Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư xây dựng cơ bản tại tỉnh Hưng Yên trong thời gian tới

lời mở đầu Đầu tư phát triển là một hoạt động kinh tế có vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Nhiều học giả đã nhận định đầu tư là chìa khoá của sự tăng trưởng kinh tế. Đầu tư tác động đến mọi mặt của nền kinh tế. Để phát triển kinh tế không thể thiếu đầu tư. Đầu tư xây dựng cơ bản là một bộ phận của đầu tư phát triển, trong việc tạo ra các tài sản cố định, nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh dịch vụ cho nền kinh tế. Hưng Yên là một tỉnh mới được tái lập ngày (1

doc78 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1350 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư xây dựng cơ bản tại tỉnh Hưng Yên trong thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
/1/1997) được sự quan tâm của Nhà nước, sự lỗ lực và cán bộ và nhân dân trong tỉnh trong việc tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi thu hút nguồn vốn đầu tư từ mọi thành phần kinh tế. Đặc biệt là hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản. Thời gian qua tỉnh Hưng Yên đã đạt được một số thành tựu nhất định trong quá trình phát triển kinh tế xã hội nhưng bên cạnh đó lĩnh vực này cũng bộc lộ những mặt hạn chế. Do vậy để nâng cao hiệu quả đầu tư nói chung và đầu tư xây dựng cơ bản nói riêng trong những năm tới, em xin chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư xây dựng cơ bản tại tỉnh Hưng Yên trong thời gian tới" Đề tài này ngoài phần mở đầu và kết luận còn nội dung chia làm ba phần. Chương I: Tổng quan về đầu tư xây dựng cơ bản . Chương II: Thực trạng đầu tư xây dựng cơ bản Hưng Yên giai đoạn 1997-2000. Chương III: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư xây dựng cơ bản trong những năm tới. Do trình độ và thời gian có hạn đề tài này không tránh khỏi những thiếu sót, em mong nhận được sự góp ý của thầy cô giáo và các bạn. Em xin chân thành cảm ơn thầy cô giáo, đặc biệt là cô Trần Mai Hương, cùng các bác, các cô, các chú...tại cơ quan nơi thực tập đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. Chương I tổng quan về đầu tư xây dựng cơ bản Khái niệm về đầu tư xây dựng cơ bản . Khái niệm. Đầu tư là một hoạt động kinh tế, là một bộ phận của hoạt động sản xuất kinh doanh của các cơ sở. Đầu tư phát triển là hình thức đầu tư có ảnh hưởng trực tiếp đến việc tăng tiềm lực của nền kinh tế nói chung, tiềm lực sản xuất kinh doanh của từng cơ sản xuất kinh doanh ở nói riêng, là điều kiện chủ yếu để tạo công ăn việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. @ Đầu tư xây dựng cơ bản trong nền kinh tế dân là một bộ phận của đầu tư phát triển. Đây là quá trình bỏ vốn để tiến hành các hoat động xây dựng cơ bản nhằm tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng ra các tài sản cố định trong nền kinh tế. Do vậy đầu tư xây dựng cơ bản là tiền đề quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của nền kinh tế nói chung và của các cơ sở sản xuất kinh doanh nói riêng. Đầu tư xây dựng cơ bản là hoạt động chủ yếu tạo ra tài sản cố định đưa vào hoạt động trong lĩnh vực kinh tế xã hội, nhằm thu được lợi ích dưới nhiều hình thức khác nhau. Đầu tư xây dựng cơ bản trong nền kinh tế quốc dân được thông qua nhiều hình thức như xây dựng mới, cải tạo, mở rộng, hiện đại hoá hay khôi phục tài sản cố định cho nền kinh tế. Xây dựng cơ bản là hoạt động cụ thể tạo ra các tài sản cố định (khảo sát, thiết kế, xây dựng, lắp đặt máy móc thiết bị) kết quả của các hoạt động xây dựng cơ bản là các tài sản cố định, với năng lực sản xuất phục vụ nhất định. Các hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực xây dựng cơ bản : - Khảo sát thiết kế: Đây là hoạt động có chức năng mô tả hình dáng kiến trúc, và nội dung kỹ thuật, nội dung kinh tế của công trình. Đây là khâu đầu tiên trong xây dựng cơ bản. - Xây lắp là hoạt động trực tiếp tạo ra các sản phẩm xây dựng cơ bản bao gồm; nhà cửa, vật kiến trúc, công tác lắp đặt máy móc thiết bị, công tác sủa chữa lớn nhà cửa vật kiến trúc, công tác thăm dò, khảo sát phát sinh trong quá trình thi công. - Mua sắm máy móc thiết bị: Đây là công tác mua sắm máy móc, dụng cụ cho sản xuất nghiên cứu hoặc thí nghiệm. Đặc điểm của đầu tư xây dựng cơ bản . Hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản là một bộ phận của đầu tư phát triển do vậy nó cũng mang những đặc điểm của đầu tư phát triển. @ Thứ nhất: Hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản đòi hỏi một khối lượng vốn, lao động, vật tư lớn. Nguồn vốn này nằm khê đọng trong suốt quá trình đầu tư. Vì vậy trong quá trình đầu tư chúng ta phải có kế hoạch huy động và sử dụng nguồn vốn một cách hợp lý đồng thời có kế hoạch phân bổ nguồn lao động, vật tư thiết bị phù hợp đảm bảo cho công trình hoàn thành trong thời gian ngắn, tránh lãng phí nguồn lực. @ Thứ hai: Thời gian tiến hành một công cuộc đầu tư, cho đến khi thành quả của nó phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều năm tháng với nhiều biến động xảy ra. Cho nên phải có kế hoạch quản lý tốt các nguồn lực đầu tư và đưa ra được nhữnh giải pháp cần thiết khắc phục được những bất chắc xảy ra. @ Thứ ba: Các thành quả của hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản có giá trị sử dụng lâu dài, có khi hàng trăm, hàng nghìn năm thậm chí tồn tại vĩnh viễn như các công trình nổi tiếng thế giới (Kim tự tháp cổ Ai cập, nhà thờ La mã ở Roma, Vạn Lý Trường Thành ở Trung Quốc, tháp Ăngcovát ở Cămpuchia...). @ Thứ tư: Các thành quả của hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản là các công trình xây dựng sẽ hoạt động ở ngay nơi mà nó được tạo dựng, cho nên các điều kiện về địa lý, địa hình có ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu tư, cũng như việc phát huy tác dụng của kết quả đầu tư. Vì vậy cần được bố trí hợp lý địa điểm xây dựng, đảm bảo các yêu cầu về an ninh quốc phòng, phải phù hợp với kế hoạch, quy hoạch, bố trí tại nơi có điều kiện thuận lợi để khai thác lợi thế so sánh của vùng, quốc gia, đồng thời phải đảm bảo được sự phát triển cân đối của vùng lãnh thổ. @ Thứ năm: hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản rất phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. Diễn ra không những chỉ trong phạm vi một địa phương mà còn nhiều địa phương với nhau. Vì vậy khi tiến hành hoạt động này phải có sự liên kết chặt chẽ giữa các ngành, các cấp trong quản lý quá trình đầu tư, bên cạnh đó phải quy định rõ phạm vi, trách nhiệm của các chủ thể tham gia quá trình đầu tư, tuy nhiên vẫn phải đảm bảo được tính tập trung, dân chủ trong hoạt đông đầu tư. Vai trò của đầu tư xây dựng cơ bản trong nền kinh tế quốc dân . Đầu tư xây dựng cơ bản có vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế của mọi quốc gia trên thế giới. Nó tác động đến nhiều lĩnh vực của nền kinh tế như khoa học kỹ thuật, chính trị xã hội, an ninh quốc phòng... Những tác động chủ yếu của đầu tư xây dựng cơ bản trên góc độ sau: Trên góc độ vĩ mô. Đầu tư xây dựng cơ bản tác động đến tổng cung và tổng cầu. - Về mặt tổng cầu: Tổng cầu là tổng khối lượng hàng hoá và dịch vụ mà các tác nhân của nền kinh tế sẽ sử dụng tương ứng với một mức giá cả đã cho trong một thời kỳ nhất định. Hàm tổng cầu được mô tả dưới dạng sau: AD = C+I+G+X-IM Trong đó: AD: là tổng cầu của nền kinh tế C: là tiêu dùng của dân cư G: là tiêu dùng của chính phủ X, IM: là giá trị xuất nhập khẩu I: là đầu tư Đầu tư xây dựng cơ bản là một bộ phận của đầu tư phát triển do vậy sự tăng giảm nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản đồng thời cũng kéo theo sự ảnh hưởng tới tổng mức đầu tư. Trong hàm tổng cầu, đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn, theo số liệu của ngân hàng thế giới (WB) đầu tư thường chiếm tỷ trọng 24% đến 28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả nước trên thế giới. Đối với tổng cầu sự tác động của đầu tư là ngắn hạn. Khi tổng cung chưa kịp thời thay đổi. Khi đầu tư tăng sẽ làm đường tổng cầu dịch sang phải AD sang AD’ làm cho giá cả tăng lên từ P0 đến P1, nếu giá cả tăng quá cao sẽ gây ra tình trạng lạm phát, trong trường hợp lạm phát quá cao làm cho nền kinh tế lâm vào tình trạng trì trệ. Về mặt tổng cung: Tổng cung là toàn bộ khối lượng sản phẩm quốc dân mà các đơn vị doanh nghiệp sẽ sản xuất và bán trong một thời kỳ nhất định tương ứng với một mức giá nhất định. Hàm tổng cung được mô tả dưới dạng sau đây: AS = f(R, L, K, T). Trong đó: R là yếu tố đất đai L: Là yếu tố lao động K: Là vốn đầu tư T: Khoa học kỹ thuật. Xét về mặt dài hạn khi vốn đầu tư được chuyển hoá thành hiện vật (K ) tạo ra tài sản cố định cho nền kinh tế, tăng thêm năng lực sản xuất có nghĩa là tổng cung được tăng lên. P1 P0 P2 Q0 Q1 Q2 AD’ AS AD E1 E0 AS’ E2 Trên hình vẽ cho thấy khi (K) tăng lên sẽ làm cho AS dịch chuyển sang phải AS’, giá cả giảm xuống từ P1 đến P2. Giá cả giảm cho phép tiêu dùng tăng, tăng tiêu dùng lại kích thích sản xuất phát triển. Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản dể tăng tích luỹ, phát triển kinh tế xã hội, tăng thu nhập cho người lao động nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. Đầu tư ảnh hưởng đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế . Đầu tư tác động đến sự mất cân đối của ngành, lãnh thổ, thành phần kinh tế. Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới cho thấy con đường tất yếu để phát triển nhanh tốc độ mong muốn từ 9%-10%, thì phải tăng cường đầu tư tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch và dịch vụ. Đối với các ngành nông, lâm, ngư nghiệp do những hạn chế về đất đai và khả năng sinh học, để đạt được tốc độ tăng trưởng từ 5%-6% là một điều khó khăn. Như vậy chính sách đầu tư ảnh hưởng đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đến sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế . Do vậy các ngành, các địa phương trong nền kinh tế cần phải lập kế hoạch đầu tư dài hạn để phát triển ngành, vùng đảm bảo sự phát triển cân đối tổng thể, đồng thời có kế hoạch ngắn và trung hạn nhằm phát triển từng bước và điều chỉnh sự phù hợp với mục tiêu đặt ra. Đầu tư xây dựng cơ bản tác động đế sự tăng trưởng và phát triển kinh tế . Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy muốn giữ tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt được từ 15-20% so với GDP tuỳ thuộc vào hệ số ICOR của mỗi nước. ICOR = DK DGDP Nếu ICOR không đổi thì mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư. ICOR phản ánh hiệu quả đầu tư. Chỉ tiêu này phụ thuộc vào nhiều nhân tố như cơ cấu kinh tế, các chính sách kinh tế xã hội. ở các nước phát triển, ICOR thường lớn (5-7) do thừa vốn, thiếu lao động, do sử dụng công nghệ có giá trị cao, còn ở các nước chậm phát triển ICOR thấp từ 2-3 do thiếu vốn, thừa lao động để thay thế cho vốn, sử dụng công nghệ kém hiện đại giá rẻ. Đầu tư xây dựng cơ bản tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế . Tác động trực tiếp nàyđã làm cho tổng tài sản của nền kinh tế quốc dân không ngừng được gia tăng trong nhiều lĩnh vực như công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, thuỷ lợi, các công trình công cộng khác, nhờ vậy mà năng lực sản xuất của các đơn vị kinh tế không ngừng được nâng cao. Sự tác động này có tính dây chuyền của những hoạt động kinh tế nhờ đầu tư xây dựng cơ bản. Chẳng hạn như chúng ta đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng giao thông điện nước của một khu công nghiệp nào đó, tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế sẽ đầu tư mạnh hơn vì thế sẽ thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế nhanh hơn. Đầu tư xây dựng cơ bản tác động đến sự phát triển khoa học công nghệ của đất nước. Có hai con đường để phát triển khoa học công nghệ, đó là tự nghiên cứu phát minh ra công nghệ, hoặc bằng việc chuyển giao công nghệ. Muốn làm được điều này chúng ta phải có một khối lượng vốn đầu tư mới có thể phát triển khoa học công nhệ. Với xu hướng quốc tế hoá đời sống như hiện nay, chúng ta nên tranh thủ hợp tác phát triển khoa học công nghệ với nước ngoài để tăng tiềm lực khoa học công nghệ của đất nước thông qua nhiều hình thức như hợp tác nghiên cứu, khuyến khích đầu tư chuyển giao công nghệ. Đồng thời tăng cường khả năng sáng tạo trong việc cải thiện công nghệ hiện có phù hợp với điều kiện của Việt nam. Tác động đến sự ổn đinh kinh tế tạo công ăn việc làm cho người lao động. Sự tác động không động thời về mặt thời gian của đầu tư do ảnh hưởng của tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế, làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư dù là tăng hay giảm cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế. Thí dụ như khi đầu tư tăng làm cho cầu các yếu tố liên quan tăng, tăng sản xuất của các ngành, sẽ thu hút thêm lao động nâng cao đời sống. Mặt khác đầu tư tăng, cầu của các yếu tố đầu vào tăng, khi tăng đến một chừng mực nhất định sẽ gây ra tình trạng lạm phát, nếu lạm phát mà lớn sẽ gây ra tình trạng sản xuất trì trệ, thu nhập của người lao động thấp đi, thâm hụt ngân sách tăng, kinh tế phát triển chậm lại. Do vậy khi điều hành nền kinh tế, Nhà nước phải đưa ra được những chính sách để khắc phục những nhược điểm trên. Đầu tư xây dựng cơ bản có tác động rất lớn đến việc tạo công ăn việc làm, nâng cao trình độ đội ngũ lao động. Như chung ta đã biết trong khâu thực hiện đầu tư thì số lao động phục vụ cần rất nhiều, đối với những dự án sản xuất kinh doanh thì sau khi đầu tư dự án đưa vào vận hành phải cần không ít những công nhân, cán bộ cho vận hành, khi đó tay nghề của người lao động được nâng cao, đồng thời các cán bộ học hỏi được những kinh nghiệm trong quản lý đặc biệt khi có các dự án nước ngoài. Trên góc độ vi mô. Đầu tư xây dựng cơ bản là điều kiện quyết định sự tồn tại và phát triển của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Để đạt được mục tiêu phát triển sản xuất kinh doanh của mình thì các Doanh nghiệp cần tạo dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật, xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng mua sắm, lắp đặt máy móc thiết bị trên nền bệ và thực hiện chi phí thường xuyên khác gắn liền với sự hoạt động của cơ sở. Đối với các cơ sở xây dựng mới, còn đối với đơn vị có cơ sở vật chất kỹ thuật lạc hậu, hư hỏng, để duy trì được hoạt động bình thường thì cần phải cải tạo sửa chữa, thay mới cho thích ứng với sự phát triển khoa học kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội. Hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản có tác động làm tăng cường khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Trong cơ chế thị trường quy luật cung cầu, quy luật giá trị,... Đây là những quy luật thống trị nền kinh tế. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh thì việc tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, mẫu mã đẹp để tăng khả năng cạnh tranh với các đơn vị kinh doanh khác thì chủ thể kinh tế phải có chiến lược đầu tư thích đáng vào việc hiện đại hoá công nghệ, máy móc thiết bị và nâng cao tay nghề của người lao động. Đây cũng là điều kiện để chuyên môn hoá và đa dạng hoá sản phẩm. Đầu tư xây dựng cơ bản tác động đến làm nâng cao năng lực quản lý của các cơ sở. Với cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trên thế giới diễn ra mạnh mẽ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là sự phát triển mạnh mẽ của ngành công nghệ điện tử viễn thông, đã tạo ra các xu thế trong mọi quan hệ từ văn phòng, gia đình đến các xí nghiệp... Các ngành sản xuất chuyển theo hướng thâm dụng thông tin hơn là thâm dụng năng lượng và vật liệu. Việc điều hành sản xuất trong nhà máy xí nghiệp có sự thay đổi nhiều, các bộ phận điều hành sản xuất luôn làm việc bên máy vi tính điện tử. Yêu cầu đặt ra cho bất kỳ cơ sở nào cũng phải quan tâm đầu tư thích đáng việc nâng cao năng lực quản lý của mình. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản : Khái niệm. Trong nền kinh tế thị trường, việc tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các tài sản cố định, là điều kiện quyết định đến sự tồn tại của mọi chủ thể kinh tế. Để thực hiện được điều này các tác nhân trong nền kinh tế phải dự trữ tích luỹ các nguồn lực. Khi các nguồn lực này được sử dụng vào quá trình sản xuất để tái sản xuất ra các tài sản cố định của nền kinh tế thì nó trở thành vốn đầu tư. Vậy vốn đầu tư là gì? Đó chính là tiền tích luỹ của xã hội của các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ là vốn huy động của dân và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo tiềm lực mới cho nền sản xuất xã hội. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản là toàn bộ những chi phí để đạt được mục đích đầu tư, bao gồm chi phí cho việc khảo sát thiết kế và xây dựng, mua sắm, lắp đặt máy móc thiết bị, và các chi phí khác được ghi trong tổng dự toán. Nguồn hình thành vốn đầu tư xây dựng cơ bản . Vốn đầu tư xây dựng cơ bản được hình thành từ các nguồn sau: @ Vốn đầu tư được hình thành từ các nguồn trong nước. Đây là nguồn vốn có vai trò quyết định tới sự phát triển kinh tế của đất nước. Nguồn này chiếm tỉ trọng lớn nó bao gồm từ các nguồn sau. - Vốn ngân sách Nhà nước bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, được hình thành từ sự tích luỹ của nền kinh tế, vốn khấu hao cơ bản và một số nguồn khác dành cho đầu tư xây dựng cơ bản . - Vốn tín dụng đầu tư (do ngân hàng đầu tư phát triển và quỹ hỗ trợ phát triển quản lý bao gồm vốn của nhà nước chuyển sang, vốn huy động từ các đơn vị kinh tế và các tầng lớp dân cư trong nước dưới các hình thức, vốn vay dài hạn của các tổ chức tài chính tín dụng quốc tế và người Việt nam ở nước ngoài. - Vốn của các đơn vị sản xuất kinh doanh, dịch vụ thuộc các thành phần kinh tế . @ Vốn nước ngoài: Nguồn này có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình đầu tư xây dựng cơ bản và sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Nguồn này bao gồm: -Vốn viện trợ của các tổ chức quốc tế như WB, ADB các tổ chức chính phủ như JBIC(OECF), các tổ chức phi chính phủ. Đây là nguồn (ODA). - Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, thông qua hình thức 100% vốn nước ngoài, liên doanh, hợp đồng hợp tác kinh doanh,... Nội dung của vốn đầu tư xây dựng cơ bản . Nội dung của vốn đầu tư xây dựng cơ bản bao gồm các khoản chi phí gắn liền với hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản, nội dung này bao gồm: @ Vốn cho xây dựng và lắp đặt: Bao gồm: - Vốn cho hoạt động chuẩn bị xây dựng và chuẩn bị mặt bằng. - Những chi phí xây dựng công trình, hạng mục công trình, nhà xưởng, văn phòng làm việc, nhà kho, bến bãi. - Chi phí cho công tác lắp đặt máy móc, trang thiết bị vào công trình và hạng mục công trình. - Chi phí để hoàn thiện công trình. @ Vốn mua sắm máy móc thiết bị: Đó là toàn bộ các chi phí cho công tác mua sắm và vận chuyển bốc dỡ máy móc thiết bị được lắp vào công trình. Vốn mua sắm máy móc thiết bị được tính bao gồm giá trị máy móc thiết bị, chi phí vận chuyển bảo quản bốc dỡ, gia công, kiểm tra trước khi giao lắp những công cụ dụng cụ. @ Vốn kiến thiết cơ bản khác bao gồm: - Chi phí kiến thiết cơ bản được tính vào giá trị công trình như chi phí cho tư vấn đầu tư, đền bù, chi phí cho quản lý dự án, bảo hiểm, dự phòng, thẩm định... - Các chi phí kiến thiết tính vào tài sản lưu động, bao gồm chi phí cho mua sắm nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ không đủ tiêu chuẩn là tài sản cố định hoặc chi phí cho đào tạo. - Những chi phí kiến thiết cơ bản khác được Nhà nước cho phép không tính vào giá trị công trình (do ảnh hưởng của thiên tai, những nguyên nhân bất khả kháng). Phân loại vốn đầu tư xây dựng cơ bản . Tuỳ theo từng mục đích nghiên cứu mà người ta phân loại vốn đầu tư xây dựng cơ bản thành các tiêu thức khác nhau. Nhưng nhìn chung các cách phân loại này đều phục vụ cho công tác quản lý tốt hơn đối với hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản. Ta có thể xem xét một số cách phân loại sau đây: @ Theo nguồn vốn: Gồm vốn ngân sách Nhà nước, vốn tín dụng đầu tư, vốn của các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ; vốn vay nước ngoài, vốn hợp tác liên doanh với nước ngoài, vốn của dân. Theo cách này chúng ta thấy được mức độ đã huy động của từng nguồn vốn, vai trò của từng nguồn để từ đó đưa ra các giải pháp huy động và sử dụng nguồn vốn cho đầu tư xây dựng cơ bản có hiệu quả hơn. @ Theo hình thức đầu tư: gồm vốn đầu tư xây dựng mới, vốn đầu tư khôi phục, vốn đầu tư mở rộng đổi mới trang thiết bị. theo cách này cho ta thấy cần phải có kế hoạch bố trí nguồn vốn cho đầu tư xây dựng cơ bản như thế nào cho phù hợp với điều kiện thực tế và tương lai phát triển của các ngành của các cơ sở. @ Theo nội dung kinh tế : - Vốn cho xây dựng, lắp đặt. - Vốn cho mua sắm máy móc thiết bị. - Vốn kiến thiết cơ bản khác. Như vậy hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản có vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của một quốc gia nói chung và của các cơ sở sản xuất kinh doanh nói riêng. Để phân tích cụ thể vai trò hoạt động này chúng ta phải sử dụng các chỉ tiêu phản ánh kết quả và hiệu quả của hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản Các chỉ tiêu phản ánh kết quả và hiệu quả của hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản . Chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản. Kết quả hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản được thể hiện ở khối lượng vốn đầu tư thực hiện, ở các tài sản cố định được huy động hoặc năng lực sản xuất kinh doanh, dịch vụ tăng thêm. Chỉ tiêu khối lượng vốn đầu tư thực hiện. Đó là tổng số tiền đã chi để tiến hành hoạt động của các công cuộc đầu tư bao gồm : Chi phí cho công tác chuẩn bị đầu tư, xây dựng nhà cửa cấu trúc hạ tầng, mua sắm thiết bị máy móc để tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và chi phí khác theo quy định của thiết kế dư toán và được ghi trong dự án đầu tư được duyệt. Phương pháp tính khối lượng vốn đầu tư thực hiện. @ Đối với công tác đầu tư quy mô nhỏ, thời gian thực hiện đầu tư ngắn thì số vốn đầu tư được tính vào khối lượng vốn đầu tư thực hiện khi toàn bộ công việc của quá trình thực hiện đầu tư kết thúc. @ Đối với công cuộc đầu tư quy mô lớn thời gian thực hiện đầu tư kéo dài thì vốn đầu tư được tính cho từng giai đoạn, từng hoạt động của một công cuộc đầu tư đã hoàn thành. @ Đối với công cuộc đầu tư do ngân sách tài trợ để tính số vốn đã chi để được tính vào khối lượng vốn đầu tư thực hiện thì các kết quả của quá trình thực hiện đầu tư phải đạt tiêu chuẩn và tính theo phương pháp sau đây. - Vốn cho công tác xây dựng: Để tính chỉ tiêu này người ta phải căn cứ vào bảng đơn giá dự toán quy định của Nhà nước và căn cứ vào khối lượng công tác xây dựng hoàn thành. Ivc= SQxi.Pi + Cin + W Trong đó: Qxi là khối lượng công tác xây dựng hoàn thành. Pi là đơn giá dự toán. Cin là chi phí chung. W là lãi định mức. Khối lượng công tác hoàn thành phải đạt các tiêu chuẩn sau: * Khối lượng này phải có trong thiết kế dự toán, đã được phê duyệt phù hợp với tiến độ thi công. * Đã cấu tạo vào thực thể công trình. * Đã đảm bảo chất lượng quy định. * Đã hoàn thành đến giai đoạn hoàn thành quy ước ghi trong tiến độ đầu tư . * Được cơ quan tài chính chấp nhận thanh toán. Đối với công tác lắp đặt máy móc, thiết bị: Phương pháp tính khối lượnng vốn đầu tư thực hiện cũng tính tưng tự như đối với công tác xây dựng. Ivl = SQli.Pi + Cin + W - Mức vốn đầu tư thực hiện đối với công tác mua sắm trang thiết bị máy móc máy móc cần lắp, được xác định bằng giá mua cộng