Thực trạng sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam

CHƯƠNG I VAI TRÒ CỦA HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI CỦA VIỆT NAM I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ Giới thiệu chung về nghề truyền thống hàng thủ công mỹ nghệ Nghề thủ công mỹ nghệ Việt Nam vốn có truyền thống từ lâu đời. Truyền thống đó gắn liền với tên những làng nghề, phố nghề và được biểu hiện bằng những sản phẩm thủ công truyền thống, với những nét độc đáo, tinh xảo, hoàn mỹ. Sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam có nét riêng và độc đáo tới mức tên của

doc86 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2712 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sản phẩm luôn kèm theo tên làng làm ra nó. Sản phẩm nổi tiếng cũng làm cho làng nghề tạo ra các sản phẩm ấy nổi tiếng. Nhiều làng nghề truyền thống của ta nổi bật hẳn lên trong lịch sử văn hoá, văn minh Việt Nam. Ở đó không chỉ tập trung một hay nhiều nghề thủ công, trở thành một trung tâm sản xuất lớn hoặc khá lớn, mà còn là nơi hội tụ các thợ và nghệ nhân tài hoa, tạo ra những sản phẩm có bản sắc riêng, nơi khác khó bề bắt chước được. Lịch sử phát triển nền văn hoá và kinh tế của đất nước luôn gắn liền với lịch sử phát triển làng nghề Việt Nam. Bởi những sản phẩm thủ công mỹ nghệ không chỉ là những vật phẩm văn hoá hay vật phẩm kinh tế thuần tuý cho sinh hoạt thường ngày mà nó chính là những tác phẩm nghệ thuật biểu trưng của nền văn hoá xã hội, trình độ phát triển kinh tế, dân trí, đặc điểm nhân văn của dân tộc. Đồng thời, các làng nghề không chỉ đơn thuần là nơi sản xuất ra những sản phẩm hàng hoá mà còn là một môi trường văn hoá - kinh tế - xã hội và công nghệ truyền thống lâu đời của dân tộc. Nó bảo lưu cả những tinh hoa nghệ thuật và kỹ thuật truyền từ đời này sang đời khác, chung đúc ở các thế hệ nghệ nhân tài năng, với những sản phẩm có bản sắc riêng của mình, nhưng lại tiêu biểu và độc đáo cho cả dân tộc Việt Nam. Môi trường văn hoá làng nghề cũng chính là khung cảnh làng quê, cây đa, bến nước, đình chùa, đền miếu…, các lễ hội và hoạt động phường hội, phong tục tập quán, nếp sống đậm nét dân gian và chứa đựng tính nhân văn sâu sắc. Truyền thống đó từ lâu đã trở thành một bộ phận không thể thiếu và làm phong phú thêm truyền thống văn hoá Việt Nam. Chúng ta có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng, trước khi có nền sản xuất cơ khí hoá và hiện đại hoá, kể cả tự động hoá như hiện nay, thì mọi sản phẩm trong xã hội đều được làm ra bởi một nền công nghệ duy nhất, đó là công nghệ truyền thống với đôi bàn tay và khối óc sáng tạo của các thế hệ thợ thủ công cùng việc sử dụng các loại công cụ sản xuất thô sơ. Nói khác đi, mọi giá trị vật phẩm vật chất (vật thể) và tinh thần (phi vật thể) trong các thời kỳ lịch sử – xã hội lúc đó của dân tộc ta, cũng như các dân tộc khác trên thế giới, đều là sản phẩm thủ công, đều hội tụ ở các sản phẩm thủ công. Hơn thế nữa, ngay cả ở thời hiện đại, khi mà máy móc đã thay thế phần lớn sức lao động của con người, nền sản xuất và sản phẩm thủ công cũng không mất đi. Chúng tồn tại, phát triển song song với công nghệ và sản phẩm hiện đại. Với sự giúp đỡ của máy móc và thiết bị hiện đại, công nghệ truyền thống sẽ được hiện đại hoá, nền sản xuất thủ công thủ công truyền thống ngày càng phát triển thuận lợi và mạnh mẽ hơn. Nói chung, với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, biết bao sản phẩm hiện đại được tạo ra từ những máy móc hết sức thông minh. Bên cạnh đó, tuy được làm từ những đôi bàn tay cần cù chịu khó của những người lao động thủ công, hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam vẫn tồn tại và bước vào đời sống thường nhật một cách giản dị, tự nhiên, dần phát triển muôn hình vạn dạng, bắt kịp với nhịp sống ngày một cao. Nó như một thứ gia vị không thể thiếu làm tăng thêm sắc màu cho cuộc sống hiện đại ngày nay. 2. Các mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam Các sản phẩm thủ công mỹ nghệ được sản xuất từ rất nhiều loại nguyên liệu khác nhau và mỗi sản phẩm được tạo ra bằng các quy trình hoàn toàn khác nhau. Dù thế nào các sản phẩm thủ công mỹ nghệ đều có một nét chung là kết quả của lao động nghệ thuật với tay nghề điêu luyện, trí tuệ sáng tạo độc đáo của các tay thợ tài ba. Các mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam vô cùng phong phú và đa dạng. Có thể kể đến, đó là: hàng gốm sứ, hàng đúc đồng, hàng mây tre đan, hàng thêu ren, hàng thổ cẩm, hàng gỗ, hàng sơn mài, hàng kim hoàn, hàng rèn, hàng đá và một số hàng nổi tiếng như nón, tranh dân gian, giấy dó ở các làng nghề truyền thống… Dưới bàn tay khéo léo và khối óc tài hoa của những người thợ thủ công, từ các nguyên liệu thô sơ, họ đã tạo ra biết bao thành phẩm không những có giá trị về kinh tế mà có giá trị về nghệ thuật. Các mặt hàng thủ công mỹ nghệ được sản xuất ra đã có sức thu hút lớn không chỉ với người tiêu dùng Việt Nam mà còn được người tiêu dùng nhiều nước ưa chuộng. Nhiều sản phẩm, mặt hàng đã được xuất khẩu ra thị trường ngoài nước. Dưới đây, khoá luận xin nêu ra một số mặt hàng thủ công mỹ nghệ có tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu tương đối lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. 2.1. Hàng gốm sứ Gốm sứ là loại hàng phổ biến trong cuộc sống của mọi tầng lớp dân cư. Sản phẩm của nghề này có thể dùng phổ biến trong cuộc sống hàng ngày (bát đĩa, ấm chén, nồi, chum vại…), trong xây dựng (chân sứ, vật cách điện…) hay làm đồ thờ (bát hương, lọ đựng hương, các tượng, lọ hoa…), tranh tượng và đồ lưu niệm… Gốm sứ được sản xuất ở mọi nơi trên đất nước ta. Các làng nghề truyền thống sản xuất gốm sứ nổi tiếng là Bát Tràng (Hà Nội), làng Cậy (Hải Dương), Thổ Hà (Bắc Ninh), Móng Cái (Quảng Ninh), Hương Canh, Hiến Lễ (Vinh Phú), Thanh Hoá, Phước Phú (Huế), Thanh Hà (Quảng Nam), Đồng Nai, Sông Bé, Thủ Dỗu Một… Các sản phẩm nổi tiếng truyền trong dân gian là “Sứ Móng Cái, vại Hương Canh” hay “chiếu Nga Sơn, gạch Bát Tràng”… Gốm sứ có nhiều loại: men ngọc, men nâu (hay hoa nâu) xuất hiện từ thời Lý, hoa lam (đời Trần)… Kỹ thuật làm gốm sứ vẫn xoay quanh hai vấn đề lớn là kỹ thuật bàn xoay và lò nung. Ngoài lò hộp (nung bằng than) và lò vồng (nung bằng củi) hiện nay đã xuất hiện kiểu lò tunel đốt gas. Sản phẩm gốm sứ không những tràn ngập trong nước mà còn rất có giá trị ở nước ngoài. Cách đây 200 năm, khúc sông xã Bát Tràng còn có một bến cảng chở đồ gốm sứ sang Nhật Bản. Ngày nay nhiều mặt hàng bị nhái, làng nghề lan tỏa nhưng ở những làng truyền thống vẫn giữ được bí quyết của mình đối với những mặt hàng tinh xảo chẳng hạn Thổ Hà vẫn giữ được sành nâu, Hương Canh, Phù Lãng vẫn giữ được gốm da lươn, Chu Đậu (Hải Dương) vẫn giữ được men hoa lam, gốm Tức Mặc (Nam Định) gọi là “Thiên tường phủ chế”…, gốm Bát Tràng giữ được men ngọc, men rạn. 2.2. Hàng mây tre đan Mây, tre, song rất gần gũi với người Việt Nam. Từ lâu các nghệ nhân đã tạo nên rất nhiều sản phẩm mỹ nghệ độc đáo từ những nguyên liệu sẵn có này (giường, bàn, ghế, lẵng hoa, hình các con vật, đồ lưu niệm..) Hàng mây, tre của làng Phú Vinh (Hà Tây) có tới 500 mẫu mã khác nhau. Hàng mây tre đan được phát triển trong cả nước, nổi tiếng là làng Phú Vinh (Hà Tây), Ngọc Động (Hà Nam), Thượng Hiền (Thái Bình), Hoà Bình (Bình Định), Vĩnh Ba (Phú Yên), Yên Sở (Hà Tây), Nho Quan (Ninh Bình). Nghề mây tre đan ở Phú Nghĩa, Chương Mỹ đã thu hút 80-85% lao động. Ở làng Phú Vinh có 8000 người làm nghề đan lát, thu nhập lên tới 2,2 tỷ đồng/năm. Có thể nói nghề này đã thu hút hút một khối lượng lớn những người lao động, tạo công ăn việc làm, nâng cao đời sống người dân. 2.3. Hàng gỗ thủ công mỹ nghệ Loại hàng này đã xuất hiện từ lâu đời vì gỗ là đồ dùng thông dụng khắp mọi nơi. Người dân Việt Nam dùng sản phẩm đồ gỗ cho thờ cúng (Hoành phi, câu đối, ngai, tượng, mâm bồng, bàn thờ, ống hương…) và gỗ để làm giường tủ, sập, bàn ghế hay tranh gỗ, các con vật bằng gỗ… Hàng Tiện xưa là nơi buôn bán các hàng tiện gỗ như mâm bồng, ống hương, đài rượu, khuôn oản… do người làng Nhị Khê làm (nay là Hàng Hành, phố Tô Tịch ). Phố Hàng khay chuyên bán sản phẩm đồ gỗ của làng Đồng Kỵ. Chạm khắc gỗ nổi tiếng ở Việt Nam có làng Phù Khê, Hương Mạc, Đồng Kỵ, Đồng Quang (Bắc Ninh), Bích Chu (Vĩnh Phú), Vân Hà (Hà Nội), Võ Lăng (Hà Tây), Lý Nhân (Hà Nam), La Xuyên (Nam Định), làng Sinh, Kim Bồng (Quảng Nam), Nhạn Tháp (Bình Định), Phú Lộc (Ninh Bình), Bảo Hà (Hải Phòng), Mỹ Xuyên (Huế). Trong các cơ sở nổi tiếng trên, Đồng Kỵ là cơ sở sản xuất gỗ mỹ nghệ lớn nhất ở nước ta. Mặt hàng của đồ gỗ rất phong phú, nghề mộc là nghề phổ biến trong dân gian. Các thợ sau khi học được nghề có thể tách nhóm để làm ăn ở nơi khác vì mọi nơi đều cần đồ gỗ. Tại những nơi mới đó, người thợ vừa học, vừa làm và lại có cơ hội tách nhóm. Không giống các nghề khác, nghề này được nhân rộng rất nhanh. Quá trình lao động cần cù say mê đó đã tạo nên các lớp thợ giỏi, sáng tạo… (“nhất nghệ tinh, nhất tinh vinh”) và từ đó nhiều mẫu mã hàng mới xuất hiện. Quá trình phát triển của nghề này gắn liền với sự ra đời của nghề điêu khắc, khảm trai. Nhiều mẫu mã của sản phẩm đồ gỗ được lấy từ Trung Quốc, đặc biệt là các hàng gắn với điển tích như tùng cúc trúc mai, long ly quy phượng, ngai thờ, các loại tượng, tủ chè, sập gụ…Từ các đường lèo, các hoạ tiết khác thường được nảy sinh trong sáng tạo của các nghệ nhân… Vì vậy, trình độ sáng tạo nhanh được nhân lên ở các tay thợ cả, các nghệ nhân. Khi kết hợp với nghệ thuật khảm trai, ốc, giá trị của sản phẩm được tăng lên gấp bội. Khảm trai, ốc làm nổi bật các đường nét của các tác phẩm, đặc biệt là các tác phẩm mang điển tích. Thị trường về sản phẩm gỗ mỹ nghệ lại rất rộng và triển vọng ở nước ngoài. Ngày nay nhiều khâu nặng nhọc như pha cắt gỗ, bào… được cơ giới hoá làm cho năng suất lao động nâng cao và phần quan trọng còn lại dành cho các khâu tinh chế với tài năng sáng tạo của các nghệ nhân. Trong điều kiện khan hiếm về nguyên liệu, ở một số sản phẩm có thể phải thay thế nguyên liệu nhưng cần lưu ý là giá trị sản phẩm sẽ tăng khi được đầu tư thoả đáng về chất xám. Từ đó, cần có kiến thức toàn diện ở nhiều lĩnh vực cho việc tạo nên một sản phẩm hoàn thiện hơn (tạo dáng, hoạ tiết…) 2.4. Hàng thêu ren Thêu ren là một nghề thủ công truyền thống đặc biệt ở nước ta mà mọi sản phẩm của nó đều là những tác phẩm nghệ thuật do bàn tay khéo léo của thợ thủ công tạo nên. Dụng cụ của nghề rất đơn giản nhưng sự khéo léo, sự kiên trì và sáng tạo là vô hạn. Ngày nay ở một số nước, người ta dùng máy trong nghề này mang lại năng suất lao động rất cao, nhưng máy cũng chỉ là máy, chỉ có bàn tay khéo léo của con người mới làm nên những sản phẩm kỳ diệu. Những sản phẩm đồng loạt có thể dùng máy (như thêu chữ, thêu cờ, thêu biểu tượng, khăn…) nhưng nếu muốn có sản phẩm độc nhất vô nhị… thì phải cần đến bàn tay vàng của các nghệ nhân. Hàng thêu ren nổi tiếng ở Lý Nhân, Thanh Liêm (Hà Nam), Minh Lãng (Thái Bình), Văn Lam (Ninh Bình), Quất Động, Ninh Hải… ở các vùng dân tộc thiểu số, các bà mẹ, cô gái thường thêu những sản phẩm cho riêng mình. Thêu ren là một nghề sớm có ở nước ta, phạm vi sản xuất khá hạn hẹp, thị trường tiêu thụ lại nhỏ so với khả năng sản xuất nên lượng hàng tồn đọng nhiều. 