Thực trạng công tác quản lí chi trả chế độ hưu trí ở Việt Nam hiện nay

LỜI MỞ ĐẦU BHXH là một chính sách lớn đối với các nước trên thế giới, BHXH mang trong nó bản chất nhân văn sâu sắc, vì cuộc sống an lành, hạnh phúc của con người. Các chế độ BHXH đều nhằm mục đích đảm bảo đời sống cho người lao động khi họ tam thời hoặc vĩnh viễn ngừng làm việc. Số lượng và nội dung các chế độ BHXH được xây dựng và thực hiện phụ thuộc vào mục tiêu, qui định và các chế độ chính sách của mỗi nước. Trong các chế độ đó thì chế độ hưu trí được coi là chế độ quan trọng nhất vì nó li

doc55 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3110 | Lượt tải: 5download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng công tác quản lí chi trả chế độ hưu trí ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ên quan trực tiếp đến mỗi người lao động và gia đình họ khi họ về già. Có thể nói rằng gần 100% người lao động của các nước có nhu cầu được bảo hiểm tuổi già. Ơ Việt Nam, từ khi chủ tịch nước Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 54/SL vào ngày 1/11/1945 quy định điều kiện cho công chức, viên chức Nhà nước hưởng chế độ hưu trí và quyền được nghỉ hưu của CBCNVC, cho tới nay Nhà nước ta luôn quan tâm xây dựng và thực hiện chế độ hưu trí cho người lao động. Tính đến nay hệ thống BHXH và chế độ hưu trí được xác lập và thực hiện qua trên 50 năm, đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng góp phần ổn đinh cuộc sống cho người lao động và gia đình họ. Chính sách hưu trí nước ta đã giải quyết quyền lợi cho hàng triệu người lao động. Nhờ đó làm cho người lao động được an tâm sản suất trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội và chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Mặt khác, từ khi thực hiện công tác BHXH theo cơ chế mới, BHXH nước ta đã đạt được nhiều thành tích đáng khích lệ như: Nguồn thu BHXH, số lao động tham gia ngày càng tăng, năm sau luôn cao hơn năm trước, nguồn chi BHXH được quản lí chặt chẽ hơn, an toàn và đúng qui định, lương hưu và các khoản trợ cấp BHXH hàng tháng khác của đối tượng luôn được trả đầy đủ, kịp thời được các ngành trợ cấp, các ngành hoan nghênh ủng hộ tạo niềm tin cho các thành viên tham gia góp phần ổn định đời sống kinh tế xã hội cho nước ta. Tuy nhiên, hưu trí là chế độ có số lượng người được hưởng đông nhất, trợ cấp hưu trí cao. Chi cho hưu trí chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng chi BHXH (khoảng 75%) nên trong quá trình thực hiện công tác BHXH nói chung, hưu trí nói riêng còn nhiều tồn tại. Nguyên nhân một phần do các yếu tố khách quan. Song có những nguyên nhân mang tính chủ quan như cơ chế quản lý và phương thức chi trả chưa phù hợp và chưa đáp ứng được yêu cầu, điều kiện hiện tại. Nhận thức được điều này trong quá trình thực tập tại BHXHVN em chọn đề tài: “Thực trạng công tác quản lí chi trả chế độ hưu trí ở Việt nam hiện nay” để nghiên cứu. Nội dung chủ yếu của đề tài bao gồm 3 phần: Phần I: Lýý luận chung về chế độ hưu trí và công tác quản lý chi trả chế độ hưu trí Phần II: Thực trạng công tác quản lý chi tra chế độ hưu trí hiện nay ở Việt nam Phần III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm thực hiện tốt công tác quản lý chi trả Trong quá trình nghiên cứu tìm hiểu đề tài, em luôn nhận được sự giúp đỡ tận tình của toàn thể các cô, chú trong ban BHXH tự nguyện (BHXHVN) và sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo Hà Văn Sỹ em đã hoàn thành báo cáo chuyên đề này. Do trình độ còn hạn chế mà phạm vi đề tài rộng nên chuyên đề không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em kính mong nhận được sự chỉ bảo của thầy giáo hướng dẫn để chuyên đề đạt kết quả cao hơn. