu. Chất lượng của các trang thiết bị, cơ sở vật chất đòi hỏi phải theo kịp tốc độ đổi mới hiện đại hóa của máy móc thiết bị sản xuất. Thực chất, ở các cơ sở dạy nghề ở nước ta hiện nay, cơ sở vật chất trang thiết bị còn lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu đào tạo nghề. Phòng học thiếu thốn nơi thực hành, chỗ nội trú cho học sinh. Phần lớn các trang thiết bị trong các cơ sở dạy nghề không phải là trang thiết bị phục vụ cho công tác đào tạo nghề một cách chính quy, nhiều máy móc được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau (chủ yếu là thanh lý của các nhà máy, xí nghiệp), do đó, không có tính đồng bộ về hệ thống, tính sư phạm thấp, ảnh hưởng tới chất lượng đào tạo nghề. Đây là nguyên nhân dẫn đến tình trạng tuy công nhân qua đào tạo đáp ứng được phần nào các công việc của doanh nghiệp nhưng hầu hết vẫn phải đào tạo lại để nâng cao khả năng thực hành và tiếp cận công nghệ hiện đại của doanh nghiệp. Giáo viên dạy nghề Giáo viên dạy nghề là người giữ trọng trách truyền đạt kiến thức, kỹ năng king nghiệm của mình trên cơ sở trang thiết bị giảng dạy. Vì vậy, năng lực giáo viên dạy nghề tác động trực tiếp tới chất lượng giảng dạy, đào tạo nghề. Dạy nghề có những nét khác biệt so với các cấp học khác trong nền giáo dục quốc dân, đó là ngành nghề đào tạo rất đa dạng, học sinh vào học nghề có rất nhiều trình độ cấp văn hóa khác nhau. Cấp trình độ đào tạo nghề ở các cơ sở đào tạo nghề cũng rất khác nhau (bán lành nghề, lành nghề, bội dưỡng nâng bậc thợ). Sự khác biệt đó làm cho đội ngũ giáo viên dạy nghề cũng rất đa dạng với nhiều cấp trình độ khác nhau. Năng lực của giáo viên dạy nghề tốt thì mới có thể dạy các học sinh được tốt vì các học sinh nắm được lý thuyết, kỹ năng nhanh hay chậm phụ thuộc rất lớn vào năng lực giáo viên dạy nghề. Các chính sách của Nhà nước liên quan tới công tác dạy nghề Hệ thống văn bản, pháp luật chính sách của Nhà nước tạo hành lang pháp lý, môi trường thuận lợi, khuyến khich đào tạo phát triển nghề. Cụ thể ở đây là các chính sách đối với học sinh học nghề, giáo viên dạy nghề, các chế độ chính sách ưu đãi đối với các cơ sở đào tạo nghề… Mặc dù có vai trò quan trọng như vậy nhưng các chính sách đào tạo còn rất nhiều hạn chế như: Phần lớn các chính sách chế độ còn mang tính giải pháp, tình huống. Một số chính sác đã ban hành đến nay còn có nhiều điểm không còn phù hợp hoặc thiếu những văn bản hướng dẫn cụ thể. V. SỰ CẦN THIẾT PHẢI PHÁT TRIỂN CÔNG TÁC ĐÀO TẠO NGHỀ Kinh nghiệm đào tạo nghề ở một số nước Đào tạo đóng vai trò quyết định đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Đào tạo nghề rất đa dạng và khác nhau ở từng quốc gia nhưng chúng ta có thể học kinh nghiệm của các nước đó và áp dụng có chọn lọc. 1.1. Công tác dạy nghề ở Cộng hòa liên bang Đức. Đức là đất nước có nền công nghiệp phát triển và thu nhập quốc dân cao so với các nước phát triển trên thế giới. Tổng dân số tính đến năm 1998 cũng tương tự nước ta, khoảng 80 triệu người, trong đó, có 30 triệu người trong độ tuổi lao động, chỉ có 5% lao động không qua đào tạo. Có được kết quả như vậy do hệ thống giáo dục mà trong đó các cơ sở dạy nghề ở Đức được chính phủ quan tâm và phát triển mạnh. Luật pháp quy định trách nhiệm và quyền lợi rõ ràng trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo nghề đối với người học và người sử dụng lao động, phát triển mạnh hệ thống giáo dục đào tạo nghề thoe hướng thực hiện đa dạng hóa loại hình đào tạo và loại nghề đào tạo (có tới 400 nghề). Loại hình đào tạo theo hệ thống đào tạo song hành có vai trò lớn trong việc cung cấp lao động có tay nghề cao cho thị trường lao động, đó là quá trình đào tạo nghề có sự kết hợp chặt chẽ giữa dạy lý thuyết ở trường dạy nghề và thực hành ở các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp Đức luôn xác định trách nhiệm và đóng vai trò lớn trong đào tạo thực hành tay nghề cho người học nghề, sau khi học song lí thuyết, học sinh học nghề được đào tạo thực hành ngay tại xưởng sản xuất dưới sự hướng dẫn của các giáo viên thực hành và học sinh được tiếp cận ngay máy móc thiết bị công nghệ mới.Trong thời gian thực tập tay nghề tại doanh nghiệp, nếu có sản xuất ra sản phẩm thì người học sẽ được hưởng một khoản tiền lương căn cứ trên số sản phẩm mà họ đã tham gia. Hàng năm có trên 600.000 nghìn người được tuyển sinhvào các trường dạy nghề,chiếm 65% học sinh trong cùng độ tuổi , trong đố 50% từ trung học cơ sở; 35% từ trung học chuyên ban; 15% từ phổ thông trung học. 93% số trường học và trường dạy nghề tại Đức thuộc công lập và do ngân sách Nhà nước chi trả. Nguồn kinh phí chi cho giáo dục đào tạo nghề được xác định rất rõ trong các khoản thuế thu từ doanh nghiệp sử dụng lao động qua đào tạo, các gia đình có người đi học nghề… Thời gian đào tạo ở trường dạy nghề thường kéo dài từ 3-3.5 năm, chủ yếu là theo chế độ thời gian không đầy đủ. Trên quan điểm chú trọng thực hành, nên thời gian dành cho lí thuyết và thực hành theo tỉ lệ 1:4 (trong hai năm học tại trường dạy nghề, dành 2880 giờ cho thực hành dưới xưởng và 720 giờ cho học lí thuyết ). Đối với giáo viên dạy nghề yêu cầu phải tốt nghiệp đại học. Giáo viên dạy nghề trước khi muốn tham gia dạy nghề, sau khi tốt nghiệp đại học ít nhất là 4 năm, phải qua làm việc thực tế tại xưởng 6 tháng và có thời gian thực tế tại trường, nơi sẽ tham gia giảng dạy là 5 tuần. Hai tiêu chuẩn quan trọng nhất đối với giáo viên dạy nghề là phải có trình độ lí thuyết và kinh nghiệm cao mới có thể đáp ứng được yêu cầu đào tạo nghề của nền công nghiệp và tiến bộ kĩ thuật mới. Người học nghề có quyền lựa chọn nơi học tập, họ kí kết hợp đồng học tập với trường nơi họ đăng kí học. Kết thúc khóa học, người học nghề phải qua kì thi sát hạch cuối cùng của một Hội đồng, trong đó thành viên của Hội đồng là nhứng người có chuyên môn cao làm việc tại Hội đồng, các cơ sở đào tạo nghề và đại diện cho giới sử dụng lao động. Chứng chỉ nghề chỉ được cấp theo quyết định của Hội đồng. Nhờ áp dụng những chính sách khuyến khích như vậy nên ngay từ những năm 1971, 62% những người đang làm việc đều đã qua đào tạo và được cấp chứng