Thực trạng sử dụng vốn kinh doanh ở Công ty XNK Tạp phẩm Hà Nội

Chương i: một số vấn đề lý luận chung về vốn kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở các doanh nghiệp thương mại. I. Khái quát vốn kinh doanh trong thương mại. 1. Khái niệm vốn kinh doanh. Để kinh doanh hàng hóa dịch vụ, các doanh nghiệp cần phải có một số tiền vốn nhất định, gọi là vốn kinh doanh. Vốn kinh doanh của doanh của doanh nghiệp thương mại ( DNTM ) là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản và các nguồn lực mà doanh nghiệp sử dụng trong hoạt động kinh doanh bao gồm: Tài

doc52 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1373 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng sử dụng vốn kinh doanh ở Công ty XNK Tạp phẩm Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sản hiện vật như nhà kho, cửa hàng, hàng hóa dự trữ. Tiền Việt Nam, ngoại tệ, vàng và đá quý. Bản quyền sở hữu trí tuệ và các tài sản vô hình khác. 2. Vai trò của vốn kinh doanh. Vốn kinh doanh của doanh nghiệp thương mại có vai trò quyết định trong việc thành lập, hoạt động, phát triển của từng loại hình doanh nghiệp theo luật định. Nó là điều kiện tiên quyết, quan trọng nhất cho sự ra đời, tồn tại phát triển của các doanh nghiệp. Tuỳ theo nguồn của vốn kinh doanh, cũng như phương thức huy động vốn mà doanh nghiệp có tên là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp liên doanh. Vốn kinh doanh của DNTM lớn hay nhỏ là một trong những điều kiện quan trọng nhất để xếp doanh nghiệp vào loại quy mô lớn, trung bình hay nhỏ, siêu nhỏ và cũng là một trong những điều kiện để sử dụng các nguồn tiềm năng hiện có và tương lai về sức lao động, nguồn hàng hóa, mở rộng và phát triển thị trường, mở rộng lưu thông hàng hóa, là điều kiện để phát triển kinh doanh. Vốn kinh doanh thực chất là nguồn của cải của xã hội được tích luỹ lại, tập trung lại. Nó chỉ là một điều kiện, một nguồn khả năng để đẩy mạnh hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên nó chỉ phát huy tác dụng khi biết quản lý, sử dụng chúng một cách đúng hướng, hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả. Trong sự cạnh tranh gay gắt của thị trường, huy động được vốn mới chỉ là bước đầu, quan trọng hơn là quyết định hơn là nghệ thuật phân bố, sử dụng số vốn với hiệu quả cao nhất ảnh hưởng đến vị thế của doanh nghiệp trên thương trường bởi vậy cần phải có chiến lược bảo toàn và sử dụng có hiệu quả vốn kinh doanh. Vốn kinh doanh của DNTM là yếu tố về giá trị. Nó chỉ phát huy tác dụng khi bảo tồn được và tăng lên được sau mỗi chu kỳ kinh doanh. Nếu vốn không được bảo toàn và tăng lên trong mỗi chu kỳ kinh doanh thì vốn đã bị thiệt hại, đó là hiện tượng mất vốn. Sự thiệt hại lớn dẫn đến doanh nghiệp mất khả năng thanh toán sẽ làm cho doanh nghiệp bị phá sản, tức là vốn kinh doanh đã bị sử dụng một cách lãng phí, không có hiệu quả. 3. Khái niệm và hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. 3.1. Khái niệm hiệu quả. - Quan niệm về hiệu quả kinh tế : + Theo nghĩa tổng quát : hiệu quả kinh tế là phạm trù phản ánh trình độ và năng lực quản lý, bảo đảm thực hiện có kết quả cao những nhiệm vụ kinh tế - xã hội đặt ra với chi phí nhỏ nhất. + Theo nghĩa toàn diện : hiệu quả kinh tế là một chỉ tiêu chất lượng phản ánh mối quan hệ giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để thu được kết quả đó. Nếu chi phí bỏ ra càng ít mà kết quả thu được càng nhiều thì điều đó có nghĩa là hiệu quả kinh tế càng cao và ngược lại. Đối với mỗi doanh nghiệp việc sản xuất kinh doanh cần phải có hiêụ quả cao. Trước hết cần phải tổ chức bộ máy quản lý tài chính thật tốt, đúng chế độ hạch toán kết toán của Nhà nước, đồng thời với việc phân tích, đánh giá sử dụng đồng vốn có hiệu quả, cùng với việc đẩy nhanh hoạt động sản xuất với phát triển thị trường tiêu thụ, hạn chế ảnh hưởng xấu tới môi trường, đẩy mạnh quan hệ xã hội. - Quan điểm về hiệu quả : khi xem xét hiệu quả kinh tế chúng ta phải đứng trên các quan điểm sau : + Bảo đảm thống nhất giữa mục đích kinh tế và mục đích chính trị + Bảo đảm tính toàn diện và hệ thống (tức là việc nâng cao hiệu quả kinh tế của một cá biệt phải quan tâm đến hiệu quả kinh tế ngành, xã hội). + Bảo đảm kết hợp hài hoà 3 loại lợi ích : Nhà nước, tập thể, cá nhân người tiêu dùng. + Bảo đảm tính thực tiễn của việc nâng cao hiệu quả kinh tế + Bảo đảm chất lượng phục vụ yêu cầu của xã hội + Bảo đảm đúng tiến độ, kế hoạch... 