Thực trạng và giải pháp về sự chuyển biến cơ cấu tổ chức và hoạt động công đoàn ngành đường sắt Việt Nam

Phần 1: Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong 15 năm qua phát huy những truyền thống quý báu của các thế hệ cha anh đi trước, giai cấp công nhân Việt Nam và tổ chức Công đoàn Việt Nam tiếp tục đi đầu và có nhiều đóng góp to lớn vào những thành tựu của công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Nhiệm vụ của các Đại hội VI,VII,VIII của Đảng đề ra đã được hoàn thành về cơ bản. Nước ta đã vượt ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, tuy còn một số mặt chưa vững chắc. Nhiệm vụ đặt ra c

doc105 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1209 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp về sự chuyển biến cơ cấu tổ chức và hoạt động công đoàn ngành đường sắt Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho CNH- HĐH đã cơ bản hoàn thành, con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng vừa qua đã đề ra đường lối phát triển kinh tế đó là “Đẩy mạnh CNH- HĐH, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa Đất nước ta trở thành một nước công nghiệp…từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân với mục tiêu chung là “Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đó cũng chính là sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ mới hiện nay. Chính vì vậy việc xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam không ngừng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng để tiếp tục giữ vị trí tiên phong, vai trò lãnh đạo trong giai đoạn mới là một vấn đề quan trọng có ý nghĩa chiến lược nhưng cũng là vấn đề cấp bách. Đó là công việc của cả hệ thống chính trị, trong đó Công đoàn có vai trò và trách nhiệm lớn lao bởi Công đoàn là một tổ chức chính trị- xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong xã hội. Tổ chức Công đoàn sinh ra từ giai cấp, tồn tại vì giai cấp công nhân. Từ khi ra đời đến nay, giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam đã góp phần to lớn và xứng đáng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật tạo tiền đề cho sự nghiệp CNH- HĐH.. Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo có ý nghĩa cách mạng to lớn mang tính toàn diện đã tác động mạnh mẽ, sâu sắc đến giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở nước ta. Tổ chức Công đoàn với tư cách là một thành viên trong hệ thống chính trị, với vai trò và chức năng, nhiệm vụ của mình không thể không tự đổi mới, chuyển biến về tổ chức, về nội dung và phương pháp hoạt động để phù hợp với giai đoạn cánh mạng mới với nhiều thuận lợi và thách thức để góp phần tiếp tục và phát huy có hiệu quả vai trò, chức năng của mình, góp phần xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam ngày càng vững mạnh, hoàn thành sứ mệnh lịch sử cao cả mà dân tộc giao phó. Trong nền kinh tế thị trường vận hành theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tổ chức Công đoàn đang còn tiếp tục chuyển biến để ngày càng đáp ứng yêu cầu của phong trào công nhân và hoạt động Công đoàn trong thời kỳ CNH- HĐH đất nước. Về hoạt động có nhiều thay đổi rất quan trọng trong nội dung, hình thức và phương pháp. Những chuyển biến này là tất yếu của Công đoàn trong nền kinh tế thị trường và đang ngày càng được hoàn thiện xứng đáng là tổ chức chính trị- xã hội của giai cấp công nhân, người lao động Việt Nam. Đội ngũ công nhân Đường sắt Việt Nam là một bộ phận cấu thành không thể thiếu được của giai cấp công nhân Việt Nam với những mặt nổi trội đó là “ Kiên cường, bất khuất, thông minh, sáng tạo”, là một đội ngũ có tính kỷ luật, trình độ cao. Đó cũng là những thuận lợi rất cơ bản của Công đoàn Đường sắt Việt Nam trong việc tổ chức các hoạt động của mình, đóng góp không nhỏ vào những thành thành tựu to lớn của ngành Đường sắt đã đạt được trong công cuộc đổi mới được nhân dân ghi nhận, được Đảng và Nhà nước đánh giá cao. Bước vào thời kỳ mới, thời kỳ:“Tiếp tục công cuộc đổi mới, đẩy mạnh CNH- HĐH'', ngành Đường sắt cần nỗ lực phấn đấu phát triển ngang tầm khu vực thì yêu cầu về xây dựng đội ngũ công nhân ngành Đường sắt, nâng cao trình độ, năng lực, trí tuệ, thể lực là một nhiệm vụ cấp thiết đặt ra cho tổ chức Công đoàn Đường sắt Việt Nam. Xuất phát từ những quan điểm khoa học và thực tiễn trên, là sinh viên khoa Xã hội học Trường Đại học Công đoàn nhận thức được tính tất yếu của quá trình chuyển biến đó nên tôi đã chọn đề tài nghiên cứu:“ Sự chuyển biến cơ cấu tổ chức và hoạt động Công đoàn ngành Đường sắt trong sự nghiệp CNH- HĐH.” Đây là một vấn đề khá phức tạp, bản thân người nghiên cứu tập hợp vấn đề còn hạn chế, chắc chắn khoá luận có những phần lý luận và thực tiễn chưa đáp ứng được yêu cầu và mong muốn. Rất mong nhận được sự hướng dẫn và chỉ bảo của các thầy cô, sự góp ý của bạn bè và các độc giả quan tâm để khoá luận được hoàn chỉnh hơn. 2. ý nghĩa khoa học và thực tiễn 2.1. ý nghĩa khoa học. Nghiên cứu đề tài này giúp ta hình thành quan niệm đúng đắn và khoa học về lý luận và nghiệp vụ công tác Công đoàn trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trong sự nghiệp CNH- HĐH. Đề tài làm rõ tính tất yếu của sự chuyển biến tổ chức và hoạt động Công đoàn để ngày càng đáp ứng yêu cầu của phong trào công nhân và hoạt động Công đoàn. Thông qua nghiên cứu đề tài, phần nào làm sáng tỏ hệ thống các khái niệm, lý thuyết, phương pháp nghiên cứu XHH, đặc biệt là lý thuyết biến đổi xã hội và vận dụng một cách khoa học vào nghiên cứu đời sống thực tế. 2.2. ý nghĩa thực tiễn Đề tài cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xem xét đánh giá thực trạng sự chuyển biến về tổ chức và hoạt động ở Công đoàn ngành Đường sắt Việt Nam trong sự nghiệp CNH- HĐH. Đề tài không chỉ mô tả, phác thảo quá trình chuyển biến đó mà còn đánh giá thực chất quá trình đó, đánh giá vai trò đáng kể mà những đặc điểm kinh tế- xã hội trong diễn biến của thực trạng ấy vào thời điểm hiện tại. Đề tài cũng nhằm chỉ rõ những chuyển biến, đổi mới tổ chức và hoạt động Công đoàn ngành Đường sắt trong tình hình hiện nay là hết sức cấp thiết song không chỉ dừng lại ở đổi mới tư duy, lý luận mà phải đổi mới đồng bộ trên các mặt hoạt động cụ thể nhất là nội dung và phương pháp hoạt động nhằm đẩy mạnh sản xuất phát triển, cải thiện đời sống công nhân, đảm bảo việc làm, nâng cao thu nhập, gắn bó người lao động với tổ chức Công đoàn, thu hút người lao động vào tổ chức,tí, nâng cao hiệu quả hoạt động công tác Công đoàn khắc phục những bất hợp lý để xây dựng tổ chức Công đoàn vững mạnh, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp CNH- HĐH đất nước. 3. Mục tiêu nghiên cứu Đề tài được triển khai nghiên cứu nhằm nhận diện sự biến đổi cơ cấu tổ chức và hoạt động của Công đoàn ngành Đường sắt Việt Nam trong sự nghiệp CNH- HĐH. Đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động hiện nay của Công đoàn Đường sắt Việt Nam, rút ra những ưu điểm cũng như những tồn tại để từ đó đưa ra một số đánh giá và khuyến nghị hợp lý trong tổ chức, tính hiệu quả trong hoạt động để nâng cao vị trí,vai trò Công đoàn ngành Đường sắt Việt Nam trong giai đoạn hiện nay góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu sản xuất kinh doanh của ngành, mục tiêu kinh tế- xã hội của đất nước. 4. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu: 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Sự biến đổi cơ cấu tổ chức và hoạt động Công đoàn ngành Đường sắt Việt Nam 4.2. Khách thể nghiên cứu: Cán cán bộ Công đoàn, các Ban của Công đoàn ngành ĐSVN. 4.3. Phạm vi nghiên cứu: Về không gian: Tại Công đoàn ngành Đường sắt Việt Nam Về thời gian: Từ 1996 đến nay. 5. Phương pháp nghiên cứu: Khoá luận viết trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và phương pháp luận duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác- Lê Nin, đòi hỏi khi nghiên cứu các vấn đề xã hội phải nhìn nhận chúng một cách khách quan trong mối liên hệ và sự vận động của chúng. Đồng thời phải có sự trừu tượng hóa, khái quát hoá đi đến kết luận. Có như vậy mới đảm bảo được tính khoa học, tính chính xác và tính khách quan của vấn đề nghiên cứu. Khoá luận sử dụng phương pháp luận XHH Mác- Lê Nin nói chung và một số phương pháp cụ thể sau: * Phương pháp phân tích tài liệu: Dựa vào các tài liệu nhằm thu thập thông tin theo đối tượng nghiên cứu của đề tài, chủ yếu các tư liệu có liên quan đến sự chuyển biến cơ cấu tổ chức và hoạt động của Công đoàn ngành Đường sắt Việt Nam. Từ đó nhằm nhận diện tổ chức và hoạt động của Công đoàn ngành Đường sắt Việt Nam trong sự nghiệp CNH- HĐH. * Phương pháp phỏng vấn sâu: Phỏng vấn sâu trong Ban tổ chức Công đoàn ngành, một số cán bộ Công đoàn chuyên trách, Chủ tịch Công đoàn