chỉ hành nghề trong số đó có tới 14% đạt trình độ tay nghề cao tương đương với trình độ kĩ sư tốt nghiệp đại học hoặc cao đẳng kĩ thuật chuyên nghiệp. Đến nay chỉ còn khoảng 5% không qua đào tạo nghề. Nhật Bản Mô hình đào tạo tại công ty là mô hình đào tạo chủ yếu tại Nhật. Phần lớn lớp trẻ Nhật sau khi tốt nghiệp phổ thông tham gia thị trường lao động, được công ty thuê và tham gia vào quá trình đào tạo nghề do công ty sử dụng tổ chức. Chương trình học kiến thức thực hành nghề được thực hiện chủ yếu thông qua các chỉ dẫn không chính thức trong quá trình làm việc, các cuốn cẩm nang tự học và các khóa tương ứng. Phương thức thực hiện đào tạo kiến thức thực hành nghề là các buổi thảo luận kĩ thuật, thảo luận chất lượng, chuyển đổi vị trí và tự học. Điều quan trọng là nước Nhật có hệ thống giáo dục phổ thông tốt và học sinh tốt nghiệp PTTH thường có khả năng học và tự học vững. Hiện nay 80% số học sinh trong độ tuổi theo học PTTH với một phần đáng kể trong số họ theo đuổi mô hình đào tạo nghề ban đầu tại công ty và 20% còn lại tham gia hệ thống đào tạo nghề tại trường. Giáo dục phổ thông tốt là điều kiện căn bản để hệ thống đào tạo nghề tại công ty của Nhật vận hành được. Sự cần thiết phải phát triển công tác đào tạo ở Việt Nam. Từ kinh nghiệm các nước trên, ta thấy rằng trình độ của nguồn lao động tỉ lệ thuận với trình độ phát triển kinh tế và ngược lại.Việt Nam muốn theo kịp trình độ phát triển kinh tế thế giới thì phải nhanh chóng nâng cao trình độ người lao động . Tài nguyên thiên nhiên, tiền vốn, nhân lực là những nguồn lực vật chất nội tại,cơ bản cho sự phát triển của mỗi quốc gia. Hiện nay, nguồn nhân lực rồi rào, giá nhân công rẻ về lâu dài không phải là lợi thế phát triển. Lợi thế so sánh đang chuyển dần từ yếu tố giàu tài nguyên, tiền vốn, giá nhân công rẻ sang nguồn nhân lực ở định, có chất lượng cao. Chất xám trở thành nguồn vốn lớn và quý giá, là yếu tố quyết định sự tăng trưởng và ổn định của mỗi quốc gia. Sự giàu có về tri thức là thước đo trình độ phát triển của mỗi quôc gia. Đầu tư cho con người nhằm năng cao chất lượng cuộc sống của từng cá nhân tạo ra khả năng nâng cao chất lượng cuộc sống của toàn xã hội, từ đó nâng cao năng suất lao động xã hội. Garry Becker, người Mỹ được đoạt giải Nobel kinh tế năm 1992 khẳng định:”Không có đầu tư nào mang lại nguồn lợi lớn như đầu tư vào nhân lực”. Thật vậy tiềm năng kinh tế của một nước phụ thuộc vào trình độ khoa học của nước đó. Trình độ khoa học kĩ thuật lại phụ thuộc vào các điều kiện về giáo dục đào tạo. Việt Nam muốn theo kịp trình độ phát triển kinh tế thế giới thì sẽ phải đón đầu khoa học công nghệ hiện đại nhưng nước ta lại thiếu các chuyên gia giỏi về khoa học công nghệ và quản lí, thiếu đội ngũ kĩ thuật viên và nhất là công nhân kĩ thuật, do đó không thể tiếp thu, càng không thể khai thác có hiệu quả nên làm giảm hiệu suất của vốn đầu tư. Chúng ta không còn sự lựa chọn nào khác, hoặc là đào tạo nguồn nhân lực quý giá hoặc phải chịu tụt hậu so với nước khác. PHẦN 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC DẠY NGHỀ CỦA CÁC TRƯỜNG DẠY NGHỀ VÀ CÁC TRUNG TÂM DẠY NGHỀ (Từ phần 2 gọi tắt các trường dạy nghề, trung tâm dạy nghề là các cơ sở dạy nghề) I - THỰC TRẠNG PHÂN BỐ CÁC CƠ SỞ DẠY NGHỀ Phân bố các cơ sở dạy nghề theo vùng lãnh thổ, khu vực kinh tế trọng điểm Biểu 1: Các cơ sở dạy nghề phân theo tỉnh và cơ cấu theo vùng TT VÙNG TỈNH/THÀNH PHỐ TDN CƠ CẤU TTDN CƠ CẤU 1 Vùng Đồng Bằng Sông Hồng Hà Nội 24 28 2 Hải Phòng 15 12 3 Hà Tây 4 1 4 Hải Dương 5 1 5 Hưng Yên 1 6 Hà Nam 3 7 Nam Định 4 8 Thái Bình 2 9 Ninh Bình 2 Tiểu cộng 60 28.17% 42 40.38% 10 Vùng Đông Bắc Hà Giang 1 11 Cao Bằng 1 12 Lào Cai 1 13 Bắc Kạn 0 0 14 Lạng Sơn 1 15 Tuyên Quang 1 1 16 Yên Bái 1 1 17 Thái Nguyên 4 1 18 Phú Thọ 5 3 19 Vĩnh Phúc 4 20 Bắc Giang 2 1 21 Bắc Ninh 2 22 Quảng Ninh 8 2 Tiểu cộng 31 14.55% 9 8.65% 23 Vùng Tây Bắc Lai Châu 0 0 24 Sơn La 1 25 Hoà Bình 2 Tiểu cộng 3 1.41% 0 0 26 Vùng Bắc Trung Bộ Thanh Hoá 7 6 27 Nghệ An 4 2 28 Hà Tĩnh 1 29 Quảng Bình 30 Quảng Trị 1 2 31 Thừa Thiên- Huế 1 Tiểu cộng 14 6.57% 10 9.62% 32 Vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ Đà Nẵng 5 4 33 Quảng Nam 2 1 34 Quảng Ngãi 2 1 35 Bình Định 2 1 36 Phú Yên 37 Khánh Hoà 1 4 Tiểu cộng 12 5.63% 11 10.58% 38 Vùng Tây Nguyên Kon Tum 0 0 39 Gia Lai 1 1 40 Đắc Lắc 1 Tiểu cộng 2 0.94% 1 0.96% 41 Vùng Đông Nam Bộ TP.HCM 61 18 42 Lâm Đồng 2 43 Ninh Thuận 0 0 44 Bình Phớc 2 45 Tây Ninh 46 Bình Dơng 7 3 47 Đồng Nai 6 6 48 Bình Thuận 49 Bà Rịa-VũngTàu 2 Tiểu cộng 80 37.56% 27 25.96% 50 Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long Long An 1 51 Đồng Tháp 1 1 52 An Giang 1 53 Tiền Giang 2 54 Vĩnh Long 1 1 55 Bến Tre 1 2 56 Kiên Giang 57 Cần Thơ 3 58 Trà Vinh 59 Sóc Trăng 0 0 60 Bạc Liêu 1 61 Cà Mau 0 0 Tiểu cộng 11 5.16% 4 3.85% Tổng cộng 213 100% 104 100% Theo vùng lãnh thổ: Trường dạy nghề : có hơn 1/3 số trường dạy nghề tập trung ở vùng đông nam bộ, trong đó chủ yếu tập trung ở khu vực kinh tế trọng điểm (Thành phố HCM, Đồng Nai, Bình Dương) Gần 1/3 số trường dạy nghề tập trung ở vùng Đồng bằng sông Hồng, trong đó 2/3 tập trung ở khu vực kinh tế trọng điểm (Hà Nội, Hải phòng, Quảng Ninh) Vùng Tây Bắc và Tây Nguyên, số trường dạy nghề chiếm tỉ lệ rât thấp: trên dưới 1% Trung tâm dạy nghề: sự phân bố tương tự như trung tâm dạy nghề. Phần lớn tập trung ở đồng bằng sông Hồng và đông nam bộ. Vùng Tây Bắc không có trung tâm dạy nghề nào. Vùng Tây Nguyên tuy có nhưng cũng rất ít (1%). Vùng đồng bằng sông Cửu Long có nhiều hơn Tây Nguyên nhưng tỉ lệ cũng không đáng kể. Theo tỉnh thành phố: Trường dạy nghề: trong 61 tỉnh phành phố, nơi tập trung nhiều trường dạy nghề nhất là Tp HCM(61) tiếp theo là Hà Nội (24), Hải Phòng (15), Quảng Ninh (8) Thanh Hoá (7) Bình Dương (7) Đồng Nai (6). Còn lại là từ 5 trường trở xuống, trong đó phần lớn chỉ có từ 1 đến 2 trường. Đặc biệt còn 12 tỉnh không có trường dạy nghề Trung tâm dạy nghề: các trung tâm dạy nghề tập trung nhiều ở các tỉnh, thành phố có nhiều trường dạy nghề: Hà Nôi (28), Tp HCm (18) Hải Phòng (12) Thanh Hoá (6), Đồng Nai (6), đà Nẵng (4), Khánh