Thực trạng nghèo đói & xóa đói giảm nghèo ở khu vực nông thôn

Mở đầu Điều thường xuyên trăn trở của Đảng và Nhà nước ta sau hơn 10 năm đổi mới là làm sao để người nghèo có cơ hội thoát khỏi nghèo khổ, những người dân hiện nay còn đói nghèo có điều kiện thuận lợi tự vươn lên tổ chức sản xuất, Và đây cũng là để phấn đấu thực hiện mong muốn của Bác Hồ: “Làm cho người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá, người khá, giàu thì giàu thêm”. Do vậy đã thu hút được hơn 2 triệu hộ nghèo vào thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo của Đảng và nhà nước, trong đó có

doc40 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1528 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng nghèo đói & xóa đói giảm nghèo ở khu vực nông thôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
số hộ nghèo sống ở nông thôn chiếm gần 90% tổng số người nghèo của cả nước. Kết quả mong muốn cuối cùng của em trong bài viết này là “có được hiểu biết tốt hơn về các yếu tố tác động đến tình trạng nghèo khổ và chất lượng cuộc sống ở khu vực nông thôn, và cũng từ đó giúp em hiểu biết được thêm về những chính sách giúp nâng cao chất lượng cuộc sống của những người nghèo nhất trong khu vực”. Bài viết này tìm cách trả lời cho 3 câu hỏi lớn: Khái niệm và chuẩn mực nghèo đói là gì? Thực trạng nghèo đói và xóa đói giảm nghèo ở khu vực nông thôn như thế nào? Các giải pháp xóa đói giảm nghèo ở khu vực nông thôn như thế nào? Do kiến thức có hạn nên bài biết còn nhiều thiếu sót, Em rất mong được giáo sư giúp đỡ và sửa chữa thêm. Em xin chân thành cảm ơn! Chương I: Khái niệm chuẩn mực nghèo đói I. Sự cần thiết phải xoá đói giảm nghèo Cùng nằm trên giải bờ sông Hồng màu mỡ, đều có mái đình cái chợ,giao thông thuận lợi lại giáp với thủ đô nên mọi hoạt động kinh tế thông thương rất thuận lợi. Thế nhưng, không hẳn cả hai xã này đều khá giả, đều phát triển. Chẳng hạn hai xã Mễ Sở và xã Toàn Thắng thuộc tỉnh Hưng Yên. Hai xã này giáp nhau, đều có các điều kiện như nhau mà xã Mễ Sở lại phát triển tốt hơn. Thu nhập của Mễ Sở trung bình mỗi năm nên đến hơn 100 tỷ đồng trong khi đó Toàn Thắng mỗi năm thu nhập trung bình chỉ có hơn 2 tỷ đồng. Tại sao lại có sự chênh lệch này? Dó sự lãnh đạo của xã chưa sát thực hay do người dân thiếu vốn, thiếu kinh nghiệp làm giàu… Tương tự cũng có các tỉnh nghèo, huyện nghèo, xã nghèo, hộ nghèo. Như vậy, khó có thể đảm bảo công bằng xã hội và tăng trưởng kinh tế bền vững khi tồn tại sự chênh lệch như vậy. Và làm cản trở sự phát triển của đất nước. Điều đó có nghĩa, xóa đói giảm nghèo có vai trò đặc biệt trong quá trình phát triển xã hội: 1. Xoá đói giảm nghèo là yếu tố cơ bản đảm bảo công bằng xã hội và tăng trưởng bền vững Xoá đói giảm nghèo không chỉ là công việc trước mắt mà còn là nhiệm vụ lâu dài. Trước mắt là xoá hộ đói, giảm hộ nghèo; lâu dài là xoá sự nghèo, giảm khoảng cách giàu nghèo, phấn đấu xây dựng một xã hội giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Xoá đói giảm nghèo không đơn giản là việc phân phối lại một cách thụ động mà phải tạo ra động lực tăng trưởng tại chỗ, chủ động tự vươn lên thoát nghèo. Xoá đói giảm nghèo không đơn thuần là sự trợ giúp một chiều của tăng trưởng kinh tế đối với các đối tượng có nhiều khó khăn mà còn là nhan tố quan trọng tạo ra một mặt bằng tương đối đồng đều cho phát triển, tạo thêm một lực lượng sản xuất dồi dào và bảo đảm sự ổn định cho giai đoạn “cất cánh”. Do đó, xoá đói giảm nghèo là một trong những mục tiêu của tăng trưởng (cả trên góc độ xã hội và kinh tế), đồng thời cũng là một điều kiện tiền đề cho tăng trưởng nhanh và bền vững. Trên phương diện nà đó, xét về ngắn hạn, khi phân phối một phần đáng kể trong thu nhập xã hội cho chương trình xoá đói giảm nghèo thì nguồn lực dành cho tăng trưởng kinh tế có thể bị ảnh hưởng, song xét một cách toàn diện về dài hạn thì kết quả xoá đói giảm nghèo lại tạo tiền đề cho tăng trưởng nhanh và bền vững. Tình hình cũng giống như việc người cày có ruộng ở một số nước đã tạo ra sự phát triển vượt bậc của nông nghiệp. Nhiều nông dân nhờ đó đã thoát khỏi đói nghèo và có điều kiện tham gia thực hiện cách mạng xanh, tạo sự phát triển mới cho ngành nông nghiệp. 