cơ sở nhằm thu thập thông tin định tính liên quan đến vấn đề: Sự chuyển biến cơ cấu tổ chức và hoạt động Công đoàn của Công đoàn ngành Đường sắt Việt Nam trong sự nghiệp CNH- HĐH. Ngoài ra còn một số phương pháp quan sát; phương pháp mô tả; phương pháp thống kê; phương pháp so sánh. 6. Giả thuyết nghiên cứu: Sự biến đổi của kinh tế- xã hội dẫn đến sự biến đổi về cơ cấu tổ chức và hoạt động của Công đoàn ngành Đường sắt Việt Nam. Sự biến đổi về cơ cấu tổ chức và hoạt động đã giúp cho Công đoàn ngành Đường sắt Việt Nam ngày càng hiệu quả hơn và ngày càng khẳng định được vị thế của mình. 7. Khung lý thuyết: Đặc điểm KT - XH Sự chuyển biến cơ cấu tổ chức hoạt động Công đoàn ngành ĐSVN Chuyển biến cơ cấu tổ chức Chuyển biến hoạt động Thực trạng tổ chức Thực trạng hoạt động Hiệu quả tổ chức Công đoàn Kết luận và khuyến nghị Phần 2: Nội dung Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài 1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu: Trong sự nghiệp CNH- HĐH đất nước đang đặt ra những yêu cầu cấp thiết không ngừng hoàn thiện và tăng cường sức mạnh của hệ thống chính trị XHCN ở Việt Nam. Các đoàn thể chính trị xã hội trong đó Công đoàn phải ngày càng phát huy mạnh mẽ vai trò của mình trong sự nghiệp CNH- HĐH và thực hiện tốt ba chức năng bảo vệ quyền lợi, lợi ích hợp pháp, tham gia quản lý và tuyên truyền giáo dục cho CNVCLĐ. Do vậy tổ chức Công đoàn phải không ngừng đổi mới để nâng cao hiệu quả hoạt động. Là một bộ phận của cơ cấu xã hội, sự biến đổi của cơ cấu tổ chức và hoạt động Công đoàn là một tất yếu khách quan. Sự biến đổi đó chịu sự chi phối bởi các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Đó cũng là quá trình đấu tranh gắn cái mới với cái cũ, quan điểm mới và cũ trong quá trình sắp xếp tổ chức và hoạt động Công đoàn nhằm phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn khách quan. Qua hơn 15 năm phát triển của nền kinh tế thị trường, đặc biệt trong thời kỳ đẩy mạnh CNH- HĐH đất nước Công đoàn Việt Nam đã có nhiều chuyển biến tích cực về tổ chức và hoạt động xứng đáng là tổ chức chính trị- xã hội của giai cấp công nhân, người lao động Việt Nam. Chính vì thế đã có nhiều tác giả đã nghiên cứu về vấn đề này với nhiều khía cạnh tập trung khác nhau như: “Đổi mới nội dung tổ chức cán bộ và phương pháp hoạt động Công đoàn trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Vũ Oanh- NXB Lao động 1997 “Hoạt động Công đoàn trong giai đoạn mới” của tác giả Hoàng Thị Khánh- NXB Lao động. “ Nhiệm vụ của Công đoàn trong giai đoạn hiện nay”- NXB Lao động 1996. “ Tiếp tục đổi mới tổ chức hoạt động Công đoàn” của Tổng LĐLĐ Việt Nam. “ Đổi mới nội dung, phương pháp hoạt động Công đoàn”của tác giả Nguyễn Đình Thắng- Phó Chủ tịch Tổng LĐLĐ Việt Nam- NXB Chính trị Quốc gia 2003. “ Xây dựng giai cấp công nhân và Công đoàn vững mạnh xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH- HĐH đất nước” của tác giả Đỗ Đức Ngọ- Phó Chủ tịch Tổng LĐLĐ Việt Nam- NXB Chính trị Quốc gia 2003. “ Giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN”của PGS.TS Nguyễn Viết Vượng- UV đoàn Chủ tịch Tổng LĐLĐ Việt Nam- Hiệu trưởng Trường Đại học Công Đoàn chủ biên- NXB Lao động 2003. Có thể nói trên đây là những đề tài nghiên cứu quy mô, khoa học đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau về sự đổi mới, chuyển biến trong tổ chức, hoạt động của tổ chức Công đoàn cũng như dự báo khả năng phát triển có tính quy luật phù hợp với công cuộc đổi mới đất nước, phù hợp với thời kỳ đẩy mạnh CNH- HĐH. Những công trình này đã và đang tiếp tục làm phong phú thêm cơ sở lý luận cũng như hiệu quả thực tiễn cho tổ chức Công đoàn Việt Nam. Chính vì vậy trên tinh thần kế thừa, tiếp thu và phát triển tôi chọn đề tài:“ Sự chuyển biến cơ cấu tổ chức và hoạt động Công đoàn ngành Đường sắt Việt Nam trong sự nghiệp CNH- HĐH” làm khoá luận cho mình. 2. Cơ sở lý luận: Trong những năm đổi mới vừa qua, những thành tựu lớn về kinh tế- xã hội đã tạo ra những thuận lợi cơ bản cho việc xây dựng giai cấp công nhân cũng như hoạt động của tổ chức Công đoàn. Đại hội IX của Đảng đã đề ra mục tiêu đến năm 2020 đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp. Đó là sứ mệnh vẻ vang cuả giai cấp công nhân, là trách nhiệm nặng nề đồng thời lại là cơ hội để tổ chức Công đoàn và mỗi người chúng ta cống hiến và trưởng thành. Trong quá trình xây dựng, phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản lý điều tiết của Nhà nước theo định hướng XHCN đã có nhiều tác động không nhỏ tới sự chuyển biến giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn. Công lao lịch sử to lớn của Mác và Ănghen là sự phân tích cơ cấu xã hội của xã hội TBCN và luận chứng sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Mác chỉ ra rằng, cơ sở tồn tại của các giai cấp và cuộc đấu tranh giữa các giai cấp ấy với nhau là phương thức sản xuất nhất định và những biến đổi xẩy ra trong các phương thức đó. Từ sự phân tích mối quan hệ giữa phương thức sản xuất, chế độ kinh tế với kết cấu XHTB, Mác phát hiện ra lực lượng xã hội hùng hậu có tính năng động cách mạng vĩ đại, đó là giai cấp công nhân hiện đại, giai cấp ra đời cùng với sự ra đời của nền đại công nghiệp có khả năng tập hợp quần chúng nhân dân quanh mình. Phát hiện khoa học đó của Mác đã trở thành cơ sở lý luận, cơ sở phương pháp cho các nhà nghiên cứu khoa học nói chung và nghiên cứu về giai cáp công nhân trong quá trình phát triển của lịch sử: phải thấy được sự biến đổi, phát triển của công nhân từ trong những điều kiện kinh tế. Những quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác- Lê Nin đã cung cấp cho chúng ta cơ sở khoa học và phương pháp luận để phát hiện xu hướng vận động và tác động của cơ chế thị trường đến cơ cấu, chất lượng đội ngũ giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã xác định mục tiêu và nhiệm vụ của nước ta là: “ Căn cứ vào cương lĩnh của Đảng cần tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chính xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc, đẩy mạnh CNH- HĐH”. Để tăng cường động lực cho việc thực hiện nhiệm vụ nặng nề phức tạp hơn trong thời kỳ phát triển mới phải“ Đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ” trên cơ sở đảm bảo sự ổn định chính trị- xã hội và bảo vệ độc lập chủ quyền quốc gia. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng khẳng định: phát triển kinh tế, CNH- HĐH phải được xem là nhiệm vụ trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế 10 năm đầu của thế kỷ XXI. Quán triệt nghị quyết của Đảng Đại hội VIII Công đoàn Việt Nam đã họp tại Hà Nội, nghị quyết Đại hội đã khẳng định:“ Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, công cuộc đổi mới tiếp tục đạt được nhiều thành tựu to lớn, trong đó có sự đóng góp to lớn xứng đáng của giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam. Đội ngũ công nhân, viên chức lao động nước ta đã tỏ rõ bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng và quyết tâm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, nỗ lực vươn lên trong lao động và công tác… giữ vai trò quyết định thúc đẩy kinh tế- xã hội của đất nước, giữ vững ổn định chính trị, an ninh quốc phòng, xứng đáng là giai cấp lãnh đạo cách mạng lực lượng nòng cốt đi đầu trong sự nghiệp CNH- HĐH đất nước vì mục đích“ Dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh”. Đại hội xác định mục tiêu và khẩu hiệu hành động của Công đoàn trong những năm tới là:“ vì sự nghiệp CNH- HĐH đất nước, vì việc làm đời sống, dân chủ và công bằng xã hội, xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn vững mạnh”. Căn cứ nghị quyết Đại hội IX của Đảng bám sát tình hình thực tiễn của đất nước. Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ IX đã đề ra mục tiêu và phương hướng tổng quát của tổ chức Công đoàn trong nhiệm kỳ là:“ Xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh, xứng đáng là lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp CNH- HĐH đất nước và vai trò lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ mơí”…nâng cao năng lực và trình độ cán bộ Công đoàn, đổi mới nội dung và phương pháp hoạt động, xây dựng tổ chức Công đoàn vững mạnh…” với khẩu hiệu của tổ chức Công đoàn trong thời kỳ mới là:“ Xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn vững mạnh, chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của CNVC- LĐ, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc thực hiện thắng lợi sợ nghiệp CNH- HĐH đất nước”. Cùng với sự chuyển biến của giai cấp công nhân, tổ chức Công đoàn Việt Nam cũng đẫ có nhiều chuyển biến trong thời kỳ nước ta tiến hành đổi mới, thời kỳ CNH- HĐH đất nước. Chuyển biến đó thể hiện trong tổ chức, trong nội dung và hình thức hoạt động Công đoàn được bắt đầu từ Đại hội lần thứ VI Công đoàn Việt Nam (1988). Tại đại hội khẩu hiệu hành động đã được đề ra là: “ Việc làm, đời sống, dân chủ và công bằng xã hội”. Đại hội VII Công đoàn Việt Nam( 1993) xác định khẩu hiệu hành động là: "Đổi mới tổ chức và hoạt động Công Đoàn, góp phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc, chăm lo và bảo vệ lợi ích của công nhân, lao động.” Từ khẩu hiệu hành động trên đã xác định mục tiêu hoạt động là: các cấp Công đoàn phải làm cho công nhân, lao động hiểu rõ tình hình khó khăn thuận lợi, vận hội mới của đất nước, hiểu rõ lợi ích của mỗi người, mỗi đơn vị không thể tách rời lợi ích của cộng đồng, của đất nước…các cấp Công đoàng phải động viên công nhân, lao động quyết tâm thực hiện sáng tạo đường lối, chính sách đổi mới kinh tế của Đảng, của đất nước…Những nội dung hoạt động chủ yếu được xác định là: Vận động công nhân, lao động phát huy tinh thần năng động, sáng tạo trong sản xuất, lao động, góp phần phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Vận động công nhân, lao động tích cực góp phần xây dựng Đảng,xây dựng chính quyền văn minh, bảo vệ tổ quốc XHCN Việt Nam. Tham gia xây dựng, giám sát kiểm tra thực hiện chính sách, tăng cường hoạt động xã hội để chăm lo đời sống, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, lao động. Đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục góp phần xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh, tăng cường khối liên minh công nhân- nông dân- trí thức. Tiếp tục đổi mới, nâng cao năng lực và bản lĩnh cán bộ Công đoàn. Tăng cường và mở rộng hợp tác với Công đoàn các nước vì lợi íchcủa người lao động và sự lớn mạnh của Công đoàn Việt Nam. Đại hội VIII đã đề ra mục tiêu hoạt động là xây dựng giai cấp công nhân thời kỳ CNH- HĐH phát triển về số lượng và chất lượng làm nòng cốt trong việc xây dựng khối liên minh vững chắc với nông dân và trí thức, và sức phát triển đoàn viên trong các thành phần kinh tế, tiếp tục xây dựng tổ chức Công đoàn vững mạnh. Đại hội VIII đã tiếp tục đổi mới phương pháp hoạt động Công đoàn trong sự nghiệp CNH- HĐH đất nước là: Từng cấp Công đoàn đã xây dựng chương trình hoạt động phù hợp với mục tiêu yêu cầu thực tiễn của địa phương, ngành, đơn vị cơ sở. Kiên quyết khắc phục một bước bệnh hành chính Nhà nước hoá trong hoạt động Công đoàn. - Nghiên cứu bổ xung, xây dựng và triển khai có hiệu quả quy chế làm việc của BCH Công đoàn, xây dựng quy chế phối hợp giữa Công đoàn với cơ quan chính quyền cùng cấp, Nghị quyết liên tịch với các đoàn thể chính tri – xã hội để phối hợp hành động thực hiện các nhiệm vụ này. - Coi trọng bồi dưỡng kỹ năng hoạt động Công đoàn, kỹ năng thuyết phục vận động quần chúng thương lượng ký kết thoả ước lao động tập thể, phương pháp giải quyết tranh chấp lao động, cách thức đấu tranh bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng cho CNVC-LĐ. Xây dựng cơ chế bảo vệ cán bộ Công đoàn, CNVC-LĐ thẳng thắn đấu tranh chống tham nhũng. Quan tâm đổi mới phong cách lãnh đạo cơ quan thường trực Công đoàn các cấp, phát triển hệ thống thông tin trong hệ thống Công đoàn, chấn chỉnh công tác quản lý kinh tế, tài chính, tài sản Công đoàn phù hợp với nguyên tắc quản lý Nhà nước và Luật lao động. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, khắc phục những thiếu sót trong công tác quản lý tài chính, tài sản và hoạt động kinh tế Công đoàn. Đại hội IX Công đoàn Việt Nam(2003) được tiến hành trong khi mục tiêu CNH- HĐH đang được đẩy mạnh, trong xu thế toàn cầu hoá, với tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp đặt ra và đổi mới nôị dung, phương pháp hoạt động Công đoàn cần quán triệt mục tiêu tổng quản nhằm đảm bảo cho Công đoàn thực hiện tốt chức năng của mình để Công đoàn thực sự đại diện cho lợi ích kinh tế- chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho xu thế phát triển toàn diện của CNXH. Bảo đảm cho Công đoàn Việt Nam hoạt động như một thực thể sinh động của quần chúng đang sáng tạo ra đời sống mới theo đường lối chiến lược của Đảng chứ không phải là tổ chức thụ động, bao cấp chỉ biết làm bề nổi. Đại hội đã đề ra một số nhiệm vụ chủ yếu cho nhiệm kỳ là: Tuyên truyền giáo dục, góp phần xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH- HĐH đất nước và vai trò là lực lượng cách mạng trong thời kỳ mới. Tích cực tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước. Chủ động tham gia xây dựng tổ chức thực hiện và kiểm tra giám sát có hiệu quả việc thực hiện pháp luật, chế độ chính sách có liên quan trực tiếp đến CNVC- LĐ và quy chế dân chủ ở cơ sở, đẩy mạnh công tác chăm lo đời sống, làm tốt chức năng đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của CNVC- LĐ. Tổ chức sâu rộng phong trào thui đua yêu nước, trọng tâm là lao động giỏi, lao động sáng tạo trong CNVC- LĐ, góp phần hoàn thành thắng lợi các mục tiêu kinh tế- xã hội của đất nước. Phát triển đoàn viên và xây dựng tổ chức Công đoàn vững mạnh, đổi mới tư duy và phương pháp hoạt động của tổ chức Công đoàn cho phù hợp với từng loại hình cơ sở, từng cấp Công đoàn nâng cao năng lực và trình độ cán bộ Công đoàn. Mở rộng hoạt động đối ngoại của Công đoàn Việt Nam. Tựu trung lại mục tiêu cụ thể đổi mới nội dung, phương pháp hoạt động Công đoàn trong giai đoạn hiện nay là: Mục tiêu chính trị: Đổi mới nội dung, phương pháp hoạt động Công đoàn là làm cho Công đoàn Việt Nam thực sự là trung tâm tập hợp, đoàn kết giáo dục công nhân, lao động. Để thực hiện tốt vai trò giám sát với Nhà nước, vì lợi ích của giai cấp công nhân, của dân tộc, thông qua hiệu qủa hoạt động giám sát, Công đoàn không chỉ là người đại biểu lợi ích thiết thực nhất, kịp thời nhất của đoàn viên, mà còn của cả nhân dân lao động trong cả nước. Mặt khác làm cho Công đoàn trở thành một tổ chức quần chúng trực tiếp nhất, thường xuyên nhất trong xã hội, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, tham gia xây dựng đường lối chính sách, tổ chức bộ máy, giám sát các đảng viên của Đảng đang hoạt động trong bộ máy Nhà nước, phát hiện những yếu kém của đảng viên. Mục tiêu kinh tế: Làm cho tổ chức Công đoàn trở thành trường học kinh tế, trường học quản lý, quản lý xã hội, và là tổ chức quần chúng đi tiên phong trong sự nghiệp CNH- HĐH đất nước, thúc đẩy nhanh phát triển kinh tế- văn hoá- xã hội tạo nền tảng vững chắc cho đổi mới quản lý Nhà nước, đổi mới hệ thống chính trị, thực hiện thắng lợi mục tiêu “ Dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” Mục tiêu xã hội: Đổi mới nội dung, phương pháp hoạt động Công đoàn làm cho Công đoang trở thành lực lượng tiên phong trong phát huy dân chủ XHCN, từng bước xây dựng xã hội tiến bộ, phát triển, dân chủ, văn minh, xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân”trở thành lực lượng nòng cốt trong xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam, kết tinh được những tinh hoa văn hoá nhân loại, kiên quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội, chống tiêu cực, tham nhũng và các quan điểm, tư tưởng sai trái với đường lối mục tiêu của Đảng. Như vậy trải qua 15 năm đổi mới, Công đoàn Việt Nam đã thực hiện đúng vị trí, phát huy vai trò, thực hiện chức năng là tổ chức chính trị – xã hội của công nhân, lao động Việt Nam trong thời kỳ mới. Có thể nói sự chuyển biến về mọi mặt của tổ chức Công đoàn Việt Nam dựa vào đường lối, quan điểm đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam về kinh tế, chính trị và xã hội. Đồng thời sự chuyển biến đó cũng gắn liền với sự chuyển biến của phong trào công nhân, lao động Việt Nam trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta. Đó là tác nhân, kết quả lôgic và biện chứng của phong trào công nhân và hoạt động Công đoàn. Thông qua sự chuyển biến của phong trào công nhân trong cơ chế thị trường, hoạt động Công đoàn ngày càng gắn liền với thực tiến những yêu cầu đòi hỏi của công nhân lao động, đồng thời hoạt động Công đoàn ngày càng đa dạng, phong phú, càng tăng cường vị trí, vai trò của giai cấp công nhân trong sự nghiệp CNH- HĐJH đất nước. 3. Những chuyển biến về cơ cấu tổ chức của Công đoàn Việt Nam. Một trong những điểm nổi bật nhất của Công đoàn Việt Nam trong cơ chế thị trường là đã có sự thay đổi về lượng và chất trong tổ chức của mình. Sự thay đổi này đã làm tăng thêm sức mạnh của Công đoàn Việt Nam trong thời kỳ đất nước tiến hành phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Sự chuyển biến của Công đoàn Việt Nam trong hơn 15 năm qua trước hết là chuyển từ cơ chế hoạt động hành chính, tập trung xơ cứng sang cơ chế mới đa dạng, phong phú về mặt tổ chức. Trước năm 1988 hệ thống tổ chức của Công đoàn Việt Nam chỉ có ở trong đội ngũ công nhân, viên chức, lao động thuộc biên chế Nhà nước. Hệ thống tổ chức Công đoàn hầu như theo tổ chức của Đảng, chính quyền từ Trung ương xuống cơ sở, Đảng và Nhà nước có những cơ quan, những cấp như thế nào thì Công đoàn Việt Nam cũng có như vậy. Được dập khuân theo tổ chức hành chính, bao cấp và tập trung nên bộ máy của Công đoàn Việt Nam rất cồng kềnh, kém hiệu quả. Trước 1988 Công đoàn Việt Nam tổ chức thành 4 cấp và có đội ngũ biên chế khoảng 18.000 cán bộ, chủ yếu trong thành phần kinh tế quốc doanh. Công cuộc đổi mới của Đảng đặt ra sự cần thiết phải đổi mới hệ thống tổ chức của Công đoàn Việt Nam. Theo đó là: “Cần được đổi mới về tổ chức và hoạt động để thực sự góp phần thực hiện dân chủ và đổi mới xã hội, chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, tham gia cac công việc quản lý Nhà nước với nhân dân”. Trên cơ sở đó Công đoàn Việt Nam đã xác định: Đổi mới tổ chức và cán bộ Công đoàn nhằm thu hút, tập hợp đông đảo CNLĐ trong các thành phần kinh tế tự nguyện ra nhập Công đoàn. Hình thành hệ thống tổ chức phù hợp với hướng chuyển sang cơ chế thị trường, nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy tổ chức Công đoàn. Có thể nói trong những năm đổi mới công tác tổ chức của Công đoàn đã có nhiều biến chuyển mạnh mẽ và dần đần phù hợp với cơ chế thị trường. Sự chuyển biến này được thể hiện ở những điểm sau: Xây dựng cơ cấu tổ chức bộ máy phù hợp với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần Hình thành được hệ thống tổ chức bảo đảm Công đoàn thực hiện được các chức năng nhất là bảo vệ lợi ích chính đáng hợp pháp của công nhân lao động. Đã từng bước thể hiện sự độc lập về tổ chức của tổ chức Công đoàn, đồng thời phù hợp với mối quan hệ với các tổ chức, đoàn thể khác trong hệ thống chính trị- xã hội. Quá trình đổi mới đã quán triệt quan điểm toàn diện, tính hệ thống đồng bộ, thiết thực và có những bước đi phù hợp vững chắc, xuât phát từ yêu cầu phục vụ hoạt động Công đoàn cơ sở. Sự chuyển biến về tổ chức Công đoàn đã trên cơ sở quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ, tự nguyện, tự chủ theo ngành nghề, lãnh thổ hành chính. Tổ chức Công đoàn nhanh chóng chuyển sang hoạt động trong các thành phần kinh tế, đặc biệt là trong các doang nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Sự phát triển Công đoàn đa dạng, phong phú trong tất cả các loại hình kinh tế, các địa bàn, lãnh thổ. Công đoàn cơ sở được quyền chủ động về nội dung, hình thức và phương pháp hoạt động theo điều lệ Công đoàn Việt Nam và Hiến pháp. Sự chuyển biến về tổ chức Công đoàn Việt Nam đã đem lại nhiêù thay đổi rõ rệt đặc biệt là phát triển trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Nếu năm 1993 chỉ có 1.265 Công đoàn cơ sở ngoài quốc doanh thì riêng năm 2000 chúng ta đã phát triển thêm được 2.534 Công đoàn cơ sở ngoài quốc doanh thu hút gần 200.000 công nhân lao động tham gia tổ chức Công đoàn. Để tổ chức Công đoàn phù hợp với cơ chế quản lý điều hành kinh tế nhiều thành phần, Tổng LĐLĐ Việt Nam đã từng bước phân rõ nhiệm vụ và mối quan hệ giữa các cấp Công đoàn, xây dựng lại kế hoạch kiểm tra, đánh giá lại cán bộ, sắp xếp lại bộ máy, tính giảm biên chế. Tuy nhiên do vị trí của thành phần kinh tế quốc doanh nên Công đoàn trong khu vực này vẫn là chủ lực, vẫn đi đầu trong sự nghiệp CNH- HĐH đất nước. Trong cơ chế mới, tổ chức Công đoàn đang còn tiếp tục chuyển biến để ngày càng đáp ứng yêu cầu của phong trào công nhân và hoạt động Công đoàn trong thời kỳ CNH- HĐH đất nước. Sự chuyển biến này là tất yếu của Công đoàn trong nền kinh tế thị trường và đang ngày càng được hoàn thiện trong những năm tới. Công tác cán bộ Công đoàn rất được chú trọng trong hoạt động Công đoàn thời kỳ CNH- HĐH. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: "cán bộ quyết định mọi việc", "cán bộ là tiền vốn của các đoàn thể, là giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành, đồng thời đem lại tình hình dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để có chính sách cho đúng". Bác đặc biệt quan tâm chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ. Thấm nhuần quan điểm"cán bộ là quyết định cho thắng lợi của mỗi phong trào","phong trào nào thì cán bộ đó" nên nhiệm vụ đổi mới công tác cán bộ, sắp xếp lại bộ máy, tinh giảm biên chế rất được chú trọng trong thời gian qua.Đổi mới nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ cơ bản chính trị vững vàng, nhiệt tình công tác, có kiến thức về quản lý kinh tế- xã hội, nắm vững luật pháp, có nghiệp vụ công tác Công đoàn, có năng lực hoạt động thực tiễn và được quần chúng tín nhiệm. Cán bộ Công đoàn phải giữ vai trò then chốt trong việc thực hiện đường lối chính trị, kinh tế, là người trực tiếp truyền đạt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước trong đó thực sự chú ý đến không ngừng nâng cao phẩm chất đạo đức, năng lực công tác, kiến thức về quản lý kinh tế thị trường, pháp luật, xã hội và phương pháp hoạt động xã hội cho cán bộ Công đoàn. Bước vào giai đoạn cách mạng mới, tình hình kinh tế- xã hội của đất nước đang biến chuyển với những yêu cầu mới: Đẩy mạnh CNH - HĐH đưa đất nước trở thành một nước công nghiệp, kinh tế thị trường theo định hướng XHCN với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế khác nhau, xu thế toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế. Những điều đó dặt ra cho tổ chức Công đoàn nhiệm vụ nặng nề, đòi hỏi phải xây dựng đội ngũ cán bộ Công đoàn có đủ trình độ, năng lực,phẩm chất và kiên định để đáp ứng những yêu cầu mới. Trước đòi hỏi đó Công đoàn Việt Nam trở thành một tổ chức chính trị- xã hội d._.uy nhất có trường Đại học, ngày nay trong nền kinh tế thị trường, trường Đại học Công đoàn đã có sự đổi mới từng bước về nội dung, chương trình, hình thức và loại hình đào tạo, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn vững mạnh. Là trường Đại học đa ngành, đa cấp trường đã trở thành trung tâm đào tạo, bồi dưỡng tổ chức Công đoàn, đào tạo nhân lực cho xã hội, góp phần phục vụ cho sự nghiệp CNH- HĐH đất nước. Hiện nay lượng Sinh viên hàng ngày của trường là khoảng 5.500 người, số lượng cán bộ Công đoàn đào tạo tập trung chính quy từ những năm 1996 đến năm 2002 là 1975 ngươì, đào tạo tại chức là 8.552 người. Ngoài ra Tổng LĐLĐ Việt Nam còn đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn tại các trường, các trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Liên đoàn lao động tỉnh, Thành phố, Công đoàn ngành TW và cac lớp bồi dưỡng khác. Nhìn chung những năm qua công tác đào, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn đã có nhiều kết quả như: Nâng cao trình độ, năng lực và phương pháp hoạt động cho cán bộ Công đoàn khi bước vào nền kinh tế thị trường góp phần to lớn vào việc đổi mới hoạt động Công đoàn trong sự nghiệp đổi mới của đất nước. Tuy nhiên sự nghiệp phát triển CNH- HĐH đất nước hiện nay những yêu cầu mới đặt ra cho tổ chức Công đoàn Việt Nam và cán bộ Công đoàn là rất nặng nề và là một thách thức lớn. Bên cạnh những mặt đạt được công tác cán bộ Công đoàn hiện nay còn bộc lộ một số mặt yếu cần khăc phục đó là chất lượng đội ngũ cán bộ Công đoàn tuy đã được nâng lên nhưng nhìn chung chưa ngang tầm nhiệm vụ công tác Công đoàn trong giai đoạn mới, một số cán bộ Công đoàn trình độ thấp, thiếu hiểu biết kinh tế- xã hội, pháp luật, ngoại ngữ, tin học, thậm trí có biểu hiện dân chủ, quan liêu, tình trạng cán bộ Công đoàn vừa thừa vừa thiếu. Cơ chế bảo vệ cán bộ Công đoàn đấu tranh chống lại các biểu hiện tiêu cực còn thiếu khiến cán bộ Công đoàn không nhiệt tâm với công tác. Do đó việc nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ còn thực sự chú trọng, thực hiện tích cực và có hiệu quả để đáp ứng sự nghiệp CNH- HĐH đất nước. 4. Chuyển biến về hoạt động của Công đoàn Việt Nam: Công cuộc đổi mới và sự nghiệp CNH- HĐH đang đặt ra những yêu cầu mới của hoạt động Công đoàn trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Công đoàn Việt Nam đã có những sự thay đổi rất quan trọng trong nội dung, hình thức, phương pháp hoạt động. Với khẩu hiệu: " Việc làm, đời sống, dân chủ và công bằng xã hội", "Đổi mới tổ chức và hoạt động Công đoàn góp phần xây dựng cà bảo vệ tổ quốc, chăm lo và bảo vệ lợi ích của công nhân lao động ", "Vì sự nghiệp CNH- HĐH đất nước, vì việc làm, đời sống dân chủ và công bằng xã hội, xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn vững mạnh", Công đoàn Việt Nam đã tích cực chủ động đổi mới nội dung, phương pháp hoạt động đã hướng về cơ sở, lấy công nhân, viên chức, lao động làm đối tượng vận động, lấy chăm lo bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của công nhân, viên chức, lao động và thúc đẩy sản xuất kinh doanh làm mục tiêu hoạt động. Hoạt động Công đoàn đã bám sát các nghị quyết