với chi phí vận chuyển đến địa điểm tiếp nhận, chi phí bảo quản cho đến khi giao lắp từng bộ phận (đối với thiết bi lắp phức tạp) hoặc cả chiếc máy đối với thiết bị lắp giản đơn. Mức vốn đầu tư thực hiện đối với công tác mua sắm trang thiết bị máy móc cần lắp được xác định giá mua cộng với chi phí vận chuỷên đến kho của đơn vị sử dụng và nhập kho. -Đối với công tác xây dựng cơ bản và chi phí khác. * Nếu có đơn giá thì áp dụng phương phát tính khối lượng vốn đầu tư thực hiện như đối với công tác xây lắp. * Nếu chưa có đơn giá thì được tính vào khối lượng vốn đầu tư thực hiện theo phương pháp thực chi, thực thanh. Tài sản cố định huy động và năng lực sản suất phục vụ tăng thêm. Tài sản cố định huy động là công trình hay hạng mục công trình, đối tượng xây dựng cố khả năng phát huy tác dụng độc lập ( làm gia sản phẩm hàng hàng hoá, hoặc tiến hành các hoạt động dịch vụ cho xã hội được ghi trong dự án đầu tư ) đã kết thúc quá trình xây dựng, mua sắm, đã làm song thủ tục nghiệm thu sử dụng có thể đưa vào hoạt động được ngay. Năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm là khả năng đáp ứng nhu cầu sản xuất phục vụ của các tài sản cố định đã được huy động để sản xuất sản phẩm hoặc tiến hành các hoạt động dịch vụ khác được ghi trong dự án đầu tư. Đối với công cuộc đầu tư quy mô lớn, có nhiều đối tượng hạng mục xây dựng cố khả năng phát huy tác dụng độc lập thì được áp dụng hình thức huy động bộ phận sau khi từng đối tượng hạng mục đã kết thúc quá trình xây dựng , mua sắm, lắp đặt. Còn đối với công cuộc đầu tư quy mô nhỏ, thời gian thực hiện đầu tư ngắn thì áp dụng hình thức huy động toàn bộ khi tất cả đối tượng, hạng mục công trình đã kết thúc quá trình xây dựng mua sắm và lắp đặt. Các tài sản cố định được huy động và năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm là sản phẩm cuối cùng của công cuộc đầu tư xây dựng cơ bản, được thể hiện qua hai hình thái giá trị và hiện vật. - Đối với chỉ tiêu biểu hiện bằng hiện vật như (số lượng nhà ở, bệnh viện, trường học, nhà máy...). Công suất hoặc năng lực phát huy tác dụng của các tài sản cố định được huy động (số căn hộ số m2 nhà ở, số giường nằm của bệnh viện, số km đường giao thông . Để đánh giá toàn diện của hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản chúng ta không những dùng chỉ tiêu kết quả mà chúng ta phải sử dụng chỉ tiêu hiệu quả hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản. Các chỉ tiêu hiệu quả hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản. Tuỳ vào cấp độ quản lý và mục đích sử dụng các kết quả để tính toán trong đầu , cho nên cần phải phân biệt hiệu qủa tài chính hay hiệu quả kinh tế - xã hội . Hiệu quả hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản có thể được phản ánh ở hai góc độ: @ Dưới góc độ vi mô hiệu quả là chênh lệch giữa doanh thu và chi phí bỏ ra của dự án, đó chính là lợi nhuận mà dự án mang lại. Lợi nhuận là động lực hấp dẫn nhất của chủ đầu tư . @ Hiệu quả đầu tư xây dựng cơ bản dưới góc độ vĩ mô được hiểu như sau: Hiệu quả đầu tư xây dựng cơ bản trong nền kinh tế quốc dân là tỷ lệ giữa thu nhập quốc dân so với mức vốn đầu tư vào lĩnh vực sản xuất vật chất hoặc mức vốn đáp ứng được nhiệm vụ kinh tế xã hội, chính trị. Hiệu quả = Các kết quả thực hiện đầu tư Tổng vốn đầu tư thực hiện Đây là chỉ tiêu tổng quát phản ánh ảnh hưởng sự đầu tư xây dựng cơ bản tới nền kinh tế. Hệ số ICOR (tỷ suất vốn đầu tư) ICOR = DK DGDP Trong đó: DK mức gia tăng vốn đầu tư DGDP mức gia tăng GDP Hệ số này cho biết muốn tăng được 1% giá trị tổng sản phẩm trong nước (GDP) thì cần phải đầu tư thêm bao nhiêu % vốn đầu tư . Chỉ tiêu này chỉ có tính tương đối, bởi vì hiệu quả đầu tư còn phụ thuộc rất nhiều yếu tố như chính sách phát triển kinh tế của đất nước và độ trễ thời gian của đầu tư. Chỉ tiêu nầy thường đánh giá hiệu quả đầu tư ở phạm vi rộng như tỉnh, thành phố, quốc gia. Để phản ánh hiệu quả đầu tư của dự án chúng ta thường sử dụng các chỉ tiêu sau: Chỉ tiêu thu nhập thuần (NPV) NPV = S(Bi- Ci ) x 1 (1+r)i NPV: Thu nhập thuần của dự án là thu nhập còn lại sau khi đã trừ đi tất cả các khoản chi phí của cả đời dự án, nó phản ánh quy mô lãi của cả đời dự án. Bi : là thu nhập năm thứ i của dự án đầu tư . Ci : là chi phí của dự án vào năm thứ i Dự án được chấp nhận khi NPV> 0 Hệ số hoàn vốn nội bộ ( IRR). Là chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời của vốn đầu tư. Nó là mức lãi suất mà khi dùng nó để tính chuyển các khoản tiền phát sinh về cùng mặt bằng hiện tại thì tổng số thu bằng tổng số chi. Chỉ tiêu này được xác định bằng công thức sau: IRR = r1 + NPV1 .( r2-r1) NPV1- NPV2 Trong đó: r1 mức lãi suất để có NPV> 0 r2 mức lãi suất để có NPV< 0 r2> r1( r2- r1< 5%) Dự án được chấp nhận khi IRR>= r định mức. Thời hạn thu hồi vốn (T) Thời hạn thu hồi vốn đầu tư là khoảng thời gian cần thiết để dự án hoạt động thu hồi đủ số vốn đầu tư đã bỏ ra, chỉ tiêu này được xác định cho từng năm và có thể tính cho cả đời dự án. Chỉ tiêu thời hạn thu hồi vốn bình quân. T = Iv0 Wpv Trong đó: T : Thời hạn thu hồi vốn đầu tư bình quân Iv0: Vốn đầu tư ban đầu Wpv: Lợi nhuận bình quân cả đời dự án Điểm hoà vốn: Là điểm mà tại đó mà doanh thu từ bán hàng bằng các khoản chi phí phải bỏ ra x = f p - v Trong đó: x là điểm hoà vốn của dự án f: là tổng định phí p: là giá bán cho một đơn vị sản phẩm v: là biến phí cho một đơn vị sản phẩm Ta có thể mô tả điểm hoà vốn bằng đồ thị sau: O: đây là điểm hoà vốn của dự án A: là điểm chưa thu hồi đủ vốn B: là điểm dự án đã mang lại lợi nhuận A O B Q P 0 x Hiệu quả kinh tế xã hội. Phần trên là một số chỉ tiêu phản ánh hiệụ quả tài chính của dự án đầu tư. Nhưng để thấy rõ vai rò của đầu tư thì chúng ta phải phân tích hiệu quả kinh tế xã hội mà dự án đem lại. Bởi vì không phải bất cứ hoạt động đầu tư nào có khả năng sinh lời cao đều mang lại ảnh hưởng tốt với nền kinh tế. Do vậy trên góc độ quản lý vĩ mô phải xem xét mặt kinh tế xã hội do thực hiện đầu tư đem lại. Điều này giữ vai trò quyết định để các cấp có thẩm quyền cháp nhận dự án và quyết định đầu tư, các định chế tài chính quốc tế, các cơ quan viện trợ song phương và đa phương tài trợ cho hoạt động đầu tư . Lợi ích kinh tế xã hội của đầu tư là chênh lệch giữa các lợi ích mà nền kinh tế xã hội thu được so với đóng góp mà nền kinh tế và xã hội phải bỏ ra khi thực hiên đầu tư. Những lợi ích mà xã hội thu được chính là sự đáp ứng của đầu tư với việc thực hiện các mục tiêu chung của xã hội, của nền kinh tế những sự đóng góp này có thể được xét mang tính chất định tính hoặc đo lường bằng các tính toán định lượng. Chi phí mà xã hội phải bỏ ra của dự án bao gồm toàn bộ các tài nguyên thiên nhiên, của cải vật chất, sức lao động mà xã hội dành cho đầu tư thay vì sử dụng các công việc khác trong tương lai. Khi phân tích hiệu quả kinh tế xã hội phải tính đầy đủ các khoản thu chi, xem xét và điều chỉnh các khoản thu chi mang tính chuyển khoản, những tác động dây chuyền nhằm phản ánh đúng những tác động của dự án. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế- xã hội của dự án đầu tư xem xét ở tầm vĩ mô. Giá trị gia tăng ròng ký hiệu là NVA. Đây là chỉ tiêu cơ bản phản ánh hiệu quả kinh tế xã hội của dự án đầu tư. NVA là mức chênh lệch giữa giá trị đầu ra và giá trị đầu vào (đầu vào chỉ tính chi phí vật chất không tính chi phí về lao động) NVA = O – (MI + Iv) O: Giá trị đầu ra. MI: Chi phí thường xuyên. Iv :Vốn đầu tư ban đầu. - Chỉ tiêu lao động có việc làm của dự án: Được tính bằng số lao động trực tiếp trong dự án cộng với số lao động tăng thêm của các dự án có liên quan trừ đi số lao động bị mất tại các dự án. Mức tiết kiệm ngoại tệ: Để tính chỉ tiêu này chúng ta phải tính được các khoản thu chi ngoai tệ của dự án và các dự án liên đới, cùng với số ngoại tệ tiết kiệm được do sản xuất thay thế hàng xuất khẩu, sau đó quy đồng tiền về cùng mặt bằng thời gian để tính được số ngoại tệ do tiết kiệm từ dự án. Chỉ tiêu giá trị gia tăng của mỗi nhóm dân cư (những người có vốn hưởng lợi tức, những ngời làm công ăn lương , Nhà nước thu thuế...). Chỉ tiêu này phản ánh các tác động điều tiết thu nhập giữa các nhóm dân cư hoặc các vùng lãnh thổ. Để xác định chỉ tiêu này, trước hết phải xác định được nhóm dân cư hợc vùng lãnh thổ được phân phối giá trị tăng thêm (NNVA giá trị thu nhập thuần thuý quốc gia) của dự án, tiếp đến xác định được phần giá trị tăng thêm do dự án tạo ra mà nhóm dân cư hoặc vùng lãn._.h thổ thu được. Cuối cùng tính chỉ tiêu tỷ lệ gia tăng của mỗi nhóm dân cư hoặc mỗi vùng lãnh thổ thu được trong tổng giá trị gia tăng ở năm hoạt động bình thường của dự án, so sánh tỷ lệ của các nhóm dân cư hoặc vùng lãnh thổ với nhau sẽ thấy được tình hình phân phối giá trị gia tăng do dự án tạo ra giữa các nhóm dân cư hoặc các vùng lãnh thổ trong nước. Các chỉ tiêu khả năng cạnh tranh quốc tế: Chỉ tiêu này cho phép đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm do dự án sản xuất ra trên thị trường quốc tế ngoài ra còn có thể đánh giá những tác động khác của dự án như ảnh hưởng tới môi trường, đến kết cấu hạ tầng... @ Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế xã hội ở tầm vi mô: Mức đóng góp cho ngân sách Mức tiết kiệm ngoại tệ Số lao động có việc làm trực tiếp của dự án Mức tăng năng suất lao động của người lao động làm việc trong dự án Mức nâng cao trình độ kỹ thuật sản xuất, trình độ quản lý của cán bộ... Chương II Thực trạng đầu tư xây dựng cơ bản Hưng Yên giai đoạn 1997-2000. Đặc điểm tự nhiên và tình hình phát triển kinh tế xã hội Đặc điểm tự nhiên Hưng Yên là một tỉnh thuộc đồng bằng Sông Hồng, được tái lập từ 01/01/1997, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ (Hà Nội, Hải Phòng, Hưng Yên, Quảng Ninh, Hải Dương). Đặc điểm tự nhiên không có biển và đồi núi tiếp giáp với 6 tỉnh là: Nà Nội. Hà Tây, Hà Nam, Thái Bình, Hải Dương. Toàn tỉnh có 10 đơn vị hành chính, 9 huyện (Kim Động, Mỹ Hào, Văn Giang, Văn Lâm, Khoái Châu, Phủ Cừ, Tiên Lữ, Yên Mỹ), một thị xã. Thị xã Hưng Yên là một trung tâm văn hoá, chính trị của tỉnh đã từng vang tiếng một thời “thứ nhất kinh kỳ thứ nhì Phố Hiến”. Tỉnh lỵ Hưng Yên đặt tại thị xã Hưng Yên, cách Hà Nội 64 km, cách Thành Hải Dương 48 km và quốc lộ 1 khoảng 20 km. Là một tỉnh đất chật người đông, diện tích tự nhiên 890 km2, dân số 1,1 triệu người, mật độ dân số trung bình 1227 người/km2. Hưng Yên là một tỉnh thuần nông 80% dân số làm nông nghiệp, không có biển và đồi núi nhưng có nhiều sông ngòi như sông Hồng, sông Thái Bình và hệ thống sông nội đồng khác... Cũng như các tỉnh khác thuộc đồng bằng sông Hồng, Hưng Yên chịu ảnh hưởng của nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, nhiều nắng và có mùa đông giá lạnh. Về tài nguyên thiên nhiên: Hưng Yên có một tài nguyên đất nông nghiệp phong phú, màu mỡ. Diện tích đất nông nghiệp khoảng 62000 ha. Tài nguyên nước ngọt dồi dào do nằm trong hệ thống sông Hồng. Tuy nhiên, Hưng Yên lại có rất ít khoáng sản, khoáng sản chủ yếu là nguồn cát đen ven sông Hồng và nguồn than nâu ( khoảng 30 tỷ tấn) phân bố ở độ sâu trung bình từ 600 đến 1000m, khó khai thác. Về tài nguyên nhân văn: Hưng Yên là nơi tập trung nhiều di tích lịch sử nổi tiếng, đặc biệt là quần thể di tích Đa Hoà- Dạ Trạch( Khoái Châu) thờ Chử Đồng Tử - Tiên Dung, khu di tích phố Hiến, khu tưởng niệm lương y Hải Thượng Lãn Ông và hàng trăm di tích đã được xếp hạng. Nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng có lịch sử phát triển lâu dài. Hưng Yên là một tỉnh có dân số đông, dân số trong độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ cao khoảng 46% dân số của tỉnh. Tình hình kinh tế xã hội: Trước năm 1997, Hưng Yên được hợp nhất với tỉnh Hải Dương thành tỉnh Hải Hưng (cũ). Trong gần 30 năm(1968-1996) nằm trong đơn vị hành chính chung với Hải