2. Xoá đói giảm nghèo phải dựa trên cơ sở tăng trưởng kinh tế trên diện rộng với chất lượng cao và bền vững, tạo ra những cơ hội thuận lợi để người nghèo và cộng động người nghèo tiếp cận được các cơ hội phát triển sản xuất, kinh doanh và hưởng thụ được từ thành quả tăng trưởng. Tăng trưởng chất lượng cao là để giảm nhanh mức nghèo đói. Thực tiễn những năm vừa qua đã chững minh rằng, nhờ kinh tế tăng trưởng cao Nhà nước có sức mịnh vật chất đề hình thành và triển khai các chương trình hỗ trợ vật chất, tài chính và cho các xã khó khăn phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội cơ bản. Người nghèo và cộng đồng nghèo nhờ đó có cơ hội vươn lên thoát khỏi đói nghèo. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện quan trọng để xóa đói giảm nghèo trên quy mô rộng; không có tăng trưởng mà chỉ thực hiện các chương trình tái phân phối hoặc các biện pháp giảm nghèo truyền thống thì tác dụng không lớn. Tăng trưởng trên diện rộng với chất lượng cao và bền vững, trước hết tập trung chuyển dịch cơ cấu và đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp phát triển ngành nghề, tạo cơ hội nhiều hơn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển, nhằm tạo ra nhiều việc làm phi nông nghiệp, tăng the nhập cho người nghèo… 3. Xoá đói giảm nghèo được đặt thành một bộ phận của Chiến lược 10 năm, Kế hoạch 5 năm và hàng năm về phát triển kinh tế xã hội từ Trung ương tới cơ sở Công tác xoá đói giảm nghèo phải được quan tâm ngay từ khi xây dựng chủ trương, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội dài hạn, trung hạn và hàng năm, coi đó là một nhiệm vụ trọng tâm của kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội của Nhà nước đối với công tác xoá đói giảm nghèo. Thông qua kế hoạch phát triển kinh tê - xã hội, Nhà nước chủ động điều tiết hợp lý các nguồn lực của toàn xã hội vào mục tiêu và hoạt động xoá đói giảm nghèo quốc gia. Nhà nước xây dựng các biên pháp thiết yếu như đầu tư hỗ trợ sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng, lập các quỹ cứu trợ xã hội… để giúp đỡ, bảo vệ người nghèo. Duy trì liên tục sự trao đổi, phân phối mang tính thị trường, nhưng không loại người nghèo ra khỏi những nguồn lực và lợi ích của sự thịnh vượng chung về kinh tế. Kinh nghiệm thế giới cho thấy sự thiếu vắng vai trò của Nhà nước đặc biệt có hại đối với người nghèo, công đồng nghèo, vì người nghèo không tự bảo vệ được các quyền của minh, hơn nữa trong thành quả chung của tăng trưởng kinh tế, Nhà nước có vai trò nòng cốt và có trách nhiệm thu hút sự tham gia tích cực của cộng đồng, các tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội. 4. Xoá đói giảm nghèo không chỉ là nhiểm vụ của Nhà nước, toàn xã hội mà trước hết là bổn phận của chính người nghèo phải tự vươn lên để thoát nghèo Trong khi trách nhiệm của Chính phủ là giúp gỡ rào cản ngăn cách xã hội và kinh tế để xoá đói giảm nghèo; hiệu quả xoá đói nghèo, nếu bản thân người nghèo không tích cực và nỗ lực phấn đấu vươn lên với mức sống cao hơn. Xoá đói giảm nghèo phải được coi là sự nghiệp của bản thân người nghèo, cộng đồng nghèo, bởi vì sự nỗ lực tự vươn lên để thoát nghèo chính là động lực, là điêu kiện cần cho sự thành công của mục tiêu chống đói nghèo ở các nước. Nhà nước sẽ trợ giúp người nghèo biết cách tự thoát nghèo và tránh tái nghèo khi gặp rủi ro. Bên cạnh sự trợ giúp về vật chất trực tiếp thì việc tạo việc là cho người nghèo bằng cách hướng dẫn người nghèo sản xuất, kinh doanh phát triển kin tế theo điều kiện cụ thể của họ chính là điều kiện xoá đói giảm nghèo thành công nhanh và bền vững. II. Khái niệm và chỉ tiêu