3.2. Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh là một phạm trù phản ánh những lợi ích đạt được từ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khi xem xét hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thường người ta đứng trên hai góc độ : - Hiệu quả kinh tế : là một chỉ tiêu chất lượng quan trọng nhất đối với mỗi doanh nghiệp. Nó phản ánh mối quan hệ giữa kết quả thu được về mặt kinh tế với các chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó sau một quá trình kinh doanh. - Hiệu quả xã hội : của một quá trình kinh doanh được thể hiện ở mức độ tham gia của doanh nghiệp vào các chương trình kinh tế xã hội. Thông qua các hoạt động kinh doanh của mình thực hiện các chính sách, phân loại, tạo việc làm cho người lao động, môi trường công bằng xã hội... Việc kết hợp hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội chỉ là một, sẽ cho ta đánh giá hiệu quả một cách đúng đắn bởi một hoạt động sản xuất kinh doanh mạng lại nhiều lợi nhuận (hiệu quả kinh tế cao) mà không gây tác hại đến cộng đồng, môi trường thiên nhiên thì nó được đánh giá là có hiệu quả và không bị ngăn chặn, và ngược lại. Hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp được biểu hiện bằng mối quan hệ giữa các chỉ tiêu kết quả thu được và chi phí bỏ ra để thu được kết quả đó. 4. Phân loại vốn kinh doanh trong thương mại. Vốn kinh doanh của DNTM có thể được xem xét, phân loại theo các tiêu thức và giác độ khác nhau: - Trên giác độ pháp luật chia thành: + Vốn pháp định: Là mức vốn tối thiểu phải có để thành lập doanh nghiệp do pháp luật quy định đối với từng ngành, nghề, và từng loại hình sở hữu doanh nghiệp. Dưới mức vốn pháp định thì không thể đủ điều kiện để thành lập doanh nghiệp. + Vốn điều lệ: là số vốn do các thành viên đóng góp và được ghi vào điều lệ của doanh nghiệp. Tuỳ theo ngành , nghề và loại hình doanh nghiệp nhưng vốn điều lệ không được nhỏ hơn vốn pháp định Trên giác độ hình thành vốn kinh doanh, vốn của DNTM gồm có: + Vốn đầu tư ban đầu: là số vốn phải có khi thành lập doanh nghiệp, tức là số vốn cần thiết để đăng ký kinh doanh, hoặc số vốn góp của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân hoặc vốn do nhà nước giao. Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn: gồm vốn đóng góp của tất cả các thành viên phải được đóng góp ngay khi thành lập công ty. Đối với công ty cổ phần: Vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phàn bằng nhau gọi là cổ phần. Giá trị của mỗi cổ phần được gọi là mệnh giá cổ phiếu. + Vốn bổ sung: Là số vốn tăng thêm do bổ sung từ lợi nhuận, do nhà nước bổ sung bằng phân phối hoặc phân phối lại nguồn vốn, do sự đóng góp của các thành viên, do bán trái phiếu. + Vốn do liên doanh: Là số vốn đóng góp do các bên cùng cam kết liên doanh với nhau để hoạt động thương mại hoặc dịch vụ. + Vốn đi vay: Trong hoạt động kinh doanh ngoài số vốn tự có và coi như tự có, doanh nghiệp còn sử dụng một khoản vốn đi vay khá lớn của ngân hàng. Ngoài ra, còn có khoản chiếm dụng lẫn nhau của các đơn vị nguồn hàng khách hàng và bạn hàng. - Trên giác độ chu chuyển vốn kinh doanh : Trong hoạt động kinh doanh, vốn kinh doanh vận động khác nhau. Xét trên giác độ luân chuyển của vốn, người ta chia toàn bộ vốn của DNTM thành hai loại là vốn lưu động và vốn cố định. 5. Vốn kinh doanh của DNTM. 5.1. Vốn cố định. Vốn cố định là vốn đầu tư vào tài sản cố định của các DNTM, nói khác đi vốn cố định là tài sản cố định biểu hiện