của nhiệm vụ phát triển kinh tế xã- hội, tâm tư nguyện vọng của đoàn viên công nhân, viên chức, lao động, rất chú trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục chủ nghĩa Mác- Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong công nhân, viên chức, lao động, đào tạo nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ cho công nhân, viên chức, lao động góp phần thực hiện to lớn vào xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh. Các cấp Công đoàn đã tổ chức vận động công nhân, viên chức, lao động đi đầu trong sự nghiệp đổi mới của đất nước, đã chú trọng các phong trào hành động cách mạng như: Phong trào thi đua lao động giỏi; phong trào học tập và nâng cao trình độ; phong trào phát huy cải tiến kỹ thuật, đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu; phong trào giỏi việc nước, đảm việc nhà; phong trào thu đua phục vụ sản xuất nông nghiệp...Có thể nói các phong trào này phản ánh sự đổi mới của hoạt động Công đoàn trong nền kinh tế thị trường, đồng thời đã thu hút được rất đông đảo lực lượng CNVC-LĐ tham gia. Thông qua phong trào đó Công đoàn đã khơi dậy được ý thức trách nhiệm, tinh thần sáng tạo, vượt qua mọi khó khăn của công nhân, viên chức, lao động, mang lại hiệu quả kinh tế xã hội to lớn góp phần củng cố khối liên minh công- nông- trí thức, giữ vững ổn định chính trị- xã hội. Phong trào thi đua trong cơ chế mới đã có nhiều thay đổi, đem lại nhiều gương mặt xuất sắc, xuất hiện hàng vạn tập thể, cá nhân tiêu biểu cho thời kỳ đổi mới. Chỉ tính năm 2001 đã có 1,3 triệu nữ công nhân, viên chức, lao động đạt danh hiệu:" Giỏi việc nước, đảm việc nhà" hay cuộc vận động xây dựng người cán bộ, công chức, viên chức đã thu được 2,5 triệu lượt công chức ký cam kết thu đua hoàn thành nhiệm vụ của mình, để xứng đáng là người "công bộc của dân" Trong hoạt động tham gia quản lý Nhà nước xã hội, vai trò Công đoàn ngày càng cao. Công đoàn đã trở thành một nhân tố quan trọng trong việc hoạch định các chủ trương, chính sách và mọi kế hoạch phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội đặc biệt là vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công nhân, viên chức, lao động. Công đoàn đã tham gia với chính phủ, các bộ, ban ngành và chính quyền các cấp sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước, Công đoàn đã triển khai thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, hướng dẫn giúp đỡ công nhân, lao động, đại diện cho CNLĐ thương lượng ký kết thoả ước lao động tập thể, xây dựng quy chế cơ quan đơn vị, nhằm đảm bảo lợi ích hài hoà cho công nhân, lao động, lợi ích của doanh nghiệp, của cơ quan, lợi ích của Nhà nước. Cũng trong điều kiện kinh tế thị trường, hoạt động ở Công đoàn Việt Nam đã thể hiện ở tính chất xã hội ngày càng cao, tính chất xã hội được thể hiện ở hầu hết các cấp Công đoàn với nhiều nội dung, hình thức đa dang, phong phú và có hiệu quả. Cụ thể như tham gia giải quyết việc làm, đền ơn đáp nghĩa, xoá đói giảm nghèo. Thông qua quỹ " Tấm lòng vàng", Công đoàn Việt Nam đã gây dựng được một chương trình từ thiện có số vốn hàng trăm tỷ đồng, đã thực hiện nhiều công trình mang tính xã hội cao ở khắp mọi miền đất nước, Công đoàn các cấp đã quan tâm đến việc tuyên truyền, vận động công nhân, viên chức, lao động thực hiện nghiêm túc các quy định về an toàn vệ sinh lao động, chú trọng công tác kiểm tra, giám sát thực hiện chế độ, chính sách bảo hộ lao động nên đã góp phần đáng kể vào việc hạn chế tai nạn lao động về bệnh nghề nghiệp. Hoạt động Công đoàn trong giai đoạn mới còn thể hiện ở công tác tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước vững mạnh, Công đoàn đã tuyên truyền, phổ biến và giáo dục cho công nhân, viên chức, lao động thấm nhuần đường lối chủ trương của Đảng. Bồi dưỡng đoàn viên Công đoàn ưu tú, giới thiệu để các cấp uỷ Đảng theo dõi kết nạp, tăng tỷ lệ Đảng viên là công nhân trong Đảng. Công đoàn các cấp đã tuyên truyền vận động giai cấp công nhân đoàn kết thành lực lượng tiên phong tru cột trong khối đại đoàn kết dân tộc. Trong điều kiện mới, các thế lực thù địch luôn dùng các thủ đoạn chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết do đó Công đoàn cần tích cực, chủ động đề ra những nội dung và hình thức hoạt động nhằm tăng cường khối đại đopàn kết dân tộc, làm thất bại âm mưu" Diễn biến hoà bình"của các thế lực thù địch. Về hoạt động đối ngoại của Công đoàn Việt Nam trong những năm qua đã góp phần xây dựng mối quan hệ hữu nghị,bè bạn với giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn trên thế giới. Hiện Công đoàn Việt Nam đã có mối quan hệ với trên 100 tổ chức Công đoàn Quốc gia, gần 30 tổ chức Công đoàn quốc tế, 12 tổ chức Công đoàn phi chính phủ. Trong quan hệ đã có sự chuyển biến về nội dung, hình thức và phương pháp hoạt động góp phần tuyên truyền cho bạn bè năm châu thấy rõ chính sách "Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng, hơp tác cùng có lợi và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau". Có thể nói, nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, sự nghiệp CNH- HĐH và định hướng XHCN đã đạt ra nhiều vấn đề mới cho hoạt động Công đoàn Việt Nam. Qua hơn 15 năm phát triển của nền kinh tế thị trường, Công đoàn Việt Nam đã có nhiều chuyển biến tích cực về tổ chức, về hoạt động, xứng đáng là tổ chức chính trị- xã hội của giai cấp công nhân, người lao động Việt Nam. Tuy nhiên như một tất yếu khách quan, một nhu cầu cấp bách nhất trong tình hình hiện nay tiếp tục đòi hỏi tổ chức Công đoàn tiếp tục đổi mới, chuyển biến về tổ chức, về hoạt động để nâng cao hiệu quả đáp ứng sự nghiệp CNH- HĐH để vượt qua những thách thức trong thời kỳ mới hiện nay đó là: - Trong quá trình xây dựng và phát triển đã có nhiều tác động không nhỏ đến giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn như: + Đội ngũ công nhân, viên chức, lao động có nhiều biến động theo xu hướng có sự chuyển đổi, bổ xung giữa các thành phần kinh tế và có cơ cấu giai cấp công nhân. Trong doanh nghiệp Nhà nước số lượng công nhân viên chức và có xu hướng giảm, số cán bộ quản lý, cán bộ khoa học kỹ thuật, thợ bậc cao đang có xu hướng rời bỏ doanh nghiệp Nhà nước sang các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh. Trong khi đó do hoàn cảnh lịch sử để lại, nhiều doanh nghiệp Nhà nước phải bố trí việc làm cho công nhân lao động có sức khoẻ yếu, tuổi cao, trình độ kỹ thuật, tay nghề kém. + Vấn đề việc làm của người lao động còn khó khăn, sức ép về lao động ngày một tăng. Trong khu vực doanh nghiệp Nhà nước, công nhân lao động thiếu việc làm từ 15- 20%, chưa kể hàng năm có hàng vạn con em công nhân, viên chức, lao động đến tuổi đi làm nhưng không tìm được việc. + Sự phân hoá giầu nghèo trong đội ngũ công nhân, lao động và trong xã hội vẫn đang diễn ra do tác động của nền kinh tế thị trường. Do tác động mạnh mẽ của quá trình hội nhập khu vực và quốc tế, sự tiếp cận với nền kinh tế tri thức, tốc độ hiện đại hoá các ngành, các đơn vị nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh của sự nghiệp CNH- HĐH đất nước. Trong khi trình độ của đội ngũ công nhân, lao động lại chưa theo kịp với yêu càu của quá trình đổi mới, số đông chưa được đào tạo nghề, giác ngộ giai cấp còn hạnh chế, còn có hiện tượng tiêu cực, lười biếng trong lao động, tinh thần trách nhiệm, ý thức tập thể chưa cao, tính tổ chức kỷ luật còn kém, tác phong thiếu khẩn trương, chính xác, chưa phù hợp với tác phong công nghiệp của đội ngũ công nhân hiện đại. Tệ nạn tham nhũng, quan liêu và các tệ nạn xã hội không giảm mà còn có xu hướng ngày một tăng. Đội ngũ cán bộ Công đoàn lực lượng mỏng, kiêm nhiệm nên không thể chuyên sâu được trình độ năng lực chưa đáp ứng được với yêu cầu của nhiệm vụ mới, chưa thích nghi với điều kiện mới. Cán bộ Công đoàn cơ sở bị luân chuyển nhiều, hoạt động còn thiếu kỹ năng lý luận và nghiệp vụ khoa học mà còn nặng nề về kinh nghiệm chủ nghĩa gây tâm lý thât vọng cho đoàn viên Công đoàn. Trong quá trình chuyển sang cơ chế mới, còn thiếu nhiều giải pháp đồng bộ, các điều kiện và cơ chế cho Công đoàn hoạt động thực hiện tốt vai trò, chức năng của mình theo luật định còn thiếu. Đứng trước tình hình trong nước và Quốc tế có nhiều thay đổi, giai cấp công nhân có nhiều biến động, đối tượng của tổ chức Công đoàn mở rộng, tất yếu tổ chức Công đoàn phải được đổi mới cho phù hợp. Những thách thức trên đòi hỏi Công đoàn phải tiếp tục đổi mới, chuyển biến không thể chỉ đổi mới về mô hình tổ chức, hệ thống tổ chức mà cả nội dung và phương thức hoạt động chi phù hợp, phải có nhiều hình thức đa dạng, phong phú nhằm tập hợp công nhân, viên chức, lao động trong tình hình mới. Công đoàn đang đứng trước thách thức làm thế nào vừa bảo vệ được lợi ích hợp pháp