Dương, khu vực Hưng Yên không được quan tâm đầu tư cho phát triển kinh tế. Vì thế nền kinh tế của Hưng Yên phát triển rất chậm chạp, cơ cấu kinh tế lạc hậu. Cơ cấu kinh tế công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ năm 1996 (15% - 60%- 25%). Đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, thu nhập bình quân đầu người thấp và luôn thấp hơn mức trung bình của toàn quốc. Ngành công nghiệp của Hưng Yên khi mới tái lập tỉnh rất nhỏ bé, chủ yếu là các doanh nghiệp quốc doanh có thiết bị công nghệ lạc hậu, cũ kĩ với quy mô nhỏ hoạt động kém hiệu quả. Ngành nông nghiệp, cây lương thực chiếm một tỷ trọng lớn, ruộng đồng manh mún, lao động thủ công là chủ yếu, năng suất cây trồng không cao. Dịch vụ thương mại kém phát triển, thông tin liên lạc lạc hậu, cơ sở hạ tầng xuống cấp nghiêm trọng, hầu hết đường giao thông tỉnh và huyện là đường đá chưa trải nhựa. Giao thông xuống các vùng trong địa bàn tỉnh rất khó khăn, hệ thống điện nước thiếu thốn, cơ sở vật chất trường học, bệnh viện, trạm xá xuống cấp nghiêm trọng. Để phát huy tiềm năng, tạo cơ sở thúc đẩy phát triển kinh tế, tỉnh Hưng Yên được tái lập vào ngày 1/1/1997. Sau hơn bốn năm tái lập tỉnh đến nay. Nhờ sự giúp đỡ của trung ương, sự nỗ lực của cán bộ và nhân dân, với chủ trương chính sách phát huy mọi tiềm năng và thế mạnh của tỉnh, trong đó tập trung lớn đầu tư vào xây dựng cơ bản. Hưng Yên đã đạt được những thành tựu đáng kể. Ta có thể thấy rõ điều này qua bảng sau: Bảng 1: Một số chỉ tiêu kinh tế xã hội tỉnh Hưng Yên giai đoạn 1997-2000 Các chỉ tiêu Đơn vị 1997 1998 1999 2000 Tốc độ tăng DS % 1,402 1,333 1,263 1,2 Tốc độ tăng trưởng % 13,59 10,19 14,19 12 Cơ cấu kinh tế -Nông nghiệp -Công nghiệp -Dịch vụ % % % % 100 51,87 20,26 27,87 100 51,22 22,0 26,78 100 45,16 25,94 28,90 100 41 28 31 GDP(giá năm 1994) Tỷ đồng 2239 2446 2636 2935 GDP bình quân/người USD 204 230 266 300 Nguồn: Niên giám thống kê Hưng Yên Qua bảng số liệu cho thấy Hưng Yên có tốc độ tăng trưởng rất cao, năm 1997 là 13,59%, năm 1998 là 10,19%, năm 1999 là 14,19%, năm 2000 là 12%. Trong khi đó tốc độ tăng trưởng kinh tế của cả nước tương ứng (8,15%; 5,8%; 4,8%;6,7%). Cơ cấu kinh tế có sự chuyển biến đáng kể với xu hướng tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế. Thu nhập bình quân đầu người cũng tăng đáng kể từ 204USD-đến 300 USD vào năm 2000 theo giá quy đổi bình quân. Đến cuối năm 2000 số đường tỉnh đã được trải nhựa 60%, 80% cơ sở trường học phổ thông được xây dựng kiên cố. Hệ thống bệnh viện trạm xá nâng cấp. Tỉnh đã thành lập 3 cụm công nghiệp là (Như quỳnh, Phố nối và thị xã Hưng Yên). Đã thu hút được các nguồn vốn đầu tư của mọi thành phần kinh tế. Đến hết năm 2000 Hưng Yên đã thu hút được 35 dự án lớn, đặc biệt đã thu hút được 8 dự án đầu tư nước ngoài, 27dự án đầu tư của ngoại tỉnh với tổng số vốn đăng ký là 130 triệu USD , đến nay đã có 4 dự án đầu tư nước ngoài và 12 dự án đầu tư ngoại tỉnh đi vào hoạt động. Vốn thực hiện 70 triệu USD, giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh tăng lên rất nhanh từ 605 tỷ đông năm 1997 lên 2.300 tỷ đồng năm 2000 Đời sống của nhân dân trong tỉnh ngày càng được nâng cao. Những thành tựu trên nhờ một phần lớn tác dụng của đầu tư xây dựng cơ bản. Để thấy rõ vấn đề này, trước tiên chúng ta xem xét nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản của Hưng Yên thời kỳ 1997-2000. Tình hình thực hiện đầu tư xây dựng cơ bản của Hưng Yên thời kỳ 1997-2000 Nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn tỉnh Hưng Yên thời kỳ 1997-2000. Hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản đóng vai trò hết sức qua trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của mỗi một quốc gia nói chung và mỗi địa phương nói riêng. Hoạt động này tạo ra cơ sở hạ tầng: Đường giao thông, bưu điện, trường học và các tiềm lực vật chất phục vụ trực tiếp cho quá trình sản xuất như : máy móc thiết bị, nhà xưởng... Do đó vốn đầu tư xây dựng cơ bản luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư của xã hội và được hình thành chủ yếu từ các nguồn: vốn Ngân sách Nhà nước, vốn tín dụng ưu đãi, vốn huy động của các doanh nghiệp, vốn đóng góp của nhân dân, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong đó vốn ngân sách Nhà nước chiếm vị trí quan trọng trong nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản của cả nước. Là một tỉnh mới được tái lập (01/01/1997), nên hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của tỉnh, tiến hành xây dựng cơ sở hạ tầng nhanh chóng cùng các điạ phương khác phát triển trong quá trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. Nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản của tỉnh rất phong phú, đa dạng. Quy mô của vốn đầu tư lớn, năm 1997 là 280,13 tỷ đồng, năm 1998 là 219,765 tỷ đồng, năm 1999 là 389,126 tỷ đồng, năm 2000 là 405,31 tỷ đồng. Trong các năm vừa qua, Nhà nước đã đầu tư cho tỉnh với khối lượng vốn khá lớn nhằm xây dựng trụ sở làm việc, trường học, đường giao thông,... tạo các tiền đề quan trọng cho sự phát triển của tỉnh. Vốn đầu tư của tỉnh giai đoạn 1997-2000 như sau: (Bảng 2) Vốn NSNN: Bao gồm NSNN cấp cho tỉnh quản lý chi cho đầu tư xây dựng cơ bản, và vốn NSNN trực tiếp đầu tư cho các công trình trọng điểm thuộc phạm vi Nhà nước quản lý. Đây là các công trình lớn có tính chất kỹ thuật phức tạp. Do vậy Nhà nước phải quản lý để đảm bảo sự phù hợp với vai trò và chức năng, nhiệm vụ của mình. Khối lượng vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn NSNN năm 1997 là 165,542 tỷ đồng, năm 1998 là 95,569 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng tương ứng là 59,1% và 43,5%. Năm 1999 là 160,75 tỷ đồng, chiếm 41,3%, mặc dù năm 1999 khối lượng vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ NSNN tăng lên về quy mô song về tỷ trọng lại giảm hơn so với năm 1998. Đến năm 2000 khối lượng vốn NSNN dành cho đầu tư xây dựng cơ bản là 185,26 tỷ đồng, chiếm 49,6%. + Vốn tín dụng ưu đãi: Đây là nguồn huy động của các tổ chức tín dụng để dành cho đầu tư xây dựng cơ bản. Nguồn này chiếm tỷ trọng không cao nhưng đóng vai trò quan trọng trong đầu tư xây dựng cơ bản. Nguồn vốn này thường để bù đắp vào các công trình do thiếu hụt khi NSNN chưa kịp thời bổ sung để đảm bảo tiến độ dự án... hoặc vay trực tiếp để đầu tư + Vốn doanh nghiệp : Nếu như năm 1997 và 1998 khối lượng vốn đầu tư xây dựng cơ bản chỉ chiếm 50,651 tỷ đồng và 59,530 tỷ đồng, với tỷ trọng tương ứng là 19,8% và 29,5%. Năm 1999 và 2000 khối lượng vốn huy động từ các doanh nghiệp mạnh, năm 1999 là 164,76 tỷ đồng và năm 2000 là 145,380 tỷ đồng, với tỷ trọng chiếm tương ứng là 42,3% và 35,9%. + Nguồn vốn khác: Đây là nguồn vốn của nhân dân đóng góp để bổ sung cho hệ thống giao thông nông thôn, kiên cố hoá kênh mương nội đồng. Nguồn vốn này kết hợp với nguồn vốn của Nhà nước để xây dựng kết cấu hạ tầng tạo điều kiện phát triển kinh tế xã hội. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Trong quá trình phát triển kinh tế nguồn vốn nước ngoài có vị trí quan trọng, nguồn vốn này thường đầu tư vào phát triển ngành công nghiệp của cả nước nói chung và Hưng Yên nói riêng. Hiện nay trên địa bàn tỉnh đã thu hút được 8 dự án đầu tư nước ngoài, trong đó có 4 dự án đã đi vào hoạt động như công ty liên doanh LG-Sel, liên doanh sản xuất phụ tùng ô tô xe máy, liên doanh sản xuất mút xốp, liên doanh sản xuất nước khoáng. Mặc dù khối lượng vốn đầu tư xây dựng cơ bản của khu vực này chiếm tỷ trọng nhỏ so với tổng số vốn đầu tư đăng ký. Song các công ty này đóng góp giá trị sản xuất công nghiệp lớn nhất của tỉnh, mang lại hiệu quả kinh tế xã hội lớn. Nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm của Bắc Bộ, cùng với Quảng Ninh, Hải Phòng,... trong những năm qua Hưng Yên đã tạo được những bước phát triển quan trọng nhờ vào việc chuyển đổi cơ cấu đầu tư và thu hút một nguồn vốn đầu tư vào phát triển kinh tế. 2. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản theo ngành kinh tế quốc dân Đánh giá tình hình thực hiện vốn đầu tư xây dựng cơ bản theo ngành kinh tế, giúp cho chúng ta thấy được quy mô khối lượng phân bổ vào các ngành kinh tế như thế nào, để từ đó đánh giá được sự ảnh hưởng của các ngành tới sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh nói riêng và của đất nước nói chung. (Bảng 3) Ngành nông nghiệp, thuỷ lợi: Như chúng ta đã biết 80% dân số của Hưng Yên sống bằng nghề nông, diện tích đất nông nghiệp là 62.000 ha. Cùng với chiến lược phát triển chung của đất nước, trong mấy năm gần đây là đầu tư mạnh cho nông nghiệp. Ngành nông nghiệp và thuỷ lợi của Hưng Yên cũng được đầu tư đáng kể so với thời kỳ chưa tái lập tỉnh. Khối lượng vốn đầu tư xây dựng cơ bản tập trung cho ngành nông nghiệp, thuỷ lợi, năm 1997 là 37,3 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 13,3%; năm 1998 giảm hơn, từ năm 1999 đến 2000 có xu hướng tăng. Năm 1999 là 39,98 tỷ đồng, chiếm 10,3%; năm 2000 là 39,24 tỷ đồng, chiếm 9,7%. Tổng khối lượng vốn đầu tư cho ngành nông nghiệp, thuỷ lợi bao gồm cả vốn ngân sách trung ương và ngân sách địa phương quản lý khoảng 140 tỷ đồng thời kỳ 1997 – 2000. Trong đó vốn ngân sách trung ương quản lý đầu tư vào các công trình trọng điểm như kênh dẫn nước Bắc Hưng Hải, dự án Văn Lâm Văn Giang, duy tu bảo dưỡng đê điều, kè đập ... Ngân sách địa phương quản lý đầu tư vào việc xây dựng các trạm bơm, kênh dẫn nước nhỏ, trạm bảo vệ thực vật, trạm thú y ... Đến nay đã có khoảng 40 trạm bơm công suất từ 2x2500 – 12x2500m3/h được xây dựng và kiên cố được khoảng 200km kênh mương nội đồng. Đây là điều kiện quan trọng để phát triển ngành nông nghiệp của tỉnh Hưng Yên. Ngành công nghiệp, xây dựng: là ngành có khối lượng vốn đầu tư xây dựng cơ bản tương đối lớn trong các ngành kinh tế quốc dân của tỉnh. Năm 1997 là 40,825tỷ đồng, chiếm 14,6%; năm1998 là 35,181tỷ đồng, chiếm 16%; năm 1999 là 56,257 tỷ đồng, chiếm 14,5%; năm 2000 là 61,243 tỷ đồng, chiếm 15,1% tổng khối lượng vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong các ngành kinh tế. Với xu hướng tăng dần của vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong thời kỳ 1997 – 2000, tỷ trọng của vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong ngành công nghiệp giữ ở vị trí tương đối ổn định. Xét về mặt tổng thể cơ cấu vốn đầu tư xây dựng cơ bản của ngành công nghiệp là hợp lý. Hưng Yên đang có những chính sách thu hút vốn đầu tư của mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước, để từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng Công nghiệp hóa – Hiện đại hoá, hoà nhập cùng với xu hướng phát triển kinh tế của đất nước. Một thực tế cho thấy ở Hưng Yên 80% dân số làm nông nghiệp, sự tích luỹ trong dân rất thấp, hơn nữa sự hiểu biết về kinh tế thị trường của người dân còn hạn chế. Do vậy việc xây dựng doanh nghiệp của người dân Hưng Yên chưa nhiều. Hưng Yên là một tỉnh nghèo tổng chi ngân sách thường lớn gấp 2 - 3 lần tổng thu, các doanh nghiệp quốc doanh của địa phương có quy mô nhỏ bé, hơn nữa cũng chưa được đầu tư thích đáng vào cải tạo, thay thế máy móc thiết bị nên làm ăn không mấy hiệu quả. Nhờ vị trí thuận lợi, Hưng Yên nằm trong vùng kinh tế trọng điểm của Bắc bộ, với lợi thế 23 km đường 5A trên địa bàn tỉnh, cùng với chính sách thu hút đầu tư có hiệu quả, Hưng Yên đã thu hút được 8 dự án đầu tư nước ngoài và 27 dự án đầu tư của ngoại tỉnh. Đây là các dự án tập trung vào phát triển ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài mặc dù có ít dự án nhưng khối lượng vốn đầu tư đăng kí thực hiện lại chiếm tỷ trọng khá lớn và đầu tư vào những ngành có trình độ khoa học công nghệ cao như sản xuất lắp giáp ti vi, sản xuất lắp giáp phụ tùng ô tô, xe máy...Các doanh nghiệp ngoài tỉnh đầu tư vào Hưng Yên trong lĩnh vực sản