đánh giá nghèo đói của thế giới: 1. Khái niệm nghèo đói: Ngày nay có nhiều quan niệm khác nhau về nghèo đói, được nhiều nước trên thế giới dùng. Sau đây là khái niệm thường dung và được Việt Nam thừa nhận. Đó là khái niệm nghèo đói được đưa ra tại hội nghị xoá đói giảm nghèo ở khu vực châu á Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Bangkok tháng 3/1993: “Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quản của địa phương,” ở mỗi quốc gia khác nhau thì tình trạng nghèo đói cũng khác nhau về mức độ và số lượng nó được thay đổi theo không gian và thời gian, ở quốc gia này với mức thu nhập như thế thì được coi là nghèo đói nhưng ở quốc gia khác đối với những người có thu nhập như vậy thì không được coi là nghèo đói, Do vậy để đánh giá đúng mức độ của nghèo đói , thế giới thường dùng khái niệm “nghèo khổ” và nhận định nghèo khổ theo 4 khía cạnh sau: Về thời gian: phần lớn người nghèo khổ là những người sống dưới mức “chuẩn” trong suốt một thời gian dài để phân biệt với số người nghèo khổ “tình thế” như những người thất nghiệp, hoặc do khủng hoảng kinh tế, thiên tai, chiến tranh, tệ nạn xã hội, rủi ro... Về không gian: về mặt này thì nghèo đói diễn ra chủ yếu ở khu vực nông thôn, miền núi, nơi có nhiều người sinh sống, Hiện nay tình trạng nghèo đói ở thành thị, nhất là các nước đang phát triển có xu hướng tăng dòng di dân từ nông thôn ra thành thị sinh sống. Về giới: theo thống kê thì những người nghèo đói là phụ nữ đông hơn là nam giới, Trong những hộ nghèo nhất thì đa phần là do người phụ nữ là chủ hộ hay chủ gia đình, Còn trong những hộ nghèo đó do người đàn ông làm chủ hộ thì người phụ nữ lại khổ hơn nam giới. Về môi trường: đối với những nước ở vùng sinh thái khắc nghiệt thì tỷ lệ người nghèo khá đông, ở những nước này tình trạng nghèo đói và sự xuống cấp về môi trường sinh thái ngày một trầm trọng thêm, Qua việc phân tích 4 khía cạnh của nghèo khổ, để chi tiết hơn, nhiều nước còn phân chia nghèo đói thành 2 loại: nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối, Nghèo tuyệt đối: là tình trạng của một bộ phận dân cư không có khả năng thoả mãn các nhu cầu tối thiểu nhằm duy trì cuộc sống. Những nhu cầu cơ bản tối thiểu cho cuộc sống là những đảm bảo ở mức tối thiểu về ăn, mặc, ở, giao tiếp xã hội, vệ sinh y tế và giáo dục. Ngoài ra còn có những ý kiến cho rằng nhu cầu tối thiểu bao gồm có quyền được tham gia vào các quyết định của cộng đồng. Nghèo tương đối: là tình trạng của một bộ phận dân cư có mức sống trung bình của cộng đồng. Việc đánh giá nghèo tương đối chủ yếu dựa vào việc so sánh giữa thu nhập quốc dân tính bình quân trên đầu người. Chỉ tiêu đánh giá nghèo đói của thế giới: Để đánh giá sự nghèo đói của các nước trên thế giới thường sử dụng chỉ tiêu chính là thu nhập quốc dân bình quân trên đầu người (GDP). Nhưng do hiện nay giữa các nước với nhau có sự phân cách về giàu nghèo và nhất là đối với các nước đang phát triển thì sự phân cách về giàu nghèo càng rõ rệt. Như vậy, ở những nước này những hộ giàu chiếm phần lớn của cải của quốc dân. Do vậy mà chỉ đánh giá nghèo đói qua chỉ tiêu GDP thì chưa đủ và từ đó ODC (Tổ chức hội đồng phát triển hải ngoại) đã đưa ra chỉ số PQLI (chỉ số chất lượng cuộc sống) để đánh giá, bao gồm 3 chỉ tiêu cơ bản sau: Tuổi thọ. Tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh. Tỷ lệ xóa mù chữ. Mấy năm gần đây UNDP đưa thêm chỉ số phát triển con người HDI, bao gồm 3 chỉ tiêu sau: Tuổi thọ. Tình trạng biết chữ của người lớn. Thu nhập Để đánh giá các nước giàu và nước nghèo của các quốc gia thì người ta vẫn căn cứ vào GDP là chính, ngoài ra người ta còn bổ sung cho việc nhìn nhận các nước giàu, nghèo chính xác hơn và khách quan hơn. Về hộ nghèo: giới hạn về nghèo đói được biểu hiện dưới dạng thu nhập quốc dân bình quân tính theo đầu người nằm dưới giới hạn nghèo thì hộ đó được coi là hộ nghèo 3. Mức nghèo đói: Để đánh giá và