Thực trạng & Giải pháp nhằm hoàn thiện bộ máy quản lý về đất đai Việt Nam

Mục lục Lời nói đầu 3 Chương I: Cơ sở khoa học về tổ chức bộ máy quản lý đất đai ..5 I. Khái niệm bộ máy quản lý đất đai ..5 II. Vai trò của bộ máy quản lý đất đai trong bộ máy quản lý đất đai 5 III. Các mô hình quản lý 7 1. Cơ cấu của bộ máy quản lý Nhà nước 7 1.1. Cơ cấu trực tuyến 8 1.2. Cơ cấu chức năng. 9 1.3. Cơ cấu kết hợp trực tuyên và chức năng 9 2. Vấn đề phân công - phân cấp trong quản lý đất đai 10 2.1. Những vấn đề chung có quan hệ đến việc phân công, phân cấp trong qu

doc92 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1262 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng & Giải pháp nhằm hoàn thiện bộ máy quản lý về đất đai Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ản lý đất đai 10 2.2. Việc phân công, phân cấp trong quản lý kinh tế đối với đất đai ....15 IV. Công tác cán bộ trong bộ máy quản lý đất đai ....16 1. Vai trò của cán bộ ....16 2. Đào tạo cán bộ ....17 2.1. Nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng. ....18 2.2. Hệ thống đào tạo, bồi dưỡng. ....18 2.3. Hình thức đào tạo, bồi dưỡng. ....18 V. Một số mô hình tổ chức hệ thống quản lý đất đai của các nước và bài học rút ra đối với Việt Nam. ....19 1. Một số mô hình tổ chức hệ thống quản lý đất đai của các nước .....19 1.1. Hệ thống tổ chức quản lý đất đai của Liên Bang Malaixia. ....19 1.2. Hệ thống tổ chức quản lý đất đai của Hàn Quốc................................... . 23 1.3. Hệ thống tổ chức quản lý đất đai của Vương Quốc Thuỵ Điển. ....28 2. Bài học rút ra đối với Việt Nam. ....31 Chương II: Thực trạng tổ chức bộ máy quản lý đất đai Việt Nam. ....35 I. Tổng quan về tình hình quản lý đất đai của Việt Nam. ....35 1. Tình hình quản lý đất đai Việt Nam trước năm 1945. ....35 1.1. Phác thảo chế độ quản lý Ruộng đất làng xã Việt Nam. ....35 1.2. Tổ chức Đo đạc và Quản lý Ruộng đất. ....40 2. Thời kỳ từ 1945 đến 1954. ....44 3. Thời kỳ từ 1954 đến 1979. ....45 4. Thời kỳ từ 1979 đến 1994. ...48 4.1. Đặc điểm tình hình. ...48 4.2. Những chính sách chủ yếu và việc thực hiện. ...48 4.3. Nhận định về đặc điểm của công tác quản lý. ...50 II. Hiện trạng bộ máy Quản lý đất đai Việt Nam hiện nay. ....50 1. Đặc điểm tình hình.. ....50 2. Phân cấp quản lý ....52 3. Chức năng, quyền hạn và nhiệm vụ của các cấp quản lý. .....53 4. Bộ máy tổ chức ngành Địa chính. ....57 4.1. Tổ chức bộ máy ngành Địa chính cấp Trung ương. ....57 4.2. Tổ chức bộ máy ngành Địa chính cấp Tỉnh. .....61 4.3. Tổ chức bộ máy ngành Địa chính cấp Huyện. .....62 4.4. Tổ chức bộ máy ngành Địa chính cấp xã ....62 III. Thực trạng cán bộ quản lý ở các cấp (số lượng và chất lượng) .....62 1. Thực trạng số lượng và chất lượng cán bộ Địa chính các cấp. .....63 1.1. Thực trạng cán bộ ở Tổng cục Địa chính ( cơ quan quản lý đất đai ở Trung ương). ....63 1.2. Thực trạng cán bộ quản lý đất đai ở cấp Tỉnh. ....66 1.3. Thực trạng cán bộ quản lý đất đai ở cấp Huyện. .....69 1.4. Thực trạng cán bộ quản lý đất đai Xã. ....72 2. Một số vấn đề về cán bộ và tuyển dụng cán bộ ....75 2.1. Một số vấn đề về cán bộ ....75 2.2. Một số vấn đề về tuyển dụng cán bộ hiện nay của ngành Địa chính ....77 IV. Đánh giá chung. .....77 1. Kết quả đạt được .....77 2. Tồn tại và nguyên nhân. .....78 Chương III: Quan điểm và những giải pháp nhằm hoàn thiện bộ máy quản lý đất đai Việt Nam. .....82 I. Một số quan điểm hoàn thiện bộ máy. .....82 II. Yêu cầu hoàn thiện. .....84 1. Một số giải pháp hoàn thiện bộ máy. .. 84 2. Đặc điểm quản lý đất đai trong thời kỳ mới 86 3. Giải pháp hoàn thiện bộ máy quản lý đất đai. 90 a. Nhóm giải pháp vĩ mô 91 b. Nhóm giải pháp vi mô 93 Kết luận 96 Danh mục tài liệu tham khảo. 97 Lời nói đầu Đất đai là sản phẩm của tự nhiên, có trước lao động và cùng với quá trình lịch sử phát triển kinh tế - xã hội, đất đai là điều kiện chung của lao động. Đất đai đóng vai trò quyết định cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Nếu không có đất đai thì rõ ràng không có bất kỳ một ngành sản xuất nào, một quá trình lao động sản xuất nào, cũng như không thể nào có sự tồn tại của loài người. Bởi vì, đất là tư liệu sản xuất chính không thể thay thế được của một số ngành sản xuất như nông nghiệp, lâm nghiệp. Đất đai là địa điểm để đặt máy móc, kho tàng, bến bãi, nhà xưởng, tạo chỗ đứng cho công nhân trong sản xuất công nghiệp. Vì thế quản lý và sử dụng đất đai một cách hợp lý và có hiệu quả là mục tiêu cực kỳ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. ở nước ta, vấn đề về sử dụng và quản lý đất đai luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Để phù hợp với bước chuyển đổi từ cơ chế kinh tế bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường có định hướng XHCN. Những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm đảm bảo sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước, đồng thời khuyến khích được các tổ chức và các cá nhân sử dụng đất đai cho mục đích phát triển kinh tế trong khuôn khổ của pháp luật. Tuy nhiên, quản lý và sử dụng đất đai trong thực tế đời sống xã hội còn nảy sinh ra nhiều vấn đề cần được giải quyết. Do đó, để quản lý tốt tình hình sử dụng đất đai phục vụ cho nhu cầu của cuộc sống và phát triển kinh tế đất nước là một việc khó khăn, đòi hỏi phải có một bộ máy quản lý khoa học và hiện đại, phù hợp với thực tế phát triển của xã hội. Đó là một bộ máy quản lý Nhà nước về đất đai được tổ chức thống nhất từ Trung ương đến địa phương, những người tổ chức và điều hành bộ máy có đầy đủ năng lực về chuyên môn và phẩm chất của người cán bộ quản lý. Từ năm 1986 đến nay, bộ máy quản lý đất đai nước ta có nhiều thay đổi, nhưng mốc quan trọng nhất là năm 1994, khi Chính phủ ra Nghị định 34/CP về việc thành lập Tổng cục Địa chính trên cơ sở hợp nhất và tổ chức lại Tổng cục Quản lý Ruộng đất và Cục Đo đạc - Bản đồ. Từ đó đến nay công tác quản lý đất đai nước ta đã đạt được một số thành tựu đáng kể, tuy nhiên nước ta mới chuyển đổi nền kinh tế hơn nữa công tác quản lý đất đai là một công tác phức tạp và khó khăn nên trong một thời gian ngắn Chính phủ Việt Nam chưa thể tổ chức được bộ máy quản lý đất đai đáp ứng được hết những nảy sinh trong thực tế các hoạt động xã hội, kinh tế và đời sống của nhân dân ngay được. Vì thế trong thời gian tới để tổ chức được một bộ máy quản lý đất đai hoạt động có hiệu quả, đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế và sinh hoạt của nhân dân thì chúng ta cần phải xem xét thực trạng của bộ máy hiện nay để rút ra được những ưu điểm, nhược điểm. Để tìm ra những giải pháp nhằm hoàn thiện bộ máy quản lý đất đai của nước ta trong thời gian tới. Vì những lý do trên em chọn nghiên cứu đề tài cho Luận vcăn tốt nghiệp: “Thực trạng và giải pháp nhằm hoàn thiện bộ máy quản lý về đất đai Việt Nam”. Mục tiêu nghiên cứu: Đề tài đánh giá hệ thống quản lý đất đai hiện nay dựa trên cơ sở tổ chức quản lý bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong bộ máy quản lý đồng thời đưa ra một số giải pháp dựa trên cơ sở nghiên cứu tình hình thực tế trong nước và tổ chức bộ máy quản lý đất đai của một số nước trong khu vực và trên thế giới. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài này nghiên cứu lý luận cơ bản về đất đai, kết hợp với việc tham khảo các mô hình trên thế giới và phân tích đánh giá mô hình hiện tại của Việt Nam để xây dựng những luận cứ khoa học và phương pháp luận. Phương pháp nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu lý thuyết trên cơ sở phân tích và đánh giá hiệu quả một số mô hình trên, so sánh với thực tiễn Việt Nam để đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện bộ máy của Việt Nam. Đề tài có kết cấu như sau: Lời nói đầu, Chương I: Cơ sở khoa học về tổ chức bộ máy Quản lý đất đai. Chương II: Thực trạng tổ chức bộ máy quản lý đất đai Việt Nam. Chương III: Quan điểm và những giải pháp nhằm hoàn thiện bộ máy quản lý đất đai Việt Nam. Kết luận Chương I Cơ sở khoa học về tổ chức bộ máy quản lý đất đai. I. Khái niệm về bộ máy quản lý đất đai Bộ máy quản lý là một yếu tố đặc biệt quan trọng cấu thành trong thực thể tổ chức nhà nước để thực hiện các chức năng điều khiển, phối hợp và kiểm tra, giám sát hoạt động kinh tế - xã hội nhằm đạt được các mục tiêu của quản lý nhà nước. Bộ máy quản lý nhà nước về đất đai là một hệ thống cơ quan quyền lực của Nhà nước gồm các cấp từ Trung ương đến địa phương, chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về đất đai trên tầm vĩ mô. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về đất đai bao gồm quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của bộ máy và mối liên hệ giữa các bộ phận trong bộ máy nhằm làm cho bộ máy đó hoạt động có hiệu quả. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với đất đai được hợp lý cho phép giảm chi phí quản lý, nâng cao hiệu lực bộ máy, đảm bảo vai trò định hướng xây dựng chiến lược, kế hoạch, các chương trình, dự án phân bổ sử dụng đất đai phát triển các khu dân cư; đảm bảo việc tổ chức thực hiện các quy định về luật pháp; hướng dẫn kiểm tra các tổ chức, các nhân sử dụng đất nhằm đảm bảo sự công bằng và hiệu quả. II. Vai trò của bộ máy quản lý đất đai trong quản lý đất đai. Luật đất đai năm 1993 của nước ta quy định “Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh và quốc phòng” Luật đất đai - năm 1993 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ; Ta thấy rằng đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá của mỗi quốc gia, có vai trò quyết định đến sự tồn vong của xã hội loài người nói chung và của mỗi quốc gia nói riêng. Bởi vì đất đai là sản phẩm của tự nhiên, có trước lao động và cùng với quá trình lịch sử phát triển kinh tế - xã hội, đất đai là điều kiện chung của lao động. Đất đai đóng vai trò quyết định cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Nếu không có đất đai thì rõ ràng không có bất kỳ một ngành sản xuất nào, một quá trình lao động sản xuất nào, cũng như không thể nào có sự tồn tại cho loài người. Đất đai cũng là một trong những tài nguyên vô cùng quý giá của loài người, điều kiện cho sự sống của động thực vật và con người trên trái đất. Do đất đai có vai trò quan trọng như thế nên quốc gia nào cũng cần phải tổ chức cho hợp lý hệ thống quản lý đất đai của nước mình nhằm mục đích phát triển kinh tế. Trong hệ thống quản lý thì người ta luôn phải giải quyết tốt mối liên hệ giữa ba yếu tố: con người, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, hệ thống tổ chức bộ máy. ở đây trong hệ thống quản lý đất đai thì mối liên hệ giữa ba yếu tố này lại càng quan trọng hơn. Trong một hệ thống thì yếu tố con người bao giờ cũng quan trọng nhất, vì con người chính là đối tượng làm ra văn bản, mà cũng là đối tượng tổ chức hệ thống tổ chức bộ máy. Trong hệ thống quản lý đất đai thì cần phải có những con người có đầy đủ năng lực và phẩm chất để làm ra các văn bản phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, của đất nước, phù hợp với xu thế của thời đại, có như thế thì mới đảm bảo được sự phát triển kinh tế và ổn định chính trị - kinh tế - xã hội đất nước. Vì đất đai có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế cũng như sự tồn vong của một quốc gia. Nhân tố con người chính là nhân tố làm ra hệ thống chính sách và cũng là nhân tố thực thi các chính sách đó để điều hành bộ máy hoạt động một cách nhịp nhàng và có hiệu quả. Nếu chính sách đề ra là phù hợp với thực tế mà nhân tố con người thực thi chính sách không có đủ trình độ hay không có đủ phẩm chất thì sẽ dẫn đến tình trạng bộ máy vận hành không có