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn và toàn thể các cô chú trong ban BHXH đã tân tình giúp đỡ để em hoàn thành chuyên đề này. PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ VÀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ CHI TRẢ CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ. I. Những vấn đề cơ bản về BHXH 1. Khái niệm về BHXH Mặc dù BHXH đã xuất hiện từ rất lâu, nhưng cho đến nay vẫn chưa có định nghĩa thống nhất về BHXH. Mà có nhiều quan điểm khác nhau về BHXH, tuỳ theo cách tiếp cận khác nhau. Nhưng BHXH được hiểu theo cách chung nhất là: BHXH Là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho ngưòi lao động và gia đình họ, góp phần đảm bảo an toàn xã hội. 2. Bản chất của BHXH Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải ăn, mặc, ở và đi lại v.v… Để thoã mãn những nhu cầu tối thiểu đó, người ta phải lao động để làm ra những sản phẩm cần thiết. Khi sản phẩm được tạo ra ngày càng nhiều thì đời sống con người ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh hơn. Như vậy, việc thoã mãn những nhu cầu sinh sống và phát triển của con người phụ thuộc vào chính khả năng lao động của họ. Nhưng trong thực tế, không phải lúc nào con người cũng chỉ gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi điều kiện sinh sống bình thường. Trái lại, có rất nhiều trường hợp khó khăn bất lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho người ta bị giảm hoặc mất thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác. Chẳng hạn, bất ngờ bị ốm đau hay bị tai nạn lao động, mất việc làm hay khi tuổi già khả năng lao động và khả năng tự phục vụ bị suy giảm v.v… Khi rơi vào những trường hợp này, các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống không vì thế mà mất đi, trái lại có cái còn tăng lên thậm chí còn xuất hiện thêm một số nhu cầu mới như: Cần được khám chữa bệnh và điều trị khi ốm đau; tai nạn thương tật nặng cần phải có người chăm sóc nuôi dưỡng v.v… Bởi vậy, muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con người và xã hội loài người phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau như: San sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong nội bộ cộng đồng; đi vay, đi xin hoặc dựa vào sự cứu trợ của Nhà nước v.v… Rõ ràng, những cách đó là hoàn toàn thụ động và không chắc chắn. Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, việc thuê mướn nhân công trở nên phổ biến thì mối quan hệ kinh tế giữa người lao động làm thuê và giới chủ cũng trở nên phức tạp. Lúc đầu người chủ chỉ cam kết trả công lao động, nhưng về sau đã phải cam kết cả việc bảo đảm cho người làm thuê có một số thu nhập nhất định để họ trang trải những nhu cầu thiết yếu khi không may bị ốm đau, tai nạn, thai sản v.v… Trong thực tế, nhiều khi các trường hợp trên không xảy ra và người chủ không phải chi ra một đồng nào. Nhưng cũng có khi xảy ra dồn dập, buộc họ phải bỏ ra một lúc nhiều khoản tiền lớn mà họ không muốn. Vì thế, mâu thuẫn chủ – thợ phát sinh, giới thợ liên kết đấu tranh buộc giới chủ thực hiện cam kết. Cuộc đấu tranh này diễn ra ngày càng rộng lớn và có tác động nhiều mặt đến đời sống kinh tế – xã hội. Do vậy, Nhà nước đã phải đứng ra can thiệp và điều hoà mâu thuẫn. Sự can thiệp này một mặt làm tăng được vai trò của Nhà nước, mặt khác buộc cả giới chủ và giới thợ phải đóng góp một khoản tiền nhất định hàng tháng được tính toán chặt chẽ dựa trên cơ sở xác suất rủi ro xảy ra đối với người làm thuê. Số tiền đóng góp của cả chủ và thợ hình thành một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia. Quỹ này còn được bổ sung từ ngân sách Nhà nước khi cần thiết nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi gặp phải những biến cố bất lợi. Chính nhờ những mối quan hệ ràng buộc đó mà rủi ro, bất lợi của người lao động được dàn trải, cuộc sống của người lao động và gia đình họ ngày càng được đảm bảo ổn định. Giới chủ cũng thấy mình có lợi và được bảo vệ, sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường, tránh được những xáo trộn không cần thiết. Vì vậy, nguồn quỹ tiền tệ tập trung được thiết lập ngày càng lớn và nhanh chóng. Khả năng giải quyết các phát sinh lớn