chính đáng của công nhân lao động lại vừa khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển? Làm thế nào Công đoàn thực sự trở thành trường học đoàn kết, trường học quản lý, trường học kinh tế, trường học CNXH và Chủ nghĩa Cộng sản của giai cấp công nhân và người dân lao động. 5. Các chức năng của Công đoàn Việt Nam Vai trò và chức năng của Công đoàn có mối liên hệ khăng khít với nhau, xác định chức năng của Công đoàn là làm cho vai trò của Công đoàn ngày càng củng cố và nâng cao, chức năng Công đoàn Việt Nam mang tính khách quan, nó tồn tại không phụ thuộc vào ý chí, nguyện vọng của mỗi đoàn viên, nó được xác định bởi tính chất, vị trí và vai trò cuat tổ chức Công đoàn mà không ai có thể tuỳ tiện gắn cho Công đoàn những chức năng không phù hợp với bản chất mà nếu với chức năng đó thì Công đoàn không có khả năng thực hiện. Song càng không nên cố định một cách cứng nhắc, máy móc chức năng của Công đoàn. Cùng với sự phát triển của xã hội, chức năng Công đoàn cũng phát triển ở mỗi điều kiện lịch sử- xã hội khác nhau, Công đoàn thực hiện những chức năng khác nhau và nó luôn luôn được bổ xung những nội dung mới, ý nghĩa mới. Song sự phát triển của chức năng này không có nghĩa là phủ định, dù các chức năng đã có của Công đoàn mà làm phong phú thêm các chức năng của Công đoàn, tránh sự trì trệ, bảo thủ, đồng thời tránh tư tưởng nóng vội, phủ định một cách vô căn cứ những chức năng của Công đoàn đã được thử thách qua các giai đoạn lịch sử của dân tộc và giai cấp. Các chức năng của Công đoàn gắn chặt với các mặt hoạt động của đời sống xã hội: Sản xuất- kinh doanh; quản lý- kinh tế; chính trị; tư tưởng; văn hoá; xã hội; đời sống vật chất và tinh thần của công nhân, viên chức, lao động. Xác định đúng chức năng của Công đoàn Việt Nam có cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng trong quá trình đổi mới, chuyển biến tổ chức và hoạt động của tổ chức Công đoàn. Nó cũng có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và tư tưởng sâu sắc. Về mặt lý luận nó phản ánh đầy đỷ và toàn diện bản chất của Công đoàn. Về mặt thực tiễn, nó tránh được sự trùng lặp, chồng chéo giữa Công đoàn với Nhà nước và các đoàn thể, các tổ chức chính trị- xã hội khác. Có thể nói chức năng của một tổ chức là sự phân công tất yếu, quy định chức trách một cách tương đối ổn định và hợp lý trong điều kiện lịch sử xã hội nhất định, để phân biệt tổ chức này với tổ chức khác, chức năng của Công đoàn được biểu hiện bằng những phương pháp, những hoạt động chủ yếu để thể hiẹn bản chất và vai trò của Công đoàn trong xã hội. Như vậy chức năng của Công đoàn là khách quan, nó được xác định bởi tính chất, vị trí, vai trò của Công đoàn trong từng giai đoạn cách mạng, ở mỗi thời kỳ lịch sử chức năng của Công đoàn kế thừa, phát triển thêm những nội dung mới, có ý nghĩa lớn. Dưới CNTB, Công đoàn Việt Nam tập hợp công nhân lao động đấu tranh chống lại áp bức của giai cấp tư sản, bảo vệ lợi ích của công nhân lao động. Công đoàn không thể không tập hợp, vận động tuyên truyền giáo dục công nhân, lao động giành quyền lợi dân tộc và giai cấp. Vì vậy việc giáo dục, tuyên truyền đã trở thành một chức năng quan trọng của Công đoàn Việt Nam. Dưới CNXH vị trí của giai cấp công nhân đã thay đổi từ làm thuê sang làm chủ. Chức năng của Công đoàn khác hẳn về chất so với trước đây: + Một là, Công đoàn đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng cho công nhân, viên chức, lao động. + Hai là, Công đoàn đại diện và tổ chức người lao động tham gia quản lý cơ quan đơn vị, tổ chức quản lý kinh tế- xã hội, quản lý Nhà nước. Có trách nhiệm tham gia với Nhà nước phát triển sản xuất, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống văn hoá tinh thần của CNVC-LĐ trong phạm vi chức năng của mình thực hiện quyền kiểm tra,giám sát hoạt động của Nhà nước, đơn vị, tổ chức theo quy định của pháp luật. + Ba là, Công đoàn giáo dục cho công nhân, viên chức, lao động vững tin vào đường lối chính sách của Đảng, vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, cảnh giác đấu tranh với các hiện tượng sai lệch. Giáo dục cho người lao động nhận thức đầy đủ lợi ích của cá nhân gắn liền với lợi ích tập thể, đơn vị, giáo dục pháp luật, giáo dục đạo đức, truyền thống, thẩm mỹ cho CNVC-LĐ. Các chức năng này là một chỉnh thể, một hệ thống đồng bộ, trong đó chức năng bảo vệ lợi ích mang ý nghĩa trung tâm, là mục tiêu hoạt động của Công đoàn, chức năng tham gia quản lý mang ý nghĩa phương tiện, chức năng giáo dục mang ý nghĩa tạo động lực tinh thần để đạt được mục tiêu. 6. Hệ thống lý thuyết và những khái niệm công cụ: 6.1. Hệ thống lý thuyết 6.1.1. Lý thuyết biến đổi xã hội Chủ nghĩa duy vật xem sự biến đổi xã hội là thuộc tính vốn có của mọi xã hội, bởi vì con người không ngừng sáng tạo trong quá trình hoạt động nhằm thoả mãn các nhu cầu ngày càng tăng lên của mình. Điều đó đòi hỏi nghiên cứu xã hội phải hướng vào việc chỉ ra các nguồn gốc biến đổi xã hội chứ không phải tìm kiếm các yếu tố bên ngoài xã hội. Chủ nghĩa duy vật cũng chỉ ra: Sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội thực chất là sự kế tiếp của các phương thức sản xuất, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện, từ thấp đến cao. Về điều này Mác đã viết rõ:" Tôi coi sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên". Động lực quyết định sự tồn tại và phát triển xã hội là một đời sống vật chất. Trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, lực lượng sản xuất luôn vận động và phát triển không ngừng đòi hỏi phải có quan hệ sản suất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, một khi sản xuất trở nên lỗi thời, kìm hãm sự phát triển sản xuất thì tất yếu sẽ dẫn đến cuộc cách mạng xã hội làm thay đổi quan hệ sản xuất cũ và xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Như chúng ta đã biết mọi xã hội đều vận động và biến đổi, sự ổn định của xã hội là tương đối, mang tính tạm thời còn thực tế nó không ngừng biến đổi. Đối với xã hội hiện đại sự biến đổi ngày càng nhanh hơn và rõ hơn. Theo từ điển Xã hội học: Biến đổi xã hội là một quá trình xã hội về những thay đổi trong cơ cấu của một hệ thống xã hội, những thay đổi này liên quan đến các đặc trưng của nó Theo quan niệm khác: Biến đổi xã hội là một quá trình qua đó những khuôn mẫu của các hành vi xã hội, các thiết chế xã hội và các hệ thống phân tầng xã hội được thay đổi qua thời gian. Căn cứ vào phạm vi ảnh hưởng của biến đổ xã hội người ta có thể chia nó ra làm 2 cấp độ: Biến đổi vĩ mô: Là những biến đổi diễn ra và xuất hiện trên một phạm vi rộng lớn và diễn ra trong thời kỳ dài. Biến đổi vi mô: Đó là những biến đổi nhỏ, nhanh được tạo bởi các quyết định, những hành vi trong quan hệ tương tác của con người trong đời sống hàng ngày. Biến đổi xã hội mang những đặc trưng sau: Thứ nhất, biến đổi xã hội là hiện tượng phổ biến nhưng nó diễn ra không giống nhau giữa các xã hội. Mỗi xã hội đều biến đổi thông qua thời gian ngắn và không có ảnh hưởng lâu dài, nhưng cũng có những biến đổi xã hội cũng khác nhau. Thứ hai, Biến đổi xã hội vừa có tính kế hoạch, vừa có tính phi kế hoạch. Việc vận dụng lý thuyết này vào phân tích sự biến đổi cơ cấu tổ chức và hoạt động của Công đoàn ta cần phải thấy được sự biến đổi đó là một tất yếu khách quan, nó quyết định bởi những điều kiện lịch sử xã hội cụ thể. Là một tất yếu của công cuộc đổi mới, của thời kỳ đẩy mạnh CNH- HĐH ở nước ta hiện nay. Công đoàn là một tổ chức chính trị- xã hội, hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam phù hợp với từng giai đoạn cách mạng cụ thể. Để phù hợp với đường lối của Đảng và Nhà nước cũng như quy luật phát triển chung của xã hội, Công đoàn là một thành phần của cơ cấu xã hội bao gồm yếu tố con người và phương thức tổ chức hoạt động trong khi lực lượng sản xuất phát triển kéo theo quan hệ sản xuất thay đổi thì tổ chức và hoạt động của Công đoàn tất yếu phải chuyển biến theo. Như vậy việc vận dụng lý thuyết này giúp chúng ta có cơ sở khoa học để thấy trong từng giai đoạn phát triển cụ thể của xã hội, tổ chức và hoạt động của tổ chức Công đoàn cũng như các tổ chức khác đều có sự vận động và biến đổi và sự biến đổi đó phù hợp với quy luật chung của xã hội, đáp ứng được những yêu cầu thực tế của lịch sử xã hội. 6.1.2. Lý thuyết cấu trúc chức năng: Lịch sử của lý thuyết này gắn với tên tuổi của các nhà Xã hội học như Auguste Comte,Herbert Spencer,Emile Durkheim,Talcott Parsons. Về mặt thuật ngữ, lý thuyết này còn được gọi là lý thuyết chức năng- cấu trúc hay cấu trúc- chức năng. Dù với tên gọi nào các tác giả của lý thuyết này cũng đều nhấn mạnh đến tính liên kết chặt chẽ của các bộ phân cấu thành nên một chỉnh thể mà mỗi bộ phận đều có chức năng nhất định góp phần đảm