hiệu quả. Tổ chức bộ máy của một hệ thống quản lý, thì cần phải dựa trên cơ sở của nhân tố con người và hệ thống chính sách mà tổ chức cơ cấu của tổ chức bộ máy sao cho có hiệu quả. Tổ chức bộ máy phải tuân thủ các quy định của chính sách nhưng phải phù hợp với yếu tố con người sẵn có trong hệ thống quản lý. Tuỳ vào khả năng của từng cá nhân mà phân công nhiệm vụ một cách hợp lý đối với từng bộ phận của bộ máy. Để hệ thống hoạt động nhịp nhàng thì ngoài nhân tố con người và hệ thống chính sách tốt thì cần phải tổ chức bộ máy cũng phải tốt, đó chính là sự bố trí hợp lý từng cá nhân của bộ máy vào từng nhiệm vụ và vị trí. Việc hình thành được tổ chức bộ máy trong hệ thống quản lý đất đai được tốt thì sẽ có vai trò quan trọng trong việc vận hành hệ thống quản lý đất đai một cách hợp lý. Một khi bộ máy quản lý đất đai vận hành một cách nhịp nhàng thì nó sẽ tạo ra một kết quả rất lớn trong việc quản lý đất đai. Tuy nhiên đối với thể chế chính trị của mỗi nước thì lại có một hệ thống quản lý đất đai riêng phù hợp với trình độ dân trí và điều kiện địa lý của nước đó. Trong mỗi hệ thống thì các yếu tố cơ bản để cấu thành hệ thống là giống nhau nhưng sự khác nhau của mỗi hệ thống chính là chính sách của mỗi nước, dẫn đến tổ chức bộ máy khác nhau. III. Các mô hình quản lý 1.Cơ cấu của bộ máy quản lý Nhà nước Cơ cấu của bộ máy quản lý nhà nước là một hệ thống các bộ phận, các cấp có quyền hạn và trách nhiệm khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết với nhau được sắp xếp theo từng khâu và cấp quản lý nhằm thực hiện chức năng quản lý đã được xác định. Cơ cấu của bộ máy quản lý nói chung được thiết kế theo cấu trúc chiều dọc và theo cấu trúc chiều ngang. Theo cấu trúc chiều ngang, cơ cấu của bộ máy quản lý bao gồm các bộ phận nhất định và chịu sự lãnh đạo của một cấp quản lý nhất định. Tuy nhiên, tuỳ theo đối tượng và phạm vi quản lý mà thiết kế cấu trúc theo chiều ngang của bộ máy quản lý sao cho thích hợp. Theo cấu trúc chiều dọc, cơ cấu bộ máy quản lý bao gồm các cấp quản lý và trong mỗi cấp quản lý lại gồm các bộ phận quản lý của cấp quản lý đó. Các cấp quản lý gồm có: cấp Trung ương, cấp tỉnh ( tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương), cấp huyện (quận, huyện, thị xã), cấp xã (xã, phường, thị trấn). Với hệ thống quản lý bao gồm các cấp, cấp dưới chịu sự chỉ đạo của cấp trên và chịu trách nhiệm trước cấp trên về quản lý ngành ở địa phương mà mình phụ trách. Phân công lao động là cơ sở khách quan của việc hình thành và phát triển về tổ chức và cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý. Ngay bản thân tổ chức và cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý cũng biểu hiện sự phân công lao động thực hiện chức năng xã hội nhất định về quản lý và mỗi bộ phận trong bộ máy quản lý thực hiện chuyên môn hoá trong công tác quản lý. Phân công lao động xã hội theo ngành, theo lãnh thổ, theo các giai đoạn của quá trình sản xuất, theo các loại hình kinh tế ngày càng phát triển phong phú và đa dạng. Điều đó làm tác động đến cơ cấu bộ máy quản lý và đòi hỏi xây dựng bộ máy quản lý cho phù hợp với cơ cấu kinh tế và phân công lao động trong từng thời kỳ. Yêu cầu đối với cơ cấu Bộ máy quản lý: - Xác lập cơ cấu bộ máy quản lý và các bộ phận quản lý để đảm bảo tính thống nhất và tính linh hoạt của cơ cấu bộ máy, đảm bảo chỉ đạo kịp thời công tác quản lý. - Xác định hợp lý số lượng các cấp quản lý và các bộ phận quản lý để đảm bảo tính thống nhất và tính linh hoạt của cơ cấu bộ máy, đảm bảo chỉ đạo kịp thời công tác quản lý. - Xác định rõ phạm vi quản lý, chức năng và nhiệm vụ, quyền hạn của từng cấp quản lý, của từng bộ phận quản lý, tránh các hiện tượng chồng chéo, trùng lắp, không có bộ phận phụ trách. - Trên cơ sở phân công các cấp quản lý, các khâu quản lý, xác định rõ mối quan hệ giữa các cấp, các bộ phận trong bộ máy quản lý, đảm bảo sự hoạt động nhất quán và có hiệu quả của bộ máy quản lý. - Đảm bảo tính thiết thực, tính khả thi và tính kinh tế của cơ cấu bộ máy quản lý nhằm giảm chi phí quản lý nhưng phát huy hiệu lực cao trong công tác quản lý. - Trong công tác quản lý, thực hiện đầy đủ chế độ dân chủ tập trung, chế độ một thủ trưởng. Thủ trưởng trực tiếp của một bộ phận nào đó trong cơ cấu bộ máy quản lý ra quyết định, ra nhiệm vụ cho người thuộc mình phụ trách và chịu trách nhiệm trước cấp trên trực tiếp quản lý về phạm vi quản lý của mình. Tránh tình trạng cấp tỉnh phải tuân theo mệnh lệnh của nhiều người hoặc tình trạng dân chủ một chiều, không tuân theo mệnh lệnh của thủ trưởng trực tiếp. Trong thực tế, cơ cấu bộ máy quản lý gồm một số loại hình. Tuỳ theo mục tiêu quản lý, phạm vi quản lý và năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý mà áp dụng loại hình nào cho phù hợp các loại cơ cấu của bộ máy quản lý. 1.1. Cơ cấu trực tuyến Cơ cấu trực tuyến là cơ cấu được thiết lập theo quan hệ dọc trực tiếp từ người lãnh đạo cao nhất đến thấp nhất. Người thực hành chỉ nhận mệnh lệnh từ một người phụ trách trực tiếp. Loại cơ cấu này có mô hình như sơ đồ sau: Sơ đồ 1: Sơ đồ tổ chức bộ máy theo cơ cấu trực tuyến Người lãnh đạo Người thực hiện Ưu điểm: trước hết của cơ cấu trực tuyến là phân định rõ quyền hạn và trách nhiệm của người lãnh đạo và người thực hành. Đó là việc thực hiện chế độ thủ trưởng và người lãnh đạo phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về kết quả công việc của người dưới quyền. Thực hiện cơ cấu trực tuyến sẽ đảm bảo hoạt động nhanh chóng, không có trung gian, đồng thời tạo điều kiện cho việc chỉ đạo và kiểm tra thuận lợi. Nhược điểm: là người lãnh đạo phải có kiến thức toàn diện để chỉ đạo tất cả các bộ phận quản lý chuyên môn và hạn chế việc sử dụng các chuyên gia có trình độ nghiệp vụ cao về từng mặt quản lý. Do vậy, loại cơ cấu này chỉ được áp dụng ở cấp quản lý có quy mô nhỏ. 1.2. Cơ cấu chức năng Tổ chức bộ máy quản lý theo cơ cấu chức năng là mỗi bộ phận đảm nhận thực hiện một chức năng quản lý. Các bộ phận đó có quyền chỉ đạo các đơn vị trực tuyến. Những nhân viên trong các bộ phận chức năng phải là những người am hiểu chuyên môn, nghiệp vụ trong phạm vi quản lý của mình. Loại cơ cấu này có mô hình như sơ đồ sau: Sơ đồ 2: Sơ đồ tổ chức bộ máy theo cơ cấu chức năng Phòng chứcnăng A2 Phòng chứcnăng A1 Người lãnh đạo A Cán bộ chuyên môn B3 Cán bộ chuyên môn B2 Cán bộ chuyên môn B1 Ưu điểm: thúc đẩy sự phát triển chuyên môn hoá các chức năng quản lý, nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn và thu hút được các chuyên gia vào công tác quản lý. Mặt khác, do có các bộ phận đảm nhận các chức năng quản lý nên lãnh đạo không đi vào giải quyết sự vụ, có điều kiện tập trung vào những vấn đề lớn có tính chiến lược trong công tác quản lý của ngành, của cấp. Nhược điểm: do cấp dưới phải phục tùng nhiều đầu mối chỉ đạo khác nhau của cùng một cấp quản lý nên gây phức tạp cho việc chấp hành, cũng như gây khó khăn cho việc phối hợp công tác kiểm tra và trong việc đánh giá kết quả quản lý. Tuy vậy, trong thực tiễn cơ cấu này được áp dụng ở cơ quan quản lý có khối lượng công việc lớn, nhiệm vụ phức tạp. 1.3. Cơ cấu kết hợp trực tuyến và chức năng Cơ cấu kết hợp trực tuyến và chức năng có các bộ phận chức năng làm tham mưu về chuyên môn cho người lãnh đạo trực tuyến và làm nhiệm vụ kiểm tra các quyết định. Loại hình cơ cấu bộ máy quản lý này về thực chất là các bộ phận tham mưu trở thành các bộ phận chuyên môn riêng, giúp cho lãnh đạo trong việc ra quyết định quản lý. Loại cơ cấu này có mô hình như sơ đồ sau: Sơ đồ 3: Sơ đồ tổ chức Bộ máy theo cơ cấu kết hợp Lãnh đạo Phòng chức năng Phòng chức năng Người thừa hành Người thừa hành Người thừa hành Ưu điểm: có khả năng quản lý những đối tượng phức tạp trên quy mô rộng. Nhược điểm: khó khăn trong việc phối hợp, điều hoà của các bộ phận, nếu quản lý không chặt chẽ thì dễ dẫn đến tình trạng quan liêu, cửa quyền. 2. Vấn đề phân công - phân cấp trong quản lý đất đai. 2.1. Những vấn đề chung có quan hệ đến việc phân công, phân cấp trong quản lý đất đai. Phân quyền quản lý Việc phân công - phân cấp trong quản lý nhà nước nói chung và quản lý đất đai nói riêng thực chất là việc phân quyền quản lý. Trước khi đề cập đến việc phân quyền quản lý hành chính đối với đất đai, chúng ta cần bàn tới vấn đề mà nhiều người trong giới nghiên cứu quản lý xã hội thường nói đến, đó là việc tập trung quyền - tản quyền - tập quyền trong thiết chế cơ chế quản lý. Tập trung và tản quyền được tiến hành và phải giữ vững trên một số lĩnh vực chủ yếu thì sẽ là một phương thức cần thiết để chống lại tập trung quan liêu, chống lại khả năng vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ. Có nhiều hoạt động quản lý nhà nước cần được quản lý tập trung thống nhất ở bộ máy chính quyền Trung ương (Chính phủ, các Bộ), song hiệu quả của công tác quản lý lại không thể đạt được nếu như có những việc cần phải giải quyết tại chỗ, mặc dù đó là vấn đề thuộc chính quyền Trung ương đảm nhận. Đối với đất đai thì vấn đề này càng rõ nét vì mọi diễn biến của quan hệ đất đai đều gắn liền với cơ sở. Trong hình thức tản quyền, những vấn đề cơ bản của hoạt động quản lý nhà nước cần phải tập trung trong tay Chính phủ Trung ương nhưng không tập quyền. Những quyền của Trung ương được thực hiện thông qua các cơ quan của chính quyền Trung ương đặt tại địa phương, hay các cơ quan đại diện của chính quyền đảm nhận. Trong mô hình tập trung - tản quyền, các cơ quan của chính quyền Trung ương hay cơ quan đại diện của chính quyền Trung ương ở địa phương là những cơ quan của bộ máy Trung ương nhưng nằm ở địa phương, hoạt động theo hệ thống thứ bậc và thông suốt từ Chính phủ Trung ương xuống. Họ không phụ thuộc vào chính quyền địa phương, không chịu chế độ song trùng phụ thuộc. Tản quyền tức là quyền lực và quyền hạn của cơ quan Trung ương được bố trí thực hiện tại địa bàn địa phương. Hay nói cách khác, Chính phủ và nền hành chính Nhà nước thống nhất tạo thành một mạng lưới hành chính nhà nước thống nhất có mặt ở cả Trung ương và các đơn vị hành chính - lãnh thổ. Đó là một phương thức thực hiện tập trung hợp lý của nguyên tắc tập trung dân chủ. + Tập quyền: Bộ máy Nhà nước ta có thể theo Hiến pháp và các văn bản pháp luật hiện hành khác không tổ chức theo các nguyên lý của thuyết “Tam quyền phân lập” mà không theo nguyên tắc tập quyền. Nhưng nguyên tắc tập quyền không loại trừ khả năng phân công theo chức năng hợp lý và rõ ràng giữa các hệ thống cơ quan nhà nước. + Phân quyền: Tập trung - tập quyền và tản quyền là sự tập trung quản lý của Nhà nước trên những lĩnh vực nhất định. Nhưng đồng thời có rất nhiều vấn đề về chính trị, kinh tế, xã hội của một quốc gia, không chỉ được giải quyết theo chiều dọc của cơ cấu thứ bậc trong hệ thống hành chính. Nhiều vấn đề mang tính địa phương (như đất đai) phải được giải quyết trong mối quan hệ của các vấn đề của địa phương. Tuy Chính phủ là người chịu trách nhiệm cao nhất đối với nền hành chính nhưng để đảm bảo phải giải quyết các vấn đề địa phương, phải thành lập các cấp chính quyền địa phương do nhân dân địa phương bầu ra, quản lý công việc của địa phương, thuộc quyền lợi của địa phương. Đó là những thiết chế có tư cách pháp nhân công quyền, những đơn vị mang tính tự quản hoặc bán tự quản. Đó là bộ phận của nền hành chính công có nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm thẩm quyền riêng của mình đối với các vấn đề thuộc địa phương. Theo luật đất đai, chính quyền địa phương được chủ động giải quyết một số vấn đề mang tính đặc thù nhưng vẫn trong khuôn khổ của pháp luật. Đó là phương thức thực