của quỹ ngày càng đảm bảo. Toàn bộ những hoạt động với những mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ trên được thế giới quan niệm là BHXH đối với người lao động. Như vậy, BHXH là đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần bảo đảm an toàn xã hội. Với cách hiểu như trên bản chất của BHXH được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau: - BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là trong xã hội mà sản xuất hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ thuê mướn lao động phát triển đến một mức độ nào đó. Kinh tế càng phát triển thì BHXH càng đa dạng và hoàn thiện. Vì thế có thể nói kinh tế là nền tảng của BHXH hay BHXH không vượt quá trạng thái kinh tế của mỗi nước. - Mối quan hệ các bên trong BHXH phát sinh trong quan hệ lao động và diễn ra giữa ba bên: bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH. Bên tham gia BHXH có thể chỉ là người lao động hoặc cả người lao động và người sử dụng lao động. Bên BHXH (bên nhận nhiệm vụ BHXH) thông thường là cơ quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo trợ. Bên được BHXH là người lao động và gia đình họ khi có đủ các điều kiện ràng buộc cần thiết. - Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trong BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con người như: ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp… hoặc cũng có thể là những trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên như: tuổi già, thai sản… đồng thời những biến cố đó có thể diễn ra cả trong và ngoài quá trình lao động. - Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải những biến cố, rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích lại. Nguồn quỹ này do các bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn được sự hỗ trợ từ phía Nhà nước. - Mục tiêu của BHXH là nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm. Mục tiêu này đã được tổ chức lao động quốc tế (ILO) cụ thể hoá như sau: + Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo nhu cầu sinh sống thiết yếu của họ. + Chăm sóc sức khoẻ va chống bệnh tật. + Xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu của dân cư và các nhu cầu đặc biệt của người già, người tàn tật và trẻ em. Với những mục tiêu trên, BHXH đã trở thành một trong những quyền con người và được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thừa nhận và ghi vào Tuyên ngôn Nhân quyền ngày 10/12/1948 rằng: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng BHXH, quyền đó được đặt cơ sở trên sự thoả mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá, nhu cầu cho nhân cách và sự tự do phát triển con người”. ở nước ta, BHXH là một bộ phận quan trọng trong chính sách BHXH. Ngoài BHXH, chính sách bảo đảm xã hội còn có: cứu trợ xã hội và ưu đãi xã hội. Cứu trợ xã hội là sự giúp đỡ của Nhà nước và xã hội về thu nhập và các điều kiện sinh sống khác đối với mọi thành viên của xã hội, trong những trường hợp bị bất hạnh, rủi ro, nghèo đói, không đủ khả năng để tự lo cuộc sống tối thiểu của bản thân và gia đình. Sự giúp đỡ này được thực hiện bằng các nguồn quỹ dự phòng của Nhà nước, băng tiền hoặc hiện vật, đóng góp của các tổ chức xã hội và của những người hảo tâm. Ưu đãi xã hội là sự đãi ngộ đặc biệt cả về vật chất và tinh thần của Nhà nước, của xã hội nhằm đền đáp công lao đối với những người hay một bộ phận xã hội có nhiều cống hiến cho xã hội. Chẳng hạn những người có công với nước, liệt sỹ và thân nhân liệt sỹ, thương binh, bệnh binh… đều là những đối tượng được hưởng sự đãi ngộ của Nhà nước, của xã hội. Ưu đãi xã hội tuyệt nhiên không phải là sự bố thí, ban ơn, mà nó là một chính sách xã hội có mục tiêu chính trị- kinh tế- xã hội, góp phần củng cố thể chế chính trị của Nhà nước trước mắt và lâu dài, đảm bảo sự công bằng xã hội. 3. Chức năng BHXH Là một trong những chính sách xã hội quan trọng, bảo hiểm xã hội có những chức năng chính sau: Một là: Góp