xuất hàng tiêu dùng như may mặc, đồ nội thất, đồ uống... Đây là lĩnh vực không kém phần quan trọng để khai thác tiềm năng và thế mạnh của tỉnh về lao động, sản phẩm từ nông nghiệp. Ngành vận tải kho bãi, thông tin liên lạc: Hưng Yên là một tỉnh nghèo, cơ sở hạ tầng yếu kém, mấy năm gần đây nhờ sự giúp đỡ của trung ương và các tổ chức quốc tế. Nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản cho ngành này thời kỳ 1997 – 2000 chiếm tỷ trọng tương đối lớn. Các dự án của trung ương quản lý trên địa bàn tỉnh là quốc lộ 5A và dự án xây dựng cầu Chiều Dương nối liền Hưng Yên với Thái Bình, phát triển ngành bưu điện. Nguồn vốn cho xây dựng cơ bản của ngành này chủ yếu là nguồn từ ngân sách Nhà nước, nguồn vốn trong dân chiếm tỷ trọng ít. Trong thời kỳ này các tuyến đường liên tỉnh, huyện như 39A, 200, 19, 38, 39B, 201, 202, 205, 206, 208... và một loạt các con đường khác đã và đang được cải tạo mở rộng. Đặc biệt con đường 39A chạy từ Phố Nối xuống thị xã Hưng Yên, đường này đang được cải tạo mở rộng. Đây là con đường huyết mạch của tỉnh, có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Hưng Yên. Đối với lĩnh vực quản lý Nhà nước, an ninh quốc phòng: Hưng Yên là một tỉnh mới được tái lập cơ sở vật chất của khu vực này còn thiếu thốn. Do vậy mấy năm gần đây khối lượng vốn đầu tư xây dựng cơ bản được tập trung nhiều hơn. Năm 1997 là 13,375 tỷ đồng chiếm 4,8%; năm 1998 là 15,212 tỷ đồng chiếm 6,9%; từ năm 1999-2000 có sự tăng lên đáng kể do Nhà nước trực tiếp đầu tư vào các công trình nhà ở, trụ sở làm việc của các ban ngành cấp tỉnh, huyện... Năm 1999 là 58,554 tỷ đồng chiếm 15%; đến năm 2000 là 74,227 tỷ đồng chiếm 18,3%. Hầu hết các sở ban ngành của tỉnh Hưng Yên cùng với các phòng ban, UBND cấp huyện được xây dựng mới. Ngành giáo dục đào tạo: Đây là ngành có vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của Hưng Yên nói riêng cũng như của đất nước nói chung. Trong mấy năm gần đây ngành này được quan tâm nhiều hơn, khối lượng vốn đầu tư xây dựng cơ bản, năm 1997 là 33,182 tỷ đồng chiếm 11,8%; năm 2000 là 34,125 tỷ đồng chiếm 8,6%. Mặc dù đã được quan tâm nhiều hơn song khối lượng vốn đầu tư vào khu vực này vẫn chiếm tỷ trọng thấp, hơn nữa khối lượng vốn đầu tư cho khu vực này chủ yếu cho xây dựng kiên cố các trường học, chưa quan tâm đến việc mua sắm trang thiết bị phục vụ cho công tác giảng dạy và học tập của giáo viên và học sinh, sinh viên trong các trường học. Ngành y tế, cứu trợ xã hội: Ta thấy rằng nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản cho ngành này tăng lên liên tục, năm 1997 là 6,69 tỷ đồng, chiếm 2,4%; năm 2000 là 21,52 tỷ đồng, chiếm 5,3%. Điều này biểu hiện sự quan tâm của Nhà nước tới sức khoẻ và đời sống của nhân dân nhiều hơn. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản của ngành này tập trung vào cải tạo, mở rộng, xây dưng mới các bệnh viện tuyến tỉnh, huyện và xã. Do đó đã làm cho cơ sở vật chất của ngành y tế không ngừng được tăng lên đáp ứng phần lớn việc khám chữa bệnh cho người dân trong tỉnh. Ngành văn hoá thể thao: Thời kỳ này được quan tâm nhiều hơn, khối lượng vốn đầu tư xây dựng cơ bản năm 1997 là 16,58 tỷ đồng, chiếm 5,9%; năm 1998 là 24,1825 tỷ đồng, chiếm 11%; năm 2000 là 27,4 tỷ đồng chiếm 6,8%. Nguồn vốn này tập trung xây dựng các trung tâm văn hoá xã, huyện, tỉnh và sự nghiệp báo chí, phát thanh truyền hình,... các công trình lớn như đài tưởng niệm liệt sĩ của tỉnh, nhà làm việc, triển lãm sở văn hoá thông tin, nhà văn hoá thiếu nhi, hội văn học nghệ thuật, trường nghiệp vụ thể dục thể thao, nhà làm việc báo Hưng Yên... Đối với lĩnh vực phục vụ cá nhân và cộng đồng: Lĩnh vực này được quan tâm nhiều hơn trong những năm gần đây vào việc đầu tư xây dựng các hệ thống dịch vụ như khu vui chơi giải trí; phát triển hệ thống điện nước ở trung tâm huyện, thị xã, các khu công nghiệp... Với khối lượng vốn đầu tư xây dựng cơ bản cho năm 1997 là 8,39 tỷ đồng, chiếm 3%, năm 2000là 24,2 tỷ đồng, chiếm 6%. Song lĩnh vực này có vị trí rất quan trọng trong việc xây dựng hệ thống điện, nước cho các trung tâm huyện, thị xã, các khu công nghiệp... Đảm bảo cung cấp điện, nước phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng. Ngành này kết hợp cùng với các ngành khác thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Hưng Yên, làm cho Hưng Yên ngày càng phát triển hoà nhập cùng với xu hướng phát triển chung của đất nước... Bảng3 3. Cơ cấu kỹ thuật vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Cơ cấu vốn kỹ thuật vốn đầu tư xây dựng cơ bản phản ánh nội dung của vốn đầu tư xây dựng cơ bản bao gồm: Vốn cho xây lắp. Vốn cho mua sắm thiết bị. Vốn kiến thiết cơ bản khác. Từ cơ cấu kỹ thuật vốn đầu tư xây dựng cơ bản có thể đánh giá được trình độ phát triển kinh tế của một ngành hoặc một quốc gia. ở các nước tư bản phát triển người ta coi trọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản dùng cho việc mua sắm máy móc thiết bị cơ bản khác. ở các nước tư bản tỷ trọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản cho việc mua sắm máy móc thiết bị chiếm 60-70% tổng khối lượng vốn đầu tư xây dựng cơ bản đối với các dự án thuộc ngành công nghiệp Qua bảng mô tả cơ cấu kỹ thuật vốn đầu tư xây dựng cơ bản theo một số ngành kinh tế thì vốn cho xây lắp chiếm tỷ trọng quá lớn từ 62,5%-81,5% trong các ngành nông nghiệp, thuỷ lợi; vận tải kho bãi, thông tin liên lạc; văn hoá thể thao; quản lý Nhà nước; giáo dục đào tạo;... hai ngành còn lại là ngành công nghiệp và xây dựng, vốn cho xây lắp là 51,95%. Nhìn chung vốn cho xây lắp là chưa hợp lý vì thực tế thấy rằng vốn cho xây lắp chỉ có tác dụng tạo nên phần vỏ bao che cho công trình, nó không trực tiếp tạo ra sản phẩm cho xã hội, mà vốn thiết bị mới là vốn trực tiếp tạo ra sản phẩm cho xã hội trong khi đó lại chiếm tỷ trọng thấp. Đối với ngành giáo dục đào tạo, đây là ngành quan tâm nhiều trong việc mua sắm thiết bị, dụng cụ đồ dùng học tập cho công tác giảng dạy, học tập và nghiên cứu; nhưng tỷ trọng vốn cho thiết bị lại quá nhỏ chỉ chiếm 9,17%. Do vậy trong những năm tới phải điều chỉnh lại cơ cấu kỹ thuật vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Việc xem xét cơ cấu kinh tế vốn đầu tư xây dựng cơ bản của từng ngành, từng lĩnh vưc cũng khác nhau tùy thuộc vào từng điều kiện phát triển kinh tế của từng địa phương, từng khu vực. Tóm lại nghiên cứu cơ cấu kinh tế vốn đầu tư xây dựng cơ bản cho thấy tỷ trọng giữa vốn đầu tư xây dựng cơ bản cho xây lắp, thiết bị và kinh tế cơ bản chưa hợp lý nên hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản của tỉnh chưa tạo đủ cơ sở để phát huy nội lực của ngành, vượt tầm để cạnh tranh trong nền kinh tế. Bảng4 4. Tài sản cố định huy động. Tài sản cố định huy động là công trình hay hạng mục công trình, đối tượng xây dựng có khả năng phát huy tác dụng độc lập (làm ra sản phẩm hàng hoá hoặc tiến hành các hoạt động dịch vụ cho xã hội) đã kết thúc quá trình xây dựng, mua sắm đã làm sang thủ tục nghiệm thu sử dụng có thể đưa vào hoạt động được ngay. Quy mô của tài sản cố định do hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản tạo ra được phản ánh tổng hợp qua chỉ tiêu giá trị tài sản cố định huy động có thể biểu hiện ở hai hình thái hiện vật và giá trị, ở đây chúng ta xem xét tài sản cố định biểu hiện ở hình thái giá trị của các ngành kinh tế quốc dân. Qua bảng số liệu ta thấy rằng giá trị tài sản cố định mới tăng của các ngành kinh tế tăng lên liên tục. Tuy nhiên mức tăng này không đều nhau qua các năm, bởi vì đầu tư xây dựng cơ bản là lĩnh vực cần phải có một thời gian nhất định để xây dựng, lắp đặt, mua sắm... mới có thể hình thành nên tài sản cố định. Giá trị tài sản cố định tập trung vào 4 ngành đó là công nghiệp, nông nghiệp thuỷ lợi; vận tải kho bãi, thông tin liên lạc; quản lý nhà nước, an ninh quốc phòng. Đối với lĩnh vực vận tải kho bãi, thông tin liên lạc có giá trị tài sản cố định lớn nhất, năm 1997 là 71,87 tỷ đồng, năm 1998 là 56,079 tỷ đồng năm 2000 là 78,54 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng tương ứng là 39,3%, 22,3%, 24,9% tổng giá trị tài sản cố định. Điều này cho thấy hệ thống giao thông trong tỉnh, và hệ thống thông tin truyền thanh, truyền hình được nâng cấp, cải tạo. Ngành công nghiệp và xây dựng cũng có giá trị tài sản cố định tương đối lớn với tỷ trọng từ 15,3% – 18,8% so với tổng tài sản. Điều này đã mở ra một phương hướng phát triển mới của Hưng Yên, thể hiện sự chuyển đổi nhanh của cơ cấu kinh tế. Giá trị tài sản cố định tăng thêm của ngành nông nghiệp, thuỷ lợi, vận tải kho bãi, thông tin liên lạc,.. Chiếm tỷ trọng tương đối cao, làm cho kết cấu hạ tầng của Hưng Yên được nâng cấp nhiều. Đây là tiền đề tạo ra cơ sở vật chất để phát triển kinh tế. Sự tăng giá trị tài sản cố định trong ngành giáo dục đào tạo trong những năm gần đây, đã khẳng định chủ trương xã hội hoá giáo dục của Đảng và Nhà nước bằng cách nâng cao hơn nữa cơ sở vật chát cho ngành này. Giá trị tài sản cố định mới tăng của các ngành còn lại như y tế, phục vụ cá nhân cộng đồng biểu hiện sự quan tâm của Nhà nước tới sức khoẻ của nhân dân, và các hoạt động phục vụ cá nhân cộng đồng. Bảng5 5. Năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm. Năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm là khả năng đáp ứng nhu cầu sản xuất phục vụ của tài sản cố định đã được huy động và sử dụng để sản xuất ra sản phẩm hoặc tiến hành các hoạt động dịch vụ theo quy định được ghi trong dự án đầu tư. Ta có thể xem xét năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm của một số ngành trong giai đoạn 1997-2000. - Đối với ngành công nghiệp của tỉnh Hưng Yên trước đây. Từ năm 1996 trở lại trước, các doanh nghiệp quốc doanh trên địa bàn tỉnh làm ăn kém hiệu quả, công nghệ lạc hậu cũ kỹ. Do vậy giá trị sản xuất của địa bàn tỉnh Hưng Yên 1996 đạt 355 tỷ đồng. Với giá trị sản xuất công nghiệp là 355 tỷ đồng năm 1996. Hưng Yên đang ở vị trí 46/61 tỉnh thành phố về giá trị sản xuất công nghiệp. Đến nay tình hình này đã có sự thay đổi đáng kể. Nguyên nhân là do việc cải tạo nâng cấp các nhà máy của địa phương và trung ương cùng với việc đóng góp tích cực khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã đưa giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh tăng lên rõ rệt năm 1999 giá trị sản xuất công nghiệp là 1.880 tỷ đồng tăng gấp 5,3 lần so với năm 1996, năm 2000 giá trị sản xuất công nghiệp là 2.350 tỷ đồng, năm 2001 dự kiến giá trị sản xuất công nghiệp của Hưng Yên chiếm khoảng 2.800 tỷ đồng, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 2000 tỷ đồng, đưa Hưng Yên đứng vào hàng thứ 14/61 tỉnh thành phố về giá trị sản xuất công nghiệp. Các sản phẩm chủ yếu là dệt may, giầy dép, hàng thủ công mỹ nghệ, ống thép, các sản phẩm lắp ráp điện tử, ô tô xe máy, chế biến nông sản... - Đối với ngành nông nghiệp được sự đầu tư thích đáng bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước, Hưng Yên đã xây dựng mới khoảng 40 trạm bơm công suất 2x2500m3/h – 12x2500m3/h đã phục vụ cho tưới và tiêu khoảng 80% diện tích lúa, kiên cố được khoảng 200 km kênh mương nội đồng. - Giao thông vận tải được cải tạo nâng cấp được 23km đường cấp I, 40km đường cấp III, 200km đường cấp II đã giúp cho giao thông trong tỉnh và các tỉnh khác thuận lợi hơn. - Đối với y tế và giáo dục được nâng cấp và xây dựng mới các bệnh viện, trạm xá, trường học đã đáp ứng được phần lớn nhu cầu khám chữa bệnh và học tập của nhân dân và học sinh trong tỉnh. - Đối với lĩnh vực quản lý Nhà nước. Do đặc điểm của Hưng Yên là một tỉnh mới được tái lập nên đầu tư vào xây dựng các trạm, sở làm việc của các ban ngành tỉnh, huyện đã tăng lên mạnh mẽ khoảng 150.000 m2 nhà làm việc, trụ sở tăng thêm qua 4 năm. Bảng 6: Năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm 1997 – 2000 Ngành Đơn vị tính Số lượng I.Công nghiệp 1.gạch ngói 2.Giấy các loại 3.Thép ống 4.Quần áo may sẵn 5.Giầy các loại 7.SXphụ tùng ô tô các loại 8.Ti vi 9.Mút xốp 10.Nước máy hương phẩm 11.Lắp ráp xe máy II.Nông nghiệp 1.Diện tích tạo nguồn nước 2.Diện tích tiêu nước 3.Số trạm bơm 4.Số km kênh mương III.Giao thông vận tải 1.