hiện dân chủ của nguyên tắc tập trung dân chủ. Tập trung - tập quyền (dù có thêm tản quyền) mà không có phân quyền chính là để khắc phục nạn quan liêu. Trong khi yêu cầu của trình độ dân chủ hoá ngày càng cao do tình hình phát triển kinh tế - xã hội, do trình độ dân trí, dân sinh không ngừng phát triển, phân quyền là một xu thế phổ biến trên thế giới và cả ở Việt Nam. Những vấn đề đặt ra cho từng đơn vị lãnh thổ ở từng địa phương đòi hỏi phải giải quyết tại chỗ bởi những cơ quan do dân cử, gần dân, sát dân trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật đã quy định dưới sự kiểm tra, kiểm soát của Chính phủ Trung ương. Những dấu hiệu cần thiết của một đơn vị chính quyền địa phương là: - Có một phạm vi lãnh thổ được xác định; - Có một cộng đồng dân cư với các quyền bầu cử, ứng cử và có quyền tham gia các công việc địa phương; - Là một pháp nhân công quyền; - Có thẩm quyền riêng (được pháp luật quy định cụ thể trong văn bản pháp luật); - Có một nguồn nhân lực, tài lực riêng (ngân sách và nhân sự); - Có một cơ quan dân cử, có quyền quyết định các vấn đề thuộc địa phương trên địa bàn lãnh thổ không trái với quy định của luật và một cơ quan chấp hành - hành chính. Phân quyền chức năng và phân quyền lãnh thổ Trong khái niệm phân quyền cần phân biệt: phân quyền chức năng (kỹ thuật) trên những lĩnh vực định, là sự phân giao cho một tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được quy định rõ ràng (như phân quyền cho cơ quan sự nghiệp, cho các tổ chức quản lý kinh tế, tài chính, văn hoá, xã hội). Phân quyền lãnh thổ là sự chuyển giao quyền hạn, nhiệm vụ, trách nhiệm, phương tiện vật chất, tài chính, nhân sự cho chính quyền địa phương trở thành đơn vị tự quản có tư cách pháp nhân, có ngân sách riêng, được tự chủ quyết định những vấn đề thuộc địa phương. Về lý luận thì khái niệm tập quyền, tản quyền, phân quyền là khá rõ. Song trong thực tế mô hình tản quyền được thực hiện tuỳ theo điều kiện. Trong điều kiện cụ thể của nền hành chính nước ta hiện nay, tản quyền, phân quyền đều không rõ ràng. Nhiều ý kiến cho rằng, chúng ta phân quyền quá mạnh. Vấn đề phân tán cục bộ, vô kỷ cương trong quản lý nhà nước hiện nay không phải do tập trung quá mạnh như thời kỳ quan liêu, cũng không phải phân quyền quá nhiều mà nguyên nhân cơ bản của hiện tượng này là: - Pháp luật thiếu - không hoàn chỉnh, không cụ thể, thiếu kỷ cương, pháp chế lỏng lẻo, coi thường phép nước; - Trình độ nhận thức và kiến thức pháp luật còn hạn chế; - Năng lực quản lý còn yếu; - Tập trung quan liêu cũng đẻ ra phân tán “xé rào” mà phân tán vô Chính phủ lại đẻ ra phản ứng ngược lại là tập trung quá mức. Các điều kiện cơ bản để thực hiện phân quyền: Phân quyền tức là phân giao thẩm quyền trong khuôn khổ của pháp luật cho chính quyền địa phương để nó tự chịu trách nhiệm giải quyết các vấn đề thuộc địa phương. Như vậy thẩm quyền bao gồm cả khía cạnh quyền hạn và trách nhiệm. Mặt khác phải tăng cường kiểm tra của các cơ quan thanh tra, kiểm tra tính hợp pháp của các quyết định. Đảm bảo sự phân quyền có hiệu lực và đảm bảo cho sự thống nhất quốc gia phải có các điều kiện cơ bản là: - Có sự thống nhất chính trị mạnh và có một nền kinh tế tương đối vững chắc; - Có đủ nguồn nhân lực và nguồn tài chính để tiến hành các hoạt động phân quyền; - Có một hệ thống pháp luật đầy đủ, cụ thể, có hiệu lực; - Có một chính sách và chiến lược phân quyền; - Có một đội ngũ cán bộ quản lý được đào tạo thống nhất, có năng lực quản lý; - Trình độ dân trí phát triển; - Phải vừa tăng cường quản lý tập trung, vừa tăng cường dân chủ, tạo sự cân bằng quyền hạn, trách nhiệm của các cấp; Quan hệ giữa quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ Nền hành chính nhà nước được tổ chức và điều hành theo nguyên tắc kết hợp, quản lý theo ngành (lĩnh vực) với quản lý theo lãnh thổ. Để làm rõ nguyên tắc này, cần phân tích vấn đề chủ yếu sau: cơ cấu kinh tế - xã hội; cơ cấu kinh tế ngành, cơ cấu kinh tế - xã hội, lãnh thổ; xoá bỏ sự phân biệt máy móc, chia cắt giữa kinh tế Trung ương và kinh tế địa phương. Tuy có bộ phận kinh tế do Trung ương quản lý và bộ phận kinh tế do chính quyền địa phương quản lý nhưng về kinh tế là nằm trong cơ cấu kinh tế chung. Không có cơ cấu kinh tế Trung ương riêng, cơ cấu kinh tế địa phương riêng; xác định rõ và phân biệt rõ nội dung quản lý thống nhất, tập trung của nhà nước (Trung ương), quản lý thống nhất theo ngành, quản lý thống nhất theo lãnh thổ, không lẫn lộn giữa ngành, (phạm trù kinh tế), liên hiệp ngành (phạm trù tổ chức kinh doanh theo ngành) với Bộ (phạm trù tổ chức bộ máy nhà nước) là cơ quan của Chính phủ quản lý nhà nước các ngành, lĩnh vực được phân công. Phân biệt cơ cấu kinh tế - xã hội, lãnh thổ với chính quyền địa phương quản lý Nhà nước trên lãnh thổ, khắc phục quan điểm và nhận thức lệch lạc là Nhà nước, Chính phủ và các Bộ Trung ương quản lý các công việc của Trung ương, Chính quyền địa phương và các sở, ty quản lý các công việc của địa phương. Yêu cầu quản lý theo ngành và lĩnh vực cao hay thấp là tuỳ thuộc điều kiện phát triển và đặc điểm của từng ngành hay lĩnh vực, nhưng nó nhằm yêu cầu phát triển thống nhất về mặt chiến lược, quy hoạch và phân bố đầu tư cho ngành; chính sách về tiến bộ KHKT; đào tạo đội ngũ cán bộ KHKT và quản lý, công nhân lành nghề. Yêu cầu quản lý thống nhất theo lãnh thổ là bảo đảm sự phát triển tổng thể các ngành, các lĩnh vực các mặt hoạt động chính trị - văn hoá - xã hội trên một đơn vị hành chính - lãnh thổ nhằm thực hiện sự quản lý Nhà nước toàn diện, khai thác tối đa và có hiệu quả cao nhất mọi tiềm năng trên lãnh thổ, không phân biệt ngành, thành phần kinh tế - xã hội, cấp quản lý nhà nước trực tiếp, sự quản lý theo lãnh thổ tất yếu phải được sự kết hợp và thống nhất với nhau theo luật pháp Nhà nước và sự điều hành thống nhất của hệ thống Nhà nước. Tìm hiểu quá trình phân định các đơn vị hành chính ở nước ta từ năm 1945 đến nay Đơn vị hành chính là một trong những cơ sở quan trọng để xây dựng mô hình tổ chức quản lý Nhà nước nói chung và đất đai nói riêng, từ đó có sự phân công phân cấp quản lý. Đơn vị hành chính được hiểu là những khu vực đất đai, dân cư lớn nhỏ khác nhau do Nhà nước phân định và giao cho chính quyền của từng đơn vị hành chính quản lý. Đơn vị hành chính được hình thành trên ba yếu tố cơ bản là: có vùng lãnh thổ, có dân cư trú, có chính quyền quản lý. Địa giới hành chính là đường phân chia lãnh thổ thành các đơn vị hành chính nối tiếp nhau, thống nhất trong bộ máy tổ chức Nhà nước. ở ngoài thực địa, đường địa giới hành chính được thiết lập dựa theo các yếu tố tự nhiên (sông, suối, mương tưới, kênh, rạch, đồi núi, bờ vùng, bờ thửa) để dễ nhận biết. Đường địa giới hành chính xã là cơ bản nhất vì trong một số trường hợp cũng là đường địa giới hành chính cấp huyện, đường địa giới cấp tỉnh, và cả đường địa giới quốc gia. Đường địa giới hành chính là điều kiện cần có để một đơn vị hành chính thể hiện tính định vị. Nhờ tính định lượng và định vị của mỗi đơn vị hành chính mà cơ cấu tổ chức đơn vị hành chính của Nhà nước được sắp xếp theo hệ thống ổn định, thống nhất và hợp pháp trong bộ máy nhà nước. Vị trí của đường địa giới hành chính trong tổ chức bộ máy Nhà nước luôn luôn phản ánh tính chất, vị trí, chức năng, nhiệm vụ đơn vị hành chính. Do đó, trong hoàn cảnh của Việt Nam nó cũng thường xuyên thay đổi vị trí của mỗi cấp qua từng thời kỳ lịch sử. Địa giới hành chính là cơ sở pháp lý để phân định ranh giới, trách nhiệm của các cấp chính quyền địa phương đối với đất đai, dân cư và mọi hoạt động khác thuộc phạm vi được giao quản lý. Theo Hiến pháp thì việc thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; thành lập hoặc giải thể đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội quyết định. Việc điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương do Chính phủ quyết định. 2.2. Việc phân công phân cấp trong quản lý kinh tế đối với đất đai Bản chất của việc quản lý kinh tế đối với đất đai là sự tác động của nhà nước làm cho đất đai sinh lợi tối đa trên từng mục đích sử dụng và toàn xã hội. Điều đó chỉ có thể đạt được khi._. có những giải pháp hợp lý cho công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai và pháp luật đất đai. Bởi vì quy hoạch - kế hoạch sử dụng đất đai là một chức năng tất yếu và thiết yếu của quản lý Nhà nước đối đất đai. Đặc điểm của nguồn thu ngân sách từ đất là phải thực hiện từ cơ sở trên từng thửa đất và từng người sử dụng, gắn liền với quyền lợi và trách nhiệm của chính quyền cơ sở. Do đó việc phân phối lại khoản thu này cho các cấp để dùng vào việc phát triển đất đai phải đảm bảo hài hoà lợi ích giữa Trung ương và địa phương, một tỷ lệ thích đáng cần ưu tiên dành cho cơ sở . Phân công phân cấp trong việc thực hiện các nhiệm vụ cụ thể theo Luật Đất đai hiện hành Quốc hội thực hiện quyền quyết định, quyền giám sát tối cao đối với việc quản lý và sử dụng đất đai trong cả nước. Hội đồng nhân dân các cấp thực hiện quyền quyết định, giám sát việc quản lý và sử dụng đất trong địa phương mình. Chính phủ thống nhất quản lý đất đai trong cả nước. Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về đất đai trong địa phương mình theo quy định pháp luật. Thủ trưởng cơ quan quản lý đất đai Trung ương (Tổng cục Địa chính) chịu trách nhiệm trước Chính phủ, thủ trưởng cơ quan quản lý đất đai địa phương (Giám đốc sở địa chính cấp tỉnh, trưởng phòng địa chính cấp huyện, cán bộ địa chính cấp xã) chịu trách nhiệm trước uỷ ban nhân dân cùng cấp trong việc quản lý nhà nước về đất đai. IV. Công tác cán bộ trong bộ máy quản lý đất đai 1. Vai trò của cán bộ Chủ tịch Hồ chí minh đã từng dạy: cán bộ là cái gốc của mọi công việc, công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Thực hiện lời dạy đó, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm và coi trọng công tác đào tạo cán bộ, bồi dưỡng cán bộ có năng lực, có phẩm chất cho sự nghiệp cách mạng. Thực tế gần 50 năm qua, nhân dân ta, Đảng ta và Hồ chủ tịch đã đào tạo, xây dựng nên một đội ngũ cán bộ đông đảo trung thành với sự nghiệp cách mạng, nhiệt tình năng động và sáng tạo trong công việc. Đội ngũ cán bộ ấy đã tiên phong trong sự nghiệp giữ nước và dựng nước, đã lôi cuốn được nhân dân tham gia cách mạng, xây dựng nền kinh tế mới. Vai trò của người cán bộ luôn luôn được khẳng định trong thời kỳ của cuộc cách mạng. Song trong giai đoạn hiện tại - giai đoạn vật lộn với cơ chế kinh tế thị trường để đưa nền kinh tế hiện vật, tự cung tự cấp thành một nền kinh tế hàng hoá phát triển có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN - lại càng cần có những cán bộ có năng lực, có trình độ và phẩm chất cách mạng vững vàng để tổ chức, quản lý nền kinh tế phát triển theo nguyện vọng của nhân dân và định hướng lâu dài Đảng. Từ cách nhìn nhận trên đây có thể thấy vai trò của cán bộ được thể hiện ở một số mặt sau đây: - Thứ nhất, cán bộ là người đề xướng và tập hợp lực lượng để hình thành các tổ chức, đơn vị kinh tế - xã hội theo những yêu cầu phát triển của xã hội. Xét về tính chất của hành động có thể coi đây là vai trò lãnh đạo của cán bộ đối với quần chúng nhân dân. Trong bộ máy quản lý nhà nước về đất đai, cán bộ này thường bố trí ở cấp Trung ương như Tổng cục Địa chính để dự thảo và ban hành các văn bản pháp quy hướng dẫn việc tổ chức thực hiện công tác quản lý nhà nước về đất đai trên phạm vi cả nước. - Thứ hai, cán bộ là người quản lý, điều hành các đơn vị, tổ chức và cá nhân thực hiện chức năng, nhiệm vụ được phân công để đạt mục tiêu kinh tế - xã hội đặt ra trong từng thời kỳ. Cơ sở để họ thực hiện vai trò trên đây là đường lối của Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước, hướng dẫn các cơ quan quản lý cấp trên và các yếu tố cấu thành tổ chức. Những cán bộ này được bố trí tại các cấp thực thi như sở địa chính, các phòng quản lý địa chính. - Thứ ba, cán bộ là người gương mẫu chấp hành các quy định của Nhà nước trên lĩnh vực công tác được giao, đồng thời vận động mọi người cùng nghiêm chỉnh thực hiện. Như vậy là cán bộ phải là người có kiến thức, có năng lực, phẩm chất để tự quản lý mình, quản lý xã hội và quản lý nhà nước, các cán bộ công chức còn được sử dụng quyền lực công để thực thi nhiệm vụ như quy định tại Pháp lệnh cán bộ công chức được ban hành ngày 26-2-1998. 