phần đảm bảo ổn định đời sống cho người lao động và gia đình khi người lao động bị giảm hoặc mất khả năng lao động. Sỡ dĩ như vậy vì giữa người lao động và cơ quan BHXH có mối quan hệ hết sức chặt chẽ. Quan hệ này phát sinh trên cơ sở lao động và quan hệ tài chính BHXH. Quan hệ đó diễn ra giữa ba bên: bên tham gia Bảo hiểm, bên nhận Bảo hiểm và bên được Bảo hiểm. Bên tham gia trước hết là người sử dụng lao động có trách nhiệm phải đóng phí để Bảo hiểm cho người lao động mà mình sử dụng. Đồng thời người lao động cũng phải có trách nhiệm đóng phí để tự Bảo hiểm cho mình. Sự đóng góp này là bắt buộc và theo những mức quy định cho bên nhận Bảo hiểm, đó là cơ quan BHXH chuyên nghiệp. Khi người lao động hội đủ các điều kiện cần thiết thì nhất định họ được hưởng trợ cấp với mức hưởng, thời điểm và thời hạn hưởng đúng chính sách BHXH. Hai là: Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. Cụ thể là phân phối lại thu nhập giữa những ngườilao động trẻ, khoẻ và những người lao động già yếu, giữa những người lao động đang làm việc và những người đã nghỉ hưu. Giữa những người độc thân và những người có thân nhân phải nuôi dưỡng. Giữa một bên là thường xuyên đống góp BHXH nhưng chưa gặp rủi ro nên chưa được hưởng và một bên là những người có đóng BHXH nhưng gặp rủi ro nên được quỹ BHXH trợ cấp trước, lúc này số tiền đóng BHXH của người được chuyển giao cho một số ít người gặp rủi ro. Ngoài ra, còn có sự phân phối lại giữa những người có thu nhập thấp thông qua sự chuyển giao tiền và sức mua của tầng lớp có thu nhập cao sang tầng lớp có thu nhập thấp. Ba là: Góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất, nâng cao lao động sản xuất cá nhân và năng suất lao động cá nhân. Khi khoẻ mạnh tham gia lao động sản xuất, người lao động được chủ sử dụng lao động trả lương hoặc tiền công khi bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hoặc khi về già đã có BHXH trợ cấp thay thế nguồn thu nhập bị mất. Vì vậy cuộc sống của họ và gia đình họ luôn được đảm bảo ổn định và có chỗ dựa. Do đó, người lao động luôn yên tâm, gắn bó tận tình với công việc, với nơi làm việc. Từ đó họ sẽ tích cực lao động sản xuất, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Bốn là: Gắn bó lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động, giữa người lao động với xã hội. Trong thực tế lao động sản xuất, người lao động và người sử dụng lao động vốn có những mâu thuẫn nội tại, khách quan về tiền lương, tiền công, thời gian lao động …Thông qua những mâu thuẫn đó sẽ được điều hoà và giải quyết. Đặc biệt cả hai giới này đều thấy nhờ có BHXH mà mình có lợi và được bảo vệ. Từ đó làm cho họ hiểu nhau hơn và gắn bó lợi ích được với nhau. Đối với Nhà nước và xã hội, chi cho BHXH là cách thức phải chi ít nhất và cho người lao động và gia đình họ, góp phần làm cho sản xuất ổn định, kinh tế chính trị và xã hội được phát triển và an toàn hơn. 4. Những quan điểm cơ bản về BHXH Khi thực hiện BHXH, các nước đều phải lựa chọn hình thức, cơ chế và mức độ thoã mãn các nhu cầu BHXH phù hợp với tập quán, khả năng trang trải định hướng phát triển kinh tế XH của nước mình. Đồng thời phải nhận thức thống nhất các quan điểm về BHXH sau đây: Thứ nhất: Chính sách BHXH là một bộ phận cấu thành và là bộ phận quan trọng nhất trong chính sách XH. Mục đích chủ yếu của chính sách này nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ, khi người lao động bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm. ở nước ta BHXH nằm trong hệ thống các chính sách XH của đảng và nhà nước. Thực chất đây là một trong những chính sách đối với con người nhằm đáp ứng một trong những quyền và nhu cầu hiển nhiên của con người nhu cầu an toàn về việc làm, an toàn về lao động, an toàn xã hội. Chính sách của BHXH còn thể hiện tính ưu việt của một chế độ xã hội, tổ chức và thực hiện tốt chính sách BHXH sẽ là động lực to lớn phát huy tiềm năng sáng tạo của người lao động trong quá trình phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Thứ hai: Người sử dụng lao động phải có trách nhiệm và nghĩa vụ BHXH cho người lao động. Người sử dụng lao động thực chất là các tổ chức, các doanh nghiệp và các cá nhân có thuê mướn lao động. Họ phải có nghĩa vụ đóng góp vào quỹ BHXH đối với người lao động mà mình sử dụng theo đúng luật pháp quy định. Người sử dụng lao động muốn ổn định và phát triển sản xuất, kinh doanh thì ngoài việc phải chăm lo đầu tư để có máy móc thiết bị hiện đại, công nghệ tiên tiến, còn phải chăm lo tay nghề và đời sống cho người lao động mà mình sử dụng. Khi người lao động làm việc bình thường thì phải trả lương thoã đáng cho họ, khi h ọ gặp rủi ro, bị ốm đau tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp trong đó có rất nhiều trường hợp gắn liền quá trình lao động, với những điều kiện lao động cụ thểcủa doanh nghiệp thì phải có trách nhiệm BHXH cho họ. Chỉ như vậy người lao động mới yên tâm tích cực lao động sản xuất, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật góp phần nâng cao năng suất lao động và tăng hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp. Thứ ba: Người lao động được bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi đối với BHXH, không phân biệt nam nữ, tôn giáo, nghề nghiệp. Điều đó có nghĩa là mọi người lao động trong xã hội đều được hưởng BHXH như tuyên ngôn nhân quyền đã nêu, đồng thời bình đẳng về nghĩa vụ đóng góp và quyền lợi trợ cấp BHXH. Vì thế nếu muốn BHXH là muốn được hỗ trợ, chia sẽ rủi ro trước hết của bản thân. Người lao động phải có trách nhiệm tham gia BHXH. Tuy nhiên, nghĩa vụ và quyền lợi của người lao động về BHXH còn tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, lịch sử của mỗi quốc gia. Nhìn chung, khi sản xuất phát triển, kinh tế tăng trưởng, chính trị, xã hội ổn định thì người lao động tham gia và được hưởng trợ cấp BHXH ngày càng được mở rộng. Thứ tư: Mức trợ cấp BHXH phụ thuộc vào các yếu tố. Tình trạng mất khả năng lao động. Tiền lương lúc đang đi làm. Tuổi thọ bình quân của người lao động. Điều kiện kinh tế – xã hội của người lao động. Tuy nhiên, về nguyên tắc mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn mức lương lúc đang làm nhưng thấp hơn cũng phải đảm bảo mức lương tối thiểu. Quan điểm này vừa phản ánh tính cộng đồng xã hội, vừa phản ánh nguyên tắc quỹ phân phối BHXH cho những người lao động tham gia BHXH.Trợ cấp BHXH là loại trợ cấp thay thế tiền lương, mà tiền lương là khoản tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động khi họ thực hiện được những công việc nào đó, nghĩa là chỉ người lao động có sức khoẻ bình thường và thực hiện được những công việc nhất định mới có tiền lương. Khi đã bị ốm đau,tai nạn hay tuổi già không làm việc được mà trước đó có tham gia BHXH thì dù có trợ cấp BHXH thì trợ cấp đó không thể bằng tiền lương do người lao động tạo ra được. Nếu mức trợ cấp bằng hoặc cao hơn tiền lương thì không một người lao động nào phải cố gắng tìm kiếm việc làm và tích cuực làm việc để có lương, mà ngược lại sẽ lợi dụng BHXH để được trợ cấp, hơn nữa cách lập quỹ BHXH theo phương thức dàn trải rủi ro cũng không cho phép trả trợ cấp BHXH cao hơn hoặc bằng tiền lương lúc đi làm,như vậy thì không có ý nghĩa là trợ cấp. Như vậy, mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn mức tiền lương lúc đang đi làm, tuy nhiên, do mục đích, bản chất và phương thức BHXH thì mức trợ cấp thấp nhất cũng không thể thấp hơn mức sống tối thiểu. Thứ năm: Nhà nước quản lý thống nhất chính sách BHXH, tổ chức bộ máy thực hiện chính sách BHXH. Bởi vì BHXH là một bộ phận cấu thành các chính sách xã hội, nó vừa là nhân tố xã hội, vừa là nhân tố ổn định, vừa là nhân tố động lực phát triển kinh tế xã hội., cho nên của nhà nước là rất quan trọng. Thực tế đã chỉ rõ, nếu không có sự quản lý vĩ mô của nhà nước thì mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động sẽ không được duy trì bền