2.5. Hàng thổ cẩm Đây là một loại hàng đặc biệt của đồng bào dân tộc thiểu số. Sản xuất ra hàng thổ cẩm có người Chăm ở Chương Mỹ (Ninh Thuận), Phan Hoà (Bình Thuận). Dệt vải Riêng của người Cà Ho (Lâm Đồng), người Thái, Mường, Tày, Dao, Lự ở miền Bắc, người Khơ me, Xê đăng, Gia rai, Bana, Chăm, Ê đê, Giả - Triêng ở miền Nam đều có nghề dệt gia đình. Ở Miền Bắc nổi tiếng dệt thổ cẩm với các làng nghề Nà phồn, Xâm Khoè, Mai Tịch, Chiềng Châu (Hoà Bình) của dân tộc Thái; 4 làng nổi tiếng của dân tộc Mường là Mường Bí, Mường Vang, Mường Thành, Mường Đậu (Hoà Bình). Hàng mỹ nghệ thổ cẩm có rất nhiều loại: quần áo, túi xách, ví… với rất nhiều kiểu dáng kích cỡ khác nhau, tiêu dùng nội bộ theo tập tục của các đạo giáo trong các lễ hội là chủ yếu. Nghề thổ cẩm phát triển với những bước thăng trầm và thị trường hạn hẹp, người thợ thủ công chỉ tận dụng thời gian những lúc nông nhàn. Thu nhập của họ chủ yếu là từ nông nghiệp. Vì vậy, chỉ có những người yêu nghề hơn yêu mình mới gắn bó với nghề. Trong khi đó, nghề này tương đối phát triển ở ngoài Bắc (ở Hoà Bình). Sản phẩm được bán ở các chợ và nhiều người nước ngoài có mặt tại các điểm du lịch thường say sưa ngắm nhìn và mua sắm loại sản phẩm này. 3. Đặc thù của hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống Hàng thủ công mỹ nghệ do các nghệ nhân và thợ thủ công trong các làng nghề sản xuất theo từng công đoạn của toàn bộ dây truyền công nghệ, có sự hợp tác của nhiều người lao động làm ra. Nếu như người thợ trong nhà máy, xí nghiệp sản xuất hàng hoá trên dây truyền hiện đại chỉ thực hiện đúng thao tác quy chuẩn, càng nhanh và chính xác càng tốt, không được sai khác, thì người thợ thủ công vừa thao tác theo khuôn mẫu đã định, còn tự do sáng tạo theo trình độ và tay nghệ của mình. Người thợ giỏi, nhất là nghệ nhân, họ mặc sức tung hoành, sáng tạo trong quá trình tạo ra sản phẩm. Ở đây, nghệ nhân, thợ cả vừa là người quản lý và chỉ đạo sản xuất, vừa là người trực tiếp làm ra sản phẩm. Trong khi đó, các nhà quản lý và kỹ sư công nghiệp không thể trực tiếp đứng máy như người công nhân. Bởi vậy, trong sản phẩm các mặt hàng thủ công mỹ nghệ mang những nét rất đặc thù rất riêng: 3.1. Trong sản phẩm thủ công mỹ nghệ, văn hoá tinh thần kết tinh trong văn hoá vật thể Những con Rồng, Phượng, Rùa, Lân được chạm khắc ở các đình chùa, hoa văn trang trí trên các trống đồng, men màu trên đồ gốm sứ, đồ án hoa văn hoạ tiết trên sản phẩm thêu, dệt vải, lụa, thổ cẩm… trước hết đó là văn hoá vật thể, nhưng chúng hàm chứa những quan điểm tư tưởng triết học Phương Đông, triết lý về trời - đất - con - người, quan niệm về tôn giáo và thần quyền, đặc biệt là triết lý đạo Phật, đạo Giáo, đạo Nho (Khổng, Mạnh) và triết lý Kinh Dịch. Sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam bao giờ cũng phản ánh sâu sắc tư tưởng, tình cảm, quan niệm thẩm mỹ của dân tộc Việt Nam, bản sắc văn hoá Việt Nam. Giá trị mỗi sản phẩm thủ công được khách hàng trong và ngoài nước nhìn nhận chủ yếu từ góc độ văn hoá nghệ thuật dân tộc, sau đó mới đến vấn đề kỹ thuật và kinh tế. 3.2. Hàng thủ công mỹ nghệ mang đậm tính cá biệt, phong cách của mỗi nghệ nhân và nét đặc trưng địa phương, tồn tại trong sự giao lưu với cộng đồng Hàng chạm trổ trên từng chất liệu khác nhau (gỗ, đá, đồng, sừng, xương…), hàng sơn (sơn quang, sơn then, sơn thếp vàng bạc, sơn mài), hàng thêu, dệt (tơ lụa, chiếu, thảm…) hàng mây tre đan, kim hoàn, đồ chơi… ở mỗi làng nghề đều có màu sắc riêng, từng nghệ nhân cũng có những nét riêng. Những nét riêng đó được thử thách qua thời gian, qua giao lưu, được chọn lọc, được thừa nhận để tồn tại và phát triển, cùng với sự bổ sung lẫn nhau, trở thành những kiểu mẫu hoàn thiện hoàn mỹ cho những sản phẩm cùng loại được sản xuất tiếp theo. 3.3. Hàng thủ công mỹ nghệ là loại sản phẩm nghệ thuật, kết tinh từ những thành tựu kỹ thuật - công nghệ truyền thống, phương pháp thủ công tinh xảo với đầu óc sáng tạo nghệ thuật Sự giao kết giữa phương pháp thủ công tinh xảo với sự sáng tạo nghệ thuật của nghệ nhân và người thợ thủ công đã tạo ra hàng thủ công mỹ nghệ nói riêng và sản phẩm thủ công truyền thống nói riêng. Sự giao kết này kéo theo những đặc thù khác trong sự phát triển hàng thủ công: - Tính riêng, tính đơn chiếc mạnh hơn tính đồng loạt. - Chiều sâu nhiều hơn chiều rộng – mang tính trường phái, gia tộc, giữ bí quyết trong sáng tạo hơn là sự phổ biến rộng rãi. - Đầy chất trí tuệ, tri thức tích tụ lâu đời. - Sử dụng hàng thủ công phải đồng thời thưởng thức nó nữa (thưởng thức nghệ thuật và tư tưởng, trí tuệ) Nghiên cứu và hoạch định chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển hàng thủ công mỹ nghệ không thể bỏ qua những nét đặc thù đó. Điều này cũng cần thiết trong việc củng cố và hình thành óc thẩm mỹ của người tiêu dùng. Với những đặc thù như trên, ngày nay, hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam ngày càng tìm được chỗ đứng vững chắc của mình trong nước cũng như trên trường quốc tế. Nghề thủ công với sản phẩm tinh xảo và “bàn tay vàng” của các nghệ nhân vẫn tiếp tục có vai trò, vị trí quan trọng hơn trong xã hội chúng ta. II. VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI CỦA VIỆT NAM. Xuất khẩu là một trong những nhiệm vụ quan trọng của chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Xuất khẩu là hoạt động chính tạo tiền đề, điều kiện cho quy mô và tốc độ tăng trưởng của nhập khẩu. Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hoạt động xuất khẩu càng có nghĩa thiết thực hơn. Điều này, không những thu về cho đất nước một nguồn ngoại tệ lớn, mà quan trọng hơn còn là cơ hội để chúng ta phát huy các lợi thế so sánh của đất nước, mở rộng các ngành nghề sản xuất, giải quyết công ăn việc làm cho xã hội. Với ý nghĩa đó, việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ - một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta, có một vai trò vô cùng to lớn đối với phát triển kinh tế xã hội Việt Nam. 1. Thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước Văn kiện Đại hội VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định con đường phát triển của đất nước là thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhằm xây dựng nước Việt Nam thành nước công nghiệp, cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Để làm được điều đó, chúng ta cần vốn để nhập máy móc, thiết bị, khoa học kỹ thuật tiên tiến, hiện đại… Vốn để nhập khẩu có thể lấy từ nhiều nguồn khác nhau như: đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ, hoạt động du lịch, xuất khẩu sức lao động… Các nguồn vốn đó tuy quan trọng nhưng cũng phải trả bằn cách này hay cách khác vào thời kỳ sau. Như vậy, để thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá một cách có hiệu quả và vững chắc, đạt mục tiêu biến nước ta thành nước công nghiệp vào năm 2020, phải dựa vào một nguồn vốn vô cùng quan trọng – xuất khẩu. Trong đó, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đóng một vai trò rất quan trọng. Kim ngạch xuất khẩu luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước và đang có xu hướng tăng. Trong giai đoạn 1991-2000, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam có nhịp độ tăng khá nhanh. Nếu năm 1991 mới đạt 6,8 triệu USD, năm 1996 đã đạt 124 triệu USD, năm 1999 là 168 triệu USD, thì đến năm 2000 đã đạt 236 triệu USD, tiếp đó, năm 2001 là 235 triệu USD, 9 tháng năm 2003 đạt triệu USD. Với tốc độ tăng nhanh như vậy, hàng thủ công mỹ nghệ đã trở thành một trong những mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam (đứng thứ 8 trong 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực, vượt kim ngạch xuất khẩu của nhiều mặt hàng khác). Thành công trên tuy còn khiêm tốn, nhưng đã góp phần thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Việt Nam nói chung ngày càng tăng trưởng. 2. Tạo công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, nâng cao đời sống nhân dân Thất nghiệp cao là sự lãng phí lớn về nguồn lực, đồng thời cũng là nguyên nhân thúc đẩy tình trạng bất ổn và tệ nạn xã hội phát triển. Nhà kinh tế học nổi tiếng người Mỹ – Okun đã thống kế từ năm 1975 đến 1987, tỷ lệ thất nghiệp trung bình ở Mỹ là 9,6%, làm cho nước Mỹ thiệt hại hàng nghìn tỷ USD. Văn kiện Đại hội IX đã đặt ra việc giải quyết việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống dưới 5% và tăng thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn lên 75% là mục tiêu chính. Đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ có thể giúp chúng ta thực hiện mục tiêu đó vì đa phần lao động ở vùng nông thôn. Ở đó, dân đông, trình độ dân trí thấp, dân số không ngừng tăng lên trong khi diện tích đất đai vẫn giữ nguyên, thậm chí còn bị chiếm dụng để sử dụng cho mục đích khác. Vì vậy, nhu cầu tìm việc cho người dân nông thôn và cho những người lao động không có đất canh tác ở những vùng nông thôn hiện nay đã trở thành nhu cầu vô cùng cấp thiết. Sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ là một trong những biện pháp hữu hiệu giải quyết tình trạng này. Bởi lẽ, hàng thủ công mỹ nghệ chủ yếu được làm bằng tay nên thu hút nhiều lao động có trình độ tay nghề vừa phải, không đòi hỏi cao về chuyên môn kĩ thuật, nghiệp vụ hay ngoại ngữ như những ngành khác. Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ tạo điều kiện cho hàng nghìn lao động nông thôn có việc làm, tạo đầu ra cho sản xuất và thu nhập ổn định cho người dân. Theo tính toàn, cứ xuất khẩu được 1 triệu USD hàng thủ công mỹ nghệ thì tạo việc làm và thu nhập cho khoảng từ 3000 đến 4000 lao động chủ yếu lao động từ các làng nghề nông thôn. Như vậy, với kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ như hiện nay, đã thu hút và tạo việc làm cho tà 500.000 đến 600.000 lao động có thu nhập khá. Nếu tính cả lao động nông nhàn thì con số này lên tới hơn 1 triệu người. Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ có tác dụng lớn trong việc tạo ra công ăn việc làm và tăng thu nhập chính đáng cho lao động trong nước, góp phần xoá đói giảm nghèo. Từ đó, giải quyết được vấn đề thất nghiệp, đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực, các tệ nạn xã hội, góp phần đảm bảo trật tự an ninh xã hội. 3. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế có hiệu quả, thúc đẩy sản xuất phát triển Xu thế phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại kéo theo sự thay đổi của cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới. Để theo kịp và hoà nhập vào xu thế chung đó, chúng ta không thể không tìm một cơ cấu kinh tế phù hợp. Văn kiện Đại hội IX khẳng định: “muốn tham gia hợp tác quốc tế thật sự bình đẳng và có lợi, tận dụng nguồn lực bên ngoài, khai thác và sử dụng có hiệu quả nội lực, nói cách khác, phải xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý, bảo đảm khả năng giữ vững độc lập, tự chủ kinh tế, chủ động tham gia phân công lao động và hợp tác quốc tế”. Thực tế nhiều nước đã chứng minh rằng xuất khẩu nói chung và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ nói riêng chính là một biện pháp tích cực giúp ta chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách hiệu quả, thúc đẩy sản xuất phát triển. Thứ nhất, xuất khẩu thủ công mỹ nghệ là một phương tiện quan trọng, tao ra vốn để nhập kỹ thuật và công nghệ từ thế giới bên ngoài vào Việt Nam nhằm hiện đại hoá nền kinh tế đất nước, tạo năng lực sản xuất mới, hiệu quả hơn. Thứ hai, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ cho hàng thủ công mỹ nghệ, tạo điều kiện cho sản xuất trong nước phát triển và ổn định. Thứ ba, thông qua xuất khẩu, hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam sẽ phải tham gia vào cuộc cạnh tranh vô cùng khắc nghiệt trên thị trường thế giới về giá và chất lượng. Trong cuộc cạnh tranh đó, để tìm được chỗ đứng cho mình, doanh nghiệp Việt Nam phải tổ chức lại sản xuất, mở rộng và nâng cao cơ sở vật chất sẵn có, hình thành cơ cấu sản phẩm có hiệu quả, thích nghi với sự biến động của thị trường thế giới, đồng thời đổi mới và hoàn thiện sản xuất quản trị kinh doanh, nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ trong ngành. Thứ tư, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ tạo điều kiện cho các ngành cùng có điều kiện và cơ hội phát triển. 4. Góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế Đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ, du lịch, xuất khẩu lao động … phần nào giúp ta cân bằng cán cân thanh toán quốc tế nhưng khoản tiền đó có thể giảm và lẽ dĩ nhiên sẽ làm ảnh hưởng đến cán cân thanh toán quốc tế. Nếu phát triển xuất khẩu, nhất là những ngành có tỷ lệ thực thu ngoại tệ cao như thủ công mỹ nghệ (chiếm từ 95 – 97% giá trị xuất khẩu), Việt Nam không những có vốn để nhập vật tư, thiết bị, công nghệ mới, hiện đại phục vụ sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ mà còn có thể tích luỹ thêm vào nguồn thu nhập ngoại tệ của đất nước để thanh toán các khoản nợ đó đến kỳ hạn, tạo uy tín cho các kỳ vay tiếp theo. Nếu không làm như vậy đến một lúc nào đó sẽ phải áp dụng một biện pháp tiêu cực là cắt giảm nhu cầu nhập khẩu của mình. Điều này không chỉ làm ảnh hưởng đến tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mà còn trực tiếp ảnh hưởng đến đời sống nhân dân. 5. Mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại, phụ thuộc lẫn nhau. Xuất khẩu là một hoạt động kinh tế đối ngoại, có thể có sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác, tạo điều kiện thúc đẩy các quan hệ này phát triển. Chẳng hạn xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ thúc đẩy quan hệ tín dụng, đầu tư, mở rộng vận tải quốc tế… Ngược lại, chính các hoạt động kinh tế đối ngoại lại tạo tiền đề cho mở rộng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Ví dụ: phát triển các hình thức tín dụng hay vận tải quốc tế sẽ tạo điều kiện để các nhà xuất khẩu xuất khẩu được dễ dàng hơn. 6. Duy trì các ngành nghề truyền thống, tăng cường giao lưu văn hóa giữa các dân tộc Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ cũng là điều kiện để duy trì các nghề truyền thống, giữ gìn nét văn hoá truyền thống của dân tộc Việt Nam. “Bản sắc văn hoá dân tộc là cái riêng, cái sẵn có của mỗi dân tộc được hình thành và định hình trong quá trình lịch sử lâu dài, là kết quả của sự trải nghiệm, thích ứng của cộng đồng với môi trường, hoàn cảnh tự nhiên, xã hội. Nó là một bộ phận tinh tuý thể hiện sâu sắc nhất, tập trung nhất bản sắc dân tôc, tạo nên cốt cách bản lĩnh, sức sống nội sinh của mỗi dân tộc”. Bản sắc văn hoá đó lại được thể hiện cụ thể trên từng hoa văn, đường nét của hàng thủ công mỹ nghệ. Vì vậy, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam cũng chính là mở rộng giao lưu văn hoá quốc tế. Qua đó làm cho nước bạn ngày càng hiểu hơn truyền thống văn hoá của con người Việt Nam. III. XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ XÉT TRÊN QUAN ĐIỂM “LỢI THẾ CẠNH TRANH” CỦA MICHAEL PORTER Michael Porter là nhà khoa học về quản lí nổi tiếng ở Mỹ, giáo sư Học viện thương mại Trường Đại học Harvard kiêm cố vấn tư vấn của nhiều công ty lớn và tổ chức chính phủ trên thế giới, là một trong những nhân vật có uy tín về sách lược cạnh tranh và sức cạnh tranh quốc tế trên thế giới ngày nay. Ông là người đầu tiên ở Trường Đại học Harvard mở ra môn học sách lược cạnh tranh, lợi thế cạnh tranh. Năm 1990, ông cho ra đời cuốn sách “ Lợi thế cạnh tranh quốc gia”. Lĩnh vực nghiên cứu của Porter chủ yếu tập trung vào hai mặt quản lí chiến lược doanh nghiệp và tổ chức ngành. Trong tác phẩm “Lợi thế cạnh tranh quốc gia”, Porter vận dụng lí luận về lợi thế cạnh tranh trong nước của ông vào lĩnh vực cạnh tranh quốc tế và đề ra lí luận nổi tiếng là “ Lí luận hình kim cương. Lí luận của Porter về lợi thế cạnh tranh giải thích hiện tượng thương mại quốc tế ở góc độ doanh nghiệp tham gia cạnh tranh quốc tế, vì thế đã lấp được chỗ trống của lí luận về lợi thế so sánh. Trong đa số các công trình lí luận, người đóng vai trò chủ yếu là chính phủ, nhưng Porter lại chú trọng nêu bật vai trò của doanh nghiệp. Ông cho rằng, của cải nhiều hay ít là do năng suất sản xuất quyết định. Năng suất sản xuất phụ thuộc vào môi trường cạnh tranh của mỗi nước. Môi trường cạnh tranh sinh ra trong một khuôn khổ nào đó, khuôn khổ ấy, về kết cấu mà nói, giống như một viên kim cương có 4 cạnh cơ bản. Do đó thường gọi đó là lí luận hình viên kim cương. Lý luận này được mô tả qua sơ đồ dưới đây: CHÍNH PHỦ MÔI TRƯỜNG CẠNH TRANH VÀ CƠ HỘI NGÀNH KINH DOANH KHÁCH HÀNG NHÀ CUNG CẤP CÁC YẾU TỐ HỖ TRỢ Theo lí luận này, việc nâng cao năng suất một cách bền vững đòi hỏi bản thân nền kinh tế của mỗi nước phải được nâng cấp không ngừng. Cũng có nghĩa là các doanh nghiệp của mỗi nước phải kiên trì nâng cao năng suất sản xuất ngành bằng cách nâng cao chất lượng sản phẩm, làm nổi bật nét đặc sắc của sản phẩm, cải tiến kĩ thuật sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất. Chỉ có như thế mới có thể tao ra được cơ sở chắc chắn để các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh quốc tế. Mỗi nước có thể chuyên kinh doanh những ngành mà các doanh nghiệp nước mình có năng suất cao hơn và nhập khẩu những hàng hóa và dịch vụ do đối thủ cạnh tranh ở nước ngoài sản xuất mà trong nước chỉ có thể sản xuất với năng suất thấp, để từ đó nâng cao năng suất bình quân trong nước. Mặt khác, khi một nước trực tiếp tham gia cạnh tranh quốc tế thì tiêu chuẩn về năng suất đối với mỗi ngành trong nước ấy không còn là tiêu chuẩn trong nước nữa mà là tiêu chuẩn quốc tế. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp trong nước chẳng những phải cạnh tranh với nhau trong nước mà còn phải cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Trong lí luận của mình, Porter dành cho chính phủ và doanh nghiệp một vai trò mới, có tính chất xây dựng và khả thi trong tiến trình nâng cao sức cạnh tranh và thực hiện phồn vinh kinh tế. Đỗi với chính phủ thì nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là tích cực tạo ra môi trường thúc đẩy nâng cao năng suất. Có nghĩa là chính phủ cần phải tạo ra môi trường tốt cho cạnh tranh, chứ không phải là trực tiếp tham gia cạnh tranh. Tóm lại, lí luận của Porter về lợi thế cạnh tranh quốc gia rất giàu tính chất gợi mở, rất có giá trị đối với việc nghiên cứu sức cạnh tranh quốc tế. Khóa luận này cũng xin được phép lấy lí thuyết về lợi thế cạnh tranh của ông làm cơ sở lí luận . Đây cũng chính là cơ sở giúp chúng ta phân tích những điểm mạnh, điểm yếu của một ngành và những yếu tố tác động đến nó để từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm hữu ích và những giải pháp tháo gỡ khó khăn. IV. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ 1. Nguồn nguyên liệu Mặt hàng thủ công mỹ nghệ sử dụng nguồn nguyên liệu chính là nguyên liệu trong nước, đa phần được lấy từ thiên nhiên và khá sẵn có. Đó là các nguyên liệu như: mây, tre, nứa, lá, giang, bông, gỗ, đay, cói, dừa, vỏ ốc, vỏ trứng... Đây là một trong những thuận lợi lớn vì những nguyên liệu này thường sẵn có trong tự nhiên hoặc có thể trồng khá dễ dàng ở các vùng nông thôn. Tuy nhiên, do sự khai thác bừa bãi, không có kế hoạch nên các nguồn nguyên liệu này cũng đã dần dần bị giảm cả về số lượng và chất lượng. Nếu như không có sự quan tâm đồng bộ kể cả từ phía người dân lẫn Nhà nước để bù đắp lại số nguyên liệu được dùng cho sản xuất thì trong tương lai tất cả các nguồn nguyên liệu đều có nguy cơ thiếu hụt. Khi bước sang cơ chế thị trường, nhiều doanh nghiệp đã gặp phải không ít khó khăn khi vẫn áp dụng lối làm ăn cũ theo kiểu “có gì bán nấy”. Giờ đây, trước nhu cầu vô cùng đa dạng của thị trường thế giới, doanh nghiệp không chỉ sản xuất những mặt hàng chỉ sử dụng những nguồn nguyên liệu trong nước mà còn phải nhập về một số nguyên liệu từ nước ngoài để phục vụ cho xuất khẩu. Điều này cũng gây ra không ít khó khăn cho các doanh nghiệp khi nguồn nguyên liệu phải phụ thuộc vào nước ngoài. Các doanh nghiệp thường phải nhập khẩu một số nguyên liệu như phẩm nhuộm, bột màu, sơn, dầu bóng, len chất lượng cao, chỉ màu, sợi.... Đơn cử về thực trạng nguồn nguyên liệu gốm sứ. Hiện nay nhiều nhà sản xuất gốm sứ trong nước vẫn còn phải nhập nguyên liệu cao lanh, đất sét, men, tràng thạch… trong khi trữ lượng nguyên liệu trong nước cao gấp nhiều lần nhu cầu. Riêng năm 2000, kim ngạch nhập khẩu các nguyên liệu trên ._.khoảng gần 50 triệu USD. Nguyên nhân chính là do trong mấy năm qua, chúng ta chỉ tập trung xây dựng các nhà máy sản xuất gốm sứ hiện đại với tốc độ sản lượng tăng chóng mặt nhưng lại chưa quan tâm đến đầu tư khai thác, chế biến nguyên liệu. Theo hiệp hội gốm sứ Việt Nam, với sự phát triển nhanh chóng của ngành công nghiệp gốm sứ hiện nay, nhu cầu nguyên liệu để sản xuất không ngừng tăng lên. Nếu như năm 2002 là 960.000 tấn nguyên liệu và 52.000 tấn men màu thì dự báo năm 2005 sẽ là 1.4 triệu tấn nguyên liệu, 80.000 tấn men màu và năm 2010 sẽ lên đến 1.7 triệu tấn nguyên liệu và 100.000 tấn men màu. Phần lớn mỏ nguyên liệu ở nước ta có trữ lượng lớn nhưng lại chưa được khai thác hợp lý. Công nghệ khai thác, chế biến còn quá lạc hậu, chủ yếu khai thác thủ công, bán cơ giới, phân tán và manh mún, chưa đáp ứng được nhu cầu công nghệ sản xuất gốm sứ hiện đại. Phần lớn nguồn nguyên liệu khi đưa vào nhà máy sản xuất đều tiếp tục phải gia công xử lý. Về cao lanh, ta có 105 mỏ với trữ lượng 639 triệu tấn, nhưng đến nay chỉ có 20 mỏ đang khai thác với công suất nhỏ từ 10.000 – 30.000 tấn/năm với công nghệ khai thác, tuyển lọc cao lanh ở mức thấp, chất lượng chưa cao, lẫn nhiều tạp chất. ứng Về men màu, các cơ sở sản xuất trong nước tự sản xuất mới chỉ đáp 10 % nhu cầu và các doanh nghiệp đang phải nhập khẩu với giá đắt. Nguyên liệu không đáp ứng nhu cầu là một nguyên nhân đẩy giá thành gốm, sứ nước ta lên cao. Nếu giải quyết được vấn để này ngành gốm sứ mới có thể nâng cao được chất lượng, hạ giá thành. Có thể nói, nguyên liệu chính là một trong những bộ phận mấu chốt cấu thành nên giá trị của sản phẩm hàng thủ công mỹ nghệ. Những nguyên liệu tốt, đủ tiêu chuẩn kết hợp với bàn tay tài hoa của người thợ sẽ cho ra đời những sản phẩm có giá trị cao. Nhưng có một điều đáng mừng là giờ đây các nguồn nguyên liệu ngoại nhập cũng rất sẵn có trên thị trường nên chỉ cần đặt hàng là có thể mua được với số lượng lớn, giá cả cũng phải chăng. 2. Nguồn vốn Nhìn chung, các cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ đa số là quy mô vừa, nhỏ và thiếu vốn. Những mặt hàng khác nhau sẽ yêu cầu đòi hỏi vốn đầu tư khác nhau. Những mặt hàng cần nhiều vốn chủ yếu là gốm sứ, sơn mài, mĩ nghệ vì phải đầu tư máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ để làm ra các sản phẩm thô, sản phẩm sơ chế. Các khâu sản xuất còn thủ công, nhiều khi tạo ra sản phẩm thô, mộc nên chất lượng sẽ không đảm bảo khi sản xuất đại trà. Nếu như muốn sản xuất với quy mô lớn, áp dụng công nghệ cao vào các khâu sản xuất sơ chế, mở rộng nhà xưởng, tuyển thêm nhân công thì nguồn vốn cho đầu tư sản xuất là vô cùng cấp thiết. Nhu cầu sử dụng vốn rất lớn nhưng việc huy động vốn hiện nay gặp rất nhiều khó khăn. Các Ngân hàng có lúc thừa vốn nhưng các doanh nghiệp lại không vay được. Sau một số vụ đổ bể thất thoát như Minh Phụng, EPCO… ngành ngân hàng đã tỏ ra thận trọng hơn đối với việc cho vay. Ngoài tài sản thế chấp, cầm cố, ngân hàng còn kiểm tra cả phương án kinh doanh, phương thức kinh doanh rất cụ thể rồi mới cho vay. Vì vậy, doanh nghiệp đã phải tìm mọi cách để huy động được nguồn vốn đầu tư cho sản xuất. Ngoài nguồn vốn của bản thân người chủ doanh nghiệp, còn có nguồn vốn của cán bộ công nhân trong doanh nghiệp, của các xã viên trong hợp tác xã và thậm chí cả những khoản ứng trước của khách hàng. 3. Nhu cầu thị trường đối với hàng thủ công mỹ nghệ Trong những năm qua, ngành xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đã tạo được nhiều thị trường lớn như EU, Nhật Bản, Đài Loan, Bắc Mỹ. Ngoài ra, Nga, Đông Âu… cũng được coi là những thị trường tiềm năng lớn của Việt Nam . Hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam đến nay đã có mặt tại hơn 50 nước và lãnh thổ ở khắp các châu lục của thế giới . Thị trường xuất khẩu loại hàng này trong mấy chục năm qua có những giai đoạn thăng trầm, nhưng nhìn chung những năm gần đây có chiều hướng phát triển tốt, có nhiều chủng loại hàng hoá mới và mở rộng thị trường theo hướng đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ thị trường với các nước trên thế giới .Tuy nhiên, trong xuất khẩu những loại hàng hoá này, chúng ta phải đương đầu với một số đối thủ cạnh tranh có nhiều tiềm năng và kinh nghiệm như Trung Quốc, Indonesia, Philippines, Thái Lan… Để nâng cao sức cạnh tranh, cần phải tìm hiểu, nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm, thủ pháp kỹ thuật trong sản xuất kinh doanh và các chính sách giải pháp liên quan của từng nước. Đồng thời, với chất liệu và kỹ xảo riêng, phải sáng tạo ra được những mẫu hàng hoá đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của từng thị trường, bảo đảm sản phẩm của Việt Nam có sức cạnh tranh. Mặc dù thị trường rộng như vậy nhưng Việt Nam chưa xuất khẩu được nhiều vào các thị trường có nhu cầu và dung lượng lớn. Cái khó là phải làm sao tiếp cận với thị trường mới và tranh thủ mọi cơ hội để khai thác sâu thêm các thị trường có nhu cầu lớn và thường xuyên. Thị trường lớn nhất trong xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam phải kể đến EU. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang khu vực thị trường này tăng khá nhanh, hiện chiếm tỷ trọng gần 1/4 trong tổng kim ngạch xuất khẩu . Đây cũng là khu vực Việt Nam thường xuất được nhiều loại hàng thủ công mỹ nghệ và có nhiều triển vọng mở rông, đẩy mạnh tiêu thụ một số loại hàng có khả năng phát triển. EU cũng được được đánh giá là một trong các thị trường trọng điểm cho đồ gỗ chế biến của Việt Nam . Bên cạnh đó, các mặt hàng gốm, sứ mỹ nghệ cũng là nhóm hàng đang tiêu thụ mạnh sang thị trường này. Thông qua hội chợ Frankfurt hàng năm tại Đức, một số công ty của Việt Nam đã thành công trong việc nắm bắt được nhu cầu của khách hàng, ký được nhiều hợp đồng xuất khẩu hàng gốm sứ mỹ nghệ. Có thương nhân Đan Mạch đã chuyển toàn bộ đơn hàng gốm sứ từ các nước xung quanh Việt Nam để tập trung đặt hàng tại Việt Nam và hứa hẹn giúp đở đầu tư mở rộng sản xuất , tăng lượng hàng cung ứng cho thị trường này lên 2-3 lần so với hiện nay. Cùng với hàng gốm sứ mỹ nghệ của Đồng Nai, Bình Dương, Bát Tràng, từ năm 1998 có thêm Vĩnh Long đã xuất khẩu mạnh sang khu vực Tây, Bắc Âu. Ngoài ra, các mặt hàng như mây, tre, hàng thêu ren … cũng xuất khẩu được sang khu vực thị trường này với khối lượng đáng kể : Xí nghiệp Rapexco xuất khẩu hàng song mây tre của Nha Trang, hợp tác xã mây tre Hàng Kênh ( Hải Phòng) có nhiều mặt hàng mây tre xuất sang Tây Âu; các mặt hàng thảm, đệm ghế cói của Thái Bình xuất sang Hà Lan, Tây Ban Nha, Italy… hay công ty Barotex trong năm 1999 cũng đã xuất khẩu 2,5 triệu chiếc nón lá buông sang Tây Ban Nha và Italy. 4. Các đối thủ cạnh tranh Hiện tại hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam phải cạnh tranh gay gắt với hàng thủ công mỹ nghệ của Trung Quốc, Thái Lan, Singapore … Tuy nhiên, theo đánh giá của nhiều chuyên gia thì hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam có nhiều lợi thế hơn nhờ độ tinh xảo và khéo léo thể hiện trên từng đường nét sản phẩm. Hơn nữa nhiều mặt hàng của ta vượt trội về chất lượng cũng như mẫu mã. Song để nâng cao sức cạnh tranh cần có những sản phẩm đặc trưng, đa dạng hơn về mẫu mã, kiểu dáng. Bên cạnh việc phát huy những lợi thế của những sản phẩm làm bằng tay có độ tinh xảo cao, cần đầu tư các phương tiện thiết bị máy móc và công nghệ hiện đại để tạo nên những sản phẩm có chất lượng đồng đều và ổn định. Một kinh nghiệm từ các nhà sản xuất Trung Quốc là để đưa ra được nhiều sản phẩm của mình vào thị trường Nhật Bản là họ đã mời các chuyên gia Nhật sang tư vấn và tham gia điều hành sản xuất để sản phẩm làm ra phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng Nhật Bản. 5. Các chính sách của nhà nước liên quan đến hàng thủ công mỹ nghệ Thời gian gần đây chính phủ đã có nhiều tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Ngày 24/1/2000, Thủ tướng chính phủ đã ra Quyết định 132/2000/QĐ-TTg về một số chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn, trong đó nội dung chủ yếu là đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Quyết định này đã có những qui định cụ thể đối với từng lĩnh vực như đất đai xây dung cơ sở sản xuất kinh doanh, phát triển khai thác nguyên liệu phục vụ sản xuất, các chính sách về đầu tư, tín dụng, thuế, lệ phí, hỗ trợ xúc tiến thương mại… Hiện nay, một số bộ, ngành liên quan đang cụ thể hóa về mức độ và thủ tục thực hiện. Theo Thông tư số 61 của Bộ tài chính, kể từ ngày 1/1/2002 các doanh nghiệp sẽ được Nhà nước hỗ trợ chi phí hoạt động xúc tiến thương mại bằng 0,2% kim ngạch xuất khẩu thực thu trong năm. Tiếp theo đó, Thông tư số 62 của Bộ Tài chính cũng tháo gỡ các khó khăn của doanh nghiệp về chi hoa hồng môi giới xuất khẩu. Theo đó, các khoản chi này sẽ được hạch toán vào chi phí bán hàng của doanh nghiệp, đối tượng hưởng hoa hồng xuất khẩu gồm cả các doanh nghiệp, các cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài. Bên cạnh đó, khó khăn về vay vốn ưu đãi đã được Chính phủ “khai thông” qua Quyết định 02/2001/QĐ-TTg ngày 2/1/2001 về chính sách hỗ trợ đầu tư từ Quỹ hỗ trợ phát triển đối với các dự án sản xuất, chế biến hàng xuấtkhẩu và sản xuất nông nghiệp. Như vậy, theo qui định hiện hành (kể cả các qui định vừa bổ sung nêu trên), các dự án đầu tư sản xuất chế biến hàng xuất khẩu ngoài các ưu đãi như giảm miễn tiền thuê đất, thuế sử dụng đất, thuế thu nhập doanh nghiệp... còn được vay vốn tín dụng đầu tư từ Quỹ hỗ trợ phát triển với lãi suất ưu đãi và điều kiện dễ dàng hơn trước. Ngoài ra, chủ thể được xuất khẩu trực tiếp theo nghị quyết 05/2001/NQ - CP ngày 24/5/2001 đã mở rộng: “Khuyến khích thương nhân Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế xuất khẩu tất cả các loại hàng hóa mà pháp luật không cấm, không phụ thuộc vào ngành nghề đã đăng kí kinh doanh”. Các cơ sở sản xuất kinh doanh kể cả vừa và nhỏ đều được quyền lựa chọn tham gia trực tiếp xuất khẩu hay ủy thác xuất khẩu. Một khuyến khích rất cụ thể nữa đã được áp dụng là chính sách thưởng xuất khẩu cho doanh nghiệp theo 5 tiêu chuẩn: có mặt hàng mới, thị trường mới, chất lượng cao, đạt quy mô về kim ngạch và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu theo quy định. Đã có một doanh nghiệp được thưởng cả 5 tiêu chuẩn này, đó là Công ty Sản xuất Dịch vụ và xuất nhập khẩu Nam Hà Nội (Haprosimex). Có thể nói, các cơ chế, chính sách mới thông thoáng đã tạo điều kiện thuận lợi, tiếp sức cho doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu. Vấn đề còn lại là tổ chức thực hiện có hiệu quả các chính sách, biện pháp được đề ra. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn không ít trường hợp chậm triển khai hay thực hiện chưa đồng bộ giữa các bộ, ngành tạo rào cản không đáng có đối với doanh nghiệp xuất khẩu. Tóm lại, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ có một vai trò hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội của nước ta. Hướng tới mục tiêu công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước vào năm 2020, việc xuất khẩu mặt hàng này càng có ý nghĩa thiết thực hơn. Tuy nhiên, để làm tốt công tác xuất khẩu, chúng ta cần nắm bắt, phân tích kỹ lưỡng thực trạng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trong thời gian qua. Vì vậy, tìm hiểu những điều cơ bản, khái quát nhất về mặt hàng này là điều rất cần thiết. Có thể nói, những điều mà ta đã nghiên cứu trong chương 1 chính là điều kiện, cơ sở để tiếp tục việc nghiên cứu tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ sẽ trình bày ở chương 2. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA I. QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT VÀ TỔ CHỨC TIÊU THỤ HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ CỦA VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM QUA 1. Quá trình sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ Hàng thủ công mỹ nghệ là mặt hàng truyền thống sản phẩm mang đầy nét văn hoá của dân tộc. Được phát triển cùng với sự phát triển của loài người. Ngày nay nhu cầu về mặt hàng này trên thế giới ngày càng được ưa chuộng. Đứng trước vấn đề này, quá trình sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ cần được chú trọng và đổi mới phưong thức mẫu mã kiểu dáng cũng như khâu tiêu thụ phục vụ tốt nhu cầu ngày càng tăng ở trong nước cũng như ở nước ngoài. Tuỳ vào điều kiện nguồn tài nguyên thiên nhiên, điều kiện của từng vùng cũng như tuỳ vào từng đơn đặt hàng các đơn vị sản xuất kinh doanh cần chú trọng tạo ra nguồn hàng ổn định, lâu dài và tạo ra quan hệ tốt đẹp đôi bên cùng có lợi để thúc đẩy sản xuất mặt hàng này. Đứng trên góc độ của một nhà sản xuất kinh doanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, qúa trình sản xuất gồm 4 khâu chủ yếu: cung cấp nguyên liệu đầu vào - sản xuất chính – gia công - tiêu thụ sản phẩm (trong nước và xuất khẩu). Cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ thường được bố trí gần nguồn nguyên liệu, hàng thủ công mỹ nghệ cũng được sản xuất chủ yếu bằng nguyên vật liệu có sẵn trong nước nên giảm bớt nhu cầu nhập khẩu nguyên phụ liệu cho sản xuất. Hàng thủ công mỹ nghệ là sản phẩm trang trí bên ngoài nên bên cạnh những đòi hỏi về tính tiện dụng thị trường còn yêu cầu rất cao về tính độc đáo trong kiểu dáng và mẫu mã. Phần lớn hàng thủ công mỹ nghệ được làm tại nông thôn, sản phẩm thủ công của ta lại hết sức đơn điệu. Số lượng sản phẩm được sản xuất dựa theo đơn đặt hàng, sản xuất đại trà, phân tán cũng đã góp phần làm cho khâu hoàn thiện sản phẩm trở nên không đồng đều, lô tốt lô xấu lẫn lộn. Chính những điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam. Việc cung cấp nguyên liệu đầu vào là bước khởi đầu khá quan trọng. Ngày nay cần chú trọng quan tâm hơn tới việc xử lý nguyên liệu đầu vào, nó tỷ lệ thuận với chất lượng đầu ra. Theo thông tin của thương vụ thì nguyên liệu đầu vào ngày nay cung cấp không ổn định thậm chí còn phải mua với giá đắt nếu như không muốn nói là còn mua những nguyên liệu cấm.Từ đó nâng cao chi phí sản xuất cũng như giá thành sản phẩm bất lợi cả cho người sản xuất và tiêu dùng.Vì vậy cần có những chính sách cung cấp nguyên liệu đầu vào đề ra cho những đơn vị sản xuất mặt hàng thủ công mỹ nghệ. Điều đó đáp ứng nhu cầu mặt hàng này đảm bảo về số lượng và chất lượng nâng cao thương hiệu kinh doanh từ đó thúc đẩy phát triển các làng nghề góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội đất nước. Quá trình sản xuất chính cần đòi hỏi cung cấp đầy đủ nguyên liệu đầu vào cũng như các nghệ nhân, thợ giỏi có tay nghề cộng với trí sáng tạo để làm ra những sản phẩm có giá trị tinh hoa văn hoá của dân tộc, tạo tiền đề giao lưu văn hoá giữa các dân tộc trên thế giới. Khâu phụ chế, gia công cũng là khâu rất quan trọng trong quá trình sản xuất. Để tạo ra sản phẩm phong phú đa dạng về màu sắc, kiểu dáng và có tính nghệ thuật cao cần đòi hỏi có tính sáng tạo gia công dày và tính kiên trì trong quá trình làm việc. Chẳng hạn như việc pha màu cho gia công hàng gốm sứ cần đòi hỏi đúng kỹ thuật, công thức. Cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ thường được bố trí gần nguồn nguyên liệu, hàng thủ công mỹ nghệ cũng được sản xuất chủ yếu bằng nguyên vật liệu sẵn có nên giảm bớt nhu cầu nhập khẩu