2. Đào tạo cán bộ Thấy rõ được vai trò quan trọng của cán bộ trong công tác quản lý nhà nước nên những năm qua Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ. Hiện nay chúng ta đang thực hiện quyết định 874/TTg ngày 20-11-1996 của Thủ Tướng Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và công chức nhà nước và Nghị quyết Trung ương lần thứ 3 (khoá VIII) ngày 9-6-1997 về chiến lược cán bộ. Theo tinh thần các văn bản pháp quy của Nhà nước về đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức được đào tạo bồi dưỡng cán bộ, chúng ta phấn đấu mỗi năm có 20% cán bộ, công chức được bồi dưỡng đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ và kiến thức quản lý nhà nước. Tinh thần này được áp dụng trong tất cả các ngành, trong đó có ngành Địa chính. Mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý nhà nước phải dựa trên quan điểm chính sách về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Đảng ta là: “Đầu tư thích đáng cho việc đào tạo, bồi dưỡng những người ưu tú trở thành cán bộ chủ chốt. Bồi dưỡng tài năng ngay từ các trường phổ thông, đại học và trung học chuyên nghiệp. Dành kinh phí để cử cán bộ ưu tú và sinh viên xuất sắc đi đào tạo, tham quan, bồi dưỡng ở nước ngoài. Nguồn đầu tư để phát triển và nâng cao chất lượng đào tạo và bồi dưỡng cán bộ bao gồm từ ngân sách nhà nước các cấp, kinh phí của các tổ chức trong và ngoài nước”. Trong những năm trước mắt, mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý nhà nước trong các ngành Địa chính: - Nhằm làm cho cán bộ, công chức nhà nước đạt đủ các tiêu chuẩn quy định đối với các ngạch bậc công chức, với các chức danh quản lý theo “Tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức viên chức nhà nước” đã được Nhà nước ban hành cho các ngành. - Khắc phục kịp thời những thiếu hụt về trình độ chuyên môn, hạn chế về năng lực quản lý để cán bộ thực hiện tốt nhiệm vụ được giao theo phân cấp quản lý của ngành. - Bổ sung những kiến thức, kỹ năng cơ bản về chuyên môn nghiệp vụ quản lý hành chính theo yêu cầu cải cách nền hành chính nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy quản lý của ngành từ Trung ương đến cơ sở. 2.1. Nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng. Để đạt được các mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ như trên, ngành Địa chính cần phải dự kiến được những nội dung, chương trình đào tạo cán bộ kỹ thuật, cán bộ kinh tế từ sơ cấp đến sau đại học để trình các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng cần phải gắn liền với chức năng, nhiệm vụ chung của ngành, của mỗi địa phương và cơ sở ở từng bậc học, tránh bỏ sót nhưng cũng không nên chồng chéo. 2.2. Hệ thống đào tạo, bồi dưỡng Mặc dù có tính chất xã hội hoá giáo dục mà hệ thống đào tạo, bồi dưỡng hiện nay của ta rất phong phú, đa dạng song hệ thống đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý Nhà nước cho các ngành trong đó có ngành Địa chính là những cơ sở thống nhất theo chương trình quốc gia. Hệ thống này bao gồm các trường: - Đại học: + Khoa quản lý đất đai - Trường Đại học Nông nghiệp I + Chuyên ngành quản lý đất đai - Khoa địa lý - Trường Đại học Quốc gia Hà Nội + Khoa trắc địa - Trường Đại học Mỏ Địa chất + Chuyên ngành kinh tế và Quản lý đất đai - Trường đại học Kinh tế quốc dân + Đại học Nông lâm Thủ đức - Trung học: có ba trường là trung học I,II và III. 2.3. Hình thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Để đáp ứng nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng ngày càng lớn của ngành nên các hình thức đào tạo cũng phát triển không ngừng: - Thứ nhất: củng cố, phát triển các hình thức đào tạo truyền thống. + Tập trung dài hạn tại các địa bàn phù hợp như tại các trường đại học quốc gia hay phân hiệu của trường đặt ở các địa phương. Cách đào tạo này thường mang lại chất lượng cao cho người học nhưng nó lại đòi hỏi nhiều thời gian và liên tục; yêu cầu đó không phù hợp với những cán bộ đương nhiệm tránh công tác đi học xa. + Tại chức tập trung là hình thức đào tạo thích hợp với những cán bộ đương chức về quỹ thời gian. Họ đến tập trung học tập vào một số thời gian thích hợp trong năm và được miễn một số môn học do họ tự cập nhật, vì thế tổng quỹ thời gian học tập ngắn hơn so với chính quy dài hạn. + Bồi dưỡng kiến thức theo mảng chương trình được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt dành cho cán bộ đương chức để bổ sung, hoàn thiện những kiến thức về quản lý kinh tế, chính trị, kỹ thuật phục vụ cho công việc mà họ đang thực thi. - Thứ hai: từng bước ngiên cứu thực hiện các hình thức đào tạo, bồi dưỡng hiện đại như: + Đào tạo từ xa: là hình thức đào tạo không tập trung, các học viên ở mọi lứa tuổi, mọi ngành nghề, mọi nơi có cầu đào tạo về một chương trình nào đó, họ có thể tự nguyện đăng ký dự học, mua tài liệu (gồm sách, băng hình, băng tiếng) để tự ngiên cứu và dự thi theo quy định. + Đào tạo, bồi dưỡng qua mạng vi tính nội bộ là hình thức đào tạo, bồi dưỡng hiện đại nhất hiện nay. Nó được diễn ra giữa người hướng dẫn và người học bằng mạng vi tính theo những kênh truyền dẫn chương trình quy định. Họ có thể gặp nhau, tranh luận với nhau về những vấn đề nào đó mặc dù rất xa nhau. Các hình thức đào tạo, bồi dưỡng ngày càng phong phú, hiện đại để đáp ứng được yêu cầu ngày càng đa dạng của người học. Tuỳ theo điều kiện của ngành Địa chính có thể chọn một trong những hình thức đào tạo trên cho phù hợp. V. Một số mô hình tổ chức hệ thống quản lý đất đai của các nước và bài học rút ra đối với Việt Nam. 1. Một số mô hình tổ chức bộ máy của một số nước trên thế giới: 1.1. Hệ thống tổ chức quản lý đất đai của Liên Bang Malaixia. Malaixia là quốc gia liên bang gồm 13 bang, nằm trên hai phần lãnh thổ tách biệt. Phần đất phía tây là bán đảo Malaixia gồm 11 bang kinh tế rất phát triển, còn 2 bang phía Đông kém phát triển hơn. Liên bang Malaixia theo chế độ quân chủ lập hiến, xác lập nền cộng hoà nghị viện. Đứng đầu Nhà nước là Quốc vương, được bầu ra từ các Sultan theo nhiệm kỳ 5 năm. Ngoài Quốc vương còn có 1 phó vương giúp việc.Thượng viện (Senate) gồm 69 nghị sĩ (nhiệm kỳ 3 năm) và hạ viện (House of Representatives) gồm 192 nghị sĩ (nhiệm kỳ 5 năm). Nội các Malaixia có 23 bộ. Hiến pháp Liên bang quy định các cơ quan lập pháp, hành pháp và Toà án có ở cả 2 cấp Liên bang và cấp bang. Hiện nay, Malaixia có khoảng 18 đảng phái, tổ chức chính trị lớn. a/ Mô hình tổ chức Bộ Đất đai và Hợp tác phát triển là cơ quan quản lý nhà nước về đất đai và đo đạc - bản đồ trên toàn lãnh thổ Malaixia. Chức năng của bộ là thiết lập sự quản lý tốt nhất về đất đai và đo đạc - bản đồ, đồng thời tiến hành phát triển đất mới (khai hoang) và phát triển phong trào hợp tác để hỗ trợ chương trình hành động của Chính phủ nhằm đạt được mục tiêu phát triển đặt ra cho năm 2020. Liên Bang Malaixia có 3 cấp quản lý như sau: + Cấp liên bang + Cấp bang + Cấp quận 1. Cấp liên bang - Hội đồng Đất đai Nhà nước - Bộ trưởng Bộ Đất đai và Hợp tác phát triển - Tổng cục trưởng Tổng cục Đất đai và Hầm mỏ - Tổng cục trưởng Tổng cục Đo đạc và Bản đồ 2. Cấp Bang - Chính quyền Bang - Cục trưởng Cục Đất đai và Hầm mỏ Bang - Cục trưởng cục Đo đạc bang 3. Cấp Quận - Cán Bộ quản lý đất đai Quận b/ Tình hình quản lý và sử dụng đất đai + Công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất: Các Bang trên bán đảo Malaixia phải tuân thủ Luật 172 và theo các điều khoản của Luật này thì các Uỷ ban quy hoạch Bang được thành lập để giúp Chính quyền Bang về các công việc liên quan tới sử dụng đất trong phạm vi của bang. Sơ đồ quy hoạch phát triển theo Luật 172, sau khi được Uỷ ban phê duyệt, sẽ được đăng báo và mọi công trình xây dựng phát triển đều phải tuân thủ theo sơ đồ quy hoạch này. Sơ đồ quy hoạch được xây dựng công khai để lấy các ý kiến đóng góp của các cơ quan, tổ chức, nhân dân trong quá trình quy hoạch. Quy hoạch sử dụng đất là một công cụ rất quan trọng kết hợp việc quy hoạch và quản lý nguồn tài nguyên đất thông qua việc sử dụng hợp lý, bảo vệ và phát triển đất theo quy định của Luật quy hoạch đô thị và nông thôn 1976 (Luật 172). Cơ quan tư vấn và chịu trách nhiệm quản lý và Vụ Quy hoạch Đô thị và Nông thôn của Bộ Nhà cửa và Chính quyền địa phương. + Công tác đo vẽ lập bản đồ Công tác đo đạc thành lập bản đồ địa chính, đo vẽ lập bản đồ địa hình là một trong những nhiệm vụ chính của Tổng cục Đo đạc Bản đồ Malaixia. Tổng cục xuất bản bản đồ địa hình tỷ lệ 1/50.000 cho toàn bộ phần bán đảo Malaixia. Tại Malaixia, tuy trách nhiệm đo đạc thành lập bản đồ địa chính thuộc về Chính phủ liên bang do Tổng Đo đạc Bản đồ Malaixia đảm nhiệm nhưng đất đai lại là vấn đề có liên quan chặt chẽ đến từng chính quyền bang. Trong khu vực tư nhân, các Nhà đo đạc có giấy phép (Licensed Land Surveyor) hoạt động. Những người này tự trang bị cho họ các thiết bị đo đạc tiên tiến như máy toàn đạc điện tử, GPS và sử dụng các chương trình phần mềm mới nhất để hành nghề. Theo quy định, từ năm 1997, các Nhà đo đạc có giấy phép phải giao nộp kết quả đo đạc ở dạng số. + Công tác đăng ký đất đai 1.Theo Bộ luật đất đai, Chính quyền bang có quyền chuyển nhượng đất đai: - Vĩnh viễn hoặc không quá 99 năm; - Khi xem xét việc trả tiền thuê hàng năm; - Khi xem xét việc trả tiền thuê thêm, trừ khi được miễn; - Đưa vào một loại hình sử dụng đất; - Các điều kiện và hạn chế về quyền lợi được xem xét như cần thiết; 2. Các loại bằng khoán mà Bang có thể chuyển nhượng là: - Bằng khoán đăng ký và bằng khoán Phòng đất đai (là loại bằng khoán hoàn chỉnh) có nghĩa đất được đo đạc xong. - Việc chuyển nhượng đất đai chỉ có hiệu lực khi có sự đăng ký văn bản bằng khoán đối với đất đai. Để thực hiện quá trình chuyển nhượng, thường thì là đăng ký một bằng khoán hạn chế tương ứng với bằng khoán đăng ký hoặc bằng khoán phòng đất đai đối với đất đã được phép chuyển nhượng. Bằng khoán hoàn chỉnh sẽ chỉ được cấp khi đã hoàn thành xong công việc đo đạc đất. Khi cấp bằng khoán hoàn chỉnh thì bằng khoán hạn chế sẽ được huỷ bỏ. Đăng ký giao dịch 1. Giao dịch (ví dụ: chuyển nhượng, cho thuê, trả tiền, cho thuê lại...) có thể có hiệu lực đối với đất được chuyển nhượng. 2. Các văn kiện giao dịch được xuất trình tại cơ quan đăng ký Bằng khoán đất (nếu là bằng khoán đăng ký) hoặc tại phòng đất đai (nếu là bằng khoán phòng đất đai) để đăng ký. 3. Khi đã đăng ký, bằng khoán hoặc quyền lợi sẽ có giá trị vĩnh viễn (trừ khi phát hiện có lừa gạt, giả mạo, không trung thực...). 4. Cán bộ đăng ký (hoặc Cán bộ quản lý đất nếu là bằng khoán phòng đất đai) chịu trách nhiệm bảo quản an toàn các Sổ đăng ký bằng khoán, văn kiện giao dịch đã được đăng ký, sổ sách hoặc các hồ sơ khác lưu giữ tại Cơ quan đăng ký hoặc Phòng đất đai. + Hệ thống thông tin đất đai 1. Giới thiệu: - ý tưởng hiện đại hoá hệ thống địa chính qua việc sử dụng máy tính bắt đầu từ năm 1982. Nhu cầu ngày càng gia tăng bởi Nội các Malaixia, Mentari Besarz và Chánh thư ký báo chí của Bộ trưởng, Hội đồng đất đai Nhà nước và Bộ Đất đai và Phát triển khu vực (MLRD). Các vấn đề liên quan là nâng cao trình độ quản lý và hành chính về đất đai ở cấp Bang và cấp Quận, thành lập một Trung tâm thông tin đất đai và những vấn đề liên quan phục vụ các mục đích quy hoạch và hỗ trợ ra quyết định. - Để thực hiện nhiệm vụ này, bộ phận hệ thống thông tin đất đai đã được thiết lập trực thuộc Văn phòng Tổng cục trưởng Đất đai và Hầm mỏ. Công việc nghiên cứu khả thi đã được tiến hành và Báo cáo đã được hoàn thànhvào tháng 3/1984 đề xuất việc thành lập một Hệ thống thông tin đất đai ở cấp Bang và cấp Quận. Dự án này đã được thực hiện chia thành các giai đoạn bắt đầu với các Phòng đất đai Quận rồi tiếp tục đến Cục trưởng Cục đất đai và Hầm mỏ Bang và cuối cùng là Bộ cấp Liên bang. Cuối năm 1984 hệ thống chính thức đi vào vận hành. Hệ thống phục vụ các hoạt động hàng ngày và định kỳ của Phòng đất đai, đưa ra các số liệu thống kê và báo cáo quản lý mà trước đây không thể hoàn thành được chính xác và đúng thời gian do khối lượng lớn hồ sơ. - Mục tiêu của hệ thống này là cung cấp một hệ thống thông tin toàn diện và tích hợp để trợ giúp công tác quy hoạch và quản lý nhằm tạo ra một sự quản lý đất đai hiện đại, phù hợp và hiệu quả ở các cấp Liên bang, Bang và Quận. Mục tiêu của hệ thống đăng ký đất đai được tin học hoá như là một thành phần của hệ thống thông tin đất đai như sau: * Tạo ra và duy trì hệ thống quản lý tính toán hiệu quả và có tính hệ thống; * Tăng cường thu thuế và giảm bớt các khoản nợ thuế bằng một hệ thống giám sát hiệu quả hơn; * Cung cấp thông tin chính xác và kịp thời phục vụ các mục đích quy hoạch và hỗ trợ ra quyết định thông qua việc cải thiện công tác bảo trì các hồ sơ; * Nâng cao các dịch vụ đối với người dân; * Xây dựng các báo cáo phân tích và quy hoạch phục vụ các mục tiêu quản lý và hành chính. Để thực hiện được một hệ thống thông tin như vậy, Chính phủ Malaixia đã trang bị cho các Phòng đất đai trên bán đảo Malaixia các máy tính và các thiết bị trợ giúp một cách đầy đủ và hiện đại. 1.2. Hệ thống quản lý đất đai của Hàn Quốc Sơ đồ 4: Sơ đồ tổ chức Bộ máy Quản lý đất đai cấp Trung ương Moha Phòng thuế địa phương Cục Địa chính Vụ Hành chính Vụ Quản lý địa chính Vụ Tư vấn kỹ thuật Vụ Tính toán địa chính Vụ Quản lý dữ liệu Sơ đồ 5: Sơ đồ tổ chức Bộ máy quản lý đất đai cấp tỉnh Chính quyền tỉnh Sở Địa chính Phòng Hành chính Phòng Quản lý địa chính Phòng Thông tin địa chính Cấp huyện Chính quyền huyện Phòng Địa chính Ban Hành chính Ban Quản lý địa chính Ban Thông tin địa chính (*Nguồn: Đề tài độc lập cấp nhà nước: Cơ sở hoạch định các chính sách sử dụng hợp lý đất đai - Viện nghiên cứu Địa chính) Sơ đồ 3: Chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan Bộ Nội vụ (Nha Địa chính) - Xét duyệt luật địa chính - Hoàn thiện hệ thống địa chính - Nghiệp vụ của uỷ ban địa chính trung ương - Nghiệp vụ của trung tâm thông tin đất đai quốc gia - Hướng dẫn, kiểm soát các văn phòng địa chính 15 tỉnh, thành (Sở Địa chính) - Nghiệp vụ và quản lý trung tâm đất đai địa phương - Thẩm quyền kiểm tra đo đạc - Nghiệp vụ uỷ ban địa chính địa phương - Hướng dẫn, kiểm sát các văn phòng địa chính và các chi nhánh của tổ chức 259 huyện, thị (Phòng Địa chính) - Bảo quản và quản lý hồ sơ địa chính - Thẩm quyền đo đạc địa chính - Quản lý ban và các thủ tục - Đo đạc và xác định giá đất niêm yết cho một thửa - Hướng dẫn, kiểm soát các văn phòng địa phương (*Nguồn: Đề tài độc lập cấp nhà nước: Cơ sở hoạch định các chính sách sử dụng hợp lý đất đai - Viện nghiên cứu Địa chính) Cơ quan quản lý đất đai của Hàn Quốc là Bộ nội vụ ( ở trung ương),Cục Địa chính (cấp tỉnh), phòng thuế địa phương (cấp huyện). ở Hàn Quốc người ta nghiên cứu rất kỹ về đặc điểm của từng thửa đất như kiểm tra vị trí, số thửa, tiêu chuẩn đất, đường bao và chủ sở hữu của thửa đất có thể trở thành một đối tượng có các quyền pháp lý. Nghiên cứu về giá đất, nghiên cứu về lịch sử của thửa đất và sau đó sản lượng và giá đất cho từng thửa sẽ được xác định. Hồ sơ địa chính bao gồm các bản đồ và sổ sách. Thông tin mô tả về một thửa đất được đăng ký và quản lý trong sổ, vị trí và các đường bao được ghi trên các bản đồ. Nhiều dự án phát triển đất đai và quy hoạc sử dụng đất được lên kế hoạch, quyết định, và tiến hành dùng thông tin đăng ký trong các hồ sơ địa chính. Các mục đăng ký - Số liệu địa chính: vị trí thửa đất (địa danh), số thửa, loại đất, biên giới hoặc các toạ độ. - Số liệu về sở hữu: tên, địa chỉ, số chứng minh nhân dân của chủ đất. - Số liệu về giá đất: giá đất được niêm yết riêng cho từng thửa, chuẩn về sản lượng, ngày tháng và lý do rà soát lại giá trị đất đai. - Các số liệu khác: định danh thửa, số tờ bản đồ, tỷ lệ, toạ độ khung của tờ bản đồ, vùng, các toạ độ của điểm khống chế, toạ độ các điểm khống chế phụ. Đất đai của Hàn Quốc được phân thành 24 loại sau: - Đồng khô - Đồng lúa nước - Vườn cấy ăn quả - Đồng cỏ - Đất rừng - Suối nước khoáng - Đồng muối - Đất ở - Nhà máy - Trường học - Đường xá - Đường sắt - Sông - Bờ sông - Mương máng - Ao hồ - Các công trình nước - Công viên - Sân chơi - Vườn công cộng - Khu tôn giáo - Khu lịch sử - Đất nghĩa địa - Đất hỗn hợp Ta thấy rằng việc chia ra làm nhiều loại đất như thế này rất dễ xác định được được một mảnh đất thuộc loại đất nào trong số 24 loại đất trên nên việc quản lý cũng dễ dàng hơn và việc xác định giá đất cũng chính xác hơn. + Hệ thống đào tạo Công tác địa chính cần sự hiểu biết về đo đạc, bản đồ, đăng ký cũng như xử lý thông tin. Với sự nỗ lực để thoã mãn các nhu cầu, các hoạt động đào tạo về địa chính trong hệ thống đào tạo đã bắt đầu từ năm 1977. Với sự mở rộng phạm vi địa chính hiện nay và trong tương lai gần, việc thành lập khoa địa chính trong các trường đại học và cao đẳng đang gia tăng. * Các trường dạy nghề Các khoá địa chính trong 5 trường dạy nghề đã mở 1977 để dạy các kỹ thuật kỹ năng trong đo đạc điạ chính. * Các trường đại học và cao đẳng Có 3 trường đại học hệ 4 năm và 6 trường cao đẳng hệ 2 năm dạy các khoá địa chính. Thêm vào đó còn có chương trình đào tạo thạc sĩ trong trường đại học Chongju năm 1980. * Trường đại học Địa chính Hàn Quốc Liên kết với Tổng công ty đo đạc địa chính Hàn Quốc, việc thành lập trường cao đẳng địa chính Hàn Quốc đã được tiến hành. Thông qua đào tạo chuyên nghiệp và toàn diện của nhà trường, sinh viên tốt nghiệp đều hy vọng sẽ đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển quản lý địa chính, đo đạc địa chính và hệ thống thông tin địa chính với các kỹ thuật cập nhật. Biểu 1: Hệ thống các trường đào tạo cán bộ quản lý địa chính của hàn quốc Trường Tên trường Năm thành lập Số năm học Số học sinh Phổ thông Kỹ thuật Pupong Kỹ thuật và Nông nghiệp Kangnung Nông nghiệp Chonan Kỹ thuật Josu Kỹ thuật Kyungsang Technicial 1977 1977 1977 1977 1977 3 3 3 3 3 50 50 100 100 100 Cao đẳng Myongji Shingu Dongshin Chungchung Kyongpuk Vocational Shinheung 1976 1977 1977 1982 1991 1991 2 2 2 2 2 2 120 160 80 80 120 80 Đại học Chongju Mokpo Seol City 1978 1984 1977 4 4 4 40 40 25 (*Nguồn: Đề tài độc lập cấp nhà nước: Cơ sở hoạch định các chính sách sử dụng hợp lý đất đai - Viện nghiên cứu Địa chính) 1.3. Hệ thống tổ chức quản lý đất đai của Vương Quốc Thuỵ Điển a/Hệ thống cơ quan thẩm quyền. Quản lý hành chính ở Thuỵ Điển chia thành 3 cấp: Trung ương, khu vực và địa phương. Tại cấp khu vực: có 24 khu vực (county), mỗi khu vực đều có Uỷ ban hành chính. Cơ quan này có quyền lực pháp lý quan trọng đối với vấn đề bảo vệ môi trường và bảo vệ thiên nhiên. Tại cấp địa phương: có 286 địa phương (Municipality). Chính quyền địa phương độc lập với Nhà nước, là cấp quan trọng và có quyền lực nhất về những vấn đề liên quan đến đất đai. Các địa phương có quyền quyết định về quy hoạch và xây dựng, theo quy định của đạo luật Quy hoạch và Xây dựng. Trong một địa phương, Hội đồng địa phương sẽ quyết định tất cả các vấn đề quan trọng liên quan đến quy hoạch; các vấn đề ít quan trọng hơn và các vấn đề liên quan đến xây dựng sẽ do Uỷ ban xây dựng giải quyết. b/ Hệ thống tổ chức ngành quản lý đất đai từ Trung ương đến địa phương. Sơ đồ 7: Hệ thống quản lý đất đai thụy điển Nghị viện Bộ tư pháp Bộ tài chính Bộ môi trường Cơ quan đo đạc đất đai Toà án quốc gia về hành chính Cơ quan thuế quốc gia Cơ quan địa chính 23 Toà án địa phương 93 Cơ quan thuế 23 Cơ quan địa chính địa phương Các địa phương Cơ quan đo đạc đất đai của thụy điển Bộ tư pháp Bộ Môi trường Cơ quan đo đạc đất đai quốc gia Toà quốc gia về hành chính 93 Cơ quan đăng ký đất đai 36 Cơ quan đăng ký địa phương 23 Cơ quan địa chính khu vực (*Nguồn: Đề tài độc lập cấp nhà nước: Cơ sở hoạch định các chính sách sử dụng hợp lý đất đai - Viện nghiên cứu Địa chính) Cơ quan địa chính ở Trung ương của Thuỵ Điển là cơ quan đo đạc quốc gia (NLS). Đăng ký đất đai của Thuỵ Điển do toà án chịu trách nhiệm chứ không phải là phòng địa chính cấp huyện như của Việt Nam. Các cơ quan đăng ký đất đai thuộc sự quản lý của Toà Quốc gia về hành chính. Để thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình, Cơ quan đo đạc đất đai quốc gia, trực thuộc Bộ Môi Trường, có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên quan như cư quan thuế thuộc Bộ Tài chính, cơ quan Toà án thuộc Bộ Tư pháp. Hệ thống đăng ký của Thuỵ Điển đã thể hiện rõ: Việc đăng ký bất động sản và đăng ký đất đai có vai trò quan trọng cho quá trình chuyển đổi cơ cấu và kinh tế. Việc đăng ký là cơ sở đảm bảo cho các khoản vay thế chấp, là cơ sở cho nguồn thu của Chính phủ, cơ sở cho chính sách sử dụng đất, chính sách bảo vệ môi trường và các chính sách quy hoạch. ở Thuỵ Điển có một hệ thống rất đầy đủ và hoàn chỉnh về dịch vụ liên quan đến địa chính gồm: các hoạt động về quy hoạch, pháp luật, tài chính, giám sát, bay chụp ảnh hàng không, xử lý thông tin bất động sản, đo đạc và lập bản đồ... Công tác đăng ký của Thuỵ Điển cũng rất hiện đại và chặt chẽ, đất đai của Thuỵ Điển được chia thành các đơn vị bất động sản và được đánh mã số duy nhất. Mã số này được sử dụng chung cho cả đăng ký tài sản, đăng ký đất và sử dụng cho cả khi tính thuế tài sản. Điều đó có nghĩa là các sổ đăng ký dựa trên mã số của đất đai và bất động sản chứ không dựa trên giấy chứng nhận hay hồ sơ. Một tài sản sẽ không được tồn tại một cách hợp pháp nếu chưa được đăng ký tài sản vào thời điểm được đánh mã số. Tất cả các chuyển nhượng bất động sản đều phải được đăng ký vào Sổ đăng ký trong vòng 3 tháng sau khi thực hiện chuyển nhượng. + Hệ thống ngân hàng dữ liệu đất đai của Thuỵ Điển (Land Data Bank System - LDBS): ở Thuỵ Điển, nguyên tắc khả năng tiếp cận công khai các tư liệu chính thức là một phần của Hiến pháp nhưng chế độ bảo mật trong một số trường hợp được quy định trong Luật. Thông tin trong LDBS nói chung được cung cấp miễn phí trừ trường hợp yêu cầu cung cấp thông tin cao hơn mức bình thường sẽ phải nộp lệ phí. Đất đai của Thuỵ Điển được chia thành các đơn vị bất động sản. Cả nước có khoảng 3,2 triệu đơn vị bất động sản, tất cả đều được ghi lại trong sổ đăng ký bất động sản. Sổ đăng ký này hình thành nền tảng cho LDBS của Thuỵ Điển. Cơ quan đo đạc quốc gia Thuỵ Điển chịu trách nhiệm quản lý hệ thống này. LDBS gồm có Sổ đăng ký bất động sản và Sổ đăng ký đất: Nội dung của Sổ đăng ký bất động sản và Sổ đăng ký đất chủ yếu dựa trên hồ sơ và tài liệu lưu giữ tại Cơ quan đăng ký đất đai và Cơ quan đăng ký bất động sản. - Sổ đăng ký bất động sản: là sổ đăng ký cơ bản về bất động sản. Nó hình thành cơ sở cho hàng loạt các