bằng tiền. Vì tài sản cố định tham gia nhiều lần vào quá trình kinh doanh, sau mỗi chu kỳ kinh doanh vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu, nên giá trị của nó được chuyển dần từng phần vào giá trị sản phẩm. TSCĐ của DNTM phản ánh cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp, phản ánh năng lực kinh doanh hiện có và trình độ tiến bộ khoa học kỹ thuật của doanh nghiệp. Mọi tư liệu lao động và mọi khoản chi phí thực tế có liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mà đồng thời thoả mãn hai điều kiện: Có thời hạn sử dụng từ một năm trở lên và có giá trị từ 5 triệu đồng trở lên thì đều được coi là tài sản cố định. Vốn cố định được biểu hiện dưới hai hình thái: Hình thái hiện vật: Đó là toàn bộ tài sản cố định dùng trong kinh doanh của các doanh nghiệp bao gồm: nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc và thiết bị, công cụ, thiết bị đo lường thí nghiệm, phương tiện vận tải, bốc dỡ hàng hóa. Hình thái tiền tệ: Đó là giá tài sản cố định chưa khấu hao và vốn khấu hao khi chưa được sử dụng để sản xuất tài sản cố định, là bộ phận vốn cố định đã hoàn thành vòng luân chuyển và trở về hình thái tiền tệ ban đầu. Vốn của toàn bộ các loại tài sản cố định khác nhau chính là thành phần của nó. Theo công dụng, TSCĐ của DNTM được chia thành: Nhà làm việc hành chính, nhà kho, nhà cửa hàng, nhà để sửa chữa, để sản xuất năng lượng (máy nổ hoặc máy điện), nhà để xe, phòng thí nghiệm. Các công trình xây dựng và vật kiến trúc để tạo điều kiện để cần thiết cho thực hiện các hoạt động nghiệp vụ trong kinh doanh thương mại như: cầu để bốc dỡ vật tư hàng hóa, đường ô tô đi vào và ra, đường dây tải điện. Các công cụ, máy móc, thiết bị, phương tiện cân đo, bảo quản, chưa đựng dùng trong kinh doanh như các loại cân, các giá để chứa hàng, cần trục, cần cẩu, máy chuyển tải (băng chuyền), phương tiện tính toán, báo động cứu hoả. Các dụng cụ đồ nghề chuyên dùng để đóng gói hàng hóa, tháo mở bao bì, phân loại, chuẩn bị hàng hóa. Các loại phương tiện vận chuyển như ô tô tải, ô tô chuyên dùng, rơ móc, xe chuyển hàng kéo tay, chạy điện. Các loại TSCĐ khác không ở các nhóm kể trên ngư bao bì tài sản, côngtenơ.. Theo mục đích sử dụng, các TSCĐ dùng trong kinh doanh được phân thành các nhóm sau: TSCĐ dùng trong kinh doanh là những TSCĐ đang dùng trong kinh doanh, sản xuất và dịch vụ của doanh nghiệp TSCĐ hành chính sự nghiệp: là những TSCĐ dùng làm việc hành chính, sự nghiệp như nhà làm việc hành chính, nhà tiếp khách, cơ quan của các đoàn thể, nhà của y tế, văn hóa, thể dục thẻ thao. TSCĐ phúc lợi: là những TSCĐ dùng cho nhu cầu phúc lợi công cộng của doan nghiệp như nhà điều dưỡng nghỉ mát, nhà ở của công nhân viên của doanh nghiệp do doanh nghiệp tự xây dựng, các phương tiện vận chuyển của doanh nghiệp đưa đón công nhân đi làm và về nhà. TSCĐ chờ xử lý: là những TSCĐ không cần dùng, chưa cần dùng hoặc hư hỏng đang chờ giải quyết để thanh lý. Trong các DNTM không phải lúc nào, ở doanh nghiệp nào cũng có đủ các thành phần nói trên của TSCĐ. Lúc đầu, TSCĐ thường chỉ có một vài loại như nhà vừa làm việc vừa làm nhà kho hoặc cửa hàng, vừa làm nơi ở cho người độc thân. Trong quá trình phát triển, các doanh nghiệp nhà nước được nhà nước, cấp trên đầu tư thêm. TSCĐ được tăng thêm nhờ xây dựng, cải tạo, mở rộng hoặc mua sắm mới. Sự xuất hiện ngày càng nhiều các loại TSCĐ mới như các máy móc, thiết bị, công cụ cân, đo, đong, xuất, nhập mới làm cho thành phần của TSCĐ ngày càng phong phú. Điều đó chứng tỏ cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp ngày càng hiện đại. TSCĐ giữ nguyên hình thái vật chất của nó trong thời gian dài. TSCĐ chỉ tăng lên khi có xây dựng cơ bản mới hoặc mua sắm. TSCĐ hao mòn dần. Hao mòn có hai loại: hao mòn hữu hình ( hao mòn kinh tế) và hao mòn vô hình. Hao mòn vô hình chủ yếu do tiến bộ khoa học công nghệ mới và năng suất lao động xã hội tăng lên quyết định. Hao mòn hữu hình phụ thuộc vào mức độ sử dụng khẩn trương TSCĐ và các điều kiện khác có ảnh hưởng đến độ bền lâu dài của TSCĐ như: + Hình thức và chất lượng của TSCĐ. + Chế độ quản lý, sử dụng TSCĐ. + Chế độ bảo vệ, bảo dưỡng, sửa chữa thay thế thường xuyên, định kỳ đối với TSCĐ. + Trình độ kỹ thuật, tinh thần trách nhiệm của người sử dụng và sự quan tâm của cấp lãnh đạo. + Các điều kiện tự nhiên và môi trường. Hiện nay, vốn cố định của DNTM chiếm khoảng 1/3 toàn bộ vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Tuỳ theo tính chất, đặc điểm của từng loại vật tư hàng hóa và sự cần thiết đáp ứng nhu cầu khách hàng, các DNTM có tỷ lệ vốn cố định ít nhiều khác nhau, từ 10% đến 50%. Tuy nhiên một số doanh nghiệp TSCĐ còn thiếu, lại quản lý sử dụng không tốt, lãng phí, có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng và hiệu quả của kinh doanh. Cơ cấu TSCĐ của các DNTM thường được tính bằng các loại, số lượng TSCĐ và tỷ trọng của mỗi loại so với toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp. Cơ cấu đó và sự thay đổi của nó là những chỉ tiêu quan trọng nói lên trình độ kỹ thuật và khả năng phát triển hoạt động kinh doanh của ngành lưu thông hàng hóa. Nó phản ánh đặc điểm hoạt động của từng doanh nghiệp và giúp cho việc xác định phương hướng tái sản xuất mở rộng TSCĐ. Giá trị một loại TSCĐ Chỉ tiêu cơ cấu TSCĐ = * 100% Giá trị toàn bộ TSCĐ 5.2. Vốn lưu động. Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động và vốn lưu thông. Vốn lưu động luôn luôn biến đổi hình thái từ tiền sang hàng và từ hàng sang tiền. Vốn lưu động chu chuyển nhanh hơn vốn cố định. Vốn lưu động bao gồm: vốn dự trữ hàng hóa, vốn bằng tiền và các tài sản có khác. Tài sản lưu động của các DNTM gồm vật liệu đóng gói, bao bì, nhiên liệu, dụng cụ và các thứ khác gọi chung là vật tư dùng cho hoạt động mua bán. Nội dung vật chất của vốn lưu thông trong DNTM là hàng hóa để kinh doanh, tiền nhờ ngân hàng thu và vốn bằng tiền. Nếu như vốn lưu động cần thiết đối với doanh nghiệp sản xuất để mua vật tư cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, thì đối với doanh nghiệp thương mại, vốn lưu động cần thiết để dự trữ hàng hóa phục vụ kinh doanh để tổ chức công tác mua bán hàng hóa. Trong DNTM, vốn lưu động là khoản vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất. Đó là đặc điểm khác biệt của doanh nghiệp thương mại đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khác. ở một thời điểm nhất định, vốn của DNTM thường thể hiện ở các hình thái khác nhau như hàng hóa dự trữ, vật tư nội bộ, tiền gửi ngân hàng, tiền mặt tồn quỹ, các khoản phải thu và các khoản phải trả. Cơ cấu của chúng phụ thuộc rất lớn vào phương thức thanh toán. Vốn lưu động của DNTM chu chuyển gồm 2 giai đoạn: - Mua hàng hóa (T-H), tức là biến tiền tệ thành hàng hóa. Bán hàng hóa (H-T’), tức là biến hàng hóa thành tiền tệ. ( T’ =T +DT). Đầu tiên vốn lưu động biểu hiện dưới hình thức tiền tệ và khi kết thúc cũng lại bằng hình thức tiền tệ. Điều đó có nghĩa là: hàng hóa được mua vào không phải để doanh nghiệp sử dụng mà để bán ra. Hàng hóa bán ra được tức là được khách hàng chấp nhận và DNTM nhận được tiền doanh thu bán hàng và dịch vụ. Toàn bộ vòng chu chuyển của vốn lưu động thể hiện bằng công thức chung T-H-T’, trong đó : T’ =T +DT. Sự vận động của vốn lưu động trong hoạt dộng kinh doanh thương mại luôn luôn trái với vận động của hàng hóa. Khi hàng hóa mua về doanh nghiệp thì phải trả tiền, khi xuất hàng ra khỏi doanh nghiệp thì được nhận tiền. Kết quả của quá trình vận động tiền tệ lại phản ánh đúng kết quả của hoạt động kinh doanh: Kinh doanh lãi hay lỗ, mức độ lãi, lỗ. Trong các DNTM có các đơn vị sản xuất phụ thuộc (xí nghiệp, xưởng, tổ, đội sản xuất) thì vốn lưu động của đơn vị sản xuất phụ thuộc gồm có: nguyên vật liệu chính, phụ, nhiên liệu, vốn tiền tệ và tài sản có kết toán. Vốn lưu động của đơn vị sản xuất phụ thuộc phải trải qua ba giai đoạn. Biến tiền tệ thành dự trữ nguyên vật liệu