Thực trạng công tác giáo dục đào tạo ở Đại học Kinh tế quốc dân, một số thành tựu và tồn tại

Mở đầu Tại Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) Tổng Bí thư Đỗ mười phát biểu khai mạc: “Đảng và nhà nước cần tập trung mọi cố gắng, dành ưu tiên cao nhất cho phát triển giáo dục, đào tạo và khoa học công nghệ, thể hiện trên các mặt chính sách, đội ngũ cán bộ và tổ chức quản lý. Các cấp uỷ Đảng và mỗi đảng viên phải quán triệt sâu sắc quan điểm này trong mọi lĩnh vực hoạt động. Các tổ chức Đảng phải coi đây là nhiệm vụ thường xuyên trong hoạt động của mình”. Trước n

doc18 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1291 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng công tác giáo dục đào tạo ở Đại học Kinh tế quốc dân, một số thành tựu và tồn tại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hững yêu cầu bức thiết cung cấp nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, ngành giáo dục - đào tạo cần xác định trước hết cơ cấu ngành nghề đào tạo phù hợp với công nghiệp hoá, hiện đại hoá, để đảm bảo khả năng thích ứng cao đối với những thay đổi nhanh chóng của nền kinh tế xã hội, cần tiến hành đào tạo ban đầu chính quy theo diện rộng có tính cơ bản kết hợp với đào tạo tiếp tục, bồi dưỡng thường xuyên trong quá trình lao động của người học. Vấn đề đào tạo lại giữ vị trí hết sức quan trọng, trong điều kiện nền kinh tế chuyển hướng sang kinh tế thị trường và mở cửa. Đồng thời mở rộng đào tạo nghề ngắn hạn, bồi dưỡng những kiến thức cần thiết như ngoại ngữ, tin học, kinh doanh... thiết thực phục vụ những nhu cầu nhân lực ở khắp mọi nơi. Như vậy phát triển nguồn nhân lực phải có quy mô rất lớn, hình thức đào tạo phải rất đa dạng, chất lượng phải rất phù hợp. Sau thời gian học tập Lớp bồi dưỡng cán bộ quản lý hành chính giáo dục do Trường Cán bộ quản lý giáo dục và đào taọ tổ chức tại Đại học Kinh tế quốc dân, tôi mạnh dạn đưa ra một số biện pháp để nâng cao chất lượng đào tạo ở Đại học Kinh tế quốc dân hiện nay. Nội dung của tiểu luận bao gồm các phần sau: Chương I: Một số cơ sở lý luận. Chương II: Thực trạng công tác giáo dục đào tạo ở Đại học Kinh tế quốc dân, một số tình tựu và tồn tại. Chương III: Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng đào tạo đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới hiện nay. Chương I Một số cơ sở lý luận 1.1. Mô hình con người mới và sự hình thành nhân cách con người. Lúc sinh thời Chủ tịch hồ Chí Minh nhấn mạnh đến vấn đề xây dựng con người mới: “Muốn có chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa”. Con người vừa là mục đích, vừa là động lực của sự phát triển xã hội. Đặc biệt Hồ Chí Minh đề cao vai trò của văn hoá giáo dụcvà khoa học kỹ thuật trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người ta cho rằng, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội nhất định phải có học thức, cần phải học cả văn hoá, chính trị, kỹ thuật và chủ nghĩa xã hội cộng với khoa học chắc chắn đưa loài người đến hạnh phúc vô tận. Hồ Chí Minh rất coi trọng việc nâng cao dân trí, đào tạo sử dụng nhân tài. Hồ Chí minh có một nhẫn quan nhân bản về văn hoá, khẳng định vai trò của văn hoá trong đời sống xã hội. Từ đó, Người đề ra các nguyên tắc, phương châm xây dựng nền văn hoá mang tính dân tộc, khoa học, đại chúng. Theo Người, con người mới xã hội chủ nghĩa phải bao hàm những đặc trưng cơ bản sau: Một là, con người mới phải là con người có học thức: học thức là một trong những tiêu chí để đánh giá trình độ văn minh của một dân tộc. Ngay sau khi cách mạng Tháng Tám thành công, Người đã phát động phong trài chống gặc dốt, sau đó là phong trào bình dân học vụ. Sự nghiệp giáo dục từ cấp phôt thông cho đến cấp đại học cũng đã khoác nguỵ trang, xuống địa đạo, băng qua khói lửa chiến tranh mà không ngừng phát triển. Con người có học thức mới nắm bắt được những tri thức của nhân loại để xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Hồ Chí Minh rất coi trọng tài năng. Người trân trọng, đón mời, ưu đãi và trao thực chức, thực quyền cho những người có tài năng, kể cả những người từng có lúc sa chân lỡ bước nhưng đã rời bỏ sai lầm. Người đã quy tụ quanh mình những trí thức lớn nhất của dân tộc, trong đó có những người đã từ bỏ địa vị và cuộc sống cao sang ở nước ngoài, theo Người về nước, tham gia kháng chiến, kiến quốc. Hồ Chí Minh đòi hỏi mỗi người đều phải tinh thông nghiệp vụ của mình: công nhân phải giỏi ngành nghề, giám đốc phải giỏi quản lý, người nấu bếp phải nấu ăn ngon, thầy thuốc phải giỏi trị bệnh cứu người... Ai nấy đều phải có khả năng hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ được giao. Người nói: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì nhất định phải có học thức. Cần phải học văn hoá, chính trị, kỹ thuật. Cần phải học lý luận Mác Lênin kết hợp với đấu tranh và công tác hàng ngày”. Hai là, con người mới phải là người có đạo đức cách mạng: Rất mực coi trọng tài năng, Hồ Chí minh cũng hết sức coi trọng đạo đức. Đạo đức là nền tảng cho tài năng phát huy. "Cũng như sông thì nguồn mới có nước, không có nguồn thi sông cũng cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân" (Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.5, tr. 252-253) Như vậy, trong việc đào tạo, rèn luyện Con người, Hồ Chí Minh coi trọng cả hai mặt đạo đức và tài năng. Hai mặt ấy thống nhất với nhau, không tách rời nhau, tạo điều kiện cho nhau, giúp con người hoàn thành được nhiệm vụ của mình. Trong hai mặt ấy, "đức" giữ địa vị là nền tảng là lĩnh vực mà ở đó có thể xoá bỏ sự cách biệt giữa người ta với nhau. Bởi vậy, trong việc đào tạo con người, trước hết phải xây dựng đạo đức cách mạng cho bền vững. Hồ Chí Minh không đặt vấn đề tài và đức mặt nào quan trọng hơn mặt nào. Vấn đề ở chỗ vai trò, vị trí của mỗi yếu tố ấy trong phẩm chất của con người - và đây là con người cách mạng. Tài và đức đều không thể thiếu để con người hoàn thành nhiệm vụ cách mạng của mình. Không có tài thì chẳng làm được việc gì có ích. Không có đức thì sẽ làm hại cách mạng. Bởi vậy, đức là nền tảng của mọi phẩm chất khác của con người. Trong việc "trồng người", Hồ Chí Minh bắt đầu từ xây dựng nền tảng đạo đức. Người thường xuyên bồi đắp từ nền tảng ấy cho con người. Hồ Chí Minh đòi hỏi tất cả mọi người, không trừ một ai, không trừ một cấp nào đều phải thường xuyên trau dồi đạo đức cách mạng. Ba là, con người mới cần phải chính sách sức khoẻ: nhân tài là "nguyên khí" quốc gia, ở mỗi con người sức khoẻ là vốn quý nhất. Trong quá trình xây dựng đất nước ở bất kỳ một thời đại nào cũng cần những con người có sức khoẻ. Rèn luyện sức khoẻ cũng là một yêu cầu rất quan trọng đối với sự phát triển con người. Theo Hồ Chí Mình, sức khoẻ của cán bộ và nhân dân được đảm bảo thì tinh thần càng hăng hái. Chính bản thân Người là một tấm gương tiêu biểu về rèn luyện sức khoẻ. Con người vốn sinh ra chưa có nhân cách. Nhân cách là các cấu tạo mới do từng người tự hình thành nên và phát triển trong quá trình sống - giao tiếp, học tập, lao động, vui chơi,... Nhân cách không có sẵn bằng cách bộc lộ dần dần các xung động bản năng nguyên thuỷ mà một lúc nào đó đã bị kiềm chế, chèn ép. Bằng các hoạt động xã hội, con người ngay từ tấm bé dần dần lĩnh hội nội dung loài người chứa đựng trong các mối quan hệ xã hội có liên quan tới các hoạt động của trẻ. Phương pháp giáo dục có hiệu quả là tổ chức cho trẻ hoạt động lĩnh hội các cái gì đó mà hình thành nhân cách, chứ không phải là tạo ra các biệ pháp cho phù hợp với mức độ trưởng thành sinh lý của trẻ. Nói theo Lênin, cùng với dòng sữa mẹ, con người hấp thụ tâm lý, đạo đức của xã hội mà nó là thành viên. Nhân cách của con người sinh thành và phát triển theo con đường từ bên ngoài nội tâm, từ các quan hệ với thế giới đồ vật do các thế hệ trước tạo ra, các hiệu quả xã hội mà nó gắn bó. Toàn bộ công tác giáo dục của chúng ta nhằm xây