hoạt động quan trọng của xã hội như đăng ký đất, tín dụng bất động sản, thuế tài sản... Sổ đăng ký được duy trì bởi các cơ quan địa chính trên khắp cả nước. - Sổ đăng ký đất: Mục đích chính của đăng ký đất là tạo được hệ thống thông tin về đất đai phục vụ cho các mục đích của xã hội và bảo vệ quyền lợi hợp pháp khi thu hồi lại các quyền về bất động sản. Sổ đăng ký đất được duy trì bởi 93 cơ quan đăng ký đất. Cơ quan này là một phần của toà án quận và được các toà quốc gia về hành chính giám sát. - Cơ chế hoạt động của LDBS: LDBS là một hệ thống trực tuyến được xây dựng trên một máy tính trung tâm do Cơ quan đo đạc quốc gia vận hành. Người sử dụng được trực tiếp tiếp cận với hệ thống để đăng ký và tìm kiếm thông tin. Có khoảng 4000 cơ quan trong cả nước kết nối với Hệ thống và tổng số thiết bị đầu cuối và máy tính PCs kết nối với LDBS là hơn 25.000. Ngoài thông tin trực tuyến, người dùng còn có thể yêu cầu rất nhiều sản phẩm khác như các tài liệu như biên tập, trích dẫn và các bản đồ chuyên đề... 2. Một số bài học rút ra đối với Việt Nam Ta thấy rằng cả 3 quốc gia Malaixia, Hàn Quốc và Thuỵ Điển đều là những quốc gia có những thành tựu đáng kể trong công tác địa chính trong thời gian gần đây. Những thành tựu mà ngành địa chính đạt được đã đóng góp một phần không nhỏ trong công cuộc phát triển kinh tế của các quốc gia này. + Về xây dựng hệ thống chính sách Xem xét kỹ chính sách đất đai của 3 nước trên ta thấy, họ đã xây dựng được chính sách đất đai đồng bộ, cụ thể, chi tiết cho từng đơn vị đất đai, loại đất. ở nước ta, chính sách đất đai chưa được ban hành đồng bộ và cụ thể khi đi vào thực tế ta thấy việc quản lý gặp rất nhiều khó khăn. Ví dụ, như Luật đất đai quy định người sử dụng đất có quyền trao đổi, chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp, cho thuê mà không giới hạn các quyền này cho từng loại đất. Nên khi đi vào cụ thể quản lý sẽ gặp khó khăn. Đất rừng đầu nguồn có nơi giao cho Kiểm lâm quản lý, có nơi lại giao cho các hộ dân quản lý nên việc quản lý gặp rất nhiều khó khăn. Phải có quy định cụ thể là đất này cấm khai thác, cấm chuyển nhượng… + Về phân cấp - phân quyền quản lý Chúng ta thấy rằng trong việc phân cấp và phân quyền quản lý thì cả Malaixia và Thuỵ Điển đều trao cho chính quyền Bang quyền hạn tương đối lớn trong lĩnh vực đo đạc bản đồ và quản lý đất đai. Chính quyền địa phương là cấp cơ sở quan trọng nhất trong những vấn đề liên quan đến đất đai, nếu cấp cơ sở nắm chắc tình hình đất đai của địa phương thì những tranh chấp, khiếu nại và tố cáo về đất đai sẽ được các cán bộ ở cơ sở nắm bắt được nguồn gốc và sẽ có những phương án giải quyết kịp thời và nhanh chóng. Đây là một trong những vấn đề bức xúc hiện nay của Việt Nam, một phần do cán bộ cấp cơ sở của nước ta còn yếu kém về chuyên môn nhưng mặt khác là do phải chờ đợi chỉ thị của cấp trên nên dẫn đến tình trạng các tranh chấp kéo dài và vòng vo. Để trong thời gian tới công tác quản lý địa chính của nước ta hoạt động có hiệu quả hơn trong việc giải quyết các tranh chấp, tố cáo và khiếu nại về đất đai thì Chính phủ Việt Nam cần phải ra các hướng dẫn cho UBND các tỉnh hiểu rõ về Nghị định 17/CP. Theo Nghị định 17/CP thì UBND và Sở Địa chính các tỉnh được quyền giải quyết các tranh chấp, khiếu nại và tố cáo về đất đai trong phạm vi của địa phương. Như thế thì Chính phủ có nhiều thời gian trong việc giải quyết các vấn đề vĩ mô, với việc phân cấp như thế thì kết quả chắc chắn sẽ cao hơn. Chúng ta cứ nhìn vào việc giải quyết các tranh chấp hiện nay của nước ta thì thấy ngay rằng Chính phủ phải đồng thời giải quyết một lúc rất nhiều công việc nhưng hiệu quả thu được lại chẳng có bao nhiêu, trong khi các vụ kiện về đất đai ngày càng nhiều và tình trạng buông lỏng trong quản lý đất đai vẫn cứ diễn ra. + Về công tác đo vẽ bản đồ Malaixia có mộ._.ràng thì thì hiệu qủa công việc sẽ cao do không có tình trạng chồng chéo trong công việc, hay có những công việc không cơ quan nào làm hoặc có những công việc thì nhiều cơ quan cùng tham gia quản lý dẫn đến tình trạng người bị quản lý không biết thực hiện như thế nào là đúng cả. Phân cấp và phân công rõ ràng thì khi công việc tiến hành tốt có thể khen thưởng đúng người đúng việc và khi có sai trái sẽ dễ xử lý. Do đó, hoàn thiện bộ máy phải phân cấp cho rõ ràng thì hiệu quả đạt được mới cao. + Thống nhất trong bộ máy từ Trung ương đến cơ sở. Một bộ máy hoàn thiện và hoạt động có hiệu quả thì hệ thống tổ chức của bộ máy phải thống nhất từ Trung ương đến cơ sở. Khi hệ thống tổ chức của bộ máy thống nhất thì hoạt động của bộ máy mới nhịp nhàng, ăn khớp với nhau. Do đó, khi hoàn thiện bộ máy Quản lý đất đai của Việt Nam chúng ta cần phải chú ý tổ chức bộ máy từ Trung ương đến các cấp cơ sở phải thống nhất với nhau trong tổ chức bộ máy cũng như cơ cấu trong bộ máy của từng địa phương, tuy nhiên không loại trừ một số địa phương có đặc thù riêng mà có thêm một số phòng ban phù hợp với đặc thù của địa phương mình. 2. Yêu cầu hoàn thiện Đất đai nằm trong nhóm tài nguyên hạn chế của Việt Nam nhưng lại là điều kiện không thể thiếu được trong mọi quá trình phát triển, vì vậyviệc quản lý và sử dụng hợp lý và có hiệu quả tài nguyên quốc gia này không chỉ sẽ quyết định tương lai của nền kinh tế đất nước mà còn là sự đảm bảo cho mục tiêu ổn định chính trị, xã hội và phát triển kinh tế. - Yêu cầu của việc đổi mới tổ chức quản lý đất đai là: * Đổi mới tổ chức quản lý đất đai nằm trong đổi mới hệ thống hành chính Nhà nước. Đổi mới Bộ máy quản lý đất đai phải phù hợp với đổi mới hành chính của đất nước. * Phải đồng bộ, toàn diện, thống nhất đảm bảo cho việc sử dụng đất đạt hiệu quả cao nhất và tránh phiền hà cho dân, tạo thuận lợi cho các nhu cầu phát triển. * Đảm bảo cho thị trường bất động sản vận hành lành mạnh và thông suốt. + Về chính trị: Hoàn thiện bộ máy quản lý đất đai là một việc làm vô cùng cần thiết nhằm tổ chức được bộ máy quản lý đất đai thống nhất từ Trung ương đến địa phương và hoạt động có hiệu quả. Bổ sung và đổi mới một số bộ phận để đưa ra được một bộ máy mới phù hợp với những yêu cầu đất nước từng thời kỳ này và trong thời gian tới đó là đưa ra được những chính sách về dụng đất, bảo vệ đất, quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất phù hợp với định hướng phát triển đất nước của đường lối mà Đảng cộng sản Việt Nam đề ra, nhằm ổn định tình hình chính trị, xã hội và phát triển kinh tế của đất nước. + Về kinh tế: Hoàn thiện bộ máy là nhằm có những đổi mới trong bộ máy để nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy và đưa ra được những cơ sở khoa học cho việc quy hoạch, kế hoạch quản lý và sử dụng đất một cách có hiệu quả phục vụ cho công tác phát triển kinh tế đất nước. Mặt khác là giảm bớt các đầu mối quản lý để đưa về một đầu mối duy nhất, nhằm tránh lãng phí cho thời gian đi lại của người sử dụng đất và tăng thu ngân sách cho nhà nước. Tập trung quản lý thống nhất nhà và đất về cùng một cơ quan, là một việc làm cần thiết nhằm tăng khả năng quản lý nhà - đất có hiệu quả. Tạo điều kiện cho các dự án về phát triển nhà và đầu tư của các tổ chức trong và ngoài nước được thực hiện nhanh chóng tạo ra nguồn lực cho phát triển kinh tế đất nước trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. + Về tổ chức: Hoàn thiện bộ máy quản lý đất đai nhưng tổ chức phải phù hợp với tổ chức bộ máy của Nhà nước Việt Nam tức là phải tổ chức bộ máy có 4 cấp. Tổ chức bộ máy gọn nhẹ nhưng hoạt động có hiệu quả cao, các bộ phận chức năng và chuyên môn hoạt động đúng lĩnh vực và chuyên môn phát huy cao độ khả năng của mình để giải quyết các vấn đề liên quan đến đất đai một cách nhanh nhất. + Về môi trường - xã hội: Hoàn thiện bộ máy làm sao để thực hiện được đầy đủ các nội dung quản lý Nhà nước và đặc biệt là phải chú ý bảo vệ môi trường trong khu vực đất công nghiệp và các khu lân cận, nhất là các khu vực mới phát triển khu công nghiệp và khu đô thị mới. II. Một số giải pháp hoàn thiện bộ máy quản lý đất đai ở việt nam 1. Đặc điểm quản lý đất đai trong thời kỳ mới Đến hết năm 2000 cơ bản toàn bộ đất đai nước ta đã được giao cho các tổ chức và cá nhân sử dụng vào các mục đích khác nhau, đồng thời các chủ sử dụng sẽ thực thi các quyền của mình trên đất. Ước tính nước ta có khoảng 100 triệu thửa đất và 15 triệu chủ sử dụng đất. Như vậy các hoạt động về đất đai sẽ hết sức sôi động, nhiệm vụ quản lý Nhà nước sẽ rất nặng nề và khó khăn. Điều này đòi hỏi phải có một hệ thống pháp luật đất đai thống nhất, hoàn chỉnh với mức độ chi tiết cao. Công tác đo đạc phân định ranh giới thửa đất, lập bản đồ địa chính, điều tra pháp lý thửa đất và lập hồ sơ thửa đất phải được tiến hành trên cả nước cho mọi đối tượng sử dụng đất, phải đảm bảo độ chính xác cao về kỹ thuật và cơ sở pháp lý. Công tác đăng ký, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cần đảm bảo tất cả mội đối tượng sử dụng đất đều có đầy đủ hồ sơ pháp lý và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đầy đủ. Để hỗ trợ các mục tiêu: công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; phát triển kinh tế hàng hoá, đặc biệt là kinh tế hàng hoá nông nghiệp; bảo vệ môi trường, tài nguyên thiên nhiên,... đòi hỏi công tác quy hoạch và kế hoạch hoá sử dụng đất đai phải được tiến hành thường xuyên và chi tiết từ dưới lên trên, có luận cứ và phương pháp khoa học. Công tác tổ chức giao đất và kiểm tra, thanh tra việc sử dụng đất đai theo đúng quy hoạch và mục tiêu phát triển của Nhà nước cũng có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nhà nước ta chủ trương phát triển kinh tế thị trường, trong đó có thị trường bất động sản. Thị trường bất động sản bao gồm đất đai, nhà và các công trình xây dựng trên đất, và những tài sản khác gắn với việc sử dụng đất, thị trường này cũng được hiểu là thị trường chuyển nhượng quyền sử dụng đất làm cho đất đai luôn luôn biến động, được huy động vào các quá trình sản xuất có hiệu quả cao hơn. Đây là xu hướng hết sức mới mẻ sẽ phát triển nhanh chóng trong những năm tới. Điều đó đòi hỏi: + Xây dựng các chính sách về quản lý thị trường bất động sản; + Tổ chức quản lý bất động sản (nhà và đất) ở các cấp hành chính; + Thị trường bất động sản có nhiều mối quan hệ dân sự, quan hệ về kinh tế và rất linh hoạt, do đó cần có những tổ chức dịch vụ - tư vấn - kinh doanh bất động sản. Thời kỳ mới đề ra nhưỡng yêu cầu cao về quản lý đất đai: tính pháp lý cao, độ chính xác và độ tin cậy cao, thông tin đầy đủ, tỷ mỷ và nhanh, trình độ chuyên sâu của cán bộ quản lý,....Từ đó đặt ra các yêu cầu: + Hiện đại hoá, tự động hoá hoạt động của ngành Địa chính; + Tổ chức hệ thống thông tin đất đai nối mạng trong cả nước; + Đào tạo căn bản nghiệp vụ Địa chính cho cán bộ Địa chính các cấp. 2. Giải pháp hoàn thiện bộ máy quản lý đất đai ở Việt Nam a/ Nhóm giải pháp mang tính thể chế (vĩ mô) - Tổ chức quản lý đất đai với tổ chức Nhà nước là một chỉnh thể - thực thể có mối quan hệ hữu cơ - tương sinh - tương tác. Chúng chỉ có thể phát huy hiệu lực - hiệu quả quản lý một khi nó được thiết lập một cách hợp lý phù hợp với nhau trong cùng một hệ thống và phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế xã hội, nếu không thì sẽ có tác dụng trái lại, do vậy Nhà nước phải có phương án để từng bước hoàn thiện - thích ứng theo hướng “phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (Hiến pháp năm 1992). Từ xu thế đó Nhà nước phải điều tiết các quan hệ đất đai dựa trên giá trị kinh tế của nó là chủ yếu và chủ yếu là thông qua biện pháp dân sự và biện pháp kinh tế. Vì vậy mô hình quản lý đất đai cũng phải được xắp