nguyên phụ liệu cho sản xuất. Không phải như các ngành nghề khác, ngành hàng thủ công mỹ nghệ sử dụng lao động thủ công là chính. Sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ thu hút được nhiều lao động trong đó có số lượng đáng kể là nông nhàn, tạo việc làm và tăng thu nhập góp phần xóa đói giảm nghèo cho dân cư. Để tạo ra nguồn thu ngoại tệ và sản phẩm được giao lưu trên khắp thế giới thì khâu tiêu thụ hay gọi kênh lưu thông phân phối sản phẩm có vai trò rất quan trọng. Sản phẩm làm ra đẹp, phong phú đa dạng nhưng không tiêu thụ được thì cũng không phải là mục đích chính của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Cần có những phương thức tiêu thụ nào đó để đẩy mạnh doanh thu từ đó tăng tỷ lệ lợi nhuận trong doanh thu. Ngày nay làm thế nào để đẩy mạnh tiêu thụ cũng như tiến hành một số phương thức như quảng cáo, xúc tiến thương mại, khách hàng là vấn đề rất khó khăn và tốn nhiều chi phí, công sức. Các đơn vị kinh doanh cần đặt ra cho mỗi đơn vị mình một hướng đi thích hợp phù hợp với điều kiện của mình và phù hợp với điều kiện CNH-HĐH đất nước cũng như sự phát triển của đất nước để thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng đang có nhiều lợi thế, tiềm năng trên thị trường trong nước và ngoài nước. 2. Cơ chế tổ chức thu mua hàng 2.1. Cơ chế thu mua Một vấn đề chính phải nhắc đến trong công tác huy động nguồn hàng xuất khẩu là cơ chế thu mua. Quan hệ kinh tế giữa các đơn vị và nguồn cung cấp hàng phải dựa trên nguyên tắc “đôi bên cùng có lợi". Lợi ích của các đơn vị là có hàng bán, thu được lãi, đồng thời đảm bảo các chỉ tiêu trả nợ của nhà nước giao cho. Đối với địa phương là tăng kim ngạch xuất khẩu, thu được ngoại tệ và đặc biệt là bảo đảm đời sống vật chất tinh thần cho người thợ sản xuất. Về chính sách giá cả: Bước vào nền kinh tế có nhiều biến động. Các đơn vị không còn sử dụng cơ chế giá như bao cấp, mọi việc định giá đều dựa vào yếu tố biến động chung là giá cả của mặt hàng thủ công mỹ nghệ. Đảm bảo người bán hàng và các đơn vị đều có lãi. Bên cạnh đó còn ảnh hưởng của chính sách tiền tệ tín dụng của nhà nước, chẳng hạn nhà nước có chính sách cho mặt hàng xuất khẩu nào đó từ đó tăng được nguồn hàng xuất khẩu, doanh thu tăng do vậy tăng nguồn thu cho hoạt động sản xuất. Gía cả hàng hoá luôn luôn biến động do vậy cần có thông tin thị trường kịp thời để đi đến ổn định chính sách giá cả kìm chế lạm phát và kích cầu người tiêu dùng đảm bảo phát triển và ổn định nền kinh tế đất nước. 2.2. Tổ chức thu mua Công tác tổ chức thu mua là một công đoạn quan trọng trong nghiệp vụ hoạt động xuất khẩu. Hàng xuất khẩu là một mặt hàng đặc biệt phải được thị trường các nước ưa chuộng, để có hiệu quả trong việc sản xuất và xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ này cần có cơ chế tổ chức thu mua đúng lúc, đúng chỗ, đầy đủ, kịp thời. Bên cạnh đó quan hệ với các đơn vị ngoại thương và các đơn vị sản xuất, thu mua, cung ứng hàng xuất khẩu còn áp dụng phương thức thu mua như liên doanh liên kết, phương thức thu mua đứt bán đoạn. * Phương thức liên doanh liên kết Phương thức liên doanh liên kết mà các đơn vị ngoại thương thực hiện nhằm khai thác thế mạnh đồng thời tận dụng cơ hội mỗi bên tham gia như cơ sở sản xuất có nhà xưởng, kỹ thuật và đội ngũ công nhân có tay nghề cao còn các đơn vị ngoại thương có thị trường tiêu thụ ở nước ngoài, có kinh nghiệm giao dịch, “đấu tranh” bán được giá cao mà hai bên được hưởng, qua đó đẩy mạnh được kim ngạch xuất khẩu, tạo công ăn việc làm, mang lại lợi nhuận cho các bên tham gia cam kết. * Phương thức thu mua đứt bán đoạn Đây là phương thức thu mua được áp dụng phổ biến trong nhiều năm qua của các đơn vị ngoại thương thu mua hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu.Vấn đề cơ bản của phương thức thu mua này là trách nhiệm đối với chất lượng, số lượng, giá cả hàng hoá được xác định ngay tại thời điểm mua bán. Sau khi có phiếu nhập kho, địa phương hoàn toàn không chịu trách nhiệm về hàng hoá đó. Khi đó áp dụng phương thức thu mua này các đơn vị ngoại thương triển khai kiểm tra chất lượng và số lượng rất kĩ lưỡng song không vì thế mà việc thu mua thiếu phần đa dạng và phong phú. Dù thực hiện phương thức thu mua hàng xuất khẩu nào thì quy trình thu mua cũng phải xác định đầy đủ như: Cán bộ nghiệp vụ đến cơ sở chuẩn bị mẫu mã hàng để chào khách nước ngoài, sau khi khách chấp nhận mua hàng thì kí hợp đồng. Từ hợp đồng đó các phòng nghiệp vụ đến cơ sở sản xuất gia công thu mua, xác định khả năng nguồn hàng, xác định giá thành sản xuất, giá xuất xưởng, bao bì đóng gói, các chi phí và giá giao hàng trọn gói đến kho cảng của từng địa phương. Đây là cơ sở quyết định một mức giá mua và giá bán một cách tối ưu đạt mục tiêu tăng trưởng và mức lợi nhuận hợp lý. II. CƠ CẤU MẶT HÀNG XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ CỦA VIỆT NAM Hiện nay, các mặt hàng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam gồm rất nhiều chủng loại phong phú. Song, chủ yếu tập trung vào 4 nhóm mặt hàng chính là: hàng gốm sứ, hàng mây tre đan, đồ gỗ, đồ trang sức vàng bạc. Trong đó, nhóm mặt hàng gốm sứ chiếm tỷ trọng lớn nhất với 34,62%, hàng mây tre đan chiếm 34,33%, hàng đồ gỗ mỹ nghệ chiếm 11,35%, đồ trang sức vàng bạc chiếm 17,19% và hiện nay, nhóm mặt hàng gốm sứ đang có xu hướng tăng lên cả về giá trị kim ngạch và tỷ trọng. Điều đó được thể hiện qua biểu đồ sau: 1. Nhóm sản phẩm gỗ Sản phẩm đồ gỗ đã có một truyền thống lâu đời trong tâm trí của mỗi người Việt. Mộc là một nghề phổ biến trong nông thôn Việt Nam. Rừng của Việt Nam có nhiều gỗ quý. Đó là những cơ sở bảo đảm cho sự phát triển của nghề mộc. Trong quá trình lao động sáng tạo, hệ thống công cụ của nghề mộc ngày một hoàn thiện, trình độ tay nghề của thợ mộc ngày càng được nâng cao. Từ những nguyên vật liệu thông thường, các thế hệ thợ mộc đã thổi hồn mình vào đó và tạo ra những sản phẩm tinh tế, đậm đà bản sắc dân tộc. Mặt hàng đồ gỗ bao gồm các sản phẩm gỗ hoàn chỉnh, chủ yếu là đồ gỗ gia dụng và đồ gỗ mỹ nghệ. Đồ gỗ gia dụng có nhiều loại, chủ yếu là sản phẩm của những lao động thủ công có tay nghề cao, các khâu sản xuất công nghiệp có sử dụng máy móc thiết bị là khâu xử lý nguyên liệu đầu vào tương tự như khâu xử lý đất sét, cao lanh trong ngành đồ gốm. Mặt khác đồ gỗ gia dụng nếu được sản xuất chế biến thêm các khâu trạm khảm, sơn mài thì lại trở thành đồ gỗ mỹ nghệ. Đồ gỗ mỹ nghệ bao gồm tranh gỗ, tượng gỗ, hàng sơn mài…là nhóm hàng hiện nay đang có tỷ trọng xuất khẩu cao nhất trong xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ và cũng là mặt hàng có thế mạnh trong tương lai. Vì vậy cần xếp các sản phẩm này vào nhóm hàng thủ công mỹ nghệ để tận dụng các chính sách khuyến khích, ưu đãi của nhà nước. Trước đây, chúng ta chủ yếu xuất khẩu hàng ra nước ngoài theo công thức hàng đổi hàng và tính cạnh tranh của mặt hàng này chưa cao nên sản phẩm còn quá đơn điệu về mẫu mã, kiểu dáng ít thay đổi và chất lượng chưa cao. Các chuyên gia trong ngành cho biết thật ra sự tăng trưởng của ngành chế biến và sản xuất mới nhảy vọt trong khoảng 10 năm gần đây. Trên thị trường xuất khẩu đồ gỗ thế giới trước đây Việt Nam luôn xếp hạng sau các quốc gia khác trong khu vực như Malaysia, Indonesia, Thái Lan… Thậm chí đối với một số mặt hàng, Việt Nam chỉ là nơi chuyên nhận gia công cho các hợp đồng của những công ty Thái Lan, Malayxia… Nhưng đến nay, với mẫu mã, chất lượng và giá thành đã được điều chỉnh cho phù hợp với nhu cầu thị trường, đồ gỗ xuất khẩu của Việt Nam đã có thể cạnh tranh với các quốc gia này. Không những thế, ở một số mặt hàng nhất định, hàng gỗ xuất khẩu của ta còn vượt qua cả Trung Quốc về kiểu dáng và chất lượng. Nhờ khả năng có thể đảm nhận được những đơn hàng phức tạp, hoa văn tinh xảo, sản phẩm chuyên sâu… mà doanh nghiệp Việt Nam đã khẳng định được vị trí của mình. Nhiều khách hàng nước ngoài đã chuyển địa chỉ đến các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, các doanh nghiệp trong ngành cũng đang đối mặt với những khó khăn. Một số doanh nghiệp có tiềm năng phát triển muốn đầu tư xây dựng dây chuyền chế biến gỗ xuất khẩu đều rơi vào tình hình chung: thiếu vốn đầu tư. Tính trung bình để có thể xây dựng được một khu nhà xưởng có diện tích khoảng 4000 m2 với đầy đủ máy móc, thiết bị cần thiết, doanh nghiệp phải có trong tay hàng trăm nghìn USD. Các đối tác đặt hàng nhiều và yêu cầu của họ cũng vì thế mà cao hơn, đa dạng hơn. Vì vậy mà các doanh nghiệp chế biến gỗ của Việt Nam cần phải tăng cường thêm khả năng đáp ứng, mở rộng nhà xưởng, thuê thêm nhân công, đầu tư thêm máy móc… Bên cạnh đó, phần lớn đồ gỗ xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa chủ động được phần thiết kế kiểu dáng. Hầu hết đơn đặt hàng của đối tác luôn kèm theo các kiểu dáng mà họ đã lựa chọn. Đây là một khó khăn mà việc khắc phục không phải dễ. Một vị Giám đốc trong ngành đã phân tích: trước tiên để bán được một mặt hàng ra nước ngoài thì nhà thiết kế phải hiểu rõ tâm lí tiêu dùng, tập quán sử dụng… của khách hàng nước ngoài. Vòng đời của một mẫu đồ gỗ thường là khá ngắn, sản xuất mà không bán được hoặc bán ít là rất dễ bị lỗ. Theo Hawa (Hiệp hội Gỗ mỹ nghệ TP. HCM), số doanh nghiệp chế biến gỗ đã tăng lên nhanh chóng. Tính đến đầu tháng 10/2003 cả nước có khoàng 200 doanh nghiệp chế biến gỗ, trong đó có hơn 300 doanh nghiệp chuyên xuất khẩu. Đã bắt đầu xuất hiện chuyện thiếu các xưởng trưởng, quản đốc có trình độ do tốc độ phát triển khá nhanh của ngành này. Giá trị xuất khẩu sản phẩm gỗ một số năm gần đây Năm Giá trị (triệu USD) Tỉ trọng gỗ mỹ nghệ XK trong kim ngạch xuất khẩu hàng TCMN (%) 1995 75 20.3 1996 85 19.3 1997 100 20.62 1998 110 20.2 1999 150 19.82 2000 210 21.75 2001 337 22.4 2002 430 25.7 2003 530 23.6 Nguồn: Bộ Thương mại Nếu năm 1997 kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này đạt 100 triệu USD, năm 2001 đạt được gần 337 triệu USD thì đến năm 2003 đã đạt trên 530 triệu USD. Dự tính với tốc độ tăng trung bình như hiện nay (khoảng 25%/năm) đến năm 2005 kim ngạch riêng của mặt hàng này có thể đạt khoảng 550 đến 600 triệu USD. Năm 2010 trị giá 800-900 triệu USD. Nhìn chung, xét về giá trị thì xuất khẩu sản phẩm gỗ đã tăng qua các năm nhưng xét về tỷ trọng thì có sự tăng giảm không đồng đều. Tuy nhiên, hiện nay nhà nước đã hạn chế dần và đi đến cấm sản xuất chế biến hàng gỗ từ rừng nguyên sinh. Do đó phần nào làm giảm hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu từ sản phẩm gỗ. Vì vậy, để đảm bảo được mức tăng trưởng liên tục, các doanh nghiệp phải tự tìm cho mình những lối đi riêng. Trước nguy cơ nguồn tài nguyên rừng đang ngày càng bị cạn kiệt, các doanh nghiệp phải không ngừng nỗ lực áp dụng những tiến bộ của khoa học kỹ thuật để đưa công nghệ cao vào sản xuất những mặt hàng mới làm từ gỗ rừng trồng và chúng ta đã thành công trong sản xuất xuất khẩu một số mặt hàng làm từ gỗ ván, tre, luồng. 