dựng toàn diện nhân cách của con người Việt Nam và làm việc trong thời đại đổi mới. Đó là nhân cách của người lao động sáng tạo năng động, có tay nghề, có tâm hồn,... chứ không phải là con người sống cốt cân bằng với ngoại giới hay chỉ thích nghi với xã hội. Nhân cách sinh thành và phát triển bằng các hoạt động đã nêu ở trên, trong đó có một hoạt động có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối vớ sự hình thành và phát triển nhân cách là hoạt động được giao tiếp, vì tất cả các mối quan hệ có ở con người, quan hệ người - vật, quan hệ người - máy,... đều gắn bó bằng cách này hay cách khác với quan hệ người - người. Có tổ chức được các mối quan hệ giao lưu mới hy vọng có được nhân cách tốt. Điều đặc biệt quan trọng ở đây là người được giáo dục phải được hiểu như là hệ thống các mối quan hệ giao lưu và sự ăn nhập ấy. Theo ý nghĩa đó, có thể gia đình tốt chưa chắc đã có môi trường giao dục tốt. Sống trong gia đình, đi học ở nhà trường, sinh hoạt tong đoàn thể và kể cả trường hợp ba tổ chức này có thể kết hợp với nhau, chưa chắc đã có môi trường giáo dục tốt. Vấn đề là ở chỗ từng tổ chức này, cũng như sự kết hợp của ba tổ chức này có thu hút được các em vào "luồng" giáo dục mà chúng ta mong muốn không. Nghiên cứu trẻ em chậm tiến vốn sinh ra và lớn lên trong các giai đình nền nếp, tiến bộ, có nhiều điều kiện cho con cái ăn học, có các quan hệ xã hội phong phú, tốt đẹp, đã cho chúng ta thấy rõ như vậy. 1.2. Những yêu cầu về xây dựng con người mới trong tình hình hiện nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa.". Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa của chúng ta đang chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, và quá trình này diễn ra trong điều kiện tình hình thế giới hết sức phức tạp, thời cơ và thách thức, khó khăn và thuận lợi đan xen nhau; Trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đang phát triển như vũ bão, nền kinh tế thế giới đang có xu hướng toàn cầu hoá, cung hướng hội nhập, mở rộng giao lưu quốc tế. Những điều trên đòi hỏi cần phải xây dựng con người Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ những giá trẻ nhân cách gì? Và để xây dựng những giá trị nhân cách đó thì có những yêu cầu gì đặt ra đối với giáo dục đào tạo? Thực tiễn ngày nay chứng tỏ rằng: nguồn nhân lực có trình độ khoa học và tay nghề cao cùng với năng lực và niềm say mê sáng tạo đang là nhân tố quyết định tốc độ phát triển và là mũi nhọn tranh đua của các quốc gia. Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ VIII trình bày các phương hướng chủ yếu phát triển trí thuệ con người Việt Nam thể hiện trong các lĩnh vực khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Giáo dục và đào tạo phải thực sự trở thành quốc sách hàng đầu, hoàn thành tốt việc đào tạo bồi dưỡng nguồn lực con người cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Cùng với đổi mới nội dung giáo dục theo hướng cơ bản, hiện đại, phải tăng cường giáo dục công dân, giáo dục thế giới quan khoa học, lòng yêu nước, ý trí chí vươn lên vì tương lai của bản thân và tiền đồ của đất nước. Bản sắc dân tộc và tính chất tiên tiến của nền văn hoá phải được thấm đậm trong mọi lĩnh vực, sao cho chúng ta có cách tư duy độc lập, có cách làm vừa hiện đại, vừa mang sắc thái Việt Nam. Trong khi tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, phải luôn luôn coi trọng những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc, quyết không được trở thành bóng mờ hoặc bản sao chép của người khác. Sự cường tráng về thể chất là nhu cầu của bản thân con người, đồng thời là vốn quý để ta ra tài sản trí tuệ vật chất và tinh thần cho xã hội. Tăng trưởng kinh tế phải luôn gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, ngay trong từng bước và suốt quá trình phát triển và tăng trưởng kinh tế. Công bằng xã hội không chỉ được thực hiện ở khâu phân phối kết quả sản xuất, mà còn được thực hiện ở khâu phân phối