xếp một cách thích ứng với cơ chế đổi mới nói trên. Mặt khác, cũng do xu thế phát triển của nền kinh tế thị trường ở nước ta mà đồng thời với việc giao đất..., trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh và dân cư sẽ dần dần phát triển phương thức chuyển nhượng quyền sử dụng. Do đó khối lượng công việc làm thủ tục để quản lý các biến động, các chuyển dịch về chủ thể sử dụng sẽ tăng lên. Như vậy là tự thân trong tổ chức quản lý đất đai cũng phát sinh yêu cầu phải sắp xếp - kiện toàn để thích ứng với xu thế này. - Để hoàn thiện được bộ máy quản lý đất đai thì trước hết phải hoàn thiện hệ thống chính sách đất đai, bởi vì: + Hệ thống pháp luật đất đai hiện nay còn thiên về xử lý những quan hệ ban đầu có tính chất hành chính, chưa tiếp cận kịp thời với những biến động có tính chất thị trường. + Tình hình kinh tế - xã hội đang có nhiều biến động có tính đột phá theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, dẫn đến những biến động về quan hệ đất đai, về cơ cấu sử dụng đất và cơ chế quản lý đất đai. - Cùng với hoàn thiện hệ thống chính sách, cần phải đẩy mạnh công tác quy hoạch sử dụng đất, bởi vì: + Trong bối cảnh kinh tế hiện đại đang phát triển với nhịp độ cao thì phương án quy hoạch sử dụng đất của mỗi quốc gia đêù phản ánh rõ ràng chiến lược về tương lai quốc gia đó. Từ rất sớm, Hiến pháp của Việt Nam đã “luật hoá” được ý tưởng này: “Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo quy hoạch và pháp luật, bảo đảm sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả”. Quy hoạch sử dụng đất phải được xem là một giải pháp tổng thể định hướng cho quá trình phát triển và quyết định tương lai của nền kinh tế. Thông qua đó, Nhà nước can thiệp vào các quan hệ đất đai, khắc phục những nhược điểm do lịch sử để lại hay giải quyết những vấn đề mà quá trình phát triển đang đặt ra. Lấy quy hoạch làm cơ sở cho hoạt động quản lý còn phát huy được dân chủ trong quản lý một khi quy hoạch sử dụng đất được công bố công khai từ quá trình xây dựng đến suốt quá trình thực hiện, điều chỉnh và hoàn thiện - xã hội càng phát triển thì yêu cầu tiến độ và chất lượng của quy hoạch sử dụng đất ngày càng nhanh và càng cao. Tổ chức thực hiện quy hoạch sử dụng đất là cốt lõi của hoạt động quản lý Nhà nước về đất đai và thuộc trách nhiệm của các ngành và các cấp có liên quan trong đó chú ý những vấn đề sau đây: + Khi các cấp thẩm quyền thông qua thì quy hoạch sử dụng đất được thực tiễn hoá bằng những dự án điều chỉnh, chỉnh trang hoặc phát triển đất đai với chủ đầu tư cụ thể (cá nhân hoặc tổ chức). + Khi cần thay đổi hoặc điều chỉnh quy hoạch thì cần phải thực hiện đúng các trình tự thẩm định, phê duyệt như khi lập quy hoạch. + Để bộ máy quản lý đất đai hoạt động có hiệu quả, đáp ứng được những yều cầu hiện nay của công tác quản lý Nhà nước về đất đai thì Chính phủ cần phải chủ động quản lý thị trường bất động sản có tổ chức rõ ràng. Vì tuy đây là yêu cầu có tính “tình thế” nhưng lại xuất phát từ một nhiệm vụ có tính chiến lược để bước vào cơ chế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường thì việc thu hút vốn của nước ngoài để phát triển kinh tế đất nước đối với một nước đang phát triển như Việt Nam là một việc làm vô cùng cần thiết. Bởi vì muốn thu hút được vốn đầu tư của nước ngoài thì cần phải phát triển thị trường chứng khoán, nhưng việc hình thành và phát triển chậm của thị trường bất động sản là nguyên nhân của việc cản trở việc khai thác nguồn lực trong nước phục vụ cho phát triển. - Việc quản lý sử dụng đất đai liên quan đến rất nhiều lĩnh vực trong quản lý khác như nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ lợi, khai khoáng, xây dựng, môi trường...Vì vậy việc định vị tổ chức quản lý đất đai trong hệ thống tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước và trong nền kinh tế xã hội thường có rất nhiều quan điểm khác nhau. Vấn đề ở đây là phải lựa chọn, định vị nó, đặt nó ở đâu để tạo cho tổ chức này hoàn chỉnh - thông suốt, có tính hệ thống hành chính Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở để đủ sức quản lý về các mặt pháp chế, kinh tế kỹ thuật, phù hợp với thuộc tính vốn có của đất đai - một tài nguyên quý giá nhất của mỗi quốc gia nói riêng và của loài người nói chung, chính sách đối với nó là một quốc sách. Vì vậy không nên đặt tổ chức quản lý đất đai trong một ngành sử dụng đất nào đó như trước đây chúng ta đã từng làm và trên thực tế đã phát sinh nhiều vấn đề không thuận cho công tác quản lý. Đất nước ta cũng đang trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Vì vậy việc xây dựng mô hình tổ chức quản lý đất đai phải từng bước phù hợp với quá trình hiện đại hoá hệ thống thông tin quản lý đất đai toàn quốc, thành lập hệ thống đồng bộ tài liệu đo đạc - bản đồ theo một hệ thống chuẩn - thống nhất, đáp ứng mọi nhu cầu chính trị - kinh tế - xã hội - an ninh quốc phòng của đất nước, thành lập hệ thống thông tin đất đai. - Hiện nay công tác giải quyết các khiếu kiện tiến hành rất chậm đơn thư khiếu nại, tố cáo vẫn còn lòng vòng gây mất thời gian và tiền của của người sử dụng đất, vì thế mà Chính phủ cần phải giao cho Tổng cục Địa chính thêm một số chức năng và quyền hạn nữa ddể có thể giải quyết nhanh chóng các vụ việc. Có như thế thì Tổng cục Địa chính mới thực sự là cơ quan chuyên môn thuộc Chính phủ chức không phải là một cơ quan giúp việc như hiện nay. - Nhà và các công trình trên đất đều gắn liền với đất vì thế mà cần phải sớm thống nhất cơ quan quản lý đất và cơ quan quản lý nhà thành một cơ quan. b/ Nhóm giải pháp vi mô (của ngành Địa chính) - Trong mô hình tổ chức quản lý đất đai hiện nay của Tổng cục Địa chính về đại thể hình thành bởi 3 khối: Khối cơ quan nhà nước, khối đơn vị sự nghiệp, khối sản xuất kinh doanh, theo đó ở các sở địa chính cũng có loại hình tương tự, về lâu dài cần tách các đơn vị kinh doanh theo một hệ thống riêng không nằm trong mô hình tổ chức như hiện nay. Cơ quan Địa chính Trung ương chủ yếu quản lý Nhà nước đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị có liên quan đến nội dung quản lý của mình. Việc quản lý tập trung hay phân cấp - phân quyền cho địa phương cũng cần phải dựa trên hiệu lực - hiệu quả của quản lý. Nói chung về lâu dài, cơ quan Địa chính Trung ương chỉ nên tập trung vào những chức năng, nhiệm vụ có tính chiến lược, hàm lượng chất xám cao, tầm nhìn rộng với những trách nhiệm và thẩm quyền rõ ràng. - Việc sử dụng đất gắn liền với địa bàn cơ sở (xã), vì vậy cần nhìn rõ trách nhiệm và tăng cường quyền lực cho UBND xã (chủ tịch) đồng thời tăng cường bồi dưỡng trình độ chuyên môn cho cán bộ địa chính xã (phấn đấu đạt trình độ trung cấp và cao hơn). - Xây dựng một tổ chức - một đội ngũ cán bộ đủ năng lực để làm công tác quy hoạch sử dụng đất (nhất là ở cấp tỉnh). Khẳng định bằng pháp luật về trách nhiệm trực tiếp của cơ quan địa chính trong việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, giáo đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển quyến sử dụng đất, chuyển mục đích sử dụng đất, giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo, vi phạm Luật đất đai. - Xác định rõ chế định pháp luật và biện pháp tổ chức để quản lý đất đai trong quản lý thị trường bất động sản bao gồm các việc hoàn chỉnh các chế định về thế chấp giá trị quyền sử dụng để vay vốn sao cho vừa thuận tiện cho người vay, đồng thời bảo đảm lợi ích của người cho vay. - Xác định một cơ chế phối hợp giữa các cơ quan có liên quan đến việc định giá đất, điều chỉnh giá đất, làm cho giá này luôn luôn phù hợp với thực tế, định ra phương thức áp dụng giá đất trên nguyên tắc vừa đảm bảo lợi ích chính đáng của người sử dụng đất, vừa đảm bảo lợi ích của xã hội, tạo thuận lợi cho việc tổ chức quản lý đất đai. - Kiện toàn tổ chức thanh tra địa chính. - Cán bộ địa chính xã có vị trí quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ quản lý Nhà nước về đất đai. Mọi vấn đề xảy ra trong quan hệ về đất đai đều bắt nguồn từ cơ sở và mội sự giải quyết cuối cùng đều kết thúc ở cơ sở. Vì vậy người cán bộ Địa chính xã ngoài yêu cầu phải có hiểu biết về pháp luật, chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước; hiểu biết chuyên môn nghiệp vụ, còn phải am hiểu tình hình địa phương và phảđược ổn định lâu dài. Trong thực tế hiện nay cán bộ Địa chính xã thường phải kiêm nhiệm nhiều việc và thường xuyên phải thay đổi, không ổn định lâu dài do nhiều nguyên nhân, nhất là sau mỗi nhiệm kỳ Hội đồng Nhân dân xã. Vì vậy việc đặt cán bộ Địa chính xã trực thuộc phòng Địa chính huyện quản lý và trả lương là cần thiết. Về chế độ chính sách, đề nghị có chế độ thâm niên đối với cán bộ Địa chính xã để khuyến khích họ yên tâm công tác. - Cần thiết lập một hệ thống thông tin lưu trữ thông suốt từ Trung ương đến địa phương và đảm bảo cho hệ thống này hoạt động liên tục, đồng thời chuẩn hoá công tác này ở từng cấp trên cả 3 mặt: lưu trữ, quản lý, sử dụng thông tin theo hướng hiện đại hoá. - Để trong thời gian tới, cán bộ ở Tổng cục Địa chính cũng như các địa phương có số lượng lớn cán bộ được đào tạo đại học chính quy thì từ bây giờ Tổng cục cũng như các địa phương cần tạo điều kiện cho những sinh viên tốt nghiệp ra trường được làm việc và khẳng định mình bằng cách: tuỳ theo điều kiện có thể của cơ quan mà nhận một số sinh viên về thực tập và cho họ được làm việc. Trong quá trình thực tập sẽ phát hiện được một số có năng lực thực sự rồi sau đó cho những sinh viên này làm hợp đồng để tiếp tục thử thách, nếu đạt kết quả tốt thì nên nhận họ vào làm việc để tạo cho đội ngũ cán bộ có chuyên môn và năng lực thực sự ngày một tăng thêm như thế thì hiệu quả công việc chắc sẽ đạt cao hơn. Như thế thuận lợi cho cả cơ quan và cả người lao động, bởi vì cơ quan sẽ không bỏ sót tài năng còn người lao động có cơ hội khẳng định mình và có việc làm. - Bây giờ và trong những năm tới thì Tổng cục Địa chính cũng như các địa phương cần phải cho những cán bộ có chuyên môn đi đào tạo nâng cao để theo kịp với công nghệ mới. Bên cạnh đó, đối với những cán bộ chưa được đào tạo qua chuyên môn của ngành thì cho đi đào tạo lại nhằm nâng cao khả năng làm việc của họ đối với ngành. 