Hoà (4). Còn lại: 18 tỉnh có từ 1 đến 3 trung tâm dạy nghề và 36 tỉnh không có trung tâm dạy nghề nào. Tóm lại, các cơ sở dạy nghề tập trung ở 2 vùng có trình độ phát triển kinh tế cao nhất (đồng bằng sông Hồng, đông nam bộ), trong đó lại tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn và các khu công nghiệp. Các tỉnh thành phố khác, đặc biệt là vùng núi, vùng sâu vùng xa, khu vực kinh tế kém phát triển, số lượng các cơ sở dạy nghề này rất ít, nhiều nơi hầu như không có, từ đó tạo ra gánh nặng cho các cơ sở dạy nghề ở các vùng khác. So với trường dạy nghề, trung tâm dạy nghề còn thưa thớt hơn nhiều. Đây lại là nơi tập trung đào tạo ngắn hạn, thích hợn với đào tạo lao động nông thôn, phất triển nguồn nhân lực tại chỗ…. Như vậy, để có thể đạt được mục tiêu nâng cao tỉ lệ lao động đã qua đào tạo đã đề ra ở giai đoạn 2001 – 2005, đặc biệt là ở vùng núi, vùng sâu vùng xa thì phải nhanh chóng khắc phục tình trạng này, do đó cần có sự tập trung đầu tư rất lớn. Phân bố các cơ sở dạy nghề theo cấp quản lý. Biểu2: Thực trạng phân bố các cơ sở dạy nghề theo cấp quản lý TDN TTDN Tổng số TW (%) ĐP (%) Tổng số TW (%) Tỉnh/Thành phố(%) Quận/ Huyện (%) Theo các tam giác kinh té Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh 47 53.19 46.81 42 42.86 19.05 38.09 Tp.Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương 74 16.22 83.78 27 14.81 29.63 55.56 Theo các vùng kinh té Đồng bằng Sông Hồng 64 60.94 39.06 42 42.86 19.05 38.09 Đông Bắc 27 62.96 37.04 9 88.89 11.11 Tây Bắc 3 66.67 33.33 Bắc Trung Bộ 14 21.43 78.57 10 70.00 30.00 Duyên Hải Nam Trung Bộ 12 75.00 25.00 11 100 Tây Nguyên 2 100.0 1 100 Đông nam Bộ 80 17.50 82.50 27 14.81 29.63 55.56 Đồng bằng sông CửuLong 11 27.27 72.73 4 75.00 25.00 Tổng số 213 40.85 59.15 104 21.15 44.23 34.62 2.1 Với khối trường dạy nghề Tính chung cả nước, trong tổng số 213 trường dạy nghề, có 40,85% do trung ương quản lý và 59,15% do địa phương quản lý. Trong 8 vùng lãnh thổ, vùng có tỷ lệ do trung ương quản lý cao nhất là Nam Trung Bộ (75%); tiếp đến là Tây Bắc (66,67%); Đông Bắc (62,96%); Đồng bằng sông Hồng (60,94%); Có ba vùng mà ở đó tỷ lệ trường dạy nghề do trung ương quản lý thấp hơn 30% đó là vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long (27,3%), vùng Đông Nam Bộ (17,5%) và vùng Bắc Trung Bộ (21,43%). Riêng đối với vùng Tây Nguyên thì cả hai trường dạy nghề đều do địa phương quản lý. Nguyên nhân chủ yếu làm cho tỷ trọng trường dạy nghề do trung ương quản lý ở vùng Đông Nam Bộ xuống rất thấp so với các vùng khác vì ở đây có một tỷ lệ khá lớn trường ngoài công lập (tại thành phố Hồ Chí Minh) là do địa phương quản lý. Ở hai khu vực kinh tế trọng điểm, tỷ lệ trường dạy nghề do trung ương quản lý cũng khác biệt rõ rệt (phía Bắc là 53,19%, trong khi ở phía Nam là 16,22%). Nhìn chung ở đâu trường dạy nghề công lập chiếm tỷ lệ càng lớn thì ở đó tỷ lệ trường dạy nghề do trung ương quản lý càng cao. Tỉ lệ trường công lập nhỏ hơn nhiều so với trường ngoài công lập chứng tỏ đã có sự tham gia rất lớn của các thành phần khác ngoài Nhà nước vào hoạt động dạy nghề. Đây là dấu hiệu tốt để xã hội hoá hoạt động dạy nghề. Với trung tâm dạy nghề Số trung tâm dạy nghề do TW quản lý chiếm ti lệ không lớn trừ Hà Nội (64,29%), khu vực kinh tế trọng điểm phía Bắc (42,86%), tp HCM (16,67%), khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam (14,81%) còn ở các vùng khác tỉ lệ này bằng không. Trung tâm dạy nghề do tỉnh, thành phố quản lí chiếm tỉ lệ lớn nhất trong đó, vùng duyên hải Nam trung bộ và Tây Nguyên: 100% trung tâm dạy nghề do cấp tỉnh thành phố quản lí. Các cơ sở dạy nghề chia theo nhóm nghề Biểu 3: Số cơ sở dạy nghề phân theo nhóm nghề TT NHÓM NGHỀ TDN NHÓM NGHỀ TTDN 1 Kỹ thuật điện 117 May 76 2 Nguội 112 Tin học 75 3 Kỹ thuật sắt 87 Nguội 67 4 Lái xe ô tô 77 Kỹ thuật điện 61 5 Kỹ thuật xây dựng 69 Kỹ thuật điện tử 55 6 Trồng trọt 62 Mỹ nghệ 34 7 Chăn nuôi 61 Lái xe ô tô 30 8 Vận hành máy thi công 58 Ngoại ngữ 28 9 Mộc 58 Kỹ thuạt sắt 26 10 May 58 Mộc 20 11 Kế toán 56 Vận chuyển đường thuỷ 16 12 Điện lạnh 54 Âm nhạc 15 13 Tin học 44 Lắp đặt 14 14 Vận chuyển đường thuỷ 39 Kỹ thuật xây dựng 14 15 Quản lý 38 Cắt gọt kim loại 14 16 Dịch vụ cá nhân khác 36 Trồng trọt 13 17 Nghệ thuật trang điểm 34 Mua bán hàng 11 18 Mua bán hàng 32 Quản lý 10 19 Văn phòng 30 Vận chuyển máy nâng chuyển 10 20 Mỹ nghệ 28 Điện lạnh 10 21 Kỹ thuật điện tử 26 Phục vụ khách sạn 9 22 Âm nhạc 25 Kỹ thuật viễn thông 9 23 Phục vụ khách sạn 24 Kế toán 7 24 Chế biến hàng ăn uống 24 Chế biến thực phẩm 7 25 Lắp đặt 20 Vận chuỷen đường sắt 7 26 Chế biến thực phẩm 20 SX đường, bánh, mứt, kẹo 7 27 Cắt gọt kim loại 20 Quản lý LĐXH 6 28 Vận chuyển máy nâng chuyển 18 Kỹ thuật mỏ 6 29 Khảo sát 17 Khảo sát 6 30 Giao thông vận tải khác 17 Vận hành, sửa chữa lò, tua bin 5 31 Y 16 Khai thác bưu điện 5 32 Bảo quản giao nhận hàng hoá 15 Văn phòng 4 33 SX đường, bánh, mứt, kẹo 13 Dịch vụ cá nhân khác 4 34 Quản lý LĐXH 13 Vận hành tổ máy điện 4 35 Vận hành tổ máy điện 12 Sản xuất vật liệu xây dựng 3 36 Ngoại ngữ 12 Chế biến hàng ăn uống 3 37 Kỹ thuật viễn thông 12 Nghệ thuật trang điểm 3 38 Kỹ thuật ảnh 12 Luyện kim 3 39 Vận hành, sửa chữa lò, tua bin 11 Vận hành thiết bị hoá 3 40 Dệt, nhuộm 11 Vận hành máy thi công 3 41 Luyện kim 10 SX giấy 3 42 Vận chuyển đường sắt 9 SX chất vô cơ phân bón 3 43 Sản xuất vật liệu xây dựng 9 In 3 44 Kỹ thuật mỏ 9 Giao thông vận tải khác 2 45 In 9 Chăn nuôi 2 46 Dược 9 Vận hành điện 2 47 Khai thác bưu điện 8 SX ruợu, bia, nước giải khát 2 48 Du lịch 8 SX gốm, sứ, thuỷ tinh 1 49 SX ruợu, bia, nước giải khát 7 Phát thanh truyền hình 1 50 Phát thanh truyền hình 7 Kiến trúc 1 51 Nghề khác 7 Khoan nổ mìn 1 52 Chế biến nông sản 7 Dệt, nhuộm 1 53 Vận hành thiết bị hoá 6 Chế biến nông sản 1 54 Vận hành điện 6 Bảo quản giao nhận hàng hoá 1 55 SX gốm, sứ, thuỷ tinh 6 Thiết kế trang trí nội thất 1 56 SX các chất vô cơ phân bón 6 Sửa chữa thiết bị chính xác 1 57 SX giấy 5 Nghề khác 1 58 Kỹ thuật khoan 3 Chế biến sản phẩm cây CN 1 59 Kiến trúc 3 Tự động hoá 0 60 Khoan nổ mìn 3 Lặn 0 61 Chế biến sản phẩm cây CN 3 Du