tư liệu sản xuất, ở việc tạo ra những điều kiện cho mọi người phát huy tốt năng lực của mình. Khuyến khích làm giàu hợp pháp, chống làm giàu phi pháp, đi đôi với chăm lo xoá đói giảm nghèo, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển, về mức sống giữa các vùng, giữa các dân tộc, giữa các tầng lớp dân cư... Bảo đảm cho người nghèo, những người trong diện chính sách được học, có học bổng hoặc miễn giảm học phí; được chăm sóc sức khoẻ, khám chữa bệnh, được giảm hoặc miễn phí. Giải quyết các vấn đề xã hội theo tinh thần xã hội hoá, trong đó Nhà nước giữa vai trò nòng cốt. Vì vậy, cùng với tăng trưởng kinh tế cần: + Tiếp tục xây dựng một xã hội công bằng, nhân ái, với cuộc sống tinh thần và vật chất văn minh, đậm đà bản sắc dân tộc, giao lưu hợp tác rộng rãi với các nước, tạo nên trên dải đất này môi trường sống lành mạnh, tự do, hạn phúc dựa trên sự giả quyết thoả đáng và hài hoà những vấn đề giữa con người với nhau và với thiên nhiên; chủ động bảo vệ xã hội ta tránh những hiểm hoạ có tính toàn cầu đối với con người, nòi giống và môi trường sống; vấn đề nâng cao dân trí ở đây giữ vai trò quyết định. + Xây dựng những thế hệ con người Việt Nam, có đủ bản lĩnh phẩm chất và năng lực đảm đương xuất sắc những sứ mạng lịch sử ngày nay của mình, kế thừa và phát huy những thành tựu và truyền thống vẻ vang của một dân tộc anh hùng và của các thế hệ cha anh cách mạng kiên cường, vừa đem hết trí tuệ và tài năng sáng tạo nên những công trình kỳ diện trên mọi mặt, làm cho đất nước ta phát triển nhanh chóng và bền vững, hội nhập cộng đồng quốc tế, vươn lên "sánh vai các cường quốc năm châu", như Bác Hồ đã mong ước. Công tác giáo dục, hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm trong đó giáo dục nhà trường, có vai trò quyết định hàng đầu để thành công. Có thể khái quát sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển đất nước hướng vào niềm tin và hy vòng rằng: Vào tầm 2020, sản phẩm Việt Nam, xã hội Việt Nam gắn bó chặt chẽ với văn hoá và con người Việt Nam, làm cho đất nước có sức hấp dẫn nhân loại giao lưu, hợp tác. Chương II Thực trạng giáo dục - đào tạo của đại học Kinh tế quốc dân. 2.1. Thành tựu đạt được. Sau 45 năm phát triển và đặc biệt 15 năm đổi mới trường Đại học Kinh tế quốc dân đã đạt được nhiều thành tựu trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Nhà trường đã từng bước đổi mới theo yêu cầu của quá trình chuyển từ mô hình kế hoạch hoá tập trung sang xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới đã diễn ra một cách toàn diện về mục tiêu và nội dung đào tạo, đa dạng hoá các ngành nghề và các hình thức đào tạo; mở rộng quy mô đào tạo nhằm đáp ứng yêu cầu của xã hội. Trong quá trình đổi mới đội ngũ giáo viên không ngừng được tăng cường; chương trình, giáo trình không ngừng được đổi mới; phương pháp giảng dạy hiện đại cũng đang từng bước được nghiên cứu áp dụng; quy chế giảng dạy ngày càng được hoàn thiện, cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy từng bước được tăng cường. Nhờ có những đổi mới tích cực đó mà nhà trường vẫn khẳng định được vị trí và uy tín của mình; các thầy giáo, cô giáo của nhà trường nhìn chung vẫn được đánh giá cao. Đại học Kinh tế quốc dân có 667 giáo viên, cán bộ công nhân viên. Trong số 449 giáo viên có 16 giáo sư, 49 phó giáo sư, 146 giảng viên chính, 151 tiến sĩ, 44 thạc sĩ. Trong quá trình đổi mới trường đã tích cực thực hiện việc bồi dưỡng giáo viên bằng mọi hình thức: bồi dưỡng đào tạo trong nước, ngoài nước bằng nhiều các dự án khác nhau. Hiện tại có khá nhiều giáo viên giảng dạy bằng tiếng Anh cho đối tượng cao học kinh tế và quản trị kinh doanh. Trường cũng đã có các ngành và chuyên ngành đào tạo ở bậc đại học, thạc sĩ, tiến sĩ. Trong ngành kinh tế gồm các ngành như: Kinh tế quốc tế, kinh tế phát triển, quản lý kinh tế, kinh tế tiền tệ, thống kê kinh tế xã hội, kinh tế lao động, kinh tế bảo hiểm, dân số, kinh tế nông nghiệp và