2. Nhóm hàng gốm sứ mỹ nghệ Gốm sứ là một mặt hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống của Việt Nam với hàng trăm năm lịch sử phát triển. Các mẫu hàng gốm sứ của Việt Nam mang tính đa dạng, được hoàn thiện từ chính nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Các loại men của Việt Nam cũng rất độc đáo và mang tính chất truyền thống. Mỗi cơ sở sản xuất đều có cách pha men riêng với những chi tiết tinh tế và kỹ thuật pha chế luôn được cải tiến. Sự phong phú về kỹ thuật pha men đã tạo nên nét độc đáo về sản phẩm của từng địa phương.Trong nhóm hàng này có các mặt hàng như: tượng phật Tam Đa, bình lọ hoa, chân nến, ấm chén, bình trà, con giống… Ngày nay, trình độ bắt chước về mẫu mã sản phẩm rất nhanh và điều quan trọng là sự cải tiến các mẫu mã đó rất phát triển ở mọi cơ sở sản xuất. Vì vậy các mẫu mã gốm sứ vô cùng phong phú về loại hình, công dụng, kích cỡ, hình dáng và chỉ cần thay đổi chút ít về đường nét uốn lượn hay hoạ tiết là đã có thể cho ra đời một sản phẩm mới. Chính vì vậy, các loại hình sản phẩm sản gốm sứ liên tiếp được bổ sung trên thị trường. Tính chất mỹ thuật của sản phẩm này được tạo nên bởi hình dáng sản phẩm và những đường nét hoạ tiết trên mặt sản phẩm. Người tiêu dùng thường lựa chọn sản phẩm theo công dụng, kích cỡ, chất men và hình thức cũng như dáng dấp nhái cổ của sản phẩm. Đây cũng là nhóm hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam hiện đang được thị trường nước ngoài ưa chuộng và có nhiều khả năng phát triển trong tương lai. Hiện nay gốm sứ Việt Nam, nhất là những sản phẩm gốm ngoài vườn làm bằng tay đang rất được ưa chuộng trên thị trường châu Âu, vốn là thị trường tiêu thụ lớn nhất thế giới. Sau khi Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ được phê chuẩn, gốm sứ Việt Nam sẽ có cơ hội phát triển mạnh tại thị trường Bắc Mỹ. Theo các thương nhân nước ngoài, chất lượng gốm sứ Việt Nam không thua kém các cường quốc sản xuất khác như Italia,Trung Quốc, Malaysia. Do trình độ điêu khắc, tạo dáng sản phẩm tuyệt vời, có khách hàng so sánh mặt hàng gốm đất đỏ của Việt Nam là “ Saigon Italia”. Ngoài ra, với ưu điểm được làm bằng tay, chủng loại và chất liệu phong phú cho phép người mua hàng có nhiều lựa chọn từ hàng men, không men, đất đỏ… Các sản phẩm cũng đa dạng như chậu tròn, oval, vuông, chữ nhật, hình thú, đôn, hũ, bình… Điều này giúp khách hàng có một bộ sưu tập đầy đủ trong khi họ chỉ có thể mua hàng đất đỏ tại Trung Quốc, hàng men dạng tròn tại Malaysia và hàng cao cấp tại Italia. Về nguyên liệu sản xuất thì trừ một số hóa chất làm men phải nhập khẩu, chiếm tỉ lệ nhỏ, còn lại là nguyên liệu tại địa phương. Hàng gốm sứ cũng có nhiều loại: không kể gốm sứ xây dựng và gốm sứ kỹ thuật, các loại gốm dân dụng và gốm mỹ nghệ cũng có nhu cầu ngày càng tăng cho thị trường trong nước và xuất khẩu.Trong sản xuất gốm sứ mỹ nghệ dù có ứng dụng một số quy trình công nghệ và sử dụng một số thiết bị máy móc hiện đại ở một số khâu nhất định, thì sản phẩm của ngành này vẫn chứa đựng đậm nét của sản phẩm thủ công truyền thống có tính văn hoá và mỹ thuật cao. Khách hàng nước ngoài thích sản phẩm này nhờ vào sự độc đáo lạ mắt mang đậm tính văn hoá của người phương đông nói chung và của người Việt Nam nói riêng. Những năm trước đây, sản phẩm gốm của ta rất khó cạnh tranh với hàng Trung Quốc - đất nước khá nổi tiếng với thế giới về hàng gốm sứ. Song gần đây do người nghệ nhân có nhiều sáng tạo, làm ra nhiều sản phẩm lạ mắt mang tính truyền thống dân tộc và các doanh nghiệp cũng như các tổ chức đã có nhiều cố gắng để giới thiệu mặt hàng này ra thị trường nước ngoài nên trị giá xuất khẩu của mặt hàng này tăng rất nhanh qua các năm và hiện nay trở thành mặt hàng chủ lực trong xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của nước ta. Năm 1997 trong tổng kim ngạch xuất khẩu 121 triệu USD hàng thủ công mỹ nghệ (không kể đồ gỗ gia dụng) thì trên 50% là hàng gốm sứ mỹ nghệ (62-63 triệu USD). Năm 1999 kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này tăng lên khoảng 85 triệu USD, năm 2000 là 110 triệu USD thì đến năm 2003 đã là 180 triệu USD. Dự kiến đến năm 2005 đạt kim ngạch 250-300 triệu USD. Năm 2010 đạt từ 500-550 triệu USD.Vì vậy, nhóm hàng gốm sứ mỹ nghệ xuất khẩu cần được sự khuyến khích hỗ trợ, ưu đãi mạnh mẽ của nhà nước để có thể có những triển vọng tốt đẹp trong những năm tới. 3. Nhóm hàng mây tre đan Với đặc điểm gọn nhẹ, xinh xắn, dễ thay đổi kiểu, khá bền và giá tương đối rẻ so với đồ gỗ, hàng mây tre lá đã có bước phát triển khá vững chắc. Từ một số ít mặt hàng bàn ghế theo mẫu từ xa xưa, đơn giản. Gần đây những mặt hàng mây tre đã cải tiến, có thêm nhiều kiểu dáng đẹp mắt theo mẫu mã nước ngoài. Nguồn nguyên liệu làm hàng này rất phong phú: từ mây tre, trúc, lá buông đến xơ dừa, lục bình, dứa dại…dưới bàn tay khéo léo của những người thợ cũng có thể trở thành những mặt hàng có giá trị xuất khẩu. Mặt hàng này không đòi hỏi trình độ kĩ thuật cao, lao động t._.sâu sắc hơn, lựa chọn đúng thị trường trọng điểm. Như vậy, có thể nói rằng việc xác định đúng thị trường trọng điểm là một mục tiêu chiến lược vô cùng quan trọng trong hoạt động xuất khẩu của các đơn vị. Để có thể lựa chọn được thị trường trọng điểm, các đơn vị phải đưa ra các tiêu chuẩn và việc nghiên cứu thị trường sẽ phải định hướng vào các tiêu chuẩn đó thông qua các mục tiêu mang tính chất chiến thuật. Các tiêu chuẩn lựa chọn sẽ là: - Qui mô của thị trường (hiện tại và tương lai) về mặt hàng thủ công mỹ nghệ. - Sự phát triển nhu cầu thị trường. Liên quan đến tiêu chuẩn này, các đơn vị cần tập trung nghiên cứu các yếu tố hình thành nên nhu cầu thị trường. Kinh tế xã hội, chính trị, nền văn hoá, các trào lưu và xu thế tiêu dùng mặt hàng thủ công mỹ nghệ. - Các chi phí kinh doanh có thể xuất hiện: chi phí vận tải, chi phí bán hàng, thuế nhập khẩu của nước đó. - Những ưu thế cạnh tranh của đối thủ: các yếu tố giá cả, mẫu mã, thị phần… - Mức độ rủi ro khi kinh doanh trên thị trường. Trên nguyên tắc toàn bộ các thị trường của các đơn vị trên thế giới đều được chọn lọc thông qua các tiêu chuẩn trên. Song điều kiện của các doanh nghiệp không cho phép tìm hiểu một cách đầy đủ tất cả các thị trường trong từng khu vuực thị trường, các đơn vị sẽ phải chọn một số thị trường chủ yếu để đưa vào phạm vi nghiên cứu. Trên khu vực Châu Á, các thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan sẽ là những thị trường trọng điểm được đưa vào mục tiêu nghiên cứu. Trên khu vực Tây Âu, các thị trường Pháp, Đức. Khu vực Trung Đông có Iran là thị trường có khả năng tiêu thụ tương đối lớn. Các đơn vị cần phải khảo sát nhu cầu của các thị trường này để thu thập các thông tin, đẩy mạnh lượng bán và khai thác các nhu cầu của thị trường. Trong quá trình nghiên cứu xử lý thông tin các đơn vị cần phải quan tâm tính đồng nhất của các thị trường, từ đó có thể tìm được cách khai thác trên các thị trường khác nhau. Trên thực tế, sự phân ranh giới địa lý giữa các nước chỉ mang tính chất tương đối đối với các nhà kinh doanh. Đặc điểm nổi bật mà họ quan tâm là sự khác nhau về nhu cầu và các yếu tố ảnh hưởng tới nhu cầu. Khi thấm nhuần tư tưởng này các đơn vị sẽ lựa chọn được những thị trường trọng điểm của mình không chỉ trên một nước, mà trên một nhóm nước có điểm tương đồng về nhu cầu hàng thủ công mỹ nghệ. * Lựa chọn mặt hàng chiến lược và nâng cao chất lượng sản phẩm Muốn xây dựng được các mặt hàng chiến lược phải dựa trên những thế mạnh đó là nguồn nguyên liệu. Nguồn lao động và có thị trường. Qua nghiên cứu chiến lược cho kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu, các đơn vị cần phải xác định được cho mình thế mạnh cả ở đầu vào và đầu ra. - Về mặt thị trường xuất khẩu cho các mặt hàng này, thể hiện qua nghiên cứu thị trường là các thị trường: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan… cho các mặt hàng thêu, gốm, gỗ mỹ nghệ và cói; Pháp, Đức cho mặt hàng thêu và gỗ mỹ nghệ; Trung Đông về mặt hàng cói… - Về mặt nguyên liệu, nguồn lao động: Đối với hàng thủ công mỹ nghệ thì nguồn nguyên liệu có sẵn ở trong nước và nguồn lao động dồi dào. cụ thể: nghề thêu phát triển ở Hà Nam, Ninh Bình; nghề gốm phát triển ở Bát Tràng, Quảng Ninh; cói phát triển ở Ninh Bình, Hà Nam, Thanh Hoá; gỗ mỹ nghệ ở Bắc Ninh, Ninh Bình, Hà Nội. Tại những vùng này bên cạnh nguồn nguyên liệu dồi dào là cả một đội ngũ lao động lành nghề. Cũng ở vùng này đã sinh ra những nghệ nhân tài hoa với đôi tay vàng đã tạo ra những sản phẩm độc đáo nổi tiếng ở cả trong và ngoài nước. Trên cơ sở những mặt hàng chính đã được xác định là việc nâng cao chất lượng hàng và đa dạng hoá hình thức mẫu mã để thoả mãn một cách tốt nhất nhu cầu thị trường quốc tế. Thực ra đối với mặt hàng thủ công mỹ nghệ thì chất lượng và hình thức có tầm quan trọng tương đương nhau. Muốn tăng kim ngạch xuất khẩu những mặt hàng này cần chú trọng đến cả hai. Chất lượng hàng mỹ nghệ phụ thuộc vào chất lượng nguyên liệu và xử lí nguyên liệu. Thực tế cho thấy sản phẩm mỹ nghệ của Việt Nam nói chung rất độc đáo, tinh xảo, mang tính mỹ thuật cao, nhưng khi xuất khẩu trải qua thời gian với điều kiện khí hậu khác nhau hàng hoá bị xuống cấp nhanh chóng. Đây thực chất phụ thuộc vào quy trình xử lí nguyên vật liệu cũng như xử lí sản phẩm sau giai đoạn sản xuất. Một vấn đề hết sức khó khăn cho việc đảm bảo chất lượng hàng hoá là sự phụ thuộc rất lớn của sản phẩm vào thời tiết, ví như hàng cói gặp khí hậu ẩm là dễ mốc. Tương tự như vậy là sản phẩm gỗ mỹ nghệ nếu không được xử lý cẩn thận thì khi gặp thời tiết nóng, lạnh sẽ cong vênh, nứt nẻ…đòi hỏi những sản phẩm phải được xử lí thật kỹ từ khi còn là nguyên liệu thô. Quá trình xử lí càng kỹ thì sự biến chất càng giảm, chất lượng được nâng cao. Bên cạnh những việc nâng cao chất lượng là cải tiến mẫu mã hình thức. Đối với hàng thủ công mỹ nghệ có một lợi thế đó là việc cải tiến mẫu mã không đòi hỏi tốn kém lại dể thực hiện. Ví dụ như hàng cói, chỉ cần pha chế tỷ lệ phẩm khác nhau là đã có những mầu sắc phong phú da dạng hay việc cải tiến những đường nết hoa văn của các sản phẩm khác. Từ đó tạo nên sức hấp dẫn với khách hàng quốc tế. * Lựa chọn mức giá tối ưu Giá cả là một yếu tố quan trọng trong việc kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu. Thực tế ở Việt Nam, giá bán của các đơn vị phụ thuộc nhiều vào giá bán của đối thủ cạnh tranh và luôn luôn thay đổi. Trong kinh doanh, đành rằng giá cả là một yếu tố ảnh hưởng tới quyết định mua của khách hàng. Song khi giá cả quá thấp cũng có thể đưa tới sự ngờ vực của họ về sản phẩm của các đơn vị sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ. Mục tiêu của nghiên cứu giá cả trước hết phụ thuộc vào sản phẩm của công ty cũng như sản phẩm của đối thủ cạnh tranh cùng mức giá các đối thủ đưa ra. Trong nhóm hàng thủ công mỹ nghệ, đặc điểm chung là các sản phẩm đều là các hàng khảo giá hay hàng mua sắm, nghĩa là khi lựa chọn sản phẩm, các khách hàng sẽ đưa ra sự so sánh giữa các sản phẩm khác nhau để lựa chọn trên cơ sở những ưu điểm của sản phẩm và mức giá của những nhà xuất khẩu khác nhau. Một số mặt hàng thủ công mỹ nghệ có đặc điểm đồng nhất. Khi đó, giá cả trở nên quan trọng và các đơn vị buộc phải nghiên cứu các mức giá khác nhau trên thị trường. Ngược lại một số sản phẩm lại là các hàng khảo giá không đồng nhất. đối với các mặt hàng này, đặc tính ưu việt của hàng hoá sẽ quyết định tới giá cả và các đơn vị có thể áp dụng chính sách linh hoạt giá cả với các sản phẩm khác nhau của mình. Việc xác định giá cả còn phụ thuộc vào các điều kiện giao hàng trong trường hợp xuất khẩu trực tiếp, thông qua các kênh trung gian. Nghĩa là giá bán cũng có thể bao gồm cả việc bảo hiểm hoặc phí vận tải hàng hoá. Nghiên cứu, xác định giá cả trong hoạt động xuất khẩu là một mục tiêu rất quan trọng và phải được tiến hành rất thường xuyên, nhất là đối với các sản phẩm đồng nhất với các đối thủ cạnh tranh. Một điều cần chú ý trong việc xác định giá cả là các đơn vị phải có đầy đủ thông tin cần thiết trước khi đưa ra các quyết định bớt giá, chiếu cố hay tăng giá. Và các đơn vị cũng phải xác định việc nghiên cứu nhằm vào các mục tiêu làm giá là lợi nhuận được định hướng hay tăng cường thị phần trên các thị trường cụ thể… Ngoài việc nghiên cứu và nắm bắt thị trường theo các phương pháp trên, để cải thiện tốt hơn tình trạng hiện nay về công tác thị trường trong kinh doanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, các đơn vị cần phải thực hiện các biện pháp sau: Áp dụng các biện pháp