Đường cấp I 2.Đường cấp III 3.Đường cấp IV IV.Ytế xã hội Bệnh viện bệnh xá V.Giáo dục đào tạo 1.Học sinh tiểu học 2.Học sinh trung học cơ sở 3.Học sinh phổ thông VI.Quản lý Nhà nước Triệu viên Tấn Tấn 1000 sản phẩm 1000 đôi 1000 bộ 1000 cái Tấn 1000 m3 1000 chiếc 1000 ha 1000 ha Chiếc Km Km Km Km Giường 1000 học sinh 1000 học sinh 1000 học sinh 1000 m2 nhà 120 2200 10.000 1200 1000 200 240 430 600 50 12 8 40 200 23 40 200 350 5 8,5 4 150 Nguồn: Sở tài chính vật giá Hưng Yên III. Đánh giá kết quả và hiệu quả của đầu tư xây dựng cơ bản tới sự phát triển kinh tế xã hội của Hưng Yên. Những thành tựu đạt được. Đầu tư xây dựng cơ bản có vai trò hết sức quan trọng, đầu tư xây dựng cơ bản tạo ra các tài sản cố định cho kinh tế, làm tăng năng lực sản xuất kinh doanh dịch vụ thúc đẩy quá trình phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển khoa học công nghệ, tạo công ăn việc làm cho người lao động...Hưng Yên là một trong những tỉnh mới được tái lập cho nên nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản của Hưng Yên tập trung rất lớn. Do vậy những thành quả của đầu tư xây dựng cơ bản góp phần không nhỏ vào quá trình phát triển kinh tế xã hội của Hưng Yên. Ta có thể thấy rõ điều này trên những góc độ dưới đây: Đầu tư xây dựng cơ bản tác động đến sự tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế của Hưng Yên. - Trong nông nghiệp: Là lĩnh vực sản xuất chính xuất tỉnh. Những năm qua với công cuộc Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn đã thúc đẩy nhanh và bước đầu đạt được những kết quả khích lệ, với tốc độ tăng trưởng trung bình thời kỳ 1997-2000 là 4,5%. Do sản xuất được mùa liên tục trong 4 năm đưa giá trị sản xuất nông nghiệp tăng từ 1.809 tỷ đồng năm 1997 lên 1982,5 tỷ đồng năm 1998 năm 2000 là 2037,4 tỷ đồng. điều này làm cho tổng sản lượng quy thóc của ngành nông nghiệp tăng nhanh từ 498 nghìn tấn năm 1997 lên 574,6 nghìn tấn năm 2000. Bảng 7: Kết quả sản xuất nông nghiệp tỉnh Hưng Yên giai đoạn 1997-2000 Các chỉ tiêu Đơn vị 1997 1998 1999 2000 1.Giá trị sản xuất nông nghiệp Tỷ đồng 1809 1892,5 1949,6 2037,4 +trồng trọt Tỷ đồng 1295 1349,3 1359,6 1387,4 +Chăn nuôi Tỷ đồng 514 517,2 590 650 2.Ngành trồng trọt +Tổng diện tích gieo trồng Ha 119,8 122,9 131,4 129,8 +Tổng sản lượng quy thóc 1000 tấn 498 523,1 534,5 574,6 +Lương thực bình quân kg/người Kg 456 478 498 520 Nguồn: Sở tài chính vật giá Hưng Yên Trong công nghiệp: Đây là ngành có tốc độ tăng trưởng cao nếu như giá trị sản xuất 1997 là 605 tỷ đồng, năm 1999 là 1888 tỷ đồng, năm 2000 là 2350 tỷ đồng và năm 2001 dự kiến là 2831 tỷ đồng. Tốc độ phát triển trung bình trên 60,%/năm. Bảng 8: Tình hình phát triển ngành công nghiệp Hưng Yên giai đoạn 1997-2000 Các chỉ tiêu Đơn vị 1997 1998 1999 2000 1. Giá trị sản xuất CN Tỷ đồng 605 996 1880 2350 - CN trung ương - 92 85 100 110 - CN địa phương - 298 367,6 445 530 - CN có vốn ĐTNN - 215 513,5 1334,6 1710 2. Giao nộp ngân sách - 16,68 28,75 32,3 48 3.Giá trị xuât khẩu CN Triệu USD 8,13 9,82 12,4 14 Nguồn: Sở tài chính vật giá Hưng Yên . Qua bảng số liệu ta thấy rằng Hưng Yên đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ trong lĩnh vực công nghiệp, ngành công nghiệp của Hưng Yên phát triển rất mạnh trong những năm gần đây. - Ngành dịch vụ phát triển với tốc độ 18%/năm. Do vậy đã được tốc độ tăng trưởng kinh tế của Hưng Yên thời kỳ này đạt trên 10%/năm cao hơn tốc độ tăng trưởng của toàn quốc. Tốc độ tăng trưởng toàn quốc là thời kỳ này là 6,7%. Đầu tư xây dựng cơ bản ảnh hưởng tới sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế của Hưng Yên. Bảng 9: Cơ cấu kinh tế. Năm 1996 1997 1998 1999 2000 Nông nghiệp 60 51,87 51,22 45,16 41 Công nghiệp 15 20,6 22 25,94 28 Dịch vụ 25 27,87 26,87 28,90 31 Nguồn: Sở tài ch._.p khuyến khích các hộ có điều kiện phát triển kinh tế hàng hoá theo mô hình trang trại trồng trọt, chăn nuôi. ở Hưng Yên đã có khoảng 1000 trang trại trông trọt và chăn nuôi ở quy mô từ 0,5 đến 3 ha đất. Nhà nước phải tạo ra những hành lang pháp lý để khuyến khích phát triển thành phần kinh tế tư nhân và bảo vệ quyền lợi cho họ. Việc phát triển kinh tế ở Hưng Yên còn gặp rất nhiều khó khăn do tâm lý không muốn làm kinh tế tư nhân hơn nữa 80% dân số làm nông nghiệp, diện tích đất đai ít, phát triển kinh tế trang trại. Do vậy, tỉnh cần phối hợp với các bộ, ngành, TW mở các lớp đào tạo chủ doanh nghiệp tư nhân và thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng kiến thức cho họ II. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản trong thời gian tới. Huy động và sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản có hiệu quả. Để đạt được mục tiêu kinh tế – xã hội đã đặt ra. Hưng Yên phải ra sức huy động các nguồn vốn cho đầu tư từ nay đến 2010. Dự kiến Hưng Yên cần khoảng 2.700 USD trong đó nông nghiệp cần khoảng 400 triệu USD, công nghiệp cần 900 triệu USD, các ngành dịch vụ cần 1400 triệu USD. Trong đó vốn cho đầu tư xây dựng cơ bản chiếm một phần không nhỏ. Theo tính toán sơ bộ nguồn vốn tự có của nền kinh tế tỉnh chỉ có khả năng đáp ứng 40-50% nguồn vốn. Phần thiếu hụt phải huy động từ các nguồn khác. @ Về công tác huy động vốn cần thực hiện các giải pháp sau: Cần đẩy nhanh quá trình tích luỹ nội bộ, thực hiện tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng. Tập trung khai thác các nguồn thu, thu đúng thu đủ, thu kịp thời, chống thất thu thuế nhất là khu vực ngoài quốc doanh. Phải gắn chặt trấch nhiệm chỉ dạo thu ngân sách với chính quyền cơ sở thông qua tỷ lệ điều tiết. Cần tạo môi trường đầu tư thuận lợi, thông thoáng hơn, đẩy nhanh tiến độ xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt là 3 cụm công nghiệp Như Quỳnh, Phố Nối và thị xã Hưng Yên nhằm thu hút tối đa nguồn vốn đầu tư của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước. Tăng cường khuyến khích nhân dân bỏ vốn để cùng nhà nước xây dựng cơ sở hạ tầng như giao thông vận tải, bưu điện, thuỷ lợi chú trọng phát triển các trục đường giao thông nông thôn, cải tạo nâng cấp các tuyến đường huyện và thị xã, các đầu mối giao thông quan trọng. Khuyến khích đầu tư, thực hiện chế độ “một cửa” tập trung đầu mối vào Sở Kế hoạch và Đầu tư, phồi hợp với các dịa phương trong tỉnh, cải thiện lề nối làm việc, giảm thiểu các thủ tục giấy tờ trong việc cấp giấy phép đầu tư, cho thuê đất với mọi thành phần kinh tế, giải phóng mặt bằng nhanh gọn đẩy nhanh tiến độ đầu tư, cung cấp các thông tin cần thiết cho chủ đầu tư. Chủ động xây dựng các dự án khả thi và tạo nguồn vốn đối ứng để thu hút nguồn vốn ODA. Đây là nguồn vốn rất quan trọng trong xây dựng kết cấu hạ tầng của của đất nước nói chung và của Hưng Yên nói riêng. Mở rộng các hình thức đầu tư như BOT, BTO, BT. Thiết lập các dự án để giới thiệu và tạo được sự hấp dẫn lôi kéo các nhà đầu tư. Không ngừng mở rộng phát triển cấc kênh huy động vốn tín dụng dài hạn, uỷ thác đầu tư, thuê mua tài chính. Nghiên cứu chính sách hỗ trợ đầu tư dài hạn, trung hạn và các chính sách bảo lãnh để chuyển một phần vốn huy động ngắn hạn sang cho vay trung hạn Huy động nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản bằng hình thức trái phiếu: Đây là phương thức có lợi thế ở khả năng tận dụng các nguồn vốn không tập trung và điều chỉnh tác nghiệp tài chính với sự thay đổi của thị trường. Do đó hình thức này đã trở lên phổ biến, chủ đầu tư sẽ bán trái phiếu để thu về nguồn vốn vay trên cơ sở có trả lãi cho người mua với mức lãi suất thoả đáng với thị trường vốn, mức lãi suất này thường cố định trong thời hạn trái phiếu có giá trị, hình thức này đảm bảo cho chủ đầu tư không phải chịu ảnh hưởng của lãi suất thị trường. Nghiên cứu việc mở rộng thêm các hình thức huy động vốn nước ngoài bằng cách cho phép phát hành cổ phiếu trái phiếu cho các nhà đầu tư nước ngoài trong giới hạn cho phép Huy động vốn bằng hình thức cổ phần: Khác với hình thức huy động bằng trái phiếu, ở hình thức này sẽ trả lãi suất theo hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh, mà không trả theo mức lãi suất cố định, mỗi bên tham gia góp vốn sẽ có một vị trí nhất định kinh doanh xây dựng công trình tuỳ thuộc vào vốn góp của mình và việc tạo ra tài sản đầu tư mà cổ đông cần quan tâm. @ Sử dụng vốn đầu tư xây cơ bản. Đầu tư có trọng điểm vào những ngành những lĩnh vực có vai trò quyết định, có tốc độ phát triển kinh tế cao, nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá. Trong công nghiệp: Đầu tư theo chiều sâu đổi mới trang thiết bị máy móc của các doanh nghiệp quốc doanh trên địa bàn tỉnh. Xây dựng cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh cho 3 cụm công nghiệp Như Quỳnh, phố Nối,thị xã Hưng Yên. Có chính sách khuyến khích đầu tư vào các ngành công nghiệp chế biến sản phẩm nông nghiệp, sản xuất hàng tiêu dùng. Đây là những ngành mà tỉnh có thế mạnh, nên cần khai thác triệt để đảm bảo giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động. Trong nông nghiệp: Chú trọng đầu tư xây dựng cơ bản vào hệ thống kênh mương nội đồng, quy hoạch phát triển các vùng để chuyển đổi cơ cấu cây trồng hợp lý. ứng dụng những thành tựu khoa học kĩ thuật vào trồng trọt và chăn nuôi. Giao thông vận tải: Từ nay đến năm 2003 Hưng Yên sẽ có 2 cây cầu lớn bắc qua đó là cầu Thanh Trì và cầu Yên Lệnh. Đây là điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế xã hội, do vậy tỉnh phải chú trọng đầu tư nâng cấp các con đường liên tỉnh như 39A, 39B và 38 các tuyến đường liên huyện, xã để đảm bảo có hệ thống giao thông thông suốt giữa các khu vực trong tỉnh và bên ngoài. Đồng thời xây dựng một số cảng sông Hồng ở huyện Kim Động và Khoái Châu, phát triển mạng lưới điện nước, xây dựng các khu chung cư ở gần các khu công nghiệp để phục vụ cho quá trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá. Thương nghiệp: Xây dựng một số các trung tâm thương mại lớn ở thị xã Hưng Yên, Phố Nối, Như Quỳnh, đồng thời xây dựng các trung tâm thương mại ở các thị trấn, thị tứ phù hợp với quá trình phát triển kinh tế xã hội. Đổi mới công tác kế hoạch hoá và chủ trương đầu tư của các dự án . @ Công tác kế hoạch hoá vừa là nội dung vừa là công cụ để quản lý hoạt động đầu tư. Trong nền kinh tế thị trường công tác kế hoạch hoá có vai trò rất quan trọng. Nếu buông lỏng công tác kế hoạch hoá, thì thị trường sẽ phát triển tự do, thiếu định hướng gây ra những tác động tiêu cực, tác động xấu đến nền kinh tế. Kế hoạch hoá phải quán triệt những nguyên tắc: Kế hoạch hoá phải xuất phát từ nhu cầu của nền kinh tế . Kế hoạch hoá đầu tư phải dựa vào các định hứng phát triển lâu dài của đất nước, phù hợp với các quy định của pháp luật. Kế hoạch hoá phải dựa trên khả năng huy động các nguồn lực trong và ngoài nước. Kế hoạch hoá phải có mục tiêu rõ rệt. Kế hoạch hoá phải dảm bảo được tính khoa học và tính đồng bộ. Kế hoạch hoá có tính linh hoạt kịp thời. Kế hoạch hoá có tính linh hoạt gối đầu Kế hoạch hoá phải kết hợp tốt kế hoạch năm và kế hoạch dài hạn. Kế hoạch hoá phải có dộ tin cậy và tính tối ưu. Kế hoạch đầu tư trực tiếp phải được xây dựng từ dưới lên Kế hoạch định hướng của Nhà nước phải là kế hoạch chủ yếu. Hưng Yên cần phải tăng cường sự tham gia của các thành phần kinh tế vào công tác kế hoạch hoá. Để khu vực kinh tế tư nhân có thể tham gia vào công tác kế hoạch hoá phải cố sự chỉ đạo và hướng dẫn của UBND tỉnh và các cơ quan chức năng. Trước hết khuyến khích thành lập các tổ chức nhưng ghề nghiệp, sản xuất hàng xuất khẩu, sản xuất hàng tiêu