chính, phụ, nhiên liệu, phụ tùng... Biến nguyên nhiên vật liệu chính, phụ thành thành phẩm hàng hóa nhờ kết hợp sức lao động và công cụ lao động (máy móc, thiết bị...). Biến thành phẩm hàng hóa thành tiền tệ. Vốn lưu động phục vụ cho hai giai đoạn trên là vốn sản xuất. Vốn lưu động ở giai đoạn thứ ba là vốn lưu thông. Như vậy vốn lưu động của đơn vị sản xuất phụ thuộc gồm có: Vốn lưu động của đơn vị = Vốn lưu động sản xuất + Vốn lưu thông. sản xuất Xét về mặt kế hoạch hóa, vốn lưu động của DNTM được chia thành vốn lưu động định mức và vốn lưu động không định mức. Vốn lưu động định mức là vốn lưu động tối thiểu cần thiết để hoàn thành kế hoạch lưu chuyển hàng hóa và kế hoạch sản xuất, dịch vụ phụ thuộc. Vốn lưu động định mức gồm có vốn dự trữ hàng hóa và vốn phi hàng hóa. + Vốn dự trữ hàng hóa là số tiền dự trữ hàng hóa ở các kho, trạm, cửa hàng, trị giá hàng hóa trên đường vận chuyển và trị giá hàng hóa thanh toán bằng chứng từ. Nó nhằm bảo đảm lượng hàng hóa bán bình thường cho các nhu cầu sản xuất và tiêu dùng. Vốn dự trữ hàng hóa chiếm 80- 90% vốn lưu động định mức và 50 - 70% trong toàn bộ vốn kinh doanh của DNTM. + Vốn phi hàng hóa là số tiền định mức của vốn bàng tiền, bao gồm vốn bằng tiền và các tài sản khác. Vốn lưu động không định mức là số vốn lưu động thường phát sinh trong quá trình kinh doanh và trong sản xuất, dịch vụ phụ thuộc nhưng không đủ căn cứ để tính toán được. Vốn lưu động không định mức gồm có vốn bằng tiền ( tiền mua hàng và giao cho nhân viên đi mua hàng), tiền gửi vào ngân hàng, tài sản có kết toán (các khoản nợ nhờ ngân hàng thu, các khoản nợ phải đòi khách hàng, tiền ứng trước để mua hàng,…), các phế liệu thu nhặt trong ngoài vốn, tài sản chờ thanh lý. 6. Đặc điểm vốn kinh doanh của DNTM. Do nhiệm vụ của DNTM là thực hiện lưu chuyển hàng hóa và thực hiện các hoạt động dịch vụ, vì vậy cơ cấu và tính chất lưu chuyển của vốn khác hẳn so với các đơn vị sản xuất. Trong cơ cấu vốn của DNTM, vốn lưu động chiếm tỷ lệ lớn hơn so với vốn cố định và lưu chuyển nhanh hơn. Vốn lưu động chiếm 70 - 80% vốn kinh doanh, trong vốn lưu động bộ phận dữ trữ hàng hóa chiếm tỷ lệ cao. Như vây, đối với DNTM nói đến quản lý vốn trước hết phải chú ý tới tổ chức điều khiển bộ phận dự trữ hàng hóa để vừa đảm bảo bán hàng liên tục đều đặn thường xuyên cho khách hàng lại vừa tránh được ứ đọng vốn. Trong thành phần cơ cấu vốn cố định bộ phận tài sản cố định dùng trong kinh doanh chiếm tỷ trọng lớn hơn. Ngày nay các DNTM thường đầu tư vốn cố định vào xây dựng nhà làm việc, cửa hàng ở những đầu mối giao thông để tiện liên hệ với khách hàng và những tài sản cố định như thiết bị văn phòng được chú ý đầu tư nhằm thu hút và phục vụ khách hàng tốt hơn. Tuỳ từng doanh nghiệp tuỳ thuộc phương thức và lĩnh vực kinh doanh mà vốn lưu động của DNTM sẽ trải qua các thời kỳ chu chuyển khác nhau. Ví dụ vốn của DNTM có sản xuất gia công chế biến, khác với đơn vị bán buôn, đơn vị chuyên bán qua kho sẽ khác với đơn vị chỉ bán hàng chuyển thẳng. Trong tình hình hiện nay ở Việt Nam, Các DNTM thường có nguồn vốn của chủ sở hữu nhỏ hơn so với phần vốn vayvaf vốn liên doanh liên kết, tình trạng này bất lợi trong việc giảm chi phí kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. II. Nguồn gốc hình thành vốn kinh doanh. Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, trước tiên doanh nghiệp cần có vốn, vốn đầu tư ban đầu và vốn bổ sung để mở rộng sản xuất kinh doanh. Vốn kinh doanh được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Song căn cứ vào nội dung kinh té có thể chia làm hai nguồn hình thành cơ bản đó là: Nguồn vốn chủ sở hữu. Nguồn vốn vay. 1. Nguồn vốn chủ sở hữu. Đối với một doanh nghiệp, tổng số tài sản lớn hay nhỏ thể hiện quy mô hoạt động là rất quan trọng. Song trong nền kinh tế thị trường, điều quan trọng hơn là khối lượng tài sản do doanh nghiệp đang nắm giữ và sử dụng được hình thành từ các nguồn nào. Nguồn vốn của doanh nghiệp