bảo sự tồn tại của các chỉnh thể đó với tư cách là một cấu trúc tương đối ổn định, bền vững. Parsons nhà Xã hội học người Mỹ cho rằng: giữa cấu trúc và chức năng có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó cấu trúc giữ vai trò quyết định. Sự thay đổi về mặt chức năng sẽ làm hoàn thiện cấu trúc của nó. Cấu trúc đảm bảo tính cân bằng cho xã hội về mặt chức năng. Với nhà xã hội học Spencer đưa ra khái niệm “cơ thể xã hội”, Theo ông xã hội là một“cơ thể siêu hữu cơ” tương tự như cơ thể sống với các nhu cầu đòi hỏi xuất hiện các cơ quan hoạt động theo nguyên tắc chuyên môn hoá, xã hội chỉ có thể phát triển lành mạnh khi các cơ quan chức năng của xã hội đó đảm bảo thoả mãn các nhu cầu của xã hội. Giữa cơ thể sống và xã hội có điểm giống nhau là đều có khả năng sinh tồn và phát triển, các bộ phận tác động lẫn nhau đến mức nếu có sự thay đổi ở một bộ phận lập tức kéo theo sự thay đổi ở các bộ phận khác. Ông xem xét cơ thể xã hội như là một hệ thống với nhiều phân hệ, những phân hệ này có chức năng khac nhau và chúng phải trao đổi, hoà nhập với nhau, sẽ có chức năng chủ yếu là đảm bảo sự thích ghi của cơ thể với điều kiện ngoại cảnh, có những phân hệ chuyên về quy tắc và kiểm tra cả về đối nội và đối ngoại. Thuyết chức năng hướng vào giải quyết bản chất của cấu trúc xã hội, đối với bất kỳ sự kiện, hiện tượng xã hội nào, những người theo lý thuyết chức năng đều hướng vào việc phân tích các thành phần cấu tạo nên cac cấu trúc của chúng, xem các thành phần đó có mối liên hệ với nhau như thế nào và đặc biệt xét mối quan hệ của chúng với nhu cầu chung của sự tồn tại và phát triển của sự kiện hiện tượng đó. Mặt khác, lý thuyết này đòi hỏi phải tìm hiểu cơ chế hoạt động của từng thành phần để biết chúng có chức năng, tác dụng gì đối với sự tồn tại một cách cân bằng, ổn định của cấu trúc xã hội. Vận dụng lý thuyết này vào để ta thấy được hoạt động của Công đoàn Ngành ĐSVN nói riêng và Công đoàn Việt Nam phải nằm trong một hệ thống nhất định. Riêng tổ chức Công đoàn ngành đường sắt Việt Nam mỗi bộ phận đều có chức năng riêng, trong mỗi thời điểm lịch sử cụ thể có cấu trúc tổ chức cũng như hoạt động của Công đoàn ngành cũng có sự thay đổi, chuyển biến để phù hợp và do vậy chức năng cũng thay đổi theo. 6.1.3. Lý thuyết hành động xã hội Theo Parsons, mỗi hành động đều có thể miêu tả bằng ba giá trị cơ bản: Thứ nhất, thực tế tình huống; Thứ hai, những nhu cầu của chủ thể hành động; Thứ ba, sự đánh giá tình huống của chủ thể hành động luôn có xu hướng cân bằng những nhu cầu cá nhân của mình với những đòi hỏi xã hội. Mặc dù Parsos nhận thấy rằng có thể có những xung đột giữa những nhu cầu của chủ thể hành động và những khuân mẫu cần thiết cho sự định hướng nhằm duy trì hệ thống, song ông lại cho rằng các chủ thể hành động luôn sẵn sàng tìm cách dung hoà để luôn giữ được hệ thống trong thế cân bằng. 6.2. Những khái niệm công cụ 6.2.1. Khái niệm cơ cấu Theo từ điển xã hội học:“Cơ cấu là thiết chế, cấu trúc hay cấu hình của một hình thể, trong rất nhiều ngành khoa học thường được định nghĩa là số các yếu tố và các mối liên quan đến các yếu tố này và quan hệ với nhau một cách không ngẫu nhiên, sao cho ta có thể quan sát thấy những quy luật hoặc trật tự nhất định” 6.2.2. Tổ chức Theo từ điển Tiếng việt “Tổ chức” là làm cho một chỉnh thể, có một cơ cấu, một cấu trúc và những chức năng chung nhất định. Theo ngôn ngữ thông thường, Tổ chức được định nghĩa là tổ chức của những người hay sự liên kết của nhiều người hay nhiều nhóm người với nhau nhằm đạt được những lợi ích nhất định của họ. * Tổ chức Công đoàn “Công đoàn là tổ chức chính trị rộng lớn của giai cấp công nhân và người lao động Việt Nam tự nguyện lập ra dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là thành viên trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, là trường học chủ nghĩa xã hội, của người lao động”. Có thể nói Công đoàn là thành tố trong cơ cấu xã hội nói chung và cơ cấu xã hội giai cấp nói riêng. Với ý nghĩa là thành viên của hệ thống chính trị- xã hội, khi đề cập tới tổ chức Công đoàn là đề cập đến tính chất, vị trí, chỗ đứng, mối quan hệ của các tổ chức Công đoàn với các hệ thống chính trị- xã hội cũng như các tổ chức khác trong tổng thể cơ cấu xã hội; cũng là sự đề cập đến hệ thống tổ chức Công đoàn và mối liên hệ giữa các cấp trong hệ thống tổ chức Công đoàn (Tổng LĐLĐ Việt Nam; LĐLĐ Tỉnh; Thành phố trực thuộc TW; Công đoàn ngành trung ương; Công đoàn cấp trên cơ sở; Công đoàn cơ sở. Trong hệ thống Công đoàn cấp trên cơ sở bao gồm: các Công đoàn bộ phận, các tổ Công đoàn và một số ban, tiểu ban quần chúng phụ trách các mảng hoạt động trong phạm vi Công đoàn cơ sở). 6.3. Khái niệm Công đoàn Công đoàn là tổ chức chính trị – xã hội của giai cấp công nhân và của người dân lao động, nằm trong một hệ thống chính trị. Cùng cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo bảo vệ đời sống, quyền lợi của CBCNVC và người lao động khác, tham gia quản lý Nhà nước, tổ chức kinh tế, giáo dục công nhân viên chức lao động và bảo vệ tổ quốc. 6.4. Hoạt động Công đoàn Hoạt động theo từ điển là tiến hành những việc làm có quan hệ với nhau chặt chẽ, nhằm một mục đích nhất định trong đời sống xâ hội. Hoạt động Công đoàn là sự cụ thể hoá việc thực hiện các vai trò, các chức năng của Công đoàn vào hoạt động sản xuất cũng như trong đời sống. Mục đích của các hoạt động Công đoàn là vì: * Sự tồn tại bản thân hệ tổ chức Công đoàn. * Đáp ứng nhu cầu, lợi ích của CNVC-LĐ là đoàn viên Công đoàn. * Thực hiện mục tiêu chính trị – kinh tế – xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng thông qua quần chúng, người lao động. * Góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị – xã hội cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh của đơn vị, doanh nghiệp… Như vậy, cũng như hoạt động của mọi tổ chức xã hội khác, Công đoàn cũng phải nằm trong khuôn khổ, phạm vị quyền hạn của Công đoàn được Hiến pháp và Pháp luật quy định, đồng thời những hoạt động này phải bảo đảm những nguyên tắc cụ thể. Có như vậy mới nâng cao được tính hiệu quả và đáp ứng được những nhu cầu của thực tiễn. Chương 2: Kết quả nghiên cứu 1. Đặc điểm chung về Tổng công ty Đường sắt Việt Nam 1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của ngành ĐSVN Ngành đường sắt Việt Nam trong quá trình hình thành và phát triển đã có bề dầy lịch sử trên 120 năm, nó gắn liền với các thăng trầm của đất nước, gắn bó máu thịt với ý chí đấu tranh kiên cường bất khuất, với quá trình giải phóng, xây dựng và bảo vệ đất nước. Cuối thế kỷ 19 để phục vụ cho âm mưu đô hộ, vơ vét của cải ở Việt Nam bằng việc mở mang các đồn điền, các mỏ thực dân Pháp đã xây dựng mạng lưới giao thông Đường sắt ở nước ta. Năm 1881 tuyến Đường sắt đầu tiên nối từ Sài Gòn đi Mỹ Tho dài 71 km được khởi công và đến năm 1936 tuyến Đường sắt xuyên Việt Bắc- Nam được hoàn thành tạo nên một mạng lưới Đường sắt với tổng chiều dài 2600km. ĐSVN trải qua hơn 120 năm tồn tại và phát triển với nhiều biến động thăng trầm cùng với các giai đoạn cách mạng của đất nước, nhiều thế hệ cán bộ, công nhân ngành Đường sắt đã sống và làm việc từ thân phận nô lệ, kẻ làm thuê được trở thành chủ nhân, được cống hiến vào cuộc đấu trang giải phóng dât tộc, thống nhất Đất nước, đóng góp biết bao công sức, xương máu để duy trì, phát triển ngành ĐSVN. Trong thời kỳ chống chiến tranh phá hoại của Mỹ vào Miền Bắc XHCN, ĐSVN thực sự trở thành mạch máu giao thông quan trọng phục vụ đất nước. Đã có nhiều cá nhân, đơn vị trở thành anh hùng lực lượng vũ trang nhưng cũng có nhiều liệt sỹ đã cống hiến cho cuộc đấu tranh của dân tộc. Ký ức “Qua sông không cầu, chạy tầu không ga” đã trở thành niềm tự hào của ngành Đường sắt. ĐSVN là một ngành kinh tế – kỹ thuật, một ngành sản xuất vật chất đặc biệt có tính đặc thù, mang tính độc lập cao, nằm trong hệ thống giao thông vận tải của cả nước, ngành Đường sắt đòi hỏi phải có sự chỉ huy, thống nhất, tập trung cao, sự phối hợp chặt chẽ giữa các hệ, các đơn vị với hàng vạn CBCN trong ngành. Là một doanh nghiệp của Nhà nước có nhiệm vụ vừa sản xuất kinh doanh, vừa phục vụ các ngành khác, chịu trách nhiệm khai thác và quản lý toàn bộ mạng lưới Đường săt trên cả nước, cung cấp các dịch vụ vân tải hàng hoá và hành khách cũng như các dịch vụ khác. ĐSVN là một ngành có vị trí đăc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, ổn định chính trị, phát triển văn hoá, xã hội, củng cố quốc phòng an ninh của Đất nước, đóng góp quan trọng vào quá trình đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá Đất nước. Từ 1-4-1989, ngành Đường sắt tiến hành công cuộc đổi mới với quyết tâm chấp nhận đối đầu với những khó khăn, thách thức của nền kinh tế thị trường