vững, mối quan hệ ba bên trong BHXH sẽ bị phá vỡ. Hơn nữa, BHXH được thực hiên thông qua một quy trình, từ việc thực hiện chính sách, đảm bảo vật chất đến xét trợ cấp, vì vậy nhà nước quản lý toàn bộ quy trình này, có những giới hạn về mức độ pham vi. Trước mắt phải khẳng định rằng việc hoạch định chính sách BHXH là khâu đầu tiên và quan trọng nhất. Sự quản lý của nhà nước về vấn đề này thể hiện ở việc xây dựng các dự án luật, các văn bản pháp quy về BHXH và ban hành thực hiện, sau đó là hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra các tổ chức, cá nhân thực hiên chính sách. Đối với việc đảm bảo vật chất cho BHXH thì vai trò của Nhà nước phụ thuộc vào chính sách BHXH do Nhà nước quy định. Có những mô hình về đảm bảo vật chất cho BHXH do ngân sách Nhà nước cung cấp thì vai trò quản lýý nhà nước là trực tiếp và toàn diện, nếu nguồn đảm bảo trợ cấp cho người sử dụng lao động, người lao động và Nhà nước đóng góp thì nhà nước tham gia quản lý. Để quản lý BHXH sử dụng các công cụ chủ yếu như luật pháp và bộ máy tổ chức. Nhìn chung, hầu hết các nước trên thế giới, việc quản lý vĩ mô BHXH đều được Nhà nước giao cho bộ lao động hoặc bộ XH trực tiếp điều hành. II. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ 1. Sự cần thiết khách quan Để đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển, con người phải lao động để tạo ra của cải vật chất nhưng cùng với thời gian, con người sẽ bị già đi, sức khoẻ của họ bị giảm sút không còn khả năng lao động, không còn khả năng tự đáp ứng nhu cầu cho cuộc sống. Lúc đó khoản thu nhập mà họ có thể sinh sống hoặc là do tích góp trong quá trình lao động hoặc là do con cháu nuôi dưỡng v v … Những khoản tiền thu nhập này không thường xuyên và phụ thuộc vào điều kiện của từng người, để đảm bảo lợi ích cho người lao động khi họ hết tuổi lao động và giúp họ có nguồn thu nhập thường xuyên, ổn định Nhà nước đã thực hiện chế độ hưu trí. Vậy Bảo hiểm hưu trí là hình thức bảo đảm thu nhập cho người lao động, người lao động tạo ra nguồn thu nhập để nuôi sống chính họ trong quá trình lao động. Quá trình này diễn ra ngay trong các xí nghiệp, nhà máy, đơn vị kinh tế, hành chính sự nghiệp, trong lĩnh vực quốc doanh và ngoài quốc doanh, trong quá trình đó họ cống hiến sức lao động để xây dựng đất nước bằng cách tạo ra thu nhập cho xã hội và cho cả chính họ nữa. Do đó đến khi họ không còn khả khả năng lao động thì họ phải được sự quan tâm ngược lại từ phía xã hội. Đó chính là khoản tiền trợ cấp hưu trí hàng tháng phù hợp với số phí BHXH mà họ đã đóng góp trong suốt quá trình lao động. Nguồn trợ cấp này tuy ít hơn so với lúc đang làm việc nhưng nó rất quan trọng và cần thiết giúp cho người về hưu ổn đinh cuộc sống, tạo cho họ có thêm điều kiện để cống hiến cho xã hội những kinh nghiệm quy báu trong quá trình lao động sản xuất mà họ đã tích luỹ được, nhằm xây dựng đất nước càng phồn vinh hơn. Bảo hiểm hưu trí bảo đảm quyền lợi cho người lao động, giúp họ tự bảo vệ mình khi hết tuổi lao động, người lao động chỉ cần trích ra một tỷ lệ % tiền lương tương đối nhỏ khi còn đang làm việc trong một thời gian nhất định. Đến khi hết tuổi lao động phải nghỉ việc họ sẽ có được sự bảo đảm của xã hội, làm giảm bớt phần nào khó khăn về mặt tài chính do thu nhập thấp vì không còn lao động được nữa. Như vậy bảo hiểm hưu trí là một chế độ mang tính xã hội hoá cao được thực hiện một cách thường xuyên và đều đặn, kế tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nói cách khác chế độ Bảo hiểm hưu trí lấy đóng góp của thế hệ sau chi trả cho thế hệ trước, vì vậy nó tạo ra sự ràng buộc và đoàn kết giữa các thế hệ làm cho cho mọi người trong xã hội quan tâm gắn bó với nhau hơn, thể hiện mối quan tâm sâu sắc giữa người với người trong xã hội. 2. Vai trò chế độ hưu trí trong hệ thống các chế độ BHXH Trong một hệ thống BHXH thường bao gồm nhiều chế độ khác nhau, số lượng các chế độ BHXH được xây dựng và thực hiện phụ thuộc