thể hiện trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp đối với từng loại tài sản của doanh nghiệp. Nguồn vốn chủ sỡ hữu biểu hiện quyền sỡ hữu của người chủ về các tài sản hiện có ở doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có thể có một hoặc nhiều chủ sở hữu. Đối với doanh nghiệp nhà nước chủ sở hữu doanh nghiệp là nhà nước. Đối với xí nghiệp liên doanh hay công ty liên doanh thì chủ sở hữu là các nthành viên tham gia góp vốn. Đối với công ty cổ phần hay công ty trách nhiệm hữu hạn thì chủ sở hữu là các cổ đông. Đối với doanh nghiệp tư nhân cá thể thì chủ sỡ hữu là một cá nhân, đó là ông chủ. Vốn chủ sỡ hữu được tạo từ các nguồn: Số tiền đống góp của các nhà đầu tư- người chủ sỡ hữu doanh nghiệp, cụ thể: + Đối với doanh nghiệp nhà nước: do nhà nước ( hay ngân sách nhà nước) cấp phát nên được gọi là vốn ngân sách nhà nước. + Đối với doanh nghiệp tư nhân: nguồn vốn này do chủ đầu tư hay các hội viên liên kết cùng nhau bỏ ra để đầu tư hình thành doanh nghiệp kinh doanh nên được gọi là vốn tự do. + Đối với doanh nghiệp liên doanh: nguồn này được biểu hiện dưới hình thức vốn liên doanh, vốn này được hình thành do sự đóng góp giữa các chủ đầu tư hoặc các doanh nghiệp để hình thành một doanh nghiệp mới. + Đối với công ty cổ phần: được biểu hiện dưới hình thứcvốn cổ phần, vốn này do những người sáng lập công ty cổ phần phát hành cổ phiếu để huy động thông qua việc bán những cổ phiếu đó. Nguồn vốn chủ sỡ hữu còn do tổng số tiền được tạo ra từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, số này gọi là lãi lưu giữ hoặc lãi chưa phân phối. Ngoài ra, vốn chủ sở hữu còn bao gồm chênh lệch đánh giá lại tài sản, quỹ phát triển sản xuất kinh doanh, quỹ dự trữ, chênh lệch tỷ giá, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, vốn đầu tư xây dựng cơ bản, kinh phí sự nghiệp. 2. Nguồn vốn vay. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hầu như không một doanh nghiệp nào chỉ hoạt động kinh doanh bằng nguồn vốn tự có mà phải hoạt động bằng nhiều nghuồn vốn, trong đó nguồn vốn vay chiếm tỷ lệ đáng kể. Vốn vay có ý nghĩa quan trọng không chỉ ở khả năng tài trợ các nhu cầu bổ sung cho việc mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh của công ty mà còn tạo điều kiện linh hoạt trong việc thu hẹp quy mô kinh doanh bằng việc hoàn trả các khoản nợ đến hạn và giảm số lượng vốn vay. Nguồn vốn vay được thực hiện dưới các phương thức chủ yếu sau: Tín dụng ngân hàng: là các khoản mà doanh nghiệp vay của các ngân hàng thương mại hoặc của các tổ chức tín dụng khác. Tín dụng ngân hàng có nhiều dạng, song có các dạng quan trọng nhất là: + Tín dụng ứng trước: là một thể thức cho vay được thực hiện trên cơ sở hợp đồng tín dụng, trong đó doanh nghiệp (khách hàng) được sử dụng một mức cho vay trong một thời hạn nhất định. + Thấu chi (tín dụng hạn mức) là hình thức cấp tín dụng ứng trước đặc biệt được thực hiện trên cơ sở hợp đồng tín dụng, trong đó doanh nghiệp được phép sử dụng dư nợ trong một giới hạn và thời hạn nhất định trên tài khoản vãng lai. Thấu chi chỉ được áp dụng đối với doanh nghiệp (khách hàng) có uy tín và có khả năng tài chính lành mạnh. + Chiết khấu thương phiếu: Là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, trong đó doanh nghiệp chuyển nhượng quyền sở hữu thương phiếu chưa đáo hạn cho ngân hàng để nhận một số tiền bằng mệnh giá của thương phiếu trừ đi lãi chiết khấu và hoa hồng phí. + Tín dụng thuê mua: Là hình thức tín dụng trung, dài hạn được thực hiện thông qua việc cho thuê máy móc- thiết bị, các động sản và bất động sản khác. Phát hành trái phiếu công ty: Chỉ có các doanh nghiệp thương mại nhà nước, các công ty cổ phần có phát hành cổ phiếu mới có quyền vay vốn bằng cách phát hành trái phiếu. Trái phiếu thực chất là một tờ phiếu mà công ty phát hành phát hành để vay vốn và là vốn dài hạn. Tín dụng thương mại: Là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp đựoc thể hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa. Tín dụng thương mại xuất hiện trên cơ sở sự cách biệt giữa sản xuất và tiêu thụ sản phẩm do đặc điểm thời vụ trong sản xuất và mua bán sản phẩm, do vậy xảy ra hiện tượng một số doanh nghiệp có hàng hóa muốn bán trong lúa có một số doanh nghiệp khác muốn mua nhưng không có tiền. Trong điều kiện này, doanh nghiệp với tư cách là người bán muốn thực hịên được sản phẩm của mình, họ có thể bán chịu hàng hóa cho người mua. Vốn đầu tư nước ngoài: Bao gồm vốn đầu tư gián tiếp và vốn đầu tư trực tiếp Vốn đầu tư gián tiếp là vốn của các chính phủ, tổ chức quốc tế và tổ chức phi chính phủ thực hiện dưói dạng viện trợ, vốn cho vay ưu đãi với thời gian dài, lãi suất thấp của các tổ chức tài chính quốc tế, vốn vay tín dụng từ các ngân hàng thương mại nước ngoài, vốn do phát hành trái phiếu, cổ phiếu ra nước ngoài. Vốn này thường có quy mô lớn nên có tác động nhanh và mạnh đối với việc giải quyết các nhu cầu phát triển của nước nhà nhưng cũng gắn với các điều kiện chính trị và tình trạng vay nợ chồng chất nếu chúng ta không biết sử dụng chúng có hiệu quả. Vốn đầu tư trực tiếp là vốn của các doanh nghiệp hoặc các cá nhân người nước ngoài đầu tư vào nước ta. Những doanh nghiệp và cá nhân này trực tiếp tham gia quản lý và thu hồi vốn đó. Vốn đầu tư trực tiếp thường có quy mô nhỏ hơn nhưng nó mang theo toàn bộ “năng lực kinh doanh” nên có thể thúc đẩy các ngành nghề mới phát triển, đưa công nghệ mới và kinh nghiệm quản lý doanh nghiệp hiện đại vào nước ta góp phần đào tạo các nhà quản lý và kinh doanh phù hợp với điều kiện mới của kinh tế thị trường. Iii. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Một doanh nghiệp được xem là có hiệu quả khi sử dụng các yếu tố cơ bản của quá trình kinh doanh có hiệu quả, đặc biệt là sử dụng vốn kinh doanh. Để đánh giá có khoa học hiệu quả kinh doanh của DNTM, cần phải xây dựng hệ thống chỉ tiêu phù hợp gồm có chi tiêu tổng quát và chỉ tiêu chi tiết cụ thể để tính toán. Các chỉ tiêu này phải phù hợp, phải thống nhất với công thức đánh giá hiệu quả chung: Kết quả thu được Hiệu quả kinh doanh = Chi phí bỏ ra. Kết quả thu dược trong kinh doanh thương mại đo bằng các chỉ tiêu như doanh thu và lợi nhuận thức hiện, còn chi phí bỏ ra như lao động, vốn lưu động, vốn cố định. 1. Các chỉ tiêu phân tích tình hình sử dụng và hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh chung. Hiệu suất vốn kinh doanh (VKD). Doanh thu thuần trong kỳ Hiệu suất VKD = VKD Chỉ tiêu này cho biết 1 đồng vốn đem lại bao nhiêu đồng doanh thu. Hàm lượng VKD. VKD Hàm lượng VKD = Doanh thu thuần trong kỳ Để có một đồng doanh thu phải bỏ ra bao nhiêu đồng vốn. c. Vòng quay toàn bộ vốn kinh doanh. Vòng quay Doanh thu thuần toàn bộ = VKD Tổng số vốn Phản ánh 1 đồng vốn được doanh nghiệp huy động vào sản xuất kinh doanh tạo ra được mấy đồng doanh thu, là chỉ tiêu đo lường hiệu quả sử dụng vốn. d. Tỷ suất lợi nhuận Vốn kinh doanh. Lợi nhuận (trước, sau thuế) Tỷ suất lợi nhuận VKD = Vốn bình quân sử dụng trong kỳ Phản ánh mỗi 1 đồng vốn kinh doanh tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuân (trước và sau thuế). Muốn biết tình hình sử dụng vốn kinh doanh thế nào cần phân tích cụ thể đối với từng loại vốn: Vốn cố định và vốn lưu động. 2. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn cố định. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh việc kiểm tra và đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định là nội dung cần thiết và quan trong của hoạt động tài chính doanh nghiệp. Thông qua đó doanh nghiệp có các căn cứ xác đáng để đưa ra các quyết dịnh nhằm điều chỉnh lại quy mô, cơ cấu vốn đầu tư, và đưa ra chính sách tài chính phù hợp, khai thác có hiệu quả các tài sản hiện có nhờ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Thông thường có các chỉ tiêu đánh giá sau: a. Hiệu quả sử dụng TSCĐ. Tổng doanh thu thuần Hiệu quả sử dụng TSCĐ = Nguyên giá bình quân