phát triển nông thôn, kinh tế lượng, kinh tế đầu tư. Ngành quản trị kinh doanh gồm các chuyên ngành: Quản trị kinh doanh tổng hợp, quản trị kinh doanh công nghiệp và xây dựng cơ bản, Marketing, kinh doanh thương mại, luật kinh doanh, thương mại quốc tế, kinh doanh du lịch, quản trị nhân lực. Ngành thống kê tin học gồm các ngành: Ngành thống kê kinh tế xã hội và tin học kinh tế. Ngành tài chính tiền tệ gồm các chuyên ngành: Ngân hàng và tài chính doanh nghiệp. Ngành kế toán có: Kế toán tổng hợp và kiểm toán. Tính cho đến nay trường đã đào tạo và công nhận tốt nghiệp cho hơn 27.000 sinh viên đại học chính quy; hơn 19.000 sinh đại học đại chức; hơn 17.000 sinh viên hệ bằng 2; hơn 400 nghiên cứu sinh; hơn 600 học viên cao học. 2.2. Một số mặt hạn chế - Mối liên hệ giữa nhà trường và nghiên cứu sản xuất trong những năm qua đã có nhiều cố gắng, nhưng chưa đáp ứng hoàn toàn được nhu cầu xã hội, những khó khăn về khoa học kỹ thuật và công nghệ từ cơ sở sản xuất chưa được chú ý đặc biệt. - Đội ngũ cán bộ giảng dạy chưa đồng đều ở một số chuyên ngành, môn học, tinh trạng thiếu cán bộ giảng dạy ở một số bộ môn gây kho khăn cho việc mở rộng quy mô đào tạo. - Giáo trình, tài liệu tham khảo còn rất nhiều hạn chế, một số lượng lớn môn học sinh viên chủ yếu học "chay" (chủ yếu chép bài giảng trên lớp). - Số lượng sinh viên được tuyển ngày càng đong, dẫn đến quá tải ở một số bộ môn, tình trang dạy thiếu giờ, dạy bù tương đối phổ biến. Từ đó dẫn đến công tác nghiên cứu khoa học, nhất là nghiên cứu khoa học trong sinh viên còn nhiều hạn chế. Một thực tế là: một số giáo viên dạy quá nhiều (kể cả dạy bù vào ngày chủ nhật) nên công tác nghiên cứu khoa học của họ hầu như bị quên lãng, việc nhật nhật tri thức mới của nhân loại bị hạn chế. - Tình trạng sinh viên lười học, học để đối phó, chơi nhiều hơn học là phổ biến. Việc đánh giá kết quả học tập của sinh viên còn nhiều bấp cập, phần nào chưa đánh giá đúng học lực của sinh viên. Mặt khác điều kiện học tập cho sinh viên còn khó khăn lại bị tác động của cơ chế thị trường, nhất là sinh viên nông thôn đi học phải lo tiền học phí, sách vở, nơi học hành, phải lo kiếm thêm tiền để trang trải cho cuộc sống hàng ngày. Những hạn chế trên không chỉ ở trường Đại học Kinh tế quốc dân mà là tình trạng chung của ngành giáo dục - đào tạo Việt Nam, Đảng và Chính phủ cùng với ngành nói chung và sự nỗ lực của các trường đang từng bước nghiên cứu, tìm giải phápq để nền giáo dục Việt Nam có thể theo kịp các nước tiên tiến trên thế giới. Chương III Một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới hiện nay. 3.1. Phương hướng nhiệm vụ. Mục tiêu nhân cách: - Đàu tạo những con người có tri thức, kỹ năng cơ bản và nhân cách để sống và hoạt động tích chức, chủ động trong xã hội văn minh; có khả năng liên tục hoàn thiện bản thân thích nghi với sự phát triển của đất nước theo kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa, và với sự biến đổi của công nghệ; biết tìm việc làm thích hợp cho bản thân và tạo việc làm hữu ích cho mọi người. - Niềm tin và quyết tâm hoàn thành sứ mạng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, rút ngắn khoảng cách tụt hậu về trình độ phát triển kinh tế, khoa học - công nghệ, dựa trên lòng tự hào dân tộc và tinh thần trách nhiệm cao trong mọi trong mọi nhiệm vụ, mọi hoạt động. - Có tư duy khoa học, kỹ năng công nghệ, tác phong công nghiệp, tấm lòng nhân ái, ý thức công dân, tinh thần hợp tác, sức khoẻ dẻo dai trong công tác kinh doanh và cuộc sống. - Có bản lĩnh chính trị vững vàng, có niềm tin vững chắc vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, vào mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu chuyên môn: Cấp Đại học: Sản phẩm đào tạo phải có khả năng thích nghi với thị trường lao động nghề nghiệp tương đối rộng và có tiềm năng vững để dễ chuyển đổi nghề nghiệp trong một phạm vi rộng, vừa thuận lợi trong việc vươn lên những trình độ học