lịch 0 62 Vận chuyển hàng không 2 Y 0 63 Thiết kế trang trí nội thất 2 Vận chuyển hàng không 0 64 Sửa chữa vũ khí (quân đội ) 2 Tín dụng 0 65 Sủa chữa thiết bị chính xác 2 Sửa chữa vũ khí (quân đội ) 0 66 Phòng cháy,chữa cháy 2 Phòng cháy,chữa cháy 0 67 Bảo vệ 2 Kỹ thuật khoan 0 68 Tín dụng 1 Kỹ thuật ảnh 0 69 Tự động hoá 1 Kiểm sát 0 70 Lặn 1 Dược 0 71 Kiểm sát 1 Bảo vệ 0 Trường dạy nghề: Trong 213 trường dạy nghề thì chỉ có 61 nhóm nghề đang được đào tạo, trong đó: Có 2 nhóm nghề đang có trên 100 trường đang tham gia đà._.o tạo. Đó là nhóm nghề kỹ thuật điện có số trường đào tạo cao nhất (117 trường) và nhóm nghề nguội (112 trường). Có 7 nhóm nghề đang có trên 50 trường đang tham gia đào tạo. Một số nhóm nghề có nhiều trường đào tạo là: kỹ thuật sắt (87 trường), lái xe ôtô (77 trường), kỹ thuật xây dựng (69 trường) . . . Có 25 nhóm nghề đang có trên 10 trường tham gia đào tạo và có 7 nhóm nghề chỉ có từ 1 đến 2 trường đang tham gia đào tạo. Điều đó chứng tỏ sự phân bố hệ thống các trường dạy nghề chia theo nhóm nghề đào tạo vẫn chậm được đổi mới theo nhu cầu của thị trường lao động. Số lao động có nghề thuộc lĩnh vực sản xuất, chế biến nông lâm thủy sản đang rất thiếu trong khi nhu cầu ngày càng bức xúc đối với khu vực nông thôn. ở các vùng kinh tế chậm phát triển, đặc biệt là vùng núi, vùng ven biển và hải đảo, vùng sâu đang có nhu cầu ngày càng nhiều về số lao động được đào tạo ở các nghề mới thuộc lĩnh vực chế biến, khai thác, dịch vụ, quản lý... trong khi các trường dạy nghề trong khu vực lại thiếu quan tâm đến vấn đề này. Trung tâm dạy nghề: Cơ sở dạy nghề theo công suất thiết kế và quy mô đào tạo Công suất đào tạo = (số học viên đang học / Công suất thiết kế ) *100 . Trường dạy nghề Biểu đồ 1: Các trường công lập ở mọi cấp quản lý đang có số học sinh theo học cao hơn công suất thiết kế. Như vậy có hiện tượng cầu về học nghề lớn hơn so với cung. Tuy vậy có một bất hợp lý là tỷ trọng học sinh theo học nghề ngắn hạn lại đang chiếm khoảng 25% vì các trường này cần tập trung vào đào tạo nghề dài hạn, điều mà các trung tâm không có chức năng thực hiện. Các trường dạy nghề ngoài công lập thì ngược lại, công suất đào tạo là khoảng 87%. Tuy nhiên do đa số các trường này là tận dụng nhà xưởng cho đào tạo nghề, họ không thiết kế chuẩn cho đào tạo nên không thể trả lời chính xác về công suất thiết kế. Thực tế là ở các trường ngoài công lập dường như học sinh phải học trong điều kiện chật chội hơnso với trường công lập. Biểu đồ 2 Các trường công lập chủ yếu có công suất thiết kế từ 500-1000 học sinh, tiếp đó là nhóm từ 200-500 học sinh. Đối với trường ngoài công lập công suất thiết kế càng lớn thì tỉ trọng trường càng giảm, có quá nửa số trường có công suất thiết kế nhỏ hơn 200 học sinh. Xét riêng đối với trường công lập thì tp.HCM lại không có trường nào có công suất thiết kế nhỏ hơn 200 học sinh, còn ở Hà Nội và Hải Phòng vẫn có tỉ lệ này là 15% và 20%. So sánh với các trường đại học và cao đẳng (quy mô đều trên 1000 học sinh) thì rõ ràng quy mô các trường dạy nghề còn quá nhỏ. Đó là một nguyên nhân dẫn tới tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ”. Trung tâm dạy nghề Biểu đồ 3: Quy mô bình quân của các trung tâm ở vùng Đông Nam Bộ lớn nhất (gần 1000 học sinh ) trong khi có 4 vùng là Đông Bắc. Tây bắc,Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên công suất thiết kế bình quân chỉ khoảng 250 học sinh. II. KẾT QUẢ ĐIỀU TRA VỀ THỰC TRẠNG HỌC SINH HỌC NGHỀ Số lượng Tổng số lao động của nước ta chiếm ẵ dân số nhưng tỉ lệ lao động qua đào tạo (đào tạo trong và sau đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệm và đào tạo nghề) chỉ 16 đến 22%. So sánh với Đức là 95%, càng thấy rõ trình độ của lực lượng lao động Việt Nam là quá thấp. Theo tiêu chuẩn quốc tế, quan hệ tỉ lệ giữa các loại lao động kĩ thuật: cao đẳng, đại học trở lên – trung cấp – công nhân kỹ thuật là 1- 4 – 10. Nhưng ở Việt Nam, quan hệ tỉ lệ này lại ngược lại, ngày 1/4/89 là 1 – 1,16 – 0,96 và 1/4/99 giảm xuống là 1 – 1,13 – 0,92. Trong đó: Với doanh nghiệp nhà nước: 1- 0,95 – 4,27 Với doanh nghiệp tư nhân: 1 – 0,73 – 4,61 Với doanh nghiệp đầu tư nước ngoài: 1 – 0,64 – 1,53. Những tỉ lệ này cho thấy ở Việt Nam còn rất thiếu công nhân kỹ thuật. Một bất cập khác là tỉ lệ đào tạo nghề ngắn hạn lại quá cao (chiếm trên 80% số lao động được đào tạo nghề). Đây là loại lao động chỉ được đào tạo những kiến thức kỹ năng cơ bản, thực hành những nghề đơn giản và không thể làm lực lượng chủ đạo để tiếp thu khoa học công nghệ mới, tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Tuy vậy, đã có dấu hiệu khả quan là tỉ lệ lao động đào tạo ngắn hạn đã giảm qua các năm, số lao động đào tạo dài hạn đã tăng dần. Đối với trường dạy nghề: Biểu 4: Trường dạy nghề phân theo cấp quản lý, hình thức sở hữu, công suất thiết kế và số học viên đang đào tạo. Cấp quản lý Hình thức sở hữu Tổng số học viên đang đào tạo Chia ra Học nghề ngắn hạn (%) Học nghề dài hạn (%) Bồi dưỡng nâng cao (%) Trung ương Công lập 941 17.15 72.83 10.01 Ngoài công lập 133 75.00 25.00 0.00 Chung 904 19.81 70.63 9.55 Địa phương Công lập 533 35.34 57.51 7.15 Ngoài công lập 267 87.20 8.77 3.43 Chung 387 63.74 30.99 5.11 Tổng số Công lập 775 24.56 66.59 8.85 Ngoài công lập 260 86.53 9.67 3.24 Chung 599 45.80 47.26 6.93 Bình quân số học viên đang đào tạo ở các trường dạy nghề là 600 học viên trong đó các trường trung ương có số học viên cao gấp 2,3 lần so với các trường do địa phương quản lý. Các trường công lập có số học viên cao gấp gần 3 lần so với các trường ngoài công lập. Như vầy các trường dạy nghề trung ương và công lập được đầu tư tốt hơn. Các trường dạy nghề ngoài công lập đều có tỉ lệ đào tạo ngắn hạn rất lớn(86.53%). Tỉ trọng học sinh học nghề dài hạn ở các trường trung ương cao gáp đôi trường dạy nghề dịa phương. Một phần do năng lực của các trường địa phương và mặt khác là do phương thức phân bổ chỉ tiêu mà các trường địa phương đang phải chịu nhiều thiệt thòi mặc dù việc tổ chức đào tạo vẫn nhằm mục tiêu sử dụng cho một địa phương nào đó. Tình trạng này đáp ứng nhu cầu hiện tại nhưng về lâu dài thì không tốt.Do trường dạy nghề đóng vai trò chủ đạo trong đào tạo dài hạn. Chất lượng của học sinh học nghề Chất lượng của học sinh học nghề được đánh giá qua ý kiến nhận xét của doanh nghiệp và người lao động về hoạt động đào tạo của các cơ sở dạy nghề. Về dạy lý thuyết Biểu 5: Ý kiến của doanh nghiệp về chất lượng dạy kiến thức chuyên môn kỹ thuật của các cơ sở đào tạo Đơn vị: số ý kiến LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP TRƯỜNG DẠY NGHỀ TRUNG TÂM DẠY NGHỀ TỐT TƯƠNG ĐỐI TRUNG BÌNH KÉM TỐT TƯƠNG ĐỐI TRUNG BÌNH KÉM 1. Doanh nghiệp nhà nước 61 61 9 0 0 4 5 1 2. Doanh nghiệp tư nhân 56 38 17 0 0 8 2 0 3. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 7 16 7 4 0 1 9 0 Đối với trường dạy nghề; Doanh nghiệp Nhà nước nhìn nhận tương đối tốt về trường dạy nghề, trong tổng số 131 ý kiến thì 46,56% đánh giá các trường dạy nghề đào tạo lý thuyết tốt, 46,56% cho rằng chỉ tương đối tốt, còn lại 6,87% đánh giá chất lượng dạy lý thuyết là trung bình. Doanh nghiệp tư nhân có 113 ý kiến, trong đó đánh giá các trường dạy nghề dạy lý thuyết tốt, tương đối và trung bình tương ứng là : 51,33% - 33,63% - 15,64%. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhìn nhận không tốt về chất lượng dạy lý thuyết của các trường dạy nghề, trong số 34 ý kiến thì chỉ có 20,59% cho rằng các trường dạy nghề đào tạo lý thuyết tốt, đến 47,06% cho rằng chỉ tương đối tốt, 20,59% cho rằng đạt mức trung bình; đặc biệt, có 11,76% ý kiến đánh giá đạt loại kém. Đối với trung tâm dạy nghề Nhìn chung các doanh nghiệp đều cho rằng việc trang bị kiến thức, hiểu biết cơ bản cho học sinh của các trung tâm dạy nghề còn nhiều hạn chế nhất là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (90% đánh giá là mức trung bình) 2.2. Về dạy thực hành Biểu 6: Ý kiến của doanh nghiệp về chất lượng đào tạo thực hành của các cơ sở dạy nghề Đơn vị:số ý kiến LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP TRƯỜNG DẠY NGHỀ TRUNG TÂM DẠY NGHỀ TỐT TƯƠNG ĐỐI TRUNG BÌNH KÉM TỐT TƯƠNG ĐỐI TRUNG BÌNH KÉM 1. Doanh nghiệp nhà nước 54 57 18 2 0 2 6 2 2. Doanh nghiệp tư nhân 55 47 8 3 0 8 2 0 3. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 6 12 13 3 0 0 8 2 Đối với trường dạy nghề: Doanh nghiệp tư nhân nhận xét việc dạy thực hành trong các trường dạy nghề cao hơn so với đánh giá của doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Có đến 48,67% ý kiến của doanh nghiệp tư nhân cho rằng trường dạy nghề dạy thực hành tốt, chỉ có 7,08% cho rằng đạt mức trung bình và 2,65% đánh giá là kém. Trong khi đó, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đánh giá chất lượng dạy thực hành ở trường dạy nghề là thấp nhất: chỉ 20,69% đánh giá loại tốt, có đến 44,83% cho là chỉ ở mức trung bình và 10,34% đánh giá loại kém Đối với trung tâm dạy nghề: Nhận xét của doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài về dạy thực hành của trung tâm dạy nghề tương tự như về dạy lý thuyết: đa số ý kiến cho rằng chỉ ở mức trung bình và kém. Tóm lại, các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhận xét chất lượng dạy thực hành ở các cơ sở đào tạo kém hơn so với chất lượng dạy lý thuyết. 2.3. Về giáo dục ý thức và tác phong lao động Biểu7: Nhận xét của doanh nghiệp về giáo dục ý thức và tác phong lao động của các cơ sở dạy nghề Đơn vị:số ý kiến LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP TRƯỜNG DẠY NGHỀ TRUNG TÂM DẠY NGHỀ TỐT TƯƠNG ĐỐI TRUNG BÌNH KÉM TỐT TƯƠNG ĐỐI TRUNG BÌNH KÉM 1. Doanh nghiệp nhà nước 61 61 9 0 0 3 6 1 2. Doanh nghiệp tư nhân 58 38 17 0 0 7 2 1 3. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 7 17 7 4 0 1 7 2 Đối với trường dạy nghề Tỉ lệ ý kiến nhận xét tốt, tương đối tốt, trung bình và kém của các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đối với việc giáo dục ý thức và tác phong lao động tương ứng là: trong đó, doanh nghiệp nhà nước đánh giá cao về trường dạy nghề, ngược lại, doanh nghiệp có vốn đầu tư chưa hài lòng với ý thức và tác phong lao động của những người học từ trường dạy nghề . Đối với trung tâm dạy nghề : Đa số ý kiến cho rằng chất lượng xây dựng ý thức và tác phong lao động của các trung tâm dạy nghề chỉ đạt mức trung bình. Cả 3 loại doanh nghiệp đều không có ý kiến đồng ý đạt loại tốt. 2.4. Thời gian tập việc Doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có những đánh giá khác nha về thời gian cần thiết để công nhân kỹ thuật tuyển mới làm quen với công việc, tương ứng là: 6,6 – 3,9 – 8,5 tuần. Theo đánh giá của chính công nhân kỹ thuật đang làm việc tại các doanh nghiệp thì thời gian trung bình cần thiết để có thể đáp ứng tốt yêu cầu công việc tại vị trí đảm nhận là khoảng 5,85 tuần, ngắn hơn so với đánh giá của doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhưng dài hơn so với doanh nghiệp tư nhân. Để làm quen với công việc, 82,86% ý kiến cho rằng phải tự học trong quá trình làm việc là chính; 12,79% ý kiến đề cập tới hình thức học bổ sung do các doanh nghiệp tổ chức; có 4,35% cho rằng cần học lại từ đầu do doanh nghiệp tổ chức. Thời gian tập việc tại các doanh nghiệp cho thấy: Thời gian tập việc phụ thuộc vào trình độ công nghệ mà doanh nghiệp sử dụng. Việc đào tạo tại các cơ sở dạy nghề không thể thoả mãn tuyệt đối nhu cầu của các doanh nghiệp Để khắc phục tình trnạg này thì việc gắn đào tạo với các cơ sở sản xuất kinh doanh là một nhu cầu thực tế khách quan. Chỉ có gắn đào tạo với sửdụng mới nâng cao được hiệu quả đào tạo, rút ngắn khoảng cách giữa đào tạo và sử dụng. Qua những phân tích tổng quát trên đây, có thể đánh giá rằng việc đào tạo ở các trung tâm dạy nghề vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động. Các phần sau sẽ làm rõ hơn các yếu tố tác động cơ bản tới công tác dạy nghề của các cơ sở dạy nghề: Cơ sở vật chất Chương trình, giáo trình Đội ngũ giáo viên Chính sách của Nhà nước III. CƠ SỞ VẬT CHẤT CỦA CÁC CƠ SỞ DẠY NGHỀ A. Nhà xưởng 1. Trường dạy nghề 1.1 Diện tích mặt bằng Biểu đồ 4: Phần lớn trường ngoài công lập có diện tích nhỏ hơn 5000 m2 và không có trường nào có diện tích lớn hơn 40 000 m2. Còn trường công lập: diện tích lớn