tích cực để giữ vững thị trường và khách hàng truyền thống, đặc biệt là các khách hàng lớn. Nghiên cứu để hình thành các cam kết với khách hàng có quan hệ buôn bán thường xuyên nhằm bảo đảm hai bên cùng phát triển và cùng có lợi. Cần thường xuyên quan hệ với các cơ quan ngoại giao, thường vụ, văn phòng đại diện, các tổ chức thương mại tại Việt Nam và nước ngoài để tìm kiếm khách hàng. Trong đó cần quan tâm giải quyết các công việc từ gửi thư, chúc mừng năm mới, ngày lễ quốc khánh, gửi danh thiếp, gửi bản chào hàng, gửi quà lưu niệm cho đến có cơ chế hợp lý để trả công môi giới ký kết hợp đồng. Cần xây dựng trước kế hoạch tham dự hội chợ triển lãm trong nước cũng như hội chợ triển lãm quốc tế để có đủ thời gian cần thiết nghiên cứu thị trường và chuẩn bị mọi mặt được chu đáo nhằm mang lại hiệu quả thiết thực. Qua hội chợ triển lãm, các đơn vị có điều kiện giao dịch ký kết hợp đồng, tìm hiểu khả năng và nhu cầu của khách hàng đồng thời là cơ hội của khách hàng hiểu hơn nữa về các đơn vị và sản phẩm. - Khuyến khích mọi người phát huy khả năng năng động sáng tạo trong việc tìm kiếm khách hàng, ký kết hợp đồng thông qua chế độ thưởng, hoa hồng cho người môi giới. - Thành lập một phòng thị trường thay cho sự kiêm nhiệm của phòng kinh doanh. phòng thị trường có tính độc lập tương đối và nhân sự phù hợp sẽ phát huy được vai trò là xây dựng chiến lược thị trường toàn diện gắn thị trường với sản xuất trong nước nhằm “bán hàng mà khách hàng cần chứ không phải bán cái mình có”. Cụ thể phòng thị trường sẽ chịu trách nhiệm tổ chức tốt kênh thông tin để thu thập đầy đủ thông tin về thị trường, tổ chức tốt việc xử lý thông tin thật nhanh, kết hợp với năng lực phán đoán thị trường và dự báo thị trường một cách chính xác từ đó đưa ra các quyết định đúng đắn về thị trường. 2.2. Kết hợp sản xuất với xuất khẩu Để tăng kim ngạch xuất khẩu cũng như nâng cao hiệu quả xuất khẩu các đơn vị nên kết hợp sản xuất với xuất khẩu thông qua việc hình thành các xưởng sản xuất. Sự kết hợp này cho phép nâng cao hiệu quả kinh doanh vì các đơn vị có thể thu lợi nhuận từ hai nguồn: sản xuất + xuất khẩu. đồng thời với sự kết hợp này cho phép tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu bởi những lý do sau: - Đáp ứng tốt, kịp thời nhu cầu thị trường: qua hoạt động xuất khẩu các đơn vị nắm được khách hàng với nhu cầu thị hiếu và thói quen tiêu dùng của họ từ đó có cơ sở để tổ chức sản xuất. - Tạo được nguồn hàng chất lượng ổn định, mẫu mã phù hợp với nhu cầu thị trường. - Chủ động về mặt hàng: vì trực tiếp sản xuất nên các đơn vị có thể chủ động về số lượng, chất lượng, giá cả. Có khả năng cải tiến kỹ thuật mặt hàng để phù hợp với từng thị trường riêng biệt. - Hình thành xưởng sản xuất không đòi hỏi chi phí nhiều về cơ sở vật chất, trang bị, chi phí đào tạo không nhiều và thời gian đào tạo không lâu. Về địa điểm, xưởng sản xuất có thể đặt tại Hà Nội, hoặc cũng có thể ở các vùng có sẵn nguyên liệu. Nếu xưởng đóng ở Hà Nội thì phải có tổ chức cung ứng vật tư nguyên vật liệu kịp thời cũng như bảo đảm dự trữ đầy đủ, đồng bộ. Nếu xưởng sản xuất đóng tại các tỉnh xa thì phải làm tốt công tác quản lý và tổ chức sản xuất, để đảm bảo vừa tổ chức sản xuất trực tiếp vừa có sự chỉ đạo trực tiếp, hỗ trợ sản xuất của các đơn vị. Xưởng sản xuất là một đơn vị sản xuất có chức năng: + Nghiên cứu sáng tác, cải tiến những công nghệ kĩ thuật sản xuất các mặt hàng mỹ nghệ, tạo ra nhiều đề tài mẫu mã mới. + Quản lý và nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu. + Tổ chức sản xuất kinh doanh. Để thực hiện tốt các chức năng trên, các xưởng phải thực hiện những nhiệm vụ sau: * Nghiên cứu sáng tác chế thử - Nghiên cứu đề ra các tiêu chuẩn kĩ thuật và biện pháp đối với việc xử lý các nguyên liệu cho sản xuất đảm bảo cho hàng hoá xuất khẩu đạt chất lượng cao. - Thực hiện chế thử và lập qui trình sản xuất hàng loạt theo mẫu hoặc theo thiết kế của khách. - Sưu tầm nghiên cứu thị hiếu thị trường để sáng tác mẫu mới phù hợp với điều kiện sản xuất trong nước và yêu cầu thị trường. - Giải quyết chế độ bản quyền cho các đơn vị sản xuất, đăng ký bản quyền đối với những mẫu mã đề tài do đơn vị mình đặt ra cho xưởng nghiên cứu và sản xuất thử thành công. - Tổ chức trưng bày các sản phẩm mẫu mã hoàn chỉnh, có hệ thống để giới thiệu, chào bán và bán tại chỗ. * Tổ chức thu hoá, đóng gói bao bì, giao hàng - Tổ chức thu hoá hàng rời để đóng gói và giao hàng đối với các hợp đồng yêu cầu chất lượng cao, trị giá hàng hoá lớn, đặc biệt là giao hàng bằng container và các thương nhân Nhật Bản, Tây Âu. Chịu trách nhiệm về phẩm chất hàng hoá sau khi đã thu hoá. - Kết hợp hoạt động phục vụ công tác kinh doanh của các đơn vị trong lĩnh vực xuất khẩu với việc tổ chức sản xuất, mở rộng quan hệ giao dịch, trưng bày bán hàng tại chỗ, tăng thêm thu nhập cho các đơn vị kinh doanh. - Tuân thủ mọi qui chế quản lý kinh tế của Nhà nước và các qui định khác của đơn vị mình. 2.3. Tạo nguồn hàng kịp thời và có chất lượng Việc nghiên cứu lựa chọn nguồn hàng tốt góp phần đáp ứng kịp thời chính xác nhu cầu của thị trường, thực hiện đúng thời hạn hợp đồng với chất lượng tốt. Kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ của các đơn vị chỉ phát triển, đạt hiệu quả cao khi các đơn vị có những biện pháp đồng bộ, cân đối từ thu mua, thực hiện hợp đồng, thanh toán, giao hàng.Trong đó khâu tạo nguồn hàng, ổn định có chất lượng là khâu cực kỳ quan trọng và là khâu đầu tiên, khâu quyết định trong quy trình nghiệp vụ, đồng thời chứng tỏ liệu các đơn vị có khả năng phát triển ở giai đoạn sau hay không. Như vậy để tạo được nguồn hàng ổn định có chất lượng các đơn vị phải có mối quan hệ tốt với các cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ. Mối quan hệ này phải dựa trên cơ sở bình đẳng, hợp tác tương trợ lẫn nhau trên cơ sở cùng có lợi. Các cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ đa phần là thiếu vốn. Để đảm bảo cho các cơ sở sản xuất có thể cung ứng vốn cũng như máy móc thiết bị cần thiết. Trên cơ sở có vốn, cơ sở sản xuất mua được nguyên liệu chất lượng cao và ổn định, máy móc thiết bị sẽ cho phép tăng năng suất lao động và ổn định chất lượng. Cùng với việc cung ứng là cải thiện chế độ thu mua. Các đơn vị cần áp dụng giá mua như như thế nào cho hợp lý đồng thời giải quyết được vấn đề lãi của đơn vị với tạo động lực khuyến khích người lao động sản xuất. Đối với những cơ sở sản xuất mà đơn vị có quan hệ thường xuyên lâu dài cần phải nhận được sự quan tâm giúp đỡ của các đơn vị về cải tiến mẫu mã cho phù hợp nhu cầu thị trường. Đồng thời có chế độ kiểm tra chặt chẽ mặt chất lượng đúng như cam kết. Tạo được mối quan hệ tốt như vậy giữa các đơn vị và các nguồn hàng kịp thời và có chất lượng là một sự thành công chắc chắn. Mặc dù vậy, tạo được nguồn hàng kịp thời và có chất lượng theo những phương pháp được đề xuất ở trên rất phù hợp cho các hợp đồng xuất khẩu vừa và nhỏ của các đơn vị, còn đối với các hợp đồng lớn? Những hợp đồng mà khả năng đáp ứng về vốn vượt ra ngoài khả năng huy động vốn của các đơn vị Trong trường hợp này, các đơn vị không thể tập trung đủ hàng cho hợp đồng, bởi lẽ các cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ qui mô thườn rất nhỏ, tư bản ít, họ không có khả năng bán chịu để giữ mối quan hệ làm ăn lâu dài hay để được hưởng các mức giá cao hơn. Hoạt động kinh doanh trong mấy năm qua, các đơn vị đã bỏ lỡ một số cơ hội có được hợp đồng kinh doanh có giá trị lớn, có khách hàng mới với nguyên do là không đủ năng lực thực hiện hợp đồng. Do vậy, trong thời gian tới để tăng cường hoạt động kinh doanh xuất khẩu của mình, đồng thời tạo dựng quan hệ làm ăn tốt với các chân hàng các đơn vị cần phải mở rộng liên doanh liên kết với các đơn vị khác trong cùng ngành. Cụ thể của mối quan hệ này là các đơn vị sẽ giao một phần của hợp đồng mà tự mình không thể thực hiện được cho đơn vị liên kết, ngược lại công ty sẽ được thực hiện một phần hợp đồng của các đơn vị liên kết khi họ cũng không thể tự mình gánh vác mà thu lãi. Mối quan hệ này phải được thực hiện với các điều kiện các bên cùng có lợi cho từng hợp đồng liên kết thực hiện, đó thực sự là nền tảng của sự hợp tác hữu hảo và bền vững. Như vậy với sự liên doanh liên kết này có thể phát huy được lợi thế của các bên, khắc phục được tình trạng khi thừa khi thiếu năng lực kinh doanh xuất khẩu của các đơn vị như hiện nay. 2.4. Duy trì, củng cố quan hệ làm ăn với bạn hàng cũ và tìm kiếm bạn hàng mới Trong quá trình kinh doanh, việc thực hiện một số hợp đồng với các điều kiện về cơ bản là tương đương nhau, chỉ khác một phần là một chủ thể của hợp đồng là khác nhau mà kết quả là khác nhau, nhiều khi lại trái ngược. Có hợp đồng được thực hiện rất thuận lợi, có hợp đồng gặp rắc rối, phải huỷ bỏ, có khi phải thưa kiện cũng chỉ khác nhau về đối tác thực hiện. Vấn đề bạn hàng thực sự có được là rất khó khăn, còn giữ được bạn hàng lại khó hơn nhiều. Để chiến thắng trong cạnh tranh, cần thiết có sự nỗ lực vươn lên trên đối thủ cạnh tranh và hợp tác chặt chẽ với các bạn hàng. Muốn giữ được bạn hàng trong quan hệ làm ăn lâu dài, các đơn vị cần tuân thủ ba nguyên tắc cơ bản sau: - Cần thiết có sự tin tưởng lẫn nhau, việc thận trọng trong quan hệ là tốt nhưng không qúa đa nghi. Sự tin tưởng sẽ đảm bảo quan hệ có thể phát triển tốt, nếu như đồng thời ta biết sử sự hợp lý trong quan hệ lợi ích kinh tế. - Nền tảng của quan hệ kinh tế vững bền là sự hoà đồng về lợi ích kinh tế. Nói như vậy nhưng không phải là khẳng định rằng tình cảm, sự hiểu biết lẫn nhau, tin tưởng lẫn nhau… là không quan trọng. - Trong mối quan hệ cần giữ chữ “tín”, không vì lợi ích trước mắt mà bỏ qua chữ tín của các đơn vị trên thương trường. Nếu chúng ta bỏ qua chữ “tín” thì đồng nghĩa với việc bỏ đi bạn hàng và lợi ích kinh tế lâu dài mà nó lại là mục đích hoạt động cuả các đơn vị. Việc mở rộng quan hệ với bạn hàng mới để tránh rủi ro khi làm ăn với họ, trước khi có thể kí kết hợp đồng các đơn vị phải khảo sát và lắm thật rõ về bạn hàng với các đặc điểm sau: - Loại hình doanh nghiệp từ đó ta sẽ biết được phương thức hoạt động của doanh nghiệp. Ai là người chịu trách nhiệm trước hoật động kinh doanh của doanh nghiệp và đặc biệt trong quan hệ kinh doanh với doanh nghiệp mình. - Sự nổi tiếng của họ như thế nào? Xem xét trên các khía cạnh về vốn, cơ sở vật chất, khả năng kinh doanh, khả năng thanh toán và khả năng tín dụng. - Hình thức kinh doanh hợp tác với ta có thuộc hình thức kinh doanh chủ yếu của họ không? - Xem xét hiệu quả, quy mô của mối quan hệ so với khả năng của họ và của ta. 2.5. Quản lý chặt chẽ trong khâu thanh toán Quản lý khâu thanh toán là vấn đề quan trọng trong kinh doanh thương mại quốc tế. Các đơn vị cũng như nhiều nhà xuất khẩu Việt Nam đều nhận thấy sự phức tạp trong khâu này và trong thực tế đây cũng là khâu thường xuyên xảy ra tranh chấp. Hậu quả là các cuộc thưa kiện kéo dài tốn kém và các nhà xuất khẩu thường phải chịu thiệt thòi. Hiện nay, chúng ta hầu như áp dụng phương thức thanh toán L/C cho hoạt động xuất khẩu, đây là phương thức thanh toán có nhiều ưu điểm. Tuy nhiên để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất khẩu cho khâu này, các đơn vị phải tổ chức tốt cho khâu này từ khi kí kết hợp đồng, quá trình thực hiện hợp đồng đến cả sau khi thực hiện hợp đồng. Các rủi ro thanh toán thường gặp mà các đơn vị cần phải tránh, đặc biệt cho thực hiện hợp đồng với khách hàng có quan hệ làm ăn lâu dài, đó là: - Rủi ro biến động tỷ giá bất lợi, đồng tiền thanh toán bị mất giá. - Rủi ro từ phía ngân hàng phát hành L/C không có uy tín trong thanh toán, dẫn đến không giữ đúng cam kết thanh toán của ngân hàng đã ghi trong L/C đối với các đơn vị - Rủi ro xuất phát từ nguồn gốc là do không thực hiện đúng các điều kiện ghi trong L/C có các nội dung cơ bản như sau: thời hạn giao hàng chậm so với qui định trong L/C, chuyên chở hàng hoá không đúng qui định của L/C, cơ cấu mặt hàng không phù hợp nội dung L/C. L/C.  - Rủi ro thanh toán hình thức hoặc nội dung chứng từ không phù hợp với - Một số rủi ro khác. Để tránh các rủi ro trên, nâng cao hiệu quả công tác thanh toán quốc tế, các đơn vị nên thực hiện quản lý khâu thanh toán theo cách thức sau: - Trước khi kí kết hợp đồng vẫn tìm hiểu bạn hàng là ai? Nắm bắt thiện chí, nhu cầu nhập khẩu của họ tránh sự lừa đảo đáng tiếc xảy ra. - Tránh sự biến động tỷ giá về đồng tiền thanh toán bị mất giá do từ khi kí đến thời điểm thanh toán thường rất dài, đảm bảo giá trị hợp đồng thu về bằng cách thêm vào các điều khoản bảo đảm tỷ giá ngay khi kí kết hợp đồng, có thể bằng cách bảo đảm sau: + Bảo đảm bằng vàng. + Bảo đảm bằng đồng tiền có giá trị ổn định. + Bảo đảm theo rổ tiền tệ. - Yêu cầu ngay trong hợp đồng chi tiết quan trọng trong nội dung L/C như chỉ định ngân hàng thanh toán, ngân hàng thông báo sao cho đơn vị nắm chắc được quyền hưởng lợi L/C và những nghĩa vụ ràng buộc. - Luôn cẩn thận với L/C do ngân hàng phát hành gửi đến, phân tích kỹ từng nội dung nhỏ của L/C nhận được, không nên chỉ quan tâm đến nội dung chủ yếu mà bỏ qua chi tiết nhỏ thực tế lại rất quan trọng trong thanh toán. Việc xem xét các chi tiết ấy phải được tiến hành chủ động tích cực, Sự phù hợp giữa L/C và hợp đồng, khả năng thực hiện và ý đồ của người nhập khẩu. - Nếu gặp khó khăn trong thời hạn giao hàng, thời hạn xuất trình chứng từ và các chứng từ thanh toán các đơn vị cần phải kiên quyết yêu cầu điều chỉnh L/C cho phù hợp. - Phải hết sức cố gắng để có bộ chứng từ hoàn hảo theo đúng yêu cầu của L/C từng chi tiết nhỏ nhặt nhất phải phù hợp với luật lệ điều tiết của L/C trong thời hạn hiệu lực của L/C. - Nếu cần thiết thì sử dụng cố vấn của ngân hàng để đạt được chứng từ hoàn hảo, nên tôn trọng những lời khuyên của ngân hàng. 2.6. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong hoạt động xuất khẩu Nếu các đơn vị huy động vốn được nhiều hơn như hiện nay, điều chắc chắn rằng kinh doanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ thu lại được nhiều lợi nhuận, sức cạnh tranh lớn. Do vậy các đơn vị phải huy động từ mọi nguồn có thể được và phải sử dụng có hiệu quả. Nguồn vốn mà các đơn vị có thể huy động là từ các ngân hàng, các đơn vị các tổ chức khác và vốn của cán bộ công nhân viên trong công ty. Muốn sử dụng có hiệu quả các đơn vị cần giải quyết tốt các công việc như thu hồi công nợ, giải phóng hàng tồn kho, chống phát sinh công nợ mới và hàng tồn kho mới. Đầu tư có trọng điểm vào những hoạt động có khả năng mang lại hiệu quả và thu hồi vốn nhanh. Cùng với việc sử dụng vốn có hiệu quả là tiết kiệm chi tiêu, giảm chi phí hành chính, phí kinh doanh, tập trung vốn cho kinh doanh. 2.7. Tạo thương hiệu và không ngừng nâng cao uy tín thương hiệu trên thị trường quốc tế Vấn đề thương hiệu trong bối cảnh hiện nay không còn là điều cảnh báo đối với những mặt hàng nông sản hay những mặt hàng của ngành công nghiệp chế biến nữa mà ngay cả đối với những mặt hàng TCMN khi mặt hàng này đang là điển hình cho việc phải mượn thương hiệu để xuất khẩu. Những năm vừa qua các doanh nghiệp làm hàng TCMN rất lơ là đối với việc bảo hộ kiểu dáng, nhãn hiệu hàng hóa. Họ thường thông qua người môi giới để xuất khẩu hàng. Các đối tác trung gian thường lựa chọn kiểu dáng hoặc lấy từ những mẫu mã người sản xuất đưa ra còn nhà sản xuất cứ theo mẫu mã trong đơn đặt hàng mà làm. Điều này cực kỳ nguy hiểm khi các nhà môi giới chớp cơ hội đăng kí thương hiệu ở nước mà mặt hàng đó được tiêu thụ. Lúc đó việc xuất khẩu sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào người môi giới và vì lợi nhuận, họ sẽ không ngần ngại quay lại o ép chính các nhà sản xuất. Bài học từ việc mất các thương hiệu nổi tiếng của ta vẫn còn nóng hổi đối với các nhà sản xuất. Bởi vậy, ngay bây giờ và ngay lập tức các nhà sản xuất hàng TCMN, các làng nghề thủ công truyền thống phải thực hiện đăng kí thương hiệu và kiểu dáng sản phẩm trước khi quá muộn. 2.8. Thành lập sàn giao dịch hàng thủ công mỹ nghệ trên mạng Internet Sự bùng nổ của Internet trong những năm gần đây cùng sự phát triển về thương mại điện tử đã giúp các doanh nghiệp gặp gỡ, tiếp xúc với nhau ở bất kỳ đâu, bất kỳ thời điểm nào mà không có giới hạn về không gian và thời gian. Sàn Giao dịch hàng thủ công mỹ nghệ trên mạng Internet sẽ là nơi đầu tiên cung cấp đầy đủ, toàn diện các thông tin về hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam, trưng bày và giới thiệu sản phẩm của các công ty thủ công mỹ nghệ hàng đầu Việt Nam và tạo cơ hội giao thương giữa các công ty này với thị trường nước ngoài. Sàn giao dịch sẽ giúp doanh nghiệp tạo thêm một kênh bán hàng có hiệu quả và phù hợp với xu thế phát triển kinh tế thế giới hơn tất cả các hình thức đã có trước đây. Và dĩ nhiên khi tham gia sàn giao dịch, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có thêm nhiều cơ hội gặp gỡ và đối thoại trực tiếp với các nhà nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ quốc tế. Tuy vậy, một trong những hạn chế của doanh nghiệp Việt Nam là thiếu và yếu những kiến thức về hoạt động xuất nhập khẩu, luật pháp thương mại cùng các kiến thức cơ bản về thương mại điện tử. Vì vậy, khi xây dựng sàn giao dịch, các nhà tổ chức nên thường xuyên có những hoạt động hỗ trợ, tư vấn, giải quyết những vướng mắc, khó khăn gặp phải trong quá trình giao dịch. Trên sàn giao dịch, các hình ảnh, thông tin về sản phẩm được trưng bày cho người xem thấy rõ, nếu có những thắc mắc gì, doanh nghiệp có thể giải đáp ngay cho khách hàng. Đây là lợi thế giúp doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh cho sản phẩm của mình. Tuy nhiên, việc mua bán trên sàn giao dịch có làm tăng nguy cơ vi phạm bản quyền về nhãn hiệu, mẫu mã, kiểu dáng sản phẩm của doanh nghiệp hay không? Để giải quyết vấn đề này, giải pháp tốt nhất cho doanh nghiệp là nhanh chóng đăng ký bản quyền về kiểu dáng, chất lượng, mẫu mã sản phẩm của mình đồng thời cũng nên luôn đổi mới, đa dạng hoá sản phẩm để tạo sự hấp dẫn đối với khách hàng. Trên thực tế, hàng thủ công mỹ nghệ là sản phẩm chủ yếu được làm bằng tay nên việc “nhái” trên Sàn Giao dịch trực tuyến lại khó khăn hơn ở ngoài. Trên các trang web, các sản phẩm chỉ được biểu hiện bằng những tấm ảnh chụp ở nhiều góc độ khác nhau mà thôi. Nếu có bắt chước thì chỉ bắt chước được kiểu dáng, mẫu mã còn chất lượng, kết cấu của nó thì lại phải cầm sản phẩm trên tay mới có thể xác định được. Vì thế vấn đề bản quyền, mẫu mã, kiểu dáng không phải chỉ lên sàn giao dịch mới bị vi phạm mà nó đã có từ trước đó rất lâu. Để giải quyết vấn đề này, các doanh nghiệp cần phải đăng ký với Nhà nước bản quyền sản phẩm của mình mới là cách để cứu mình, để sản phẩm của mình không bị đánh cắp, bắt chước. Trên đây là một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam giai đoạn 2001- 2010. Hy vọng rằng, trong tương lai ngành hàng này ngày càng phát triển lớn mạnh và khẳng định được vị trí của mình trên trường quốc tế. Từ đó tạo điều kiện đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế, xã hội theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Liệu điều đó có trở thành sự thật hay không? Còn phụ thuộc rất nhiều vào việc thực hiện một cách thiết thực, linh hoạt các giải pháp trên của Nhà nước và các doanh nghiệp. CHƯƠNG I 1 VAI TRÒ CỦA HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI CỦA VIỆT NAM 1 I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ 1 Giới thiệu chung về nghề truyền thống hàng thủ công mỹ nghệ 1 2. Các mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam 3 2.1. Hàng gốm sứ 3 2.2. Hàng mây tre đan 4 2.3. Hàng gỗ thủ công mỹ nghệ 5 2.4. Hàng thêu ren 6 2.5. Hàng thổ cẩm 7 3. Đặc thù của hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống 7 3.1. Trong sản phẩm thủ công mỹ nghệ, văn hoá tinh thần kết tinh trong văn hoá vật thể 8 3.2. Hàng thủ công mỹ nghệ mang đậm tính cá biệt, phong cách của mỗi nghệ nhân và nét đặc trưng địa phương, tồn tại trong sự giao lưu với cộng đồng 8 3.3. Hàng thủ công mỹ nghệ là loại sản phẩm nghệ thuật, kết tinh từ những thành tựu kỹ thuật - công nghệ truyền thống, phương pháp thủ công tinh xảo với đầu óc sáng tạo nghệ thuật 9 II. VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI CỦA VIỆT NAM. 10 1. Thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước 10 2. Tạo công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, nâng cao đời sống nhân dân 11 3. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế có hiệu quả, thúc đẩy sản xuất phát triển 12 4. Góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế 13 5. Mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam 14 6. Duy trì các ngành nghề truyền thống, tăng cường giao lưu văn hóa giữa các dân tộc 14 ĐIỂM “LỢI THẾ CẠNH TRANH” CỦA MICHAEL PORTER 15 IV. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ 18 1. Nguồn nguyên liệu 18 2. Nguồn vốn 20 3. Nhu cầu thị trường đối với hàng thủ công mỹ nghệ 21 4. Các đối thủ cạnh tranh 23 5. Các chính sách của nhà nước liên quan đến hàng thủ công mỹ nghệ 23 CHƯƠNG II 26 THỰC TRẠNG SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA 26 I. QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT VÀ TỔ CHỨC TIÊU THỤ HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ CỦA VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM QUA 26 1. Quá trình sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ 26 2. Cơ chế tổ chức thu mua hàng 28 2.1. Cơ chế thu mua 28 2.2. Tổ chức thu mua 29 II. CƠ CẤU MẶT HÀNG XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ CỦA VIỆT NAM 30 1. Nhóm sản phẩm gỗ 32 2. Nhóm hàng gốm sứ mỹ nghệ 35 3. Nhóm hàng mây tre đan 37 4. Nhóm hàng thảm các loại (thảm len, thảm đay cói, thảm sơ dừa) 41 5. Nhóm hàng thêu ren thổ cẩm 41 6. Nhóm hàng thuộc các ngành nghề thủ công khác (chạm bạc, khắc 43 III. THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ CỦA VIỆT NAM 44 1. Thị trường EU: 45 2. Thị trường Nhật 46 3. Thị trường Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc 47 4. Thị trường Mỹ 48 5. Thị trường Nga và Đông Âu 50 IV. ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ CỦA VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM VỪA QUA 51 1. Kết quả đã đạt được 51 2. Những tồn tại, khó khăn 54 CHƯƠNG III 57 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ 57 I. PHƯƠNG HƯỚNG ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ 57 NGHỆ 57 II. CÁC BIỆN PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ CỦA VIỆT NAM 60 1. Về phía Nhà nước 60 1.1. Tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng 60 1.2. Thành lập các hiệp hội ngành nghề 60 1.3. Chính sách hỗ trợ xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu 61 2. Về phía các doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ (gọi chung là các đơn vị sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu) 64 2.1. Hoàn thiện công tác nghiên cứu thị trường 64 2.2. Kết hợp sản xuất với xuất khẩu 72 2.3. Tạo nguồn hàng kịp thời và có chất lượng 75 2.4. Duy trì, củng cố quan hệ làm ăn với bạn hàng cũ và tìm kiếm bạn hàng mới 76 2.5. Quản lý chặt chẽ trong khâu thanh toán 78 2.6. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong hoạt động xuất khẩu 80 2.7. Tạo thương hiệu và không ngừng nâng cao uy tín thương hiệu trên thị trường quốc tế 80 2.8. Thành lập sàn giao dịch hàng thủ công mỹ nghệ trên mạng Internet 81 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8074.doc
Tài liệu liên quan