của TSCĐ Chỉ tiêu này cho biết 1 đồng nguyên giá bình quân TSCĐ đem lại bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Chỉ tiêu này biểu hiện mức tăng kết quả kinh doanh của mỗi đơn vị giá trị TSCĐ nhưng chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế tổng hợp nhất của vốn cố định thường được sử dụng là mức doanh lợi. b. Mức doanh lợi của vốn cố định. Lợi nhuận hoặc lãi thực hiện Mức doanh lợi của VCĐ = VCĐ bình quân Chỉ tiêu này phản ánh số tièn lãi hoặc số thu nhập thuần tuý trên một đồng tiền vốn cố định hoặc số vốn cố định cần thiét để tạo ra 1 đồng lợi nhuận hoặc lãi thực hiện. Chỉ tiêu này có thể so sánh với kỳ trước hoặc kế hoạch để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định. c. Sức hao phí TSCĐ. Nguyên giá bình quân TSCĐ Sức hao phí TSCĐ = Doanh thu thuần hay lợi nhuận thuần Chỉ tiêu này cho biết cứ 1 đồng doanh thu thuần hay lợi nhuận thuần có bao nhiêu đồng nguyên giá TSCĐ. 3. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Mức doanh lợi của vốn lưu động. Lợi nhuận thuần hay lãi gộp Mức doanh lợi của VLĐ = VLĐ bình quân Mức doanh lợi của vốn lưu động biểu thị mỗi đơn vị vốn lưu động bỏ vào kinh doanh mang lại bao nhiêu lợi nhuận. Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động. VLĐ bình quân Hệ số đảm nhiệm VLĐ = Tổng doanh thu thuần Chỉ tiêu này cho biết để có một đồng luân chuyển cần bao nhiêu đồng vốn lưu động. Chỉ tiêu này càng nhỏ càng chứng tỏ trình độ sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp cao. Số vòng quay của vốn lưu động. Tổng doanh thu thuần Số vòng quay của VLĐ = VLĐ bình quân Chỉ số này phản ánh tổng hợp tình hình sử dụng vốn và được hiểu là 1 đồng vốn lưu động tạo ra mấy đồng doanh thu trong 1 kỳ kinh doanh, đồng thời phản ánh số vòng quay của tài sản lưu động trong 1chu kỳ kinh doanh. Nếu số vòng quay càng nhiều càng chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn cao và ngược lại. d. Thời gian của một vòng luân chuyển (T). Thời gian theo lịch trong kỳ T = Số vòng quay của VLĐ trong kỳ Thời gian của một vòng luân chuyển thể hiện số ngày cần thiết để cho vốn lưu động quay được một vòng. Thời gian một vòng quay càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển vốn lưu động càng lớn e. Số lần chu chuyển vốn lưu động trong một thời kỳ (gọi là vòng quay vốn). Công thức được tính: M K = Obq Trong đó: K- Vòng quay vốn M-Tổng mức luân chuyển vốn lưu động trng thời kỳ (doanh số bán) Obq- Số dư bình quân vốn lưu động. f. Số vốn tiết kiệm được. Kkh - Kbc B = * Obqkh Kbc Trong đó: B: số vốn lưu động tiết kiệm được. Kkh: số vòng quay kỳ kế hoạch. Kbc: số vòng quay kỳ báo cáo. Obqkh: số dư bình quân số vốn lưu động kỳ kế hoạch. Hoặc: ( Vbc - Vkh) B = *Mkh T Trong đó: Vbc: Số vòng quay tính bằng ngày trong kỳ báo cáo. Vkh: số vòng quay tính bằng ngày trong kỳ kế hoạch. Mkh: tổng mức lưu chuyển vốn lưu động kỳ kế hoạch. T: số ngày trong kỳ. Chỉ tiêu này cho biết số vốn lưu động tiết kiệm được trong kỳ, nếu càng cao thì số vốn tiết kiệm được càng nhiều, kinh doanh càng có hiệu quả và ngược lại. g. Hệ số bảo toàn giá trị tài sản lưu động. Để đánh giá được tổng quát tính hiệu quả của việc sử dụng tài sản lưu động, người ta còn dùng thêm chỉ tiêu nữa là hệ số bảo toàn giá trị tài sản lưu động. Hệ số bảo VLĐ phải Hệ số điều Vốn lưu động toàn vốn = bảo toàn x chỉnh giá trị ± biến đổi lưu động ở đầu kỳ TSLĐ trong kỳ + Hệ số này = 1 thì doanh nghiệp bảo toàn được giá trị TSLĐ. + Hệ số này > 1 thì doanh nghiệp bảo toàn được giá trị TSLĐ đồng thời còn tăng được giá trị TSLĐ. + Hệ số này < 1 thì doanh nghiệp không bảo toàn được giá trị TSLĐ. IV. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Khi xét đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp thì một điều không thể bỏ qua đó là xét đến các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp cả các nhân tố chủ quan và khách quan._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28735.doc