hơn 40000 m2 chiếm tỷ lệ cao nhất (23%). Diện tích mặt bằng bình quân của một trường là 24,4 nghìn m2, của trường công lập cao gấp 20 lần các trường ngoài công lập, trong khi số học sinh bình quân cao gấp 10 lần. Như vậy về khía cạnh nào đó các trường ngoài công lập đang phải chịu tải lớn hơn. Biểu 8: Diện tích xây dựng/1 học viên và số phòng học/1000 đang đào tạo học viên của các trường CẤP QUẢN LÝ HÌNH THỨC SỞ HỮU DIỆN TÍCH XÂY DỰNG /1 HỌC VIÊN (M2) DIỆN TÍCH PHÒNG HỌC /1 HỌC VIÊN (M2) SỐ PHÒNG HỌC TRÊN 1000 HỌC VIÊN (PHÒNG) Trung ương Công lập 21.55 2.42 21.29 Ngoài công lập 8.09 3.68 89.57 Chung 21.08 2.46 23.64 Địa phương Công lập 14.08 1.65 20.71 Ngoài công lập 5.20 2.26 114.09 Chung 9.22 1.98 71.85 Tổng số Công lập 18.53 2.11 21.06 Ngoài công lập 5.32 2.32 113.07 Chung 14.06 2.18 52.16 Về diện tích phòng học trên 1 học sinh thì không có sự khác nhau lớn giữa các trường công lập và ngoài công lập (2,1 và 2,3 m2/học viên) và giữa các trường ở trung ương và địa phương (2,46 và 1,98 m2). Có sự khác nhau lớn giữa tổng diện tích xây dựng giữa các trường trung ương và địa phương (gấp 6 lần) và giữa các trường công lập và ngoài công lập (gấp 19 lần). Điều đó chứng tỏ rằng các diện tích phụ trợ khác cho học tập tính trên một học viên như thư viện, xưởng thực hành... thì các trường công lập và các trường trung ương bảo đảm tốt hơn rất nhiều so với các trường ngoài công lập và các trường địa phương. Số phòng học trên 1000 học viên của các trường ngoài công lập vào gấp 2 lần các trường công lập. 1.2 Chất lượng nhà xưởng Không có sự khác biệt về tỷ trọng chất lượng phòng học và xưởng thực hành giữa các trường trung ương và các trường địa phương, đồng thời cũng không có sự khác nhau lớn giữa các trường công lập và ngoài công lập. Nhìn chung diện tích phòng học là nhà tạm chiếm từ 5,5% đến 7,5%, nhà kiên cố chiếm từ 64,5% đến 75,5%. Riêng về nhà ở cho học viên thì có sự khác nhau khá lớn về chất lượng nhà của các trường trung ương và các trường địa phương. 1.3 Về đầu tư xây dựng cơ bản Mức đầu tư bình quân cho một trường ở trung ương qua các năm là: 1997: 537 triệu đồng, 1998: 506 triệu đồng, 1999: 759 triệu đồng và năm 2000 là 683 triệu đồng. Con số này đối với các trường địa phương là 132; 95; 151; và 205 triệu đồng. Ngân sách cấp cho xây dựng cơ bản của các trường trung ương dao động trong khoảng từ 75-79% còn các trường địa phương chỉ từ 42-47%. Điều này cho thấy rằng trong các năm gần đây, nhà nước đã tăng mức đầu tư cho hoạt động dạy nghề mà đặc biệt là giành cho các trường ở trung ương. Đầu tư xây dựng cơ bản bình quân đối với các trường công lập của năm 1999 và 2000 là gần 530 triệu đồng và nhìn chung là tăng không đáng kể, trong khi ở các trường ngoài công lập là 145 và 153 triệu đồng (bằng khoảng hơn 30% so với các trường công lập). Nhưng rõ ràng là với qui mô nhỏ hơn nhiều thì mức đầu tư của các trường ngoài công lập như vậy là lớn và điều đó cho phép họ nâng cấp được nhà xưởng. Vốn ngân sách đầu tư cho xây dựng cơ bản của các trường công lập chiếm khoảng gần 80%. Mức đầu tư xây dựng cơ bản cho xưởng thực hành, phòng học và phòng thí nghiệm cao hơn so với đầu tư cho xây dựng nhà ở, phòng làm việc. Xét theo các vùng kinh tế: Thì mức đầu tư cho các trường thuộc các tỉnh ở vùng đồng bằng Sông Cửu Long là cao nhất và thấp nhất là ở các tỉnh Tây Nguyên. Tuy nhiên riêng năm 2000, mức đầu tư xây dựng cơ bản cho các trường thuộc vùng Đồng Bằng Sông Hồng tăng cao hơn nhiều so với các năm trước, điều đó có thể là do hướng ưu tiên của nhà nước. Trung tâm dạy nghề 2.1 Diện tích mặt bằng Biểu 9: Qui mô của các trung tâm dạy nghề phân theo nhóm diện tích mặt bằng (Đơn vị: %) CẤP QUẢN LÝ HÌNH THỨC SỞ HỮU ĐƠN VỊ NHÓM THEO TỔNG DIỆN TÍCH MẶT BẰNG (1000M2) <1 1 - <3 3 - <6 6 - <10 >= 10 Trung ương Công lập % 18.75 37.50 12.50 31.25 Ngoài công lập % 25.00 25.00 25.00 25.00 Tỉnh/ thành phố Công lập % 24.00 44.00 12.00 20.00 Ngoài công lập % 71.43 9.52 4.76 4.76 9.52 Quận, huyện Công lập % 25.81 41.94 12.90 16.13 3.23 Ngoài công lập % 80.00 20.00 Chung Công lập % 23.61 41.67 12.50 6.94 15.28 Ngoài công lập % 66.67 6.67 6.67 6.67 13.33 Về qui mô các trung tâm theo diện tích mặt bằng có thể thấy sự khác biệt rất lớn giữa các trung tâm công lập và ngoài công lập. Đa số các trung tâm dạy nghề công lập có qui mô diện tích trong khoảng từ 1.000-3.000 m2 thì các trung tâm ngoài công lập lại chủ yếu có diện tích mặt bằng nhỏ hơn 1.000 m2. Điều đó hoàn toàn dễ hiểu vì các trung tâm ngoài công lập chủ yếu sử dụng nhà riêng của mình làm cơ sở dạy nghề, còn các trung tâm công lập thì được thuê đất của nhà nước hoặc được nhà nước cấp. 2.2 Chất lượng nhà xưởng Tỷ trọng nhà kiên cố của các trung tâm dạy nghề về phòng học, xưởng thực hành và nhà ở cho học viên đều cao hơn mức chung cho cả các loại trung tâm(51%). Tỷ lệ nhà bán kiên cố của các trung tâm dạy nghề bằng với mức chung(45%). Theo hình thức sở hữu thì các trung tâm ngoài công lập lại có tỷ lệ nhà xưởng kiên cố cao hơn các trung tâm công lập kể cả đối với nhà xưởng, phòng học và nhà ở của học viên. Một lần nữa có thể khẳng định rằng các trung tâm ngoài công lập đã sử dụng những diện tích nhà ở còn trống của mình để sử dụng cho mục đích đào tạo nghề. Nhìn chung phòng học có tỷ lệ phòng học là nhà kiên cố cao nhất còn nhà ở cho học viên thì nhà bán kiên cố có tỷ lệ cao nhất. 2.3 Về đầu tư xây dựng nhà xưởng Riêng đối với trung tâm dạy nghề thì tổng mức đầu tư cho một đơn vị qua các năm từ 1997-2000 là: 228; 50; 90; và 104 triệu đồng. Trong đó tỷ lệ ngân sách cấp lần lượt chiếm: 43,6%; 54%; 45,3%; và 46,5%. Như vậy mức đầu tư cho các trung tâm dạy nghề nhìn chung chỉ bằng 2/3 so với mức chung của các loại trung tâm. Đồng thời tỷ lệ ngân sách cấp trong tổng mức đầu tư cũng thấp hơn. Điều đó cho thấy rằng việc đầu tư cho các trung tâm dạy nghề vẫn chưa thực sự được chú trọng. Tuy nhiên mức đầu tư đang có xu hướng tăng lên. B. Trang thiết bị Trường dạy nghề 1.1 Mức đầu tư cho trang thiết bị qua các năm HÌNH THỨC SỞ HỮU 1997 1998 1999 2000 TỔNG SỐ (TRIỆU ĐỒNG) NGÂN SÁCH CẤP (%) TỔNG SỐ (TRIỆU ĐỒNG) NGÂN SÁCH CẤP (%) TỔNG SỐ (TRIỆU ĐỒNG) NGÂN SÁCH CẤP (%) TỔNG SỐ (TRIỆU ĐỒNG) NGÂN SÁCH CẤP (%) Công lập 204 70.88 179 74.92 249 76.40 472 68.13 Ngoài công lập 66 4.70 66 2.27 118 3.72 85 0.00 Chung 158 50.72 141 52.09 205 53.57 342 58.92 Biểu 10: Vốn đầu tư cho trang, thiết bị theo hình thức sở hữu của các trường dạy nghề theo các năm Mức đầu tư cho trang thiết bị bình quân của các trường dạy nghề qua các năm từ 1997-2000 là: 158; 141; 205; 342 triệu đồng trong đó ngân sách cấp chiếm từ 50-60%. Như vậy so với đầu tư xây dựng cơ bản thì mức đầu tư cho trang, thiết bị thấp hơn, đồng thời tỷ trọng kinh phí do ngân sách cấp cũng thấp hơn. Mức đầu tư cho trang, thiết bị tính cho cả giai đoạn 1997-2000 của các trường trung ương cao gấp gần 4 lần các trường do địa phương quản lý (1,5 tỷ so với 400 triệu đồng). Một điều khá bất hợp lý là tỷ trọng ngân sách cấp cho các trường địa phương chỉ chiếm khoảng 35% trong khi đối với các trường trung ương thì tỷ trọng đó là khoảng 75%. Đầu tư cho trang, thiết bị phục vụ cho thực hành trong 4 năm cao gấp 8 lần trang, thiết bị cho dạy lý thuyết nghề. Tổng mức đầu tư bình quân cho trang thiết bị của một trường trong bốn năm từ 1997-2000 của các trường công lập cao gấp hơn ba lần các trường ngoài công lập. 1.2 Chất lượng trang thiết bị 1.2.1.Trang, thiết bị cho đào tạo các môn cơ sở Trang, thiết bị cho đào tạo các môn cơ sở phân theo vùng Theo thời gian sản xuất: Tính chung cho các trường thì 50% số trang, thiết bị được sản xuất trong giai đoạn từ 1996-2000, 34% được sản xuất trong giai đoạn từ 1986-1995 và vẫn còn 6% số thiết bị được sản xuất từ trước năm 1975. Theo mức độ hiện đại, nếu tính chung cho tất cả các trường thì đa số trang thiết bị được đánh giá là ở mức trung bình (64,3%), chỉ có 21,8% được coi là hiện đại và 13,6% thuộc loại lạc hậu. Theo nơi sản xuất có thể thấy: Có tới 65,5% số trang, thiết bị là được sản xuất ở nước ngoài và nhìn chung, số thiết bị được sản xuất ở nước ngoài đều chiếm tỷ trọng lớn nhất đối với tất cả các ngành. 24,8% được sản xuất trong nước và gần 9% là do các cơ sở tự sản xuất hoặc lắp ráp. Vùng mà các trường có số trang, thiết bị mới cao nhất là Bắc Trung Bộ (81% số thiết bị được sản xuất sau 1995), tiếp đến là các trường thuộc vùng Đồng Bằng Sông Hồng và Đồng Bằng Sông Cửu Long. Vùng Tây Bắc có tỷ lệ thiết bị sản xuất sau 1995 thấp nhất (16,6%). Vùng Đông Nam Bộ lại có tỷ lệ trang, thiết bị được sản xuất trước 1975 lớn nhất (gần 13%). Theo mức độ hiện đại thì các trường thuộc vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ và Bắc Trung Bộ có tỷ lệ thiết bị được coi là hiện đại cao nhất (42,6% và 38,7%). Vùng Tây Bắc có tỷ lệ thiết bị hiện đại thấp nhất (10%) và đây cũng là vùng có tỷ lệ thiết bị lạc hậu cao nhất (41%). Hầu như tất cả các vùng, chỉ trừ vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long là đều có tỷ lệ trang, thiết bị được sản xuất ở nước ngoài cao nhất. Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long có tỷ lệ thiết bị được sản xuất trong nước cao nhất (58%). Theo cấp quản lý thì trang, thiết bị của các trường do trung ương quản lý có tỷ lệ sản xuất sau năm 1996, tỷ lệ được coi là hiện đại và tỷ trọng nhập khẩu đều cao hơn so với các trường do địa phương quản lý. Tỷ trọng trang, thiết bị sản xuất trước năm 1975 của các trường ngoài công lập là 17,5%. Đây là một tỷ trọng khá lớn vì trong khi tỷ trọng này đối với các trường công lập chỉ là 2,8%. 1. 2.2.Trang, thiết bị cho đào tạo lý thuyết chuyên môn nghề và thực hành nghề Trang, thiết bị cho đào tạo lý thuyết chuyên môn nghề và thực hành nghề phân theo vùng Theo thời gian sản xuất: Tính chung cho trường thì 35,8% số trang, thiết bị được sản xuất trong giai đoạn từ 1996-2000; 37,1% được sản xuất trong giai đoạn từ 1986-1995 và vẫn còn gần 11% số thiết bị được sản xuất từ trước năm 1975. Theo mức độ hiện đại, nếu tính chung cho tất cả các trường thì cũng giống như trang, thiết bị đào tạo các môn cơ sở, đa số trang thiết bị dùng cho đào tạo lý thuyết chuyên môn nghề và thực hành nghề được đánh giá là ở mức trung bình (64,4%), chỉ có 19,4% được coi là hiện đại và 15,2% thuộc loại lạc hậu. -Vùng mà các trường có số trang, thiết bị mới cao nhất là Bắc Trung Bộ (48,2% số thiết bị được sản xuất sau 1995), tiếp đến là các trường thuộc vùng Đồng Bằng Sông Hồng (43,8%). Vùng Tây nguyên và Tây Bắc vẫn là vùng có tỷ lệ thiết bị sản xuất sau 1995 thấp nhất (8,2% và 9,6%). Vùng Tây nguyên có tỷ lệ trang, thiết bị được sản xuất trước 1975 lớn nhất (39,9%). Đây là một tỷ lệ quá lớn mà trong kế hoạch đầu tư cần được quan tâm đổi mới. Theo nơi sản xuất thì đối với tất cả các vùng loại tỷ lệ trang, thiết bị được nhập từ nước ngoài về đều chiếm từ 67% trở lên. Tỷ trọng trang, thiết bị chia theo nơi sản xuất không khác nhau nhiều giữa các vùng. Tỷ lệ lắp ráp và tự sản xuất chiếm tỷ trọng rất thấp đối với tất cả các vùng. Trang, thiết bị cho đào tạo lý thuyết chuyên môn nghề và thực hành nghề phân theo nghề Nếu nhìn dưới góc độ nghề đào tạo thì có sự khác nhau lớn về tình trạng trang, thiết bị phục vụ cho đầo tạo các nghề khác nhau. Cụ thể là có nhiều nghề mà tỷ lệ trang, thiết bị được sản xuất sau 1995 chiếm tới trên 60% như: sản xuất các chất vô cơ và phân bón; kỹ thuật điện; vận hành thiết bị điện; kỹ thuật xây dựng; vận hành máy nâng chuyển; vận chuyển đường sắt; khai thác bưu điện; kỹ thuật viễn thông; sản xuất rượu bia, nước giải khát; chế biến sản phẩm cây công nghiệp; tin học . . . Tuy nhiên cũng có nhiều nghề mà trang, thiết bị sử dụng cho thực hành nghề rất lạc hậu như nghề in; vận hành thiết bị hoá; luyện kim, sửa chữa thiết bị chính xác . . . Các nghề này có tỷ trọng trang, thiết bị thực hành chiếm tới trên 30% tổng số trang, thiết bị, thậm chí lên tới 83% như nghề vận hành thiết bị hoá. Trung tâm dạy nghề 2.1 Mức đầu tư cho trang thiết bị qua các năm Mức đầu tư bình quân cho trang thiết bị từ 1997-2000 là khoảng 100 triệu đồng /trung tâm/năm. trong đó tỷ trọng ngân sách cấp là 30% ;so với các trug tâm khác là 45% thi chứng tỏ các trung tâm dạy nghề chưa được ưu tiên đầu tư. 2.2 Về chất lượng trang thiết