vấn cao hơn. Với mục tiêu đó, người học cần được: - Trang bị một nền tảng giáo dục cơ bản đủ để tạo tầm nhìn và thói quen tư duy sáng tạo, cùng với tri thức và kỹ năng cơ bản vững để tạo thuận lợi cho việc đi vào học chuyên môn. - Cung cấp những kiến thức và kỹ năng cơ bản của một ngành đào tạo theo diện rộng và có những ý niệm ban đầu về chuyên môn sâu. Cấp Cao đẳng: Sản phẩm đào tạo phải có khả năng hoạt động nghề nghiệp theo các quy trình công nghệ không quá phức tạp và chấp nhận một trình độ giới hạn về lý thuyết. - Trang bị một nền tảng giáo dục cơ bản vừa phải và một vốn kiến thức kỹ năng cơ bản tối thiểu để đi vào học chuyên môn. - Cung cấp kiến thức chuyên môn rộng hoặc sâu nhưng ở trình độ thực hành là chủ yếu, không chú trọng nhiều vào lý thuyết. Cấp Cao học: Sản phẩm đào tạo là những chuyên gia có kiến thức và kỹ năng chuyên môn sâu hoặc liên ngành, thông thạo về nghề nghiệp ở trình độ cao. Cấp tiến sĩ: Sản phẩm đào tạo là những chuyên gia có kiến thức chuyên môn sâu có khả năng nghiên cứu khoa học công nghệ và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn. Về nội dung chương trình: Trước hết người học cần được trang bị với hai mảng kiến thức giáo dục cơ bản và giáo dục nghề nghiệp. - Kiến thức giáo dục cơ bản nhằm đảm bảo cho người học có thầm nhìn rộng, có thế giới quan và nhân sinh quan đúng đắn, hiểu biết về tự nhiên, xã hội và con người, có phương pháp tư duy khoa học; biết trân trọng các di sản văn hoá dân tộc và nhân loại; có đạo đức, nhận thức trách nhiệm công dân, yêu Tổ quốc và có năng lực tham gia bảo vệ Tổ quốc. Kiến thức giáo dục cơ bản cũng nhằm tạo cho người học khả năng tự học tốt để học tập suốt đời. - Kiến thức nghề nghiệp được trang bị ở cả cấp đại học và cao học, kiến thức nghề nghiệp được trang bị theo diện rộng, sao cho người được đào tạo dễ thích nghi với thị trường lao động rất đa dạng. Kiến thức chuyên môn sâu và chuyên môn liên ngành được trang bị ở cấp cao học, khi người học đã xác định rõ địa chỉ hoạt động nghề nghiệp của mình. Về phương pháp giảng dạy: Phương pháp giảng dạy hiện nay của Đại học Kinh tế quốc dân nói riêng và ở ngành Đại học nói chung còn nhiều chế, cách truyền thụ kiến thức bằng độc thoại vẫn là phổ biến. Phương pháp học tập của sinh viên rất thụ động. Muốn đổi mới phương pháp giảng dạy cần hai điều kiện: - Nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ giảng dạy và huấn luyện thêm về phương pháp sư phạm đại học. - Tăng cường cơ sở vật chất: giáo trình, thư viện, các phương tiện học tập nhờ phương tiện thông tin hiện đại... Bằng cách đầu tư thêm điều kiện vật chất và dùng các phương pháp giảng dạy tiến bộ hơn, chúng ta sẽ giảm dần tổng thời gian quy trình cho đào tạo đại học. Việc cải tiến phương pháp giảng dạy và học tập gắn liền với khâu cực kỳ quan trọng là phương pháp đánh giá kiến thức và kỹ năng của sinh viên, từ giai đoạn tuyển sinh đầu vào, trong quá trình học, và ở đầu ra lúc tốt nghiệp. Cần có sự chuẩn bị tốt về lý luận, công nghệ để cải tiến một cách cơ bản đánh giá hiện nay. Xây dựng được các phương pháp đánh giá chuẩm là điều kiện hết sức quan trọng để tiến tới tạo nên hệ thống văn bằng thống nhâts thực sự. 3.2. Thực hiện đồng bộ những biện pháp nhằm phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo cán bộ kinh tế và quản trị kinh doanh ở Đại học Kinh tế quốc dân. Từ đòi hỏi của nhu cầu về số lượng và đặc biệt là chất lượng đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ kinh tế, quản trị doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay, xuất phát từ kinh nghiệm bước đầu của trường Đại học kinh tế quốc dân và các cơ sở đào tạo khác tôi xin kiến nghị cần thực hiện đồng bộ những phương hướng và biện pháp chủ yếu sau: 1) Căn cứ vào yêu cầu đổi mới kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chúng ta cần tiến hành xây dựng cơ cấu và tiêu chuẩn đúng đắn đối với cán bộ kinh tế và quản trị kinh doanh, có kế hoạch đánh giá lại đội ngũ cán bộ kinh tế và quản trị kinh doanh hiện có theo cơ cấu và tiêu chuẩn đã xác định, thông qua công tác này chúng ta sẽ xây dựng được quy hoạch, kế hoạch đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao và đào tạo mới cho yêu cầu phát triển nguồn lực nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài theo mục tiêu trên xây dựng bản lĩnh chính trị và chuyên môn vững vàng cho đội ngũ cán bộ kinh tế và quản trị kinh doanh. 