xác định được hộ nghèo đói thường dùng 2 cách sau: Cách 1: theo quan niệm chung của nhiều nước thì hộ nghèo là những hộ có thu nhập thấp dưới 1/3 mức thu nhập trung bình của toàn xã hội. Như vậy thì hiện nay trên thế giới có khoảng hơn 1,12 tỷ người (chiếm khoảng 20%) đang sống trong tình trạng nghèo khổ, tức sống dưới mức 420 USD/năm hoặc 35USD/tháng mà ngân hàng thế giới đã kiểm định ở từng nước khác nhau thì có quy định khác nhau. Đối với các nước đang phát triển: xét trên nước Mỹ năm 1992 thì Mỹ đã lấy chuẩn mực 1 người trong hộ có thu nhập bình quân dưới 71 USD/người là nghèo khổ hay 285 USD/ năm. Đối với các nước đang phát triển: ở mỗi nước có chuẩn mực khác nhau, như Pakistan, Indonesia lấy 6USD/tháng/người, ở Phillipin lấy 7USD/tháng/người làm chuẩn mực nghèo đói... Cách 2: dùng chỉ tiêu Kalory/người/ngày, Ví dụ ở Băng la đét quy định bình quân 1 người trong ngày dưới 1650 kalory/người/ngày là hộ nghèo. III. Khái niệm và chỉ tiêu đánh giá nghèo đói của Việt Nam: 1. Khái niệm hộ đói nghèo ở Việt Nam: ở nước ta cũng có khái niệm khác nhau xung quanh việc đưa ra khái niệm về đói nghèo, hỉ tiêu và chuẩn mực đói nghèo. Sau đây em xin đưa ra 2 khái niệm về đói nghèo và chỉ tiêu và chuẩn mực được nhiều người chú ý nhất. ở nước ta, xét về đói nghèo khi nghiên cứu người ta thường tách ra làm 2 khái niệm riêng như: Nghèo: là tình trạng một bộ phận dân cư có khả năng thoả mãn một phần các nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện. Để rõ hơn nghèo lại được chia ra làm 2 loại: Nghèo tuyệt đối là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng thoả mãn các nhu cầu tối thiểu nhằm duy trì cuộc sống. Mức nhu cầu tối thiểu là những đảm bảo ở mức tối thiểu và nó gồm 8 yếu tố và được chia ra làm: nhu cầu thiết yếu: ăn ở, mặc và nhu cầu sinh hoạt hàng ngày: văn hóa giáo dục, y tế, đi lại, giao tiếp. Ngày nay người ta còn có ý kiến muốn đưa yếu tố nhu cầu về đóng góp ý kiến của mình vào lĩnh vực xã hội, kinh tế, xã hội. Nghèo tương đối: là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức sống trung bình của cộng đồng tại địa phương đang xét, Như vậy nó chỉ mang tính chất tương đối, nó phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội vị thế của mỗi quốc gia của từng địa phương của từng thời kỳ. 1.2. Đói: là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức sống tối thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo về vật chất để duy trì cuộc sống. Như vậy, một hộ dân cư dược đánh giá là đói khi họ không đủ ăn và cụ thể hơn là thiếu ăn đứt bữa từ 1 đến 2 tháng trong một năm và thường vay nợ của cộng đồng, nợ đóng thuế không có khả năng chi trả. Chỉ tiêu đánh giá hộ đói nghèo của Việt Nam: Nghèo đói là một khái niệm có tính không gian và thời gian. Không gian là để chỉ quốc gia hay từng địa phương, thời gian để chỉ từng giai đoạn, từng năm. Để xét về chỉ tiêu đánh giá về nghèo đói chúng ta chia làm 2 chỉ tiêu: Chỉ tiêu chính: thu nhập quốc dân một người một tháng hoặc một người một năm, và nó được đo bằng chỉ tiêu giá trị, hay hiện vật quy đổi, và ở nước ta thì thường lấy lương thực (gạo để đánh giá). Còn xét về thu nhập thì thu nhập được hiểu là thu nhập thuần tuý và đây chỉ là chỉ tiêu cơ bản nhất để đánh giá mức độ nghèo đói ở nước ta hiện nay. Chỉ tiêu phụ: là dinh dưỡng bữa ăn, nhà ở, mặc và các điều kiện học tập: y tế, đi lại, giao tiếp... Để đánh giá cho đơn giản người ta dùng chỉ tiêu thu nhập quốc dân bình quân đầu người/tháng hoặc năm, thường người ta dùng cách biểu hiện là hình thức hiện vật quy đổi. Vì khi sử dụng hình thức này chũng ta đã tránh được sự ảnh hưởng của giá cả và từ đó có thể so sánh được mức thu nhập của người dân theo không gian và thời gian một cách dễ dàng và thuận tiện. Đối với các hộ nghèo nói chung và người nông dân nói riêng thì chỉ tiêu thu nhập quốc dân bình quân trên đầu người bằng cách biểu hiện qua chỉ tiêu giá trị như vậy