vào trình độ phát triển và mục tiêu cụ thể của hệ thống BHXH từng thời kỳ của mỗi nước. Tuy nhiên trong bất kỳ hệ thống BHXH nào cũng có những chế độ chính, thể hiện đặc trưng những mục tiêu chủ yếu của hệ thống BHXH. Một trong những chế độ chính là chế độ Bảo hiểm tuổi già cho người lao động hay đó là chế độ hưu trí. Chế độ hưu trí là một trong năm chế độ Bảo hiểm được thực hiện sớm nhất trong lịch sử phát triển của BHXH nước ta. Theo quy định của ILO thì chế độ này là một trong những chế độ bắt buộc, là chế độ chính phải có khi một quốc gia muốn xây dựng cho mình một hệ thống BHXH. Như vậy chế độ hưu trí có vai trò và vị trí quan trọng trong hệ thống BHXH của mỗi quốc gia, vì chế độ này có ảnh hưởng rất lớn và trực tiếp tới đời sống của một bộ phận lớn lao động xã hội. Xét về nhu cầu được Bảo hiểm thì “rủi ro” không có khả năng làm việc khi cao tuổi là rủi ro lớn nhất. Do vậy, Bảo hiểm hưu trí cũng là nhu cầu Bảo hiểm quan trọng nhất. ở các nước chế độ này ảnh hưởng hầu hết đến mọi người dân trong xã hội. Tiền hưu mà họ nhận được là kết quả của tích luỹ trong suốt quá trình làm việc thông qua đóng BHXH. Tiền lương là phần thu nhập chính khi mà họ hết tuổi lao động, không còn khả năng làm việc nữa cho đến cuối đời. Ngoài giá trị về vật chất thì ýý nghĩa về mặt tinh thần và tư tưởng của chế độ hưu trí cũng rất quan trọng. Trong thực tế tất cả những người tham gia BHXH đều tham gia vào chế độ hưu trí, trong phần đóng phí BHXH nói chung thì phần chủ yếu đóng cho chế độ này. Đối với hệ thống BHXH thì hoạt động của phần này là tập trung chủ yếu vào chế độ hưu trí cho người lao động, điều này được thể hiện cụ thể trong các hoạt động nghiệp vụ của BHXH. Ơ Việt Nam chế độ hưu trí có vị trí quan trọng, đặc biệt đối với người lao động, chế độ này được quy định và đưa vào thực hiện ngay khi hệ thống BHXH mới thành lập. Theo các quy định hiện hành thì tỷ lệ dành cho Bảo hiểm hưu trí và các chế độ khác có liên quan đến người về hưu là 75%(Thu Bảo hiểm là 20% tổng quỹ lương thì dành tới 15% đóng góp cho quỹ hưu trí và tử tuất). Do đó thu cho chế độ hưu trí cũng chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng thu BHXH, thường khoảng từ 60-80%. Tương ứng với thu là chi cho chế độ hưu trí chiếm khoảng 70% trong tổng chi BHXH. Như vậy hoạt động thu chi của chế độ hưu trí có ảnh hưởng lớn đến toàn bộ hoạt động của hệ thống BHXH, ảnh hưởng đến sự ổn định của BHXH nói riêng cũng như cả xã hội nói chung. Chế độ hưu trí là chế độ Bảo hiểm dài hạn, trong đó việc hưởng hưu trí được thực hiện ngoài quá trình lao động, mức hưởng lương hưu của người lao động căn cứ vào những tiêu chuẩn mang tính chất pháp lý như: Số năm đóng BHXH cho chế độ hưu trí: Phải có quy định thời hạn đóng phí BHXH tối thiểu, bắt buộc(có thể từ 15-20 năm), còn thấp hơn mức này thì mức trợ cấp giảm bớt. Nhưng thời hạn thấp hơn này cũng không quá 5 năm so với thời hạn chuẩn (theo công ước 102 của ILO quy định thời hạn đóng phí BHXH ít nhất là 30 năm). Tuổi đời (Cũng là tuổi bắt đầu hưởng chế độ hưu trí). Theo công ước 102 của ILO, tuổi làm việc của người lao động không được vượt quá 65 tuổi và ILO khuyến cáo các nước nên giảm tuổi nghỉ hưu xuống khi điều kiện kinh tế của từng nước cho phép. Tuy nhiên trong thực tế tuổi về hưu của các nước dao động từ 55-70 tuổi. Theo quy định của Bộ luật lao động nước ta hiện nay tuổi nghỉ hưu của nam là đủ 60 tuổi và nữ đủ 55 tuổi. Ở những vùng, những công việc độc hại, nặng nhọc, tuổi nghỉ hưu của người lao động có thể hạ xuống 5 năm. Tuy nhiên ở một số ngành, một số lĩnh vực thì tuổi nghỉ hưu có thể được kéo dài vì đến giai đoạn này họ còn phát huy được khả năng và kinh nghiệm của mình ví dụ như các nhà khoa học, các nghệ sĩ v.v.v… Từ hai tiêu chuẩn cơ bản trên, mà trong lĩnh thực tế có thể có những quy định riêng liên quan đến quá trình đóng BHXH hay tuổi đời còn nghỉ hưu. Một vấn đề đặt ra là xu hướng già hoá của dân số thế giới