2) Xây dựng đúng mục tiêu, ngành, chuyên ngành đào tạo và các chương trình và cơ cấu kiến thức phù hợp để đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao trình độ và đào tạo mới mục tiêu - cơ bản của đại học kinh tế và quản lý là đào tạo đồng bộ các cấp, đào tạo hai loại cán bộ kinh tế tổng hợp và chuyên ngành, quản trị kinh doanh tổng hợp và chuyên ngành xây dựng trường Đại học kinh tế quốc dân thành trường Đại học quốc gia về kinh tế và quản trị kinh doanh nói trên để xây dựng chương trình và cơ cấu kiến thức phù hợp phải dự vào kinh nghiệm người muốn học cái gì, khối lượng bao nhiên, những khó khăn, vướng mắc mà cán bộ kinh tế và quản trị kinh tế thường phải giải quyết trong thực tiễn. Nói cách khác là chương trình phải đáp ứng những kiến thức, kinh nghiệm và phương pháp mà các cán bộ kinh tế, các nhà doanh nghiệp cần trong quản lý kinh tế và quản trị kinh doanh ở Việt Nam. 3) Có kế hoạch và đầu tư thoả đáng để đào tạo lại và đào tạo mới đội ngũ giáo viên giảng dạy về kinh tế, quản trị kinh doanh, trong đó cần chú trọng kiến thức về kinh tế thị trường, quản lý Nhà nước về kinh tế, quản trị kinh doanh theo lĩnh vực và ngành, phương pháp giảng dạy tình huống, sử dụng máy tính và tiếng Anh trong chuyên môn. Đội ngũ giáo viên dạy về kinh tế và quản trị kinh doanh nên bao gồm các giáo viên là các nhà nghiên cứu, quản lý kinh tế và quản trị kinh doanh của các cơ quan quản lý kinh tế và doanh nghiệp, các chuyên gia nước ngoài. 4) Xây dựng đủ hệ thống tài liệu giảng dạy và học tập cho giáo viên và sinh viên. Tài liệu này bao gồm: Giáo trình hoặc bài giảng theo chương trình đã xác định cho các đối tượng khác nhau: tài liệu chuyên khảo theo chuyên ngành và theo lĩnh vực; tài liệu hướng dẫn và thực hành trong kinh tế và kinh doanh; tài liệu giảng dạy và học tập bằng phương pháp tình huống; các dạng băng ghi hình về kinh nghiệm quản lý kinh doanh giỏi của Việt Nam và một số nước trên thế giới. 5) Tổ chức quản lý chặt chẽ quy trình đào tạo lại, bồi dưỡng và đào tạo mới theo hướng: Nâng cao chất lượng và giảm thời gian giảng dạy lý thuyết trên lớp, thực hành và viết tiểu luận đề án, thảo luận khoa học theo các chủ đề thích hợp cho các chương trình và đối tượng, tổ chức kiểm tra học kỳ chặt chẽ, thực hiện chuyên đề luận văn tốt nghiệp nhằm giúp học viên tiêu hoá kiến thưc đã học và vận dụng vào thực tiễn của cán bộ quản lý kinh tế và quản trị doanh nghiệp nhằm đề xuất các kiến nghị đổi mới quản lý kinh tế. 6) Từng bước áp dụngh các phương pháp giảng dạy bằng phương tiện hiện đại để giảm thời gian trên lớp, tăng thời gian tự nghiên cứu học tập của sinh viên: thực hiện chế độ học tập theo tín chỉ và cho học vượt đối với sinh viên khá giỏi, áp dụng phương pháp đánh giá chất lượng học tập của cả quá trình từng môn học, thông qua kết quả các kỳ kiểm tra, làm bài tập, thảo luận, thi học kỳ. Để đánh giá chất lượng kỳ thi cần xây dựng hệ thống câu hỏi thi theo chương trình của từng môn học, bốc thăm ngẫu nhiên, tổ chức chặt chẽ việc coi thi và chấm thi đúng quy chế của Bộ và quy định của trường. 7) áp dụng rộng rãi phương pháp giảng dạy và học tập theo tình huống nhằm giúp sinh viên chủ động, sáng tạo và năng động tìm những phương pháp tối ưu để xử lý các tình huống xẩy ra trong quản lý kinh tế và kinh doanh. Để làm được điều đó cần tiến hành xây dựng hệ thống tình huống trong kinh doanh làm ví dụ. Trên cơ sở đó tiến tới mỗi môn học đều xây dựng những tình huông trong môn học của mình để giảng dạy và giúp sinh viên học tập theo tình huống. 