chúng ta có thể đánh giá được mức sống của người dân thời gian đó. Chuẩn mực xác định hộ đói nghèo của Việt Nam: Dựa theo chuẩn mực nghèo đói năm 1997: Hộ đói: là hộ có thu nhập dưới 13 kg gạo/người/tháng, tương ứng với 45,000 đồng (áp dụng cho mọi vùng). Hộ nghèo: là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng: Dưới 15 kg gạo tương ứng với 55.000 đồng đối với vùng nông thôn và miền núi, hải đảo. Dưới 20 kg gạo tương đương 70,000 đồng đối với khu vực nông thôn đồng bằng và trung du. Dưới 25 kg gạo tương ứng với 90,000 đồng đối với khu vực thành thị. Các chuẩn mực trên đây chỉ là chuẩn mực tối thiểu. Các địa phương dựa vào phương pháp tiếp cận đó và điều kiện thực tế từ đó có thể đưa ra chuẩn mực cao hơn và đưa ra 3 điều kiện sau: Thu nhập bình quân đầu người của tỉnh phải cao hơn mức thu nhập bình quân đầu người của một quốc gia (3 triệu). Tỷ lệ nghèo đói của tỉnh phải thấp hơn tỷ lệ nghèo đói chung của quốc gia (19,23%). Có khả năng và nguồn lực để thực hiện các chính sách xóa đói giảm nghèo. 4. Khái niệm vùng nghèo đói, chỉ tiêu và chuẩn mức đánh giá: 4.1. Vùng nghèo: là một vùng liên tục gồm nhiều làng, xã, huyện hoặc chỉ một làng, một xã, một huyện mà tại đó chứa đựng nhiều yếu tố khó khăn bất lợi cho sự phát triển của cộng đồng, như đất đai cằn cỗi, thời tiết khí hậu khắc nghiệt, địa hình phức tạp, giao thông khó khăn, trình độ dân trí thấp, sản xuất tự cung tự cấp và có mức sống dân cư trong vùng thấp so với mức sống chung của cả nước xét theo cùng một địa điểm. 4.2. Chỉ tiêu đánh giá vùng nghèo: - Chỉ tiêu chính: thường xét trên 2 chỉ tiêu sau: + Tỷ lệ hộ nghèo tuyệt đối trên tổng số hộ của vùng. + Thu nhập bình quân một thành viên trong một hộ gia đình của vùng. - Chỉ tiêu phụ: + Bình quân lương thực tính trên 1 nhân khẩu nông nghiệp. +Số km đường giao thông trên một nhân khẩu nông nghiệp. + Mức trung bình về điện năng, tiền vốn trên 1 lao động. + Tổng mức hàng hóa lưu thông (xuất nhập) trong vùng tính theo đầu người. +Tỷ lệ người biết chữ, tỷ lệ trẻ em đến trường. + Tỷ lệ y bác sỹ giường bệnh trên 1.000 dân. + Tuổi thọ bình quân. 4.3. Chuẩn mực vùng nghèo: Chuẩn mực chính: + Tỷ lệ hộ nghèo từ 40% trở lên trong 1 vùng. + Bình quân thu nhập của một thành viên trong hộ gia đình của cả vùng thấp hơn mức thu nhập trung bình của một thành viên của một hộ gia đình trong cả nước. Chuẩn mực phụ: + Bình quân lương thực trên đầu người dân nông nghiệp thấp hơn 240 kg gạo/ năm (tính toán dựa trên số liệu năm 1997). + Số km đường giao thông / 1 km2 nhỏ hơn 1/3 mức trung bình của cả nước. + Mức trung bình điện năng, tiền vốn trên một lao động nhỏ hơn 1/3 mức trung bình của cả nước. + Tỷ lệ mù chữ cao hơn 1,5 lần mức trung bình của cả nước. +Tỷ lệ y, bác sĩ giường bệnh trên 1.000 dân thấp hơn 1/3 trung bình cả nước. Trong cuộc họp ngày 2/11/2000 Bộ LĐTB-XH đã ra quyết định 1143/QĐ- LĐTBXH về điều chỉnh chuẩn nghèo giai đoạn 2001-2005. Theo quyết định này thì chuẩn mực mới cao hơn gấp khoảng 1,5 lần chuẩn mực cũ, chuẩn mực được quy định mức theo từng mức sau: Dưới 80.000 đ/người/tháng hay tương đương 960.000đ/người/năm đối với khu vực nông thôn miền núi xa xôi hải đảo. Dưới 100.000 đ/người/tháng hay 1.200.000đ/người/năm đối với khu vực nông thôn đồng bằng trung du. Dưới 150.000 đ/người/tháng hay 1.800.000đ/người/năm đối với khu vực thành thị. Như vậy, dựa theo mức chuẩn này thì ước tính đến năm 2001 nước ta sẽ có khoảng 17% số hộ sống dưới mức nghèo khổ. Từ đó nó đặt ra những thách thức mới và phương hướng mới. Chương II: Thực trạng nghèo đói và xóa đói giảm nghèo ở khu vực nông thôn nước ta Thực trạng nghèo đói ở nước ta hiện nay: Việt Nam được xếp vào các nước nghèo của thế giới Tỷ lệ hộ đói nghèo của Việt Nam còn khá cao. Theo kết quả điều tra mức sống dân cư ( theo chuẩn nghèo chung của quốc tế ), tỷ lệ đói nghèo năm 1998 là trên 37% và ước tính năm 2000 tỷ lệ này vào khoảng 32% (giảm