3. Một số kiến nghị - Chính phủ cần phải nâng Tổng cục Địa chính lên thành một cơ quan của Chính phủ, có đầy đủ chức năng và quyền hạn của một cơ quan của Chính phủ. - Chính phủ cũng như ngành cần có chế độ hỗ trợ cho những cán bộ làm việc ở vùng sâu, vùng xa nơi mà điều kiện đi lại còn khó khăn và cơ sở hạ tầng chưa cao, để cho họ yên tâm công tác. Đối với cán bộ Địa chính xã, họ cần phải được hưởng chế chế độ của công chức Nhà nước và có chế độ thâm niên công tác để họ yên tâm công tác vì đây là một trong những cấp rất quan trọng trong bộ máy quản lý đất đai. - Bộ Giáo dục đào tạo cần phối hợp với các trường Đại học, Cao đẳng và Trung học chuyên nghiệp trong cả nước để thống nhất chương trình đào tạo, hệ thống sách giáo khoa, những môn học bắt buộc. Từ những giải pháp và kiến nghị trên đây tôi xin đưa ra mô hình tổ chức bộ máy quản lý đất đai Việt Nam mới để thảo luận nhằm hoàn thiện bộ máy quản lý đất đai Việt Nam trong thời gian tới: Cấp Trung ương Thành lập Bộ Địa chính trên cơ sở Tổng cục Địa chính hiện nay có điều chỉnh và bổ sung một số chức năng mới. Chức năng : Quản lý thống nhất về đất đai, nhà và các công trình trên đất, quy hoạch và bất động sản trên phạm vi cả nước. Nhiệm vụ của Bộ địa chính : - Cơ quan quản lý đất đai Trung ương phải thực hiện các nhiệm vụ sau đây: * Chuẩn bị các phương án quy hoạch, kế hoạch sử dụng tài nguyên đất đai trình Chính phủ, Quốc hội xem xét, phê duyệt, chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Quốc hội về tổ chức thực hiện các phương án đó * Quản lý hệ thống địa giới hành chính Nhà nước. * Tổ chức đăng ký bất động sản khơi nguồn thu ngân sách mở đường cho thị trường bất động sản phát triển và được vận hành lành mạnh. * Hoàn thiện hệ thống chính sách và pháp luật đất đai, tạo điều kiện xây dựng Bộ Luật đất đai Việt Nam. * Tổ chức triển khai các nội dung quản lý Nhà nước về tài nguyên đất với tư cách là một cơ quan đầu não (quyết định và tổ chức thực hiện) và trung tâm điều hành (liên ngành) chịu trách nhiệm thống nhất quản lý tài nguyên đất đai quốc gia. + Xây dựng bộ luật đất đai của Việt Nam để trình Quốc hội thông qua và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp quy thi hành Bộ luật đất đai; + Tổ chức triển khai đầy đủ các nội dung quản lý Nhà nước về đất đai với tư cách là một cơ quan đầu não (quyết định và tổ chức thực hiện) và trung tâm điều hành (liên ngành) chịu trách nhiệm thống nhất quản lý Nhà nước về đất đai; + Quản lý địa giới hành chính các cấp; + Chuẩn bị các phương án quy hoạch, kế hoạch, sử dụng các loại đất trình Chính phủ, Quốc hội xem xét, phê duyệt theo thẩm quyền; Chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Quốc hội về tổ chức thực hiện các phương án đó. + Quản lý, tư vấn và dịch vụ kinh doanh bất động sản. + Tổ chức và dịch vụ thông tin đất đai trong cả nước. Cơ cấu tổ chức : - Lãnh đạo : Bộ trởng và các Thứ trưởng. - Khối quản lý nhà nước: + Vụ đo đạc và bản đồ, + Vụ pháp chế đất đai, + Vụ đăng ký - thống kê, + Vụ lãnh thổ và địa giới hành chính, + Vụ quy hoạch và kế hoạch SDĐ, + Các vụ quản lý khác (Văn phòng, TCCB, Khoa học, Hợp tác quốc tế, Kế hoạch - Tài chính, Thanh tra). - Khối sự nghiệp kinh tế, khoa học, kỹ thuật, dịch vụ : + Đo đạc, lập bản đồ địa chính; +Quy hoạch sử dụng đất đai; + Đăng ký thống kê và hồ sơ đất đai; + Thông tin đất đai; + Bất động sản; + Nghiên cứu khoa học về địa chính; + Đào tạo. Nhiệm vụ của các đơn vị: Khối quản lý: + Vụ đo đạc và bản đồ: quản lý công tác đo đạc và lập bản đồ địa chính; xây dựng kế hoạch đo đạc và lập bản đồ địa chính, tổ chức thực hiện, chỉ đạo và kiểm tra kỹ thuật công tác đo đạc và lập bản đồ địa chính. +Vụ pháp chế đất đai: tổ chức xây dựng bộ luật đất đai và các chính sách đất đai, nghiên cứu, xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật đất đai. Theo dõi, quản lý việc thực hiện Bộ luật đất đai và các chính sách đất đai. + Vụ lãnh thổ và địa giới hành chính: tham gia phân định biên giới quốc gia; tổ chức phân định ranh giới hành chính các cấp; chỉ đạo quản lý mốc biên giới quốc gia và mốc ranh giới hành chính các cấp; chỉ đạo giải quyết tranh chấp về ranh giới hành chính các cấp. + Vụ quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất: xây dựng quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất, trình Chính phủ và Quốc hội phê duyệt; tổ chức thực hiện các phương án quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất; kiểm tra việc sử dụng đất hợp lý và sử dụng đất theo quy hoạch. + Vụ đăng ký - thống kê: quản lý việc đăng ký, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất; thống kê đất đai; quản lý kinh doanh bất động sản. + Thanh tra: thanh tra việc thực hiện các nhiệm vụ quản lý đất đai; giải quyết các đơn th khiếu tố. Khối sự nghiệp: Khối sự nghiệp bao gồm những đơn vị sự nghiệp, hoạt động bằng nguồn vốn sự nghiệp Nhà nước và “có thu” hoặc “lấy thu bù chi”. + Nghiên cứu khoa học về Địa chính: nghiên cứu khoa học, kết hợp với đào tạo cán bộ trên đại học; xây dựng tiêu chuẩn ngành, tham gia xây dựng Bộ luật đất đai và các dự án đòi hỏi quá trình nghiên cứu thử nghiệm. Có thể thành lập Học viện Địa chính. +Đào tạo cán bộ địa chính : đào tạo cán bộ Địa chính bậc Cao đẳng và đại học tại các trường Cao đẳng và đại học. +Trung tâm tư liệu và hồ sơ Địa chính : quản lý tài liệu gốc về : đo đạc, bản đồ Địa chính, hồ sơ đăng ký đất đai, hồ sơ giao đất, thu hồi đất, cho thuê đất, bản đồ và hồ sơ quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất. Khối sản xuất - kinh doanh Khối sản xuất - kinh doanh là những công ty (doanh nghiệp) nhà nớc, hoạt động theo cơ chế hạch toán kinh doanh. Nhiệm vụ chính của những công ty này là thực hiện các nhiệm vụ do nhà nước giao cho ngành Địa chính. Ngoài ra các công ty được phép ký hợp đồng với các cơ quan, tổ chức và cá nhân về các công việc có liên quan đến nhiệm vụ của ngành Địa chính. Cơ chế hạch toán kinh doanh và mục tiêu phục vụ rộng rãi mọi đối tượng trong xã hội, công khai hồ sơ và thông tin đất đai là phù hợp với một xã hội phát triển kinh tế thị trờng, có nền kinh tế phát triển mạnh, hoạt động đất đai luôn luôn biến động. Những công ty này đặt dưới sự chỉ đạo của Bộ Địa chính nhằm đảo bảo vai trò quản lý của Nhà nước và đề cao các mục tiêu của Nhà nước. Cụ thể nên tổ chức hai loại công ty như sau: + Công ty đo đạc, bản đồ và quy hoạch, + Công ty tư vấn, dịch vụ thông tin đất đai và bất động sản. Cấp địa phương Cấp tỉnh: thành lập Sở Địa chính hoặc Sở Địa chính - Nhà đất. - Sở Địa chính (sở Địa chính - Nhà đất) tại mỗi tỉnh là cơ quan chuyên môn trực thuộc UBND tỉnh, chịu sự chỉ đạo về chuyên môn - nghiệp vụ của Tổng cục Địa chính, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về đất đai và nhà ở trên địa bàn tỉnh. - Nhiệm vụ của sở: + Quản lý và triển khai tác vụ thi hành Bộ luật đất đai trong toàn tỉnh; (Quản lý và triển khai tác vụ thi hành Pháp lệnh về nhà ở trong toàn tỉnh) + Quản lý địa giới hành chính toàn tỉnh; + Chuẩn bị các phương án quy hoạch, kế hoạch, sử dụng tất cả các loại đất thuộc tỉnh trình Bộ Địa chính và UBND tỉnh xem xét, phê duyệt theo thẩm quyền; chịu trách nhiệm trước Bộ Địa chính và UBND tỉnh về tổ chức thực hiện các phương án đó; + Thanh tra và xử lý việc thi hành các điều khoản của Bộ luật đất đai; + Tổ chức công tác đo đạc, lập bản đồ và hồ sơ địa chính; + Thực hiện giao đất, thu hồi đất theo thẩm quyền; + Quản lý hồ sơ đo đạc, bản đồ, đăng ký đất đai, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất theo phân cấp; + Chỉ đạo và quản lý công tác địa chính ở cấp huyện. Cấp huyện: thành lập Phòng Địa chính huyện hoặc Phòng Địa chính - Nhà đất. - Phòng Địa chính là cơ quan chuyên môn trực thuộc UBND huyện, chịu sự chỉ đạo về chuyên môn - nghiệp vụ của Sở Địa chính tỉnh, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về đất đai và nhà ở trên địa bàn huyện. - Nhiệm vụ của Phòng Địa chính : + Quản lý và triển khai tác vụ thi hành Bộ luật đất đai trong toàn huyện; (Quản lý và triển khai tác vụ thi hành Pháp lệnh về nhà ở trong toàn huyện) + Quản lý địa giới hành chính toàn huyện; + Thanh tra và xử lý việc thi hành các điều khoản của Bộ luật đất đai; + Thực hiện giao đất, thu hồi đất theo thẩm quyền; + Quản lý hồ sơ đo đạc, bản đồ, đăng ký đất đai, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất theo phân cấp; + Thực hiện đăng ký, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, làm thủ tục chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế quyền sử dụng đất; Đồng thời thu các khoản thuế và lệ phí về đất; + Thống kê đất đai; + Chỉ đạo và quản lý công tác địa chính ở cấp xã. Cấp xã: - Có 1 cán bộ địa chính, là viên chức nhà nước, trực thuộc sự quản lý của Phòng Địa chính huyện. - Nhiệm vụ: + Kiểm tra hồ sơ của dân trong xã để trình huyện: thực hiện đăng ký, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, làm thủ tục chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế quyền sử dụng đất; thực hiện giao đất, thu hồi đất theo thẩm quyền. + Quản lý mốc địa giới hành chính và mốc ranh giới đất đai thuộc xã. + Quản lý Bản đồ địa chính và hồ sơ địa chính thuộc xã. + Giải quyết tranh chấp đất đai, hướng dẫn thi hành Bộ luật đất đai. Kết luận Bộ máy quản lý đất đai là thành phần không thể thiếu được trong hệ thống quản lý Nhà nước của mỗi Quốc gia. Bộ máy quản lý đất đai được tổ chức tốt và hoạt động có hiệu quả có tác dụng làm ổn định tình hình chính trị, xã hội, tạo điều kiện phát triển kinh tế đất nước. Vì thế mà việc hoàn thiện bộ máy quản lý đất đai luôn là mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta. Bộ máy quản lý đất đai góp phần vào việc thực hiện chế độ sở hữu đất đai của nước ta là: sở hữu toàn dân. Thực hiện chủ trương của Nhà nước ta: là giao đất cho dân sử dụng ổn định lâu dài, tạo điều kiện cho mọi người dân có đất để ở, sản xuất và sinh sống. Sau 6 năm thực hiện chức năng, nhiệm vụ đã được Chính phủ quy định tại Nghị định số 34/CP ngày 23/4/1994, Tổng cục Địa chính cũng như ngành Địa chính đã đạt được một số thành tích nhất định, về cơ bản đã hoàn thành nhiệm vụ do Đảng và Nhà nước giao. Hệ thống tổ chức ngành từ Trung ương đến địa phương đã được hình thành và củng cố, bảo đảm tính thống nhất và thông suốt của cả hệ thống. Công tác quản lý nhà nước về đất đai và đo đạc - bản đồ bước đầu cơ bản đã được tập trung về một đầu mối, có nề nếp, đúng pháp luật. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại một số khó khăn, chống chéo trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, chức năng của Chính phủ giao. Đó là: chưa quy định nhiệm vụ cụ thể cho ngành địa chính, hệ thống chính sách còn chưa đồng bộ, chưa có quy định về mối quan hệ giữa cơ quan quản lý đất đai với các cơ quan có liên quan đến vấn đề quản lý đất đai. Bộ máy quản lý đất đai của nước ta hiện nay thì sự phân công, phân cấp giữa các cấp còn chưa hợp lý và rõ ràng, nhiệm vụ còn chồng chéo, đặc biệt là trong công tác quản lý đô thị, thu ngân sách. Mối quan hệ giữa cơ quan Địa chính với chính quyền cùng cấp chưa quy định rõ về trách nhiệm quản lý đất đai, chưa đảm bảo tính độc lập tương đối giữa chính quyền và các cơ quan quản lý đất đai cùng cấp. - Chính phủ cần phải nâng Tổng cục Địa chính lên thành một cơ quan của Chính phủ, có đầy đủ chức năng và quyền hạn của một cơ quan của Chính phủ. - Chính phủ cũng như ngành cần có chế độ hỗ trợ cho những cán bộ làm việc ở vùng sâu, vùng xa nơi mà điều kiện đi lại còn khó khăn và cơ sở hạ tầng chưa cao, để cho họ yên tâm công tác. Đối với cán bộ Địa chính xã, họ cần phải được hưởng chế chế độ của công chức Nhà nước và có chế độ thâm niên công tác để họ yên tâm công tác vì đây là một trong những cấp rất quan trọng trong bộ máy quản lý đất đai. - Bộ Giáo dục đào tạo cần phối hợp với các trường Đại học, Cao đẳng và Trung học chuyên nghiệp trong cả nước để thống nhất chương trình đào tạo, hệ thống sách giáo khoa, những môn học bắt buộc. Để quản lý và sử dụng đất đai tốt và có hiệu quả thì việc tìm hiểu thực trạng hiện nay của bộ máy là cần thiết nhằm tìm ra giải pháp hoàn thiện bộ máy. Để trong thời gian tới bộ máy được tổ chức tốt hơn và hoạt động có hiệu quả hơn đòi hỏi có sự cố gắng của toàn thể cán bộ ngành địa chính, sự chỉ đạo, hỗ trợ kịp thời của Nhà nước tạo điều kiện cho ngành Địa chính và bên cạnh đó là sự sự hợp tác chặt chẽ của các cơ quan hữu quan khác. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Chiến lược phát triển ngành Địa chính đến năm 2010, Tổng cục Địa chính, năm 1998. 2. Đề tài độc lập cấp Nhà nước: “cơ sở hoạch định các chính sách sử dụng hợp lý quỹ đất đai”, Viện nghiên cứu Địa chính - Tổng cục Địa chính, năm 2000. 3. Giáo trình Quản lý nhà nước về đất đai và nhà ở,TGS-TS. Lê Đình Thắng, NXB Chính trị quốc gia, năm 2000. 4. Hiến pháp nước công hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992. 5. Luật đất đai, NXB chính trị quốc gia, năm 1999. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0380.doc
Tài liệu liên quan