8) Tăng cường cơ sở vật chất để phục vụ tốt việc giảng dạy và học tập về kinh tế và quản trị kinh doanh cho các cơ sở đào tạo và bồi dưỡng như: hệ thống giảng đường với đủ phương tiện hiện đại cần thiết các phòng học chuyên dùng, đèn chiếu, vi đo, băng hình về quản lý, thư viện kinh tế, quản trị kinh doanh và hệ thống các điều kiện phương tiện khác cho giảng dạy, học tập có chất lượng. 9) Phát triển nguồn đầu tư cho đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ cán bộ kinh tế quản trị kinh doanh theo mục tiêu và chương trình đã xác định của các cơ sở ddào tạo, bồi dưỡng. Nguồn đầu tư nên bao gồm: Đầu tư của Ngân sách Nhà nước để xây dựng cơ sở vật chất, xây dựng đội ngũ giáo viên, xây dựng tài liệu học tập. Thu hút đầu tư nước ngoài, các tổ chức quốc tế, các nhà doanh nghiệp nước ngoài và việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, đội ngũ giáo viên và tài liệu giảng dạy, dạy và học tập. Khai thác nguồn kinh phí của các tổ chức kinh tế kinh doanh trong nước và người học để trả thêm thù lao lao động cho giaó viên, cán bộ quản lý, phục vụ đào tạo. Kết luận Hiểu sâu sắc thuyết cách mạng không ngừng, nhìn thấu quá khứ và tương lai, xác định rõ nhiệm vụ của thế hệ giá là phải dìu dắt thế hệ trẻ, và thế hệ trẻ phải tiếp nối sự nghiệp của cha anh, Hồ Chí Minh luôn có một lòng yêu thương, tin tưởng mãnh liệt ở thanh niên, thấy trước những đình cao mà con người Việt Nam sẽ phải đạt và vượt qua, Người đã giao lại cho hôm nay nhiệm vụ "bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau", - nhiệm vụ mà Người từng tự mình thực hiện suốt đời. Một con đường cơ bản để có sức mạnh nội sinh là giáo dục - đà tạo nên dân trí, tay nghề, nhân tài của toàn bộ lực lượng lao động. Giáo dục được Đảng và Nhà nước ta coi là quốc sách hàng đầu, là cánh cửa mở chô dân tộc đi vào tương lai, là cứu cánh, bệ phóng đưa đất nước cất cánh phát triển. Theo đó, chưa bao giờ toàn Đảng, toàn dân lại quan tâm nhiều đến giáo dục, đào tạo như bây giờ, tìm ra ở đây một con đường cơ bản để thoát khỏi tủi nhục nghèo khổ. Đầu tư cho giáo dục được coi là đầu tư cho phát triển - đầu tư cơ bản. Muốn vậy chúng ta cần phải có các biện pháp để nâng cao chất lượng đào tạo bằng cách nâng cao tỷ lệ đầu tư ngân sách cho giáo dục, mở rộng quy mô đào tạo, xây dựng cơ sở vật chất để đảm bảo chất lượng đào tạo, xác định rõ mục tiêu đào tạo, cơ cấu ngành nghề, quy hoạch có hệ thống lực lượng cán bộ làm công tác giáo dục - đào tạo sao cho có thể đáp ứng được yêu cầu của nền giáo dục nước nhà để đào tạo được con người "vừa hồng vừa chuyên", chúng ta cần phải tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng cho học sinh, sinh viên, khơi dạy lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, có năng lực chuyên môn cao đáp ứng đòi hỏi của xã hội để đưa đất nước ta "sánh vai với các cường quốc năm châu" như Bác Hồ từng mong đợi. Qua lớp bồi dưỡng này, tôi thấy mình phải học, rèn luyện và không ngừng phấn đấu vươn lên, tiếp tục vận dụng những nhận thức mới học và những kinh nghiệm quản lý thời gian qua đó hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Với những hành trang này chắc chắn sẽ giúp cho tôi rất nhiều trong quá trình công tác, trong mọi công việc được phân công. Đặc biệt là góp phần nhỏ bé của mình cho sự nghiệp nâng cao dân trí đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài mà Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII và Nghị quyết Trung ương khoá II (khoá VIII) đã khẳng định. Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn lãnh đạo Trường cán bộ quản lý Giáo dục Trung ương I, Đại học Kinh tế quốc dân và các thầy, cô giáo đã truyền đạt những kiến thức, lý luận và thực tiễn bổ ích, củng cố thêm niềm tin vào công cuộc đổi mới đất nước do Đảng lãnh đạo. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQT1097.doc
Tài liệu liên quan