khoảng 1/2 tỷ lệ hộ nghèo so với năm 1990). Nếu tính theo chuẩn đói nghèo về lương thực, thực phẩm năm 1998 là 15% và ước tính năm 2000 là 13%. Theo chuẩn nghèo của chương trình xoá đói giảm nghèo quốc gia mới, đầu năm 2000 có khoảng 2.8 triệu hộ nghèo, chiếm 17.2% tổng số hộ trong cả nước. Nghèo đói phổ biến trong những hộ có thu nhập thấp và bấp bênh Mặc dù Việt Nam đã đạt được những thành công lớn trong việc giảm tỷ lệ nghèo, tuy nhiên cũng cần phải thấy rằng những thành tựu này vẫn còn rất mong manh. Thu nhập của một bộ phận lớn dân cư vẫn nằm giáp danh mức nghèo, do vậy chỉ cần những điều chỉnh nhỏ về chuẩn nghèo, cũng khiến họ rơi xuống ngưỡng nghèo và làm tăng tỷ nghèo Phần lớn thu nhập của người nghèo là từ nông nghiệp. Với điều kiện nguồn lực rất hạn chế ( đất đai, lao động, vốn ), thu nhập của những người nghèo rất bấp bênh và dễ bị tổn thương trước những đột biến của những gia đình và cộng đồng. Nhiều hộ gia đình tuy mức thu nhập ở trên ngưỡng nghèo, nhưng vẫn giáp danh với ngưỡng nghèo đói, do vậy khi có những giao động về có thể thu nhập cũng có thể khiến họ trượt xuống ngưỡng nghèo.Tính mùa vụ trong sản xuất nông nghiệp cũng tạo lên khó khăn cho người nghèo. Mức độ caỉ thiện thu nhập của người nghèo trậm hơn nhiều so với mức sống chung và đặc biệt so với nhóm có mức sống cao. Sự gia tăng chênh lệch về thu nhập giữa nhóm 20% giàu nhất và 20% nghèo nhất ( từ 7.3 lần năm 1993 lên 8.9 năm 1998 ) cho thấy, tình trạng tụt hậu của người nghèo (trong mối tương quan với người giàu). Mặc dù chỉ số nghèo đói có cải thiện, nhưng mức cải thiện ở nhóm người nghèo chậm hơn so với mức chung và đặc biệt so với nhóm người có mức sống cao. Hệ số chênh lệch mức sống giữa thành thị và nông thôn còn rất cao. Những tỉnh nghèo nhất hiện nay cũng là tỉnh xếp thứ hạng thấp trong cả nước về chỉ số phát triển con người và phát triển giới. Nghèo đói tập trung ở các vùng có điều kiện sống khó khăn Đa số người nghèo sinh sống trong các vùng tài nguyên thiên nhiên rất nghèo nàn, điều kiện tự nhiên khắc nhiệt như ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa hoặc ở các vùng Đồng bằng sông Cửu Long, miền Trung, do sự biến động của thời tiết ( bão,lụt, hạn hán) khiến cho các điều kiện sinh sống và sản xuất của người dân càng thêm khó khăn. Đặc biệt, sự kém phát triển về hạ tầng cơ sở của các vùng nghèo đã đã làm cho các vùng càng bị tách biệt với các vùng khác. Năm 2000, khoảng 20 – 30% trong tổng số 1870 xã đặc biệt khó khăn chưa có đường dân sinh đến trung tâm xã; 40% số xã chưa đủ phòng học; 5% số xã chưa có trạm y tế; 55% số xã chưa có nước sạch ; 40% số xã chưa có đường điện đến trung tâm xã ; 50% chưa đủ công trình thuỷ lợi nhỏ; 20% số xã chưa có chợ xã và cụm xã. Bên cạnh đó, do điều kiện tự nhiên không thuận lợi số người trong diện cứu trợ đột xuất hàng năm khá cao, khoảng1 – 1.5 triệu người, hàng số hộ tái đói nghèo trong tổng số vừa thoát đói nghèo vẫn con lớn. Đói nghèo tập trung trong khu vực nông thôn Nghèo đói là một hiện tượng phổ biến ở nông thôn với trên 90% số người nghèo sinh sống ở nông thôn. Năm 1999, tỷ lệ nghèo đói về lương thực, thực phẩm của thành thị 4.6%, trong khi đó của nông thôn là 15,9%. Trên 80% số người nghèo là nông dân trình độ tay nghề thấp, ít khả năng tiếp cận các nguồn lực trong sản xuất ( vốn, kỹ thuật, công nghệ… ) thị trưòng tiêu thụ sản phẩm gặp nhiều khó khăn do điều kiện địa lý và chất lượng sản phảm kém, chủng loại sản phẩm nghèo nàn. Những người nông dân nghèo thường không có điều kiện tiếp cận với hệ thống thông tin, khó có khả năng chuyển đổi việc làm sang các ngành phi nông nghiệp. Phụ nữ nông dân ở cá vùng sâu, vùng xa, nhất là nữ chủ hộ độc thân, phụ nữ cao tuổi là những nhóm nghèo dễ bị tổn thương nhất. Phụ nữ nghèo lao động nhiều thời gian hơn, nhưng thu nhập ít hơn, họ ít có quyền quyết định trong gia đình và cộng đồng. Do đó có ít cơ hội tiếp