dùng, giao thông vận tải, xây dựng, hoặc thành lập các câu lạc bộ chủ doanh nhiệp tư nhân câu lạc bộ doanh nghiệp trẻ. Từ các tổ chức này sẽ bầu ra những người có năng lực và trình độ để tham gia vào cơ quan địa phương, khi tham gia vào hoạch định các chiến lược phát triển kinh tế, chính sách, kế hoạch ngắn trung và dài hạn, các cơ quan chức năng gửi cho họ những bản dự thảo để họ tham dự. @ Về chủ trương đầu tư: Nhiều cấp có thẩm quyền khi ra quyết định đầu tư thiếu chính xác phải điều chỉnh, bổ sung. Để nâng cao trách nhiệm ra quyết định về chủ trương đầu tư quyết định đầu tư cần phải cân nhắc tính toán kĩ lưỡng, có tính đến hiệu quả lâu dài và các nhân tố ảnh hưởng rồi mới ra quyết định là có nên đầu tư vào dự án đó hay không ?. Dự án này đem lại hiệu quả gì, nghĩa là phải phân tích cụ thể, đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội của dự án, xem xét tính khả thi và lập dự án một cách chi tiết với mọi khía cạnh rồi từ đó mới bỏ vốn để đầu tư. Những dự án được UBND tỉnh phê duyệt danh mục mới được cấp vốn chuẩn bị đầu tư và dược lập các bước chuẩn bị đầu tư như lập báo cáo nghiên cứu khả thi, khảo sát thiết kế...UBND tỉnh sẽ không phê duyệt những dự án không nằm trong danh mục đầu tư theo năm kế hoạch để đảm bảo cân đối nguồn vốn chuẩn bị đầu tư được tốt. Thì các cơ quan chức năng phối hợp với sơ kế hoạch và đầu tư, lập ra những dự án có hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất, cần thiết nhất để trình UBND tỉnh quyết đinh đầu tư. Trong công tác quy hoạch UBND tỉnh sẽ điều hành trực tiếp việc lập quy hoạch ngành, quy hoạch đô thị theo hướng chỉ lập kế hoạch với nội dung thiết thực, định hướng cho những việc phải làm trong thời gian tới và phải phù hợp với nguồn lực huy động. Những nội dung không cần thiết phải làm ngay thì kiên quyết không làm để đảm bảo tính thiết thực, tránh được lãng phí nguồn vốn cho đầu tư, mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao. Trên cơ sở quy hoạch tổng thể phát triển các ngành,vùng được phê duyệt thì các ngành, vùng tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng để chuẩn bị mặt bằng xây dựng, trước hết ở các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp tập trung, chuẩn bị điều kiện thu hút vốn với mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước. Tập trung đầu tư xây dựng cơ bản để phát triển năng lực sản xuất cho các ngành công nghiệp then chốt và các ngành công nghiệp có tác động lớn đối với nền kinh tế của tỉnh, thúc đẩy quá trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá cúa tỉnh, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý. Nâng câo hiệu quả quản lý của Nhà nước, chống thất thoát và lãng phí vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Để thực hiện điều này cần phải quán triệt nội dung sau: Khi xây dựng các dự án phải đúng các chủ trương đầu tư thì mới quyết định đầu tư. Nâng cao tính chủ động và tự chịu trách nhiệm đối với các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp nói riêng trong hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản. Đảm bảo tính chính xác trong thiết kế: Trong khâu này cần có tổ chức chuyên môn có đủ tư cách pháp nhân, uy tín nghề nghiệp lập theo tiêu chuẩn của nhà nước ban hành. Thực tế có rất nhiều công trình xấu, kém chất lượng do đó lỗi của nhà thiết kế. Đây là nguyên nhân gây ra tình trạng thất thoát, lãng phí nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Nâng cao hiệu quả công tác đấu thầu: Đấu thầu là một quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng được yêu cầu của bên mời thầu trên cơ sở cạnh tranh giữa các nhà thầu. Lợi ích của hình thức này là chọn được nhà thầu có phương án đáp ứng được các yêu cầu kĩ thuật của công trình và có chi phí tài chính thấp nhất. @ Khi tổ chức đấu thầu và xét thầu phải căn cứ vào quy chế đấu thầu về quản lý đầu tư và xây dựng, được ban hành trong nghị định số 88/1999/NĐ-CP ra ngày 01/01/1999 và nghị định số 14/2000/NĐ-CP ngày 5/5/2000. Phải thực sự khách quan và công khai mở thầu. Không được tổ chức đấu thầu một cách hình thức như một “màn kịch” dựng sẵn để tạo ra được tính cạnh tranh giữa các nhà thầu, từ đó hạ giá thành sản phẩm. @ Cải tiến các thủ tục gọn nhẹ, quy định trách nhiệm và quyền hạn cụ thể của chủ đầu tư và cơ quan chủ đầu tư. Phải thực hiện đúng quy trình, làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư, thiết kế dự toán, xây dựng giá chuẩn để làm căn cứ tổ chức đấu thầu một cách hiệu quả. Đồng thời chấn chỉnh lại các tổ chức tư nhân nhận thầu xây lắp, cung ứng vật tư thiết bị, các tổ chức tư vấn nhằm đảm bảo khả năng tham gia đấu thầu của các nhà thầu phù hợp với năng lực và kĩ thuật và tài chính của mình. @ Đối với công tác chỉ định thầu, cần thực hiện lập thiết kế kĩ thuật và tổng dự toán thật chính xác, sau đó lựa chọn những nhà thầu có đủ năng lực, kinh nghiệm và uy tín để thực hiện thi công dự án. Tránh trường hợp chỉ định các nhà thầu không đủ năng lực mà do quen biết hoặc các hình thức hối lộ để cơ quan chức năng nhận làm chủ thầu. @ Tăng cường công tác thanh tra, giám sát chặt chẽ công tác đấu thầu, đồng thời sử phạt thật nghiêm minh đối với các tổ chức, cá nhân có hoạt động sai trái với quy định của Nhà nước trong quy chế đầu tư và xây dựng . @ Nâng cao hiệu quả của việc thẩm định dự án: Phải tăng cường vai trò, trách nhiệm của công tác thẩm định. Bởi vì tất cả những điều bất hợp lý, không hiệu quả, không phù hợp bắt nguồn từ khâu thẩm định. @ Quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan thẩm quyền trong quá trình cấp phát vốn đầu tư. Trong thực tế nhiều dự án đến thời gian thực hiện thi công mà không đảm bảo tiến độ được, nguyên nhân này do công tác cấp phát vốn chậm trễ, thủ tục quá nhiều, cơ quan chủ quản duyệt thiết kế, kỹ thuật dự toán chậm. Để khắc phục cần quy định rõ trách nhiệm từng khâu, từng mắt xích cụ thể và có chế độ thưởng phạt nghiêm minh. Có như vậy thì bố trí kế hoạch mới khớp với thực tế thi công và tiến độ thực hiện dự án được duyệt. @ Chấn chỉnh và tăng cường kỷ luật trong khâu giám sát thi công, nghiệm thu thanh quyết toán công trình. Chế độ hiện hành quy định khi công trình, dự án hoàn thành và đưa vào sử dụng, chậm nhất là 6 tháng chủ đầu tư phải quyết toán để đánh giá và bàn giao tài sản cho đơn vị sử dụng. Trong thực tế nhiều công trình dự án, của các ngành, các địa phương chú trọng tới công tác này nhưng hiện nay nhiều công trình đã hoàn thanh đưa vào sử dụng từ lâu nhưng chưa được quyết toán. Do vậy, cần quy định chế độ, trách nhiệm của cơ quan chủ quản đối với công tác này trên các mặt. Đôn đốc và chỉ đạo công tác quyết toán cả về nội dung và thời gian. Thẩm tra quyết toán trước khi phê duyệt đảm bảo về thời gian và chất lượng công tác quyết toán công trình là cơ sở để thanh toán khối lượng thực hiện. Việc thanh toán khối lượng thực hiện phải đầy đủ kịp thời sát với khối lượng đã được quyết toán, thanh toán dứt điểm tránh kéo dài thời gian thi công của các công trình. Nâng cao chất lượng của ban quản lý công trình. Ban quản lý công trình là người đại diện cho chủ đầu tư nhưng không phải là chủ đầu tư đích thực, nên thiếu sự ràng buộc về trách nhiệm quản lý tài sản, bảo toàn vốn khi dự án đi vào hoạt động từ tình hình này cần chấn chỉnh và quản lý chủ đầu tư theo các mặt: @ Tổ chức lại ban quản lý dự án, đảm bảo là chủ đầu tư thực sự phải gắn trách nhiệm trong quá trình sử dụng vốn đầu tư, quản lý tài sản khi dự án kết thúc. @ Quy định nghĩa vụ, chức danh của chủ đầu tư. @ Xác định trách nhiệm cá nhân của chủ đầu tư đối với các hoạt động từ khâu đầu tới khâu cuối. Trong điều kiện hiện nay, trình độ khoa học và kỹ thuật phát triển mạnh mẽ, do đó sự lạc hậu về công nghệ và tri thức ảnh hưởng tới quá trình phát triển kinh tế, kiện toàn việc tổ chức ban quản lý dự án còn gắn với công tác đào tạo cán bộ trong hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản. Đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực phục vụ cho công tác đầu tư xây dựng cơ bản. Hoạt động đầu tư rất phức tạp và đa dạng, liên quan đến nhưng nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực. Vì vậy cán bộ, công nhân lao động trong xây dựng cơ bản cần phải có khả năng đào tạo kỹ hoàn thành tốt nhưng nhiệm vụ được giao. ở bất kỳ hình thái kinh tế xã hội nào con người vẫn là trung tâm của mọi sự phát triển, nhất là thời đại ngày nay, thời đại Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá, việc chăm lo đầy đủ cho con người là đảm bảo chắc chắn cho sự phồn vinh và thịnh vượng. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá và cách mạng về con người là hai mặt của quá trình thống nhất. Đầu tư xây dựng cơ bản là một lĩnh vực có vị trí quan trọng trong việc tạo đà cho phát triển kinh tế theo hướng Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá, theo chủ trương chính sách của Đảng. Thực hiện tốt quá trình đầu tư xây dựng cơ bản sẽ đem lại được hiệu quả cao nhất. Muốn thế phải tăng cường đào tạo lại cán bộ quản lý và cán bộ khoa học kỹ thuật nhằm tạo ra những con người tri thức có kinh nghiệm trong lĩnh vực xây dựng cơ bản. @ Đào tạo phải gắn liền với giáo dục ý thức để tăng cường sự hiều biết về pháp luật, về những quy chế trong đầu tư xây dựng của Nhà nước đặt ra, bên cạnh đó tuyên truyền, phổ biến cho mọi người thấy được vai trò của đầu tư xây dựng cơ bản. Vì vậy, phải tăng cường chi vốn đầu tư xây dựng cơ bản cho công tác giáo dục và đào tạo. Tổ chức, tạo điều kiện cho cán bộ, lao động nâng cao trình độ của mình. Tăng cường công tác quản lý thực hiện đầu tư. Để nâng cao hiệu quả kinh tế trong hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản thì ngay từ khâu đầu, khâu thẩm định dự án cũng phải chú ý ở đây đòi hỏi chủ đầu tư, công ty tư vấn và cơ quan thẩm định (Sở KH & ĐT) phải kiện toàn đội ngũ cán bộ, chuyên gia trực tiếp trong công tác này để nâng cao trình độ và chuyên sâu, tham mưu đề xuất với UBND tỉnh có được những chính sách đầu tư chính xác đảm bảo hiệu quả vốn đầu tư. Đặc biệt với những dự án vay vốn của các doanh nghiệp Nhà nước, phải phân tích rõ phương án kinh doanh, nghĩa vụ tài chính theo chế độ của Nhà nước, đảm bảo việc làm tăng thu nhập cho cán bộ, công nhân của doanh nghiệp, kiên quyết không đầu tư cho những dự án không bảo toàn vốn vay gây thiệt hại cho ngân sách Nhà nước. Trong quá trình thẩm định dự án, dự án có liên quan đến chuyên môn của ngành nào thì nhất thiết phải có ý kiến thẩm định của ngành đó, Sở KH & ĐT chịu trách nhiệm tổng hợp, trình UBND tỉnh quyết định. Công tác thẩm định phải bám sát theo tiêu chuẩn quy định của Nhà nước, trong công tác cấp vốn cho công trình xây lắp, phải triệt để công tác cấp phát vốn, chỉ cấp phát theo khối lượng đã làm. Nguồn vốn thuộc ngân sách nhỏ so với nhu cầu xây dựng cần làm, việc huy động vốn cho công trình rất cần thiết. UBND tỉnh sẽ cam kết với những nhà ứng vốn (không tính lãi suất cho công trình) tranh thủ nguồn hỗ trợ của các ngành của TW, vốn của tổ chức ngoài viện trợ và huy động trong nhân dân một công trình có thể đầu tư từ nhiều nguồn vốn thông qua việc lồng ghép với các nguồn vốn của chương trình mục tiêu để việc đầu tư có sự thống nhất và hiệu quả, tránh hiện tượng không đầu tư và đầu tư không dứt điểm. Chủ tịch UBND tỉnh giao cho ban chỉ đạo chương trình quốc gia của tỉnh chịu trách nhiệm lông ghép các chương trình. Sau khi việc thẩm định dự án được chấp nhận thì xem xét đến việc lựa chọn thi công xây lắp công trình cần quản lý chặt chẽ hoạt động này. @ Đối với việc lựa chọn thi công: Với hai hình thức chủ yếu là tự thi công và giao thầu. Do vậy phải đảm bảo thực hiện theo đúng quy chế đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước ban hành, tránh những tiêu cực đã được đề cập ở phần trên. @ Đối với giai đoạn chuẩn