dẫn đến số lượng người nghỉ hưu ngày càng tăng. Điều đó cho thấy vai trò ngày càng quan trọng của chế độ hưu trí trong đời sống Kinh tế – Xã hội của mỗi quốc gia. Hơn nữa, chế độ Bảo hiểm hưu trí còn thể hiện được sự quan tâm, chăm sóc của nhà nước, người sử dụng lao động đối với người lao động, và nó còn thể hiện đạo lí của dân tộc, đồng thời còn thể hiện trình độ văn minh của một thể chế xã hội. 3. Tác dụng của chế độ hưu trí. Chế độ hưu trí là chế độ Bảo hiểm cho người lao động bị mất thu nhập do hết khả năng lao động vì nguyên nhân sinh học tuổi già, hay các nguyên nhân khác, không còn khả năng làm việc. Bảo hiểm cho chế độ này được thực hiện từ khi người lao động nghỉ hưu đến lúc chết, đối với người được hưởng chế độ hưu trí, Bảo hiểm mà họ nhận được là dưới hình thức tiền lương hưu. Thực chất tiền lương hưu là khoản trợ cấp vì họ tách khỏi quá trình lao động, nhưng đây lại là khoản thu nhập chủ yếu của người nghỉ hưu. Tiền lương hưu trở thành chỗ dựa chủ yếu nhằm đảm bảo về vật chất và tinh thần cho cuộc sống của họ trong quãng đời còn lại. Đối với Xã hội, chế độ này thể hiện trách nhiệm của nhà nước, của cộng đồng xã hội đối với một lớp người đã có một quá trình lao động, đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước, nay đã hết tuổi lao động. Thực hiện chế độ này thể hiện rõ nét hơn các giá trị Xã hội, tính nhân văn nhân đạo, đạo lý của một quốc gia, một dân tộc. Điều cốt lõi trong bản chất của chế độ hưu trí là tiền trợ cấp hưu trí mà người về hưu nhận được, tiền lương hưu này nó được hình thành do sự tích luỹ của bản thân họ dưới hình thức đóng phí BHXH cho chế độ này. PHẦN II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LýÝ CHI TRẢ CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ Ở BHXH VIỆT NAM. I. Thuận lợi và khó khăn: Thuận lợi: Thuận lợi cơ bản là ngay từ khi mới thành lập và chuẩn bị đi vào hoạt động cũng như trong suốt quá trình thực hiện nhiệm vụ vừa qua BHXH luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước cùng sự hỗ trợ, giúp đỡ của các ban, ngành có liên quan. Phần lớn đôi ngũ cán bộ công chức đặc biệt là lãnh đạo BHXH cấp huyện đã và đang làm công tác BHXH. Số cán bộ trẻ mới được tiếp thu có năng lực, trình độ, có khả năng đáp ứng được yêu cầu phát triển trong tương lai. Các ban đại diện chi trả các xã, phường đều tận tuỵ với công việc, có nhiều kinh nghiệm trong công tác quản lý chi trả ở cơ sở. Khó khăn: Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi trên thì hoạt động chi trả còn gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại: - Thời gian đầu, khi mới hoạt động, việc bàn giao nhiệm vụ còn gặp nhiều khó khăn do quy trình hướng dẫn chậm so với thực tiễn công việc, số liệu quản lý chi BHXH cho các đối tượng hưởng chế độ hưu trí do hai ngành quản lý trực tiếp là Bộ Tài chính và Bộ lao động-Thương binh và xã hội bàn giao sang cũng không thống nhất. - Về công tác giao nhận hồ sơ, tuy được triển khai từ tháng 8/1995 nhưng mãi đến cuối năm 96 mới cơ bản hoàn thành. Thực trạng hồ sơ sau khi tiếp nhận là: Phần lớn bao bì rách nát, nhiều hồ sơ thiếu các giấy tờ, nhiều hồ sơ thì bị tẩy xoá, sữa chữa và một điều đáng lo ngại là hầu hết các tỉnh thì hồ sơ của những người đang hưởng chế độ hưu trí đều không có phiếu điều chỉnh theo NĐ27/CP và NĐ05/CP của Chính phủ. - Trong công tác cán bộ, do phải nhận bàn giao nguyên trạng nên đội ngũ cán bộ viên chức từ các ngành chuyển đến có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ không đồng đều, một bộ phận còn rất yếu về nghiệp vụ. Những người làm công tác chi trả ở các ban chính sách xã, phường rất nhiệt tình trong công tác nhưng còn yếu về nghiệp vụ kế toán. - Những tồn tại cũ như: Gỉa mạo hồ sơ, khai man tuổi đời, thời gian công tác… để được hưởng lương hưu vẫn còn rất nhiều. Trong quá trình thực hiện những quy định của điều lệ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docD0030.doc
Tài liệu liên quan