cận các nguồn lực và lợi ích do chính sách mang lại. Bảng: Ước tính quy mô và tỷ lệ nghèo đói theo chuẩn nghèo mới giữa thành thị và nông thôn năm 2000 Số hộ nghèo (nghìn hộ ) So với số hộ trong vùng (%) So với tổng số hộ nghèo cả nước (%) Tổng số Nông thôn: Trong đó: - Nông thôn miền núi - Nông thôn đồng bằng Thành thị 2.800 2.535 785 1.750 265 17,2 19,7 1,3 16,9 7,8 100 90,5 28,0 62,5 9,5 Nguồn: chương trình quốc gia xoá đói giảm nghèo Nghèo đói trong khu vực thành thị Trong khu vực thành thị, tuy tỷ lệ nghèo đói thấp hơn và mức sống trung bình cao hơn so với mức chung của nước, nhưng mức độ cải thiện điều kiện sống không đồng đều. Đa số người nghèo đô thị làm việc trong khu vực kinh tế phi chính thức, công việc không ổn định, thu nhập thấp và bấp bênh. Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế và chủ sở hữu trong khu Nhà nước dẫn đến sự dôi dư lao động, mất việc làm của một bộ phận của người lao động ở khu vực này, làm cho điều kiện sống của họ càng thêm khó khăn hơn. Số lao động này phải chuyển sang làm công việc khác với mức lương thấp hơn, hoặc không tìm được việc làm và trở thành thất nghiệp Người nghèo đô thị phần lớn sống ở những nơi có cơ sở hạ tầng thấp kém, khó có điều kiện tiếp cận tới các dịch vụ cơ bản ( nước sạch, vệ sinh môi trường, thác nước, ánh sáng và thu gom rác thải…) Người nghèo dễ bị tổn thương do sống phụ thuộc chủ yếu vào nguồn thu nhập bằng tiền. Họ thường không có hoặc ít có khả năng tiết kiệm và gặp nhiều khó khăn trong việc vay vốn tạo việc làm. Quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá làm tăng số lượng người di cư tự do từ các vùng nông thôn đến các đô thị , chủ yếu là trẻ và người trong độ tuổi lao động. Hiện tại chưa có số liệu thống kê về số lượng người di cư tự do này. Những người này thường gặp rất nhiêu khó khăn trong việc đăng ký hộ khẩu hoặc tạm chú lâu dài, do đó họ có thể tìm kiếm được công ăn việc làm và thu nhập ổn định. Họ có ít cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội và phải chi trả các dịch vụ cơ bản như y tế, giáo dục ở mức cao hơn so với người dân đã có hộ khẩu. Ngoài ra, đói nghèo còn chiếm tỷ lệ cao trong các nhóm đối tượng xã hội khác như những người không nghề nghiệp, người thất nghiệp, người lang thang và người bị ảnh hưởng bởi các tệ nạn xã hội ( mãi dâm, nghiện hút, cờ bạc…) 6. Tỷ lệ nghèo đói khá cao trong các vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao Đói nghèo mang tính chất vùng rất rõ rệt. Các vùng núi cao, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người sinh sống, có tỷ lệ đói nghèo khá cao. Có tới 64% số người nghèo tập trung tại các vùng miền núi phí Bắc, Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên và Duyên Hải miềnTrung. Đây là những vùng có điều kiện sống khó khăn, địa lý cách biệt, khả năng tiếp cận với các điều kiên sản xuất, dịch vụ còn nhiều hạn chế, hạ tầng cơ sở rất kém phát triển, điều kiện thiên nhiên rất khắc nhiệt và thiên tai xảy ra thường xuyên. Bảng: Ước tính quy mô và tỷ lệ nghèo đói theo chuẩn nghèo mới (2001- 2005) của chương trình xoá đói giảm nghèo theo vùng đầu năm 2001 Số hộ nghèo (nghìn hộ ) So với tổng số hộ trong vùng (%) So với tổng số hộ nghèo cả nước (%) Tổng số 2.800 17,2 100 Vùng Tây Bắc 146 33,9 5,2 Vùng Đông Bắc 511 22,3 18,2 Vùng Đồng bằng sông Hồng 337 9,8 12,0 Vùng Bắc Trung Bộ 554 25,6 19,8 Vùng duyên hải miền Trung 389 22,4 13,9 Vùng Tây Nguyên 190 24,9 6,8 Vùng Đông Nam Bộ 183 8,9 6,6 Vùng Đồng bằng sông Cửu Long 490 14,4 17,5 Nguồn: chương trình quốc gia xoá đói giảm nghèo 7. Tỷ lệ hộ nghèo đói đặc biệt cao trong các nhóm dân tộc ít người Trong thời gian qua, Chính phủ đã đầu tư và hỗ trợ tích cực, nhưng cuộc sống của cộng đồng dân tộc ít người vẫn gặp nhiều khó khăn và bất cập. Mặc dù dân số dân tộc ít người chỉ chiếm khoảng 14% tổng số dân cư, song lại chiếm khoảng 29% trong tổng số người nghèo Đa số người dân