bị thi công: Đây là khâu có ảnh hưởng trực tiếp tới tốc độ, chất lượng và chi phí xây dựng công rình từ đó sẽ có tác động mạnh tới hiệu quả của công tác đầu tư xây dựng cơ bản. Vì vậy cần phải: Yêu cầu các chủ đầu tư phải có đủ thủ tục xây dựng cơ bản theo quy định hiện hành như: Có báo cáo nghiên cứu khả thi, hồ sơ thiết kế dự toán, có kết quả đấu thầu hay chỉ định thầu được phê duyệt của cấp chính sách thẩm quyền, cố vốn đầu tư hoặc khả năng huy động vốn đầu tư, có giấy phép xây dựng mới được khởi công xây dựng. Sở Kế hoạch và Đầu tư theo dõi việc triển khai công tác này, báo cáo định kỳ hàng quý với UBND tỉnh. Đồng thời các cơ quan, ban ngành có liên quan theo dõi, giám sát và quản lý hoạt động đầu tư xây dựng theo đúng chức năng của mình. Tham gia vào quá trình xét chọn phương án thiết kế, tổ chức thi công, tiến độ thi công để đảm bảo sự thống nhất giữa các phương án được lựa chọn và kế hoạch đầu tư. Chú ý đảm bảo dự toán thi công xây dựng sao không được lớn hơn vốn đầu tư dành cho xây lắp ghi trong dự toán thiết kế đã được duyệt. @ Với giai đoạn thi công xây lắp: Để tránh tình trạng lãng phí lớn vốn đầu tư mà không đem lại hiệu quả mong muốn. Trong quá trình thi công xây lắp, cần sử dụng những loại vật liệu, vật tư đúng quy cách, vật liệu chỉ thay đổi khi có yêu cầu của cơ quan thiết kế, không tuỳ tiện quy cách, chất lượng vật liệu. Điều này làm cho giá dự toán của công trình được đảm bảo theo đúng tiêu chuẩn, đảm bảo chất lượng công trình. Cũng trong quá trình thi công nếu biết tổ chức lao động hợp lý, khoa học, giảm tỷ lệ hao hụt vật tư khi vận chuyển và sử dụng, tận dụng tốt công suất máy móc và thời gian thi công trên công trường.... Thì chắc chắn sẽ hạ được giá thành xây lắp trong xây dựng. Thực tế mà chúng ta thường thấy trong quá trình thi công xây lắp gặp phải là khối lượng phát sinh thêm cần phải xử lý. Nhiều khi trong thanh toán những khối lượng phát sinh thêm, bên B thường khai tăng thêm. Vì vậy, nếu các ban quản lý công trình (bên A) thiếu kinh nghiệm hoặc giám sát thi công không chặt chẽ dễ dàng chấp thuận khối lượng bên B khai không hợp lý, dẫn đến tổn thất lớn mà chất lượng công trình không biết có đảm bảo hay không. Nếu gặp những khối lượng phát sinh thêm mà giá trị dự toán lớn (khoảng 100 triệu đồng) thì cần thành lập hội đồng để tính toán, xác minh lại khối lượng cho chính xác và làm cố vấn cho bên A trong quá trình thanh toán cho bên B. @ Với công tác chuẩn bị sản xuất. Bất cứ công trình xây dựng nào cũng sẽ đến lúc hoàn thành và đưa vào sử dụng nếu như không có trục trặc gì, sản xuất (hay phục vụ) là mục đích cuối cùng của đầu tư xây dựng cơ bản. Muốn công trình được nhanh chóng đưa vào phục vụ nhằm sớm phát huy hiệu quả của đầu tư, thì công tác chuẩn bị sản xuất phải được tiến hành với tiến độ thi công. Nội dung của công tác này gồm: Chuẩn bị về mặt tổ chức quản lý công trình. Chuẩn bị về các văn bản kỹ thuật để sản xuất, để làm căn cứ chỉ đạo. Chuẩn bị máy móc, dụng cụ nguyên liệu. Sản xuất thử: nếu công tác chuẩn bị được làm tốt thì có thể nhanh chóng nâng cao được hiệu quả kinh tế của hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản. Nâng cao chất lượng luận chứng kinh tế kỹ thuật các công trình đầu tư xây dựng cơ bản. @ Thu thập thông tin và xử lý thông tin có liên quan đến công trình đầu tư xây dựng cơ bản. Việc thu thập và xử lý thông tin có thể chia làm hai loại: Nghiên cứu tại chỗ : bao gồm tìm kiếm thông tin, các nguồn tư liệu xuất bản hay không xuất bản việc tìm kiếm những nguồn thông tin đó là phương pháp phổ thông nhất về thu thập thông tin liên quan đến công trình đầu tư xây dựng cơ bản, có thiết kế công nghệ nhập nước ngoài vì nó đỡ tốn kém. Song nó bị hạn chế bởi thông tin chậm và mức độ tin cậy có hạn. Nghiên cứu hiện trường: bao gồm việc thu thập thông tin chủ yếu qua tiếp xúc và điều tra tại hiện trường. Nghiên cứu tại hiện trường là phương pháp quan trọng trong nghiên cứu đầu tư thiết bị công nghệ của nước ngoài. Về mặt trình tự, nghiên cứu hiện trường có thể xác định sau khi đã phân tích sơ bộ đánh giá kết quả nghiên cứu tại chỗ. Xét về tính phức tạp và mức độ chi phí thì nghiên cứu thị trường là hoạt động tốn kém. Do dó, trước hết phải sơ bộ xử lý thông tin thị trường tư liệu sản xuất đã đề cập, chọn ra thị trường có triển vọng. Sau đó mới căn vào kết quả lựa chọn để nghiên cứu hiện trường và lập kế hoạch khảo sát. + Nghiên cứu lập dự án khả thi. Khi nghiên các dự án khả thi cần phải cân nhắc tính toán so sánh kỹ giữa các dự án để có được dự án hiệu quả kinh tế nhất. Ngay trong quá trình lập dự án phải khống chế ước tính số vốn đầu tư hợp lý phải bỏ ra. Lập dự án khả thi phải căn cứ vào quy hoạch tổng thể của từng vùng, từng địa phương, điều kiện kinh tế, xã hội ở nơi sẽ xây dựng công trình. Nghiên cứu dự án khả thi, phải theo đúng các nội dung hướng dẫn chi tiết của Bộ KH & ĐT và Bộ Xây Dựng quy định. Nội dung của bản dự án khả thi phải nêu được các căn cứ để xác định sự cần thiết phải đầu tư, hình thức đầu tư, các phương án địa điểm cụ thể, phân tích lựa chon công nghệ, giải pháp xây dựng, những khó khăn, thuận lợi trong khi xây dựng công trình, nguồn cung cấp nguyên nhiên vật liệu, nhân lực. Dự án khả thi càng chi tiết, có độ chính xác cao thì khả năng tiết kiệm vốn đầu tư xây dựng cơ bản càng lớn. + Thiết kế công trình Các tài liệu về thăm dò khảo sát địa hình, địa chất thuỷ văn, khí tượng và nhưng tài liệu khác để thiết kế xây dựng công trình phải do tổ chức chuyên môn có đủ tư cách pháp nhân lập theo quy định tiêu chuẩn kỹ thuật của Nhà nước ban hành. Nếu áp dụng tiêu chuẩn kỹ thuật của nước ngoài thì phải được Bộ Xây Dựng chấp thuận. Khả năng tiết kiệm vốn đầu tư, nâng cao hiệu quả của công trình xây dựng cơ bản trong giai đoạn thiết kế có nhiều và có thể thực hiện được. Nếu nghiên cứu lựa chọn được công nghệ hợp lý và có được phương án kiến trúc và kết cấu tốt thì có khả năng tiết kiệm được từ 5-15% vốn đầu tư. Trong khi đó khâu thi công xây dựng dù có kiểm tra theo dõi chặt chẽ, quản lý tốt các định mức kinh tế kỹ thuật thì cao lắm có thể giảm được một vài % vốn đầu tư. Thiết kế công trình là khâu quan trọng, nó không chỉ quyết định tới độ bền tuổi thọ của công trình, mà còn quyết định cả việc vận hành, khai thác sau này có dễ dàng thuận lợi hay không. Đây là giai đoạn thể hiện đầy đủ nhất ý tưởng của một dự án khả thi được phê duyệt. Cần nghiên cứu để lựa chọn được dây chuyền công nghệ hợp lý, có kỹ thuật tiên tiến, phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội và phương pháp quản lý hiện tại. Sau đó với dây chuyền này ta xem xét chọn tổng thể mặt bằng công trình thiết kế kiến trúc và tính toán kết cấu công trình. Có như vậy không những giảm được chi phí về thiết kế đồng thời tiết kiệm được đất xây dựng, bớt đi được các diện tích xây dựng không cần thiết. Với các công trình xây dựng có chuyển giao công nghệ của nước ngoài thường chúng ta mua luôn cả thiết kế, kiến trúc và kết cấu. Những loại công trình này cũng làm tăng vốn đầu tư xây dựng cơ bản vì có nhiều hạng mục công trình thừa thiết kế không phù hợp với tiêu chuẩn. áp dụng hình thức đấu thầu tư vấn khảo sát, thiết kế xây dựng, nhằm khắc phục tình trạng trả giá đắt cho việc chuyển giao công nghệ cho các công trình xây dựng của tỉnh góp phần tiết kiệm vốn đầu tư xây dựng cơ bản cho nhiều công trình. Khi tính tổng dự toán công trình cần phải xem xét đầy đủ các yếu tố cấu thành của bản dự toán kỹ lưỡng, những khối lượng khó lường trước để tránh phải điều chỉnh, bổ sung dự toán quá nhiều lần tạo ra kẽ hở trong quản lý vốn đầu tư. Quy trình dự toán phải căn cứ vào đơn giá, định mức kinh tế, kỹ thuật của Nhà nước đã ban hành, tránh chủ quan tuỳ tiện gây thiệt hại cho ngân sách. 8. Một số kiến nghị: Để nâng cao hiệu quả đầu tư xây dựng cơ bản và thực hiện tốt những mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của Hưng Yên trong những năm tới, em mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị sau: - Đề nghị với Nhà nước: Đầu tư mạnh cho kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội với tỷ lệ vốn cao hơn so với các tỉnh đã ổn định trong vùng. Để tạo sự phát triển mạnh về mọi mặt, nhanh chóng hoà nhập với các tỉnh trong khu vực và cả nước. - Thực hiện chặt chẽ công tác đấu thầu để tiết kiệm tài chính và đảm bảo chất lượng cong trình. Phải thực hiện đấu thầuvới tất cả các công trình, trừ những công trình quan trọng có quyết định của Nhà nước, để nâng cao hiệu quả tránh những tiêu cực xảy ra. - Đối với địa phương: Cần tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi hơn để thu hút các nguồn vốn đầu tư, thực hiện chính sách xã hội hoá đầu tư, khuyến khích nhân dân bỏ vốn đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn, góp vốn cùng với Nhà nước xây dựng các công trình trọng điểm tạo tiền đề phát triển kinh tế xã hội. Kết luận Trong những năm qua nền kinh tế Hưng Yên đã có nhiều thay đổi, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, các chỉ tiêu kinh tế xã hội đề ra đều đạt ở mức cao, thậm chí vượt kế hoạch, đời sống nhân dân trong tỉnh ngày càng được cải thiện. Hưng Yên đang từng bước chuyển mình hoà nhập với xu thế phát triển chung của đất nước và trong khu vực... Những năm đầu của thế kỷ XXI sẽ diễn ra những biến đổi nhanh chóng trong nhiều lĩnh vực trên phạm vi toàn cầu. Nền kinh tế thế giới sẽ có bước phát triển khá nhanh theo xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá, hình thành các cực và các trung tâm phát triển có vai trò chi phối nền kinh tế thế giới. Bước tiến ngày càng nhanh của khoa học công nghệ sẽ thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng của ngành sản xuất, dịch vụ có hàm lượng khoa học công nghệ cao, đi liền với việc tăng cường đầu tư vào lĩnh vực xây dựng cơ bản nhằm tạo cơ sở hạ tầng vững chắc, tạo ra môi trường hấp dẫn thu hút đầu tư nước ngoài. Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm, cùng với định hướng phát triển kinh tế xã hội của đất nước đã tác động trực tiếp tới sự phát triển kinh tế của tỉnh. Hưng Yên được sự quan tâm của Nhà nước và sự nỗ lực của cán bộ và nhân dân trong tỉnh, Hưng Yên đã tăng cường đầu tư xây dựng cơ bản vào nhiều lĩnh vực nhằm tạo ra tiềm lực lớn cho sản xuất kinh doanh, dịch vụ... Trong hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản của tỉnh đã đạt được một số thành tựu nhất định. Song hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản còn nhiều tồn tại vẫn chưa được giải quyết. Do đó, việc phân tích đánh giá tình hình đầu tư xây dựng cơ bản và đưa ra được những giải pháp khắc phục có vai trò rất quan trọng. Vì vậy đề tài này tập trung nghiên cứu tình hình đầu tư xây dựng cơ bản và đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn tỉnh Hưng Yên góp phần vào việc thực hiện thắng lợi quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội tỉnh Hưng Yên đến năm 2010. Do còn hạn chế về kinh nghiệm thực tế, thời gian thực hiện có hạn, đề tài này không tránh khỏi những thiếu sót, em mong nhận được sự góp ý và giúp đỡ của thầy cô giáo và các bạn. Em xin chân thành cảm ơn thầy cô giáo, đặc biệt là cô giáo Trần Mai Hương cùng các bác, các cô, các chú... đã tạn tình giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. Danh mục tài liệu tham khảo Kinh tế xây dựng trường ĐH Xây dựng Kinh tế đầu tư trường ĐH Kinh tế quốc dân Lập và quản lý dự án trường ĐH Kinh tế quốc dân Tạp chí tài chính tháng 8/1998, tháng 5/1999, tháng 7/2000 Tạp chí xây dựng số 2/2000 Kinh tế và dự báo số 11 - 12 năm 2000 Chiến lược phát triển kinh tế Hưng Yên Niên giám thống kê Hưng Yên, báo Hưng Yên Nghị định 52 ngày 8/7/1999 và Nghị định 88 ngày 1/9/1999, Nghị định 14 ngày 5/2/2000 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29070.doc
Tài liệu liên quan