bị -Tỉ trọng trang thiết bịđược sản xuất sau năm 1995 là 38%, từ 1986-1995 là 49%, còn lại là sản xuất trước1985. Xét theo vùng: Vùng có tỷ lệ trang, thiết bị được sản xuất sau 1995 cao nhất là vùng Đông Nam Bộ (41,6%) và thấp nhất là vùng Đông Bắc (18,9%). Các vùng khác không có sự khác nhau nhiều. Về mức độ hiện đại thì chỉ trừ vùng Bắc Trung Bộ chỉ có 1,3% số trang, thiết bị thuộc loại hiện đại, còn lại các vùng khác tỷ trọng này giao động trong khoảng 20%. Nói chung, trong khi khoa học công nghệ thay đổi liên tục, xuất hiện nhiều nghề mới thì chất lượng trang thiết bị như trên là trung bình, mức độ đổi mới còn chậm. IV. CHẤT LƯỢNG CHƯƠNG TRÌNH, GIÁO TRÌNH TRONG CÁC CƠ SỞ DẠY NGHỀ Chương trình đào tạo. Chương trình đào tạo là yêu cầu không thể thiếu được trong quản lí Nhà nước các cấp/ các ngành đối với hoạt động đào tạo của các cơ sở đào tạo nói chung và lĩnh vực dạy nghề nói riêng. Chương trình đào tạo phù hợp được cấp có thẩm quyền phê duyệt là một trong các yếu tố quan trọng, quyết định chất lượng đào tạo. Không có chương trình đào tạo sẽ không có các căn cứ để xem xét đánh giá bậc đào tạo của các đối tượng tham gia đào tạo. Trong lĩnh vực dạy nghề, chương trình đào tạo gắn với loại nghề đào tạo. Không có chương trình đào tạo chung cho các nghề mà mỗi loại nghề đều có chương trình riêng. Do vậy, một cơ sở dạy nghề có thể có nhiều chương trình đào tạo nếu như cơ sở đó đào tạo nhiều nghề. Điều đó đòi hỏi việc nghiên cứu đánh giá thực trạng về chương trình đào tạo nghề xét ở mức độ có hay không có, không thể chỉ căn cứ vào cơ sở đào tạo nghề mà phải căn cứ vào các nghề mà cơ sở đó đào tạo. Sau đây là thực trạng về vấn đề này của các khối cơ sở tham gia đào tạo nghề của cả nước qua kết quả khảo sát. Khối các trường dạy nghề. Trong tổng số 142 loại nghề mà các trường dạy nghề trong cả nước đang đào tạo có 13 loại nghề mà tất cả các trường dạy nghề đều có chương trình (chiếm 93,0%). 10 loại nghề mà trong đó có một số trường không có chương trình đào tạo. Trong số này loại nghề có tỷ lệ trường không có chương trình lớn nhất là: gò (100%); tiếp đến là vận hành quản lý đường dây (20%); Bê tông cốt thép(18,75%); các loại nghề: khảo sát địa hình; rèn; lắp đặt cầu; vận hành máy thi công nền; vận hành máy xúc, lái cẩu; ngoại ngữ; kế toán; cấp thoát nước tỷ lệ này dao động từ 10-17%; các loại nghề còn lại tỷ lệ dưới 10%. Nhìn chung sau nghề gò và nghề quản lý đường dây, các loại nghề có tỷ lệ trường không có chương trình còn cao là các nghề thuộc vận hành máy xây dựng và thi công. Khối các trung tâm dạy nghề. Trong tổng số 67 loại nghề mà các trung tâm dạy nghề trong cả nước đang đào tạo có 19 loại nghề còn một số trường không có chương trình (chiếm 28,4%). Trong đó loại nghề "thêu ren" 100% các trung tâm dạy nghề không có chương trình; tiếp đến là "đúc kim loại"; :thuỷ thủ tàu sông"; "dệt"; "trồng khai thác rừng" 50% các trung tâm không có chương trình. Các loại nghề có tỷ lệ này từ 20 đến dưới 50% là mộc dân dụng; trồng cây lương thực, thực phẩm; thú y; chạm khắc và sản xuất đồ gốm mỹ nghệ. Các nghề còn lại tỷ lệ ở mức dưới 10%. Khác với khối trường dạy nghề, ở khối các trung tâm dạy nghề, loại nghề có số lượng các trung tâm không có chương trình đào tạo tương đối cao thường tập trung ở các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và sản xuất lâm nghiệp. Để đánh giá cụ thể hơn về mức độ" chương trình đào tạo nghề" của các nghề đang được đào tạo, chúng ta cần đi sâu phân tích cơ cấu của các loại nghề đã có chương trình đào tạo chia theo cấp ban hành và thời gian ban hành của các khối dạy nghề: Khối các trường dạy nghề. 34,5% (tức 49/142) loại nghề đang đào tạo có 100% cơ sở đào tạo có chương trình đào tạo được cấp có thẩm quyền ban hành. 14,8% (tức 21/142) loại nghề đang được đào tạo có từ 70- <100% cơ sở đào tạo có chương trình đào tạo được cấp có thẩm quyền ban hành. 18,3% (tưc 26/142) loại nghề đang được đào tạo có từ 50- <70% cơ sở đào tạo có chương trình đào tạo được cấp có thẩm quyền ban hành. 12% (tức 26/142) loại nghề đang đào tạo có <50% cơ sở đào tạo có chương trình đào tạo được cấp có thẩm quyền ban hành. 18,3% (tức 26/142) loại nghề đang đào tạo có 100% cơ sở đào tạo có chương trình đạo tạo nhưng chưa được cấp có thẩm quyền ban hành hay nói cách khác là tự xây dựng. Khối các trung tâm dạy nghề. Các chỉ số tương ứng là: 28,3% (tức 19/67) 6,0% (tức 4/67) 14,9% (tức 10/67) 19,4% (tức 13/67) 28,4% (tức 19/67) Khu vực các trung tâm dạy nghề có tỷ lệ thấp về số loại nghề đang đào tạo mà ở đó 100% cơ sở đào tạo có chương trình đào tạo được cấp có thẩm quyền ban hành. Ngược lại, tỷ lệ số loại đào tạo nghề có 100% cơ sở đào tạo có chương trình đào tạo nhưng chưa được cấp có thẩm quyền ban hành hay nói cách khác là đều tự ban hành. ở khu vực các trường dạy nghề tuy có khá hơn so với khu vực các trung tâm dạy nghề nhưng vẫn thấp Tình hình trên cho thấy việc quản lý chương trình đào tạo nghề ở hai khu vực là các trường dạy nghề và các trung tâm dạy nghề nói chung còn yếu và cần được quan tâm nhiều trong những năm tới. Giáo trình giảng dạy. Đi đôi với chương trình đào tạo, việc có hay không giáo trình dạy nghề cũng là cơ sở để đánh giá trình độ phát triển của cơ sở daỵ nghề nói chung và trình độ đào tạo của từng loại nghề trong cơ sở đào tạo nghề nói riêng. Kết quả điều tra cho thấy: Khối các trường dạy nghề: 59,1% (tức 84/142) loại nghề đang đào tạo có 100% sơ sở đào tạo có giáo trình giảng dạy. 22,5% (tức 32/142) loại nghề đang đào tạo có từ 70- <100% cơ sở đào tạo có giáo trình giảng dạy. 9.2% (tức 13/142) loại nghề đang đào tạo có từ 50- < 70% cơ sở đào tạo có giáo trình giảng dạy. 2,8% (tức 4/142) loại nghề đang đào tạo có dưới 50% cơ sở đào tạo có giáo trình giảng dạy. 6,3% (tức 9/142) loại nghề đang đào tạo có 100% cơ sở đào tạo không có giáo trình giảng dạy. Khối các trung tâm dạy nghề. Các chỉ số tương ứng là: - 61,2% (tức 41/67) - 23,9% (tức 16/67) - 14,9% (tức 10/67) 0,0% 0,0% Số liệu trên cho thấy tình trạng dạy nghề không có giáo trình._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3580.doc
Tài liệu liên quan