tộc ít người sính sống trong các vùng sâu, vùng xa bị cô lập về mặt địa lý, văn hoá, thiếu điều kiện phát triển về hạ tầng cơ sở và các dịch vụ xã hội cơ bản. Nguyên nhân cơ bản dẫn đến đói nghèo hiện nay: Nghèo khổ hay nghèo đó là một hiện tượng kinh tế xã hội, vừa là vấn đề lịch sử để lại vừa là vấn đề của phát triển, thường có trong quá trình phát triển mà các quốc gia nào cũng vấp phải. Nó tác động trực tiếp đến cuộc sống của con người, từ mỗi cá nhân, gia đình đến cộng đòng. Mỗ quốc gia ở các mức độ khác nhau đều phải quan tâm, giải quyết vấn đề đói nghèo để vượt qua những trở ngại cho sự phát triển phồn thịnh về kinh tế và từng bước đạt đến công bằng xã hội. Để chống lại đói nghèo, giảm bớt sự nghèo khoỏ thì đòi hỏi chúng ta phải xác định đúng những nguyên nhân dẫn đến nghèo đói. Có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh việc xác định nguyên nhân dẫn đến nghèo đói. Trên thực tế. Thì không có một một nguyên nhân biệt lập riêng rẽ nào dẫn đến nghèo đói, nhất là nghèo đói ở diện rộng, có tính chất xã hội. Nó không phải là những nguyên nhân thuần tuý về kinh tế hoặc do thiên tai dịch hoạ. ở đây tình trạng nghèo đói có sự đan xen thâm nhập vào nhau kể cả cái tất yếu lẫn ngẫu nhiên, cả cái cơ bản và tức thời, cả nguyên nhân sâu xa lẫn nguyên nhân trực tiếp, cả khách quan lẫn chủ quan, tự nhiên lãn kinh tế xã hội. Vì vậy để giải thích hiện tượng này theo hệ thống các nguyên nhân, nhận diện các nhóm nguyên nhân có tính phổ biến và đặc thù khác nhau. Có ý kiến đưa ra 5 nhóm nguyên nhân sau: 1. Những nguyên nhân chủ quan. Đây là những nguyên nhân do bản thân người lao động, phổ biến là: Không có kinh nghiệm làm ăn, không biết cách sản xuất kinh doanh. Thiếu hoặc không có vốn. Đông con ít lao động. Neo đơn, thiếu lao động. Rủi ro, đau ốm. ăn tiêu lãng phí lại lười biếng... 2. Những nguyên nhân khách quan. Những nguyên nhân khách quan lại được chia ra thành 2 nhóm nguyên nhân về mặt tự nhiên và về mặt xã hội: 2.1 Những nguyên nhân khach quan ve điều kiện tự nhiên như: Đất đai canh tác ít. Đất cằn cỗi, ít màu mỡ, canh tác khó, năng suất cây trồng, vật nuôi đều thấp. Thời tiết, khí hậu không thuận lợi cho sản xuất. Xa xôi, hẻo lánh. Không có đường giao thông... 2.2 Những nguyên nhân khách quan về mặt xã hội. Nhóm yếu tố này ảnh hưởng mạnh tới tình trạng nghèo đói của nhân dân trong cả nước và ở từng địa phương. Chẳng hạn như: Sự quan tâm và các chính sách của chính quyền trung ương và địa phương không đầy đủ, không thích hợp. Chưa có biện pháp hành chính và giáo dục thích đáng để hạn chế và xoá bỏ tệ nạn xã hội. Hợp tác xã thu hồi bớt ruộng đất của người nghèo do họ không thể trả nợ sản phẩm do đó mà làm cho họ ngày càng nghèo hơn. Hậu quả do chiến tranh: người tàn tật, người thuộc diện chính sách tập trung quá đông ở một vùng. 3. Các nguyên nhân kết hợp. Hai nguyên nhân 1,2 nêu trên là những nguyênnhân có tính chất chủ quan và khách quan. Khi kết hợp tạo thành 3 dạng nguyên nhân nghèo đói sau: Vì mắc tệ nạn xã hội mà nghèo đói: nhất là đối với các tệ nạn: cờ bạc, nghiện hút, số đề... Do thiếu đất và do bị thu hồi bớt ruộng đất mà nghèo đói. Do không biết làm gì khác ngoài nghề ruộng mà đói nghèo. 4. Nguyên nhân do thiếu thị trường. Đối với người nghèo tất cả mọi biện pháp cứu trợ chỉ có giá trị nhất thời, không thể làm thay đổi hoàn cảnh đói nghèo kinh niên của người nghèo đói do đó cũng không thay đổi thân phận của người nghèo đói được. Điều quan trọng để tự mình vượt qua nghèo đói là đẩy mạnh sản xuất, tăng thu nhập. Muốn vậy phải có thị trường cung cấp vật tư nông nghiệp, nguyên vật liệu, tiêu thụ sản phẩm theo giá thoả thuậ. Nguyên nhân thiếu thị trường lại có thể tìm ở các nguyên nhân khác: xa xôi hẻo lánh; thiếu đường giao thông, thiếu an toàn, thiếu các chính sách, biện pháp khuyến khích. 5. Những ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0244.doc
Tài liệu liên quan