đang bắt đầu hình thành và phát triển có nhiều thành phần kinh tế tham gia, có mặt tích cực và mặt tiêu cực, có may mắn và rủi ro, có hợp tác và cạnh tranh. Thị trường với quan hệ tiền – hàng, kết quả lỗ, lãi trở thành đối tượng quan trọng của sản xuất kinh doanh vận tải Đường sắt. Sau 15 năm đổi mới bên cạnh việc xoá bỏ cơ chế quản lý cũ, đang từng bước xây dựng các cơ chế quản lý kinh tế mới phù hợp với tình hình phát triển sản xuất của ngành nói riêng và của Đát nước nói chung. Kế hoạch vận tải hàng năm được xây dựng từ cơ sở lên, mang tính định hướng có dự báo nhu cầu và diễn biến cụ thể của thị trường và lượng hàng hoá, hành khách, tính hiệu quả kinh tế trong kinh doanh, phấn đấu không ngừng nâng cao tổng doanh thu vận tải, trong đó chú ý đầy đủ yếu tố hàng hoá - hành khách – giá cước ( quan hệ hàng hoá - tiền tệ ) phù hợp với chi phí của ngành, được thị trường chấp nhận. Quá trình đổi mới quan hệ sản xuất và đổi mới kinh tế của ngành đã đặt ra nhiều vấn đề phải giải quyết nhằm chuyển toàn bộ hệ thống quan điểm, chủ trương, giải pháp, các cơ chế, chế độ, quy chế, quy định và tổ chức bộ máy quản lý, điều hành, sắp xếp lao động sang cơ chế mới năng động, linh hoạt, phù hợp hơn với diễn biến của kinh tế thị trường, được CBCNV trong ngành từ trên xuống dưới đồng tình ủng hộ và tích cực thực hiện, nó có ý nghĩa rất quan trọng, góp phần làm thay đổi bộ mặt của toàn ngành và cũng là nền ._.ng đáng với sự tin cậy của CBCNVCLĐ toàn ngành, góp một phần cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới Đất nước, thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH – HĐH đưa Đất nước vững bước tiến tới mục tiêu: “Dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. 2. khuyến nghị Trong suốt quá trình của cuộc cách mạng Việt Nam, tổ chức Công đoàn luôn là trung tâm tập hợp đoàn kết thống nhất của giai cấp công nhân Việt Nam, xứng đáng là chỗ dựa tin cậy nhất của Đảng. Trong những năm đổi mới vừa qua, tổ chức Công đoàn đã tham gia rất có hiệu quả vào công việc xây dựng và thực hiện mọi chủ trương đường lối của Đảng. Tuy nhiên cũng trong quá trình đó vị trí và vai trò của Công đoàn đang có xu hướng đồng nhất với các đoàn thể chính trị – xã hội khác, thậm chí có nơi, có chỗ cấp uỷ Đảng còn có nhiều biểu hiện coi nhẹ vai trò và vị trí giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn. Cơ chế quản lý cán bộ của Đảng hiện chưa tạo điều kiện cho Công đoàn chủ động bố trí sử dụng và thực hiện chính sách đối với cán bộ của mình, nhất là cán bộ chủ chốt ở các cấp, có nơi còn chưa có chính sách thu hút cán bộ Công đoàn. Từ những thực tế đó xin được đưa ra một vài khuyến nghị: Với Đảng: Đảng cộng sản việt Nam đã xác định tổ chức Công đoàn là một đoàn thể chính trị xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân, giai cấp lãnh đạo cách mạng. Chính vì vậy Đảng cần sớm có nghị quyết về giai cấp công nhân trong tình hình mới, tạo điều kiện tốt nhất để xây dựng giai cấp công nhân tạo thành lực lượng chủ đạo đi đầu trong sự nghiệp CNH – HĐH xứng đáng với niềm tin của Đảng, của nhân dân, tránh đồng nhất tổ chức Công đoàn như các tổ chức quần chúng khác. Để Công đoàn hoạt động có vị trí xứng đáng với vai trò, vị trí của giai cấp công nhân, phù hợp với quy định của Hiến pháp và Pháp luật đặc biệt là Luật lao động, Luật Công đoàn, Đảng cần quan tâm lãnh đạo, tạo điều kiện để đại diện Công đoàn tham gia vào các cấp uỷ, quy định Công đoàn tham gia vào Hội đồng quản trị Tổng Công ty và ở các doanh nghiệp cổ phần hoá. Tổ chức Đảng cần xem xét, nghiên cứu để tổ chức Công đoàn được giới thiệu công nhân ưu tú cho Đảng xem xét, kết nạp với vai trò là người giới thiệu thứ hai để tạo điều kiện cho tổ chức Công đoàn hoàn thành tốt hơn nữa công tác xây dựng Đảng. Với Nhà nước Nhà nước cần có chiến lược và kế hoạch xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới, nghiên cứu đổi mới từng bước, toàn diện các chính sách xã hội đối với giai cấp công nhân đặc biệt là tạo việc làm, bảo hộ lao động. Nhà nước cần tạo động lực qua các chính sách tiền lương, chính sách nhà ở, tạo điều kiện cơ hội cho giai cấp công nhân học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ văn hoá, tay nghề. Cần giành một nguồn ngân sách thích hợp để đào tạo cán bộ Công đoàn. Bổ xung cán bộ tiêu biểu từ các phong trào công nhân, xuất thân từ công nhân vào các cơ quan lãnh đạo của Nhà nước và các đoàn thể chính trị – xã hội tương xứng với vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam. Nhà nước cần có các quy chế tạo điều kiện tốt nhất cho Công đoàn tham gia quản lý. Cần ban hành các văn bản pháp lý để bảo vệ cho cán bộ Công đoàn, tạo chỗ dựa cho tổ chức Công đoàn, đặc biệt là cán bộ Công đoàn hoạt động trong thành phần kinh tế phi tập thể. Nhà nước cần có nhiều biện pháp để đảm bảo an toàn lao động cho CNVC-LĐ ngành Đường sắt khi làm việc như chỉ đạo chính quyền địa phương nơi có đường sắt đi qua có biện pháp chống lấn chiếm hành lang an toàn giao thông Đường sắt, chống tệ ném đá lên tầu, hay tệ ăn cắp thiết bị vật tư Đường sắt, đe doạ nghiêm trọng đến an toàn chạy tầu, tính mạng, tài sản của nhân dân và CNVCLĐ ngành Đường sắt. Nhà nước cần sớm ban hành Luật Đường sắt tạo hành lang pháp lý cho CBCNV ngành Đường sắt khi thi hành nhiệm vụ. Với Tổng LĐLĐ Việt Nam và trường Đại học Công Đoàn Tổng Liên Đoàn cần có kế hoạch chỉ đạo cụ thể Công đoàn ngành Đường sắt Việt Nam để xây dựng giai cấp công nhân trong tình hình mới, cần có chính sách thu hút cán bộ Công đoàn cho tương xứng với yêu cầu ngày càng cao của hoạt động Công đoàn. Tổng Liên Đoàn cần sớm có văn bản hướng dẫn về việc tham gia của Công đoàn trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp cũng như hoạt động của tổ chức Công đoàn trong các Công ty cổ phần, công ty TNHH một thành viên mà ngành Đường sắt đã và đang tiến hành mạnh trong thời gian gần đây. Tổng Liên Đoàn cần thống nhất với các cơ quan liên quan sớm có hướng dẫn về chế độ phụ cấp với cán bộ Công đoàn ở các Doanh nghiệp chưa được xếp hạng( ngành Đường sắt hiện đang tồn tại một số Doanh nghiệp chưa được xếp hạng Doanh nghiệp) hay quy định lại hệ số phụ cấp chức vụ của cán bộ hợp lý hơn ví dụ: Cán bộ Công đoàn cấp cơ sở được hưởng phụ cấp tối đa là 0,5 trong khi Phó Chủ tịch Công đoàn cấp trên cơ sở hoặc trưởng Ban Công đoàn ngành chỉ có 0,4. Đề nghị cơ quan liên quan tạo điều kiện đối với một số cán bộ Công đoàn được luân chuyển. Tổng Liên Đoàn cho phép Công đoàn cấp trên cơ sở được thành lập các ban chuyên đề do quy mô, nhiệm vụ và đặc thù của ngành.Tăng định biên cho Công đoàn Đường sắt do chuyển đổi mô hình tổ chức của chuyên môn với nhiều chức năng và nhiệm vụ mới nặng nề hơn. Tổng LĐLĐ và trường Đại học Công đoàn cần có mở hình thức đào tạo Đại học bằng II cho cán bộ Công đoàn đã tốt nghiệp Đại học chuyên ngành khác, mở lại hệ đào tạo trung cấp lý luận chính trị để kết hợp đào tạo cho cán bộ Công đoàn trong thời gian học tập tại trường đảm bảo cho cán bộ có đủ trình độ về luận chính trị và lý luận nghiệp vụ Công đoàn. Đối với cán bộ chủ chốt của Công đoàn cơ sở nên có quy định đào tạo, bồi dưỡng bắt buộc và do trường Đại học Công đoàn đảm nhận để nâng cao chất lượng với cơ sở thiết yếu, quan trọng nhất của tổ chức Công đoàn. Cần có quy định tập huấn bắt buộc đối với đội ngũ giảng viên kiêm chức cập nhật kịp thời kiến thức về mọi mặt cho đội ngũ này đảm bảo công tác bồi dưỡng, tập huấn tại cơ sở đi vào nề nếp, nâng cao chất lượng. Với Tổng công ty Đường sắt Việt Nam - Cần có kế hoạch cụ thể để thực hiện tốt các cam kết phối hợp công tác năm 2004 giữa Tổng giám đốc Tổng công ty ĐSVN và Ban thường vụ Công đoàn ĐSVN. Chỉ đạo các đơn vị thành viên thực hiện tốt các cam kết và thoả ước lao động tập thể đã ký kết ở cơ sở. - Nhanh chóng kiện toàn bộ máy chuyên môn sau khi chuyển đổi mô hình tổ chức của Tổng công ty. Có kế hoạch cụ thể phối hợp với Công đoàn Đường sắt Việt Nam, đối với các Doanh nghiệp chuẩn bị cổ phần hoá. Tạo điều kiện để hội thi “ Giám đốc giỏi với Pháp luật lao động và chế độ chính sách” lần thứ nhất được thực hiện, tạo điều kiện tối ưu về thời gian,về chính sách hỗ trợ để cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng đặc biệt là cán bộ nguồn. Cần nghiên cứu đề nghị với các cơ quan hữu quan xem xét mở rộng thang lương với chức danh trưởng tầu hiện chỉ có 4 bậc từ 1,92 đến 2,92 chưa tương xứng với vị trí, vai trò của người lao động. Với Công đoàn ngành Đường sắt Việt Nam Cần kết hợp với các bộ phận liên quan đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền giáo dục công nhân viên chức lao động tránh các hành vi tiêu cực, vi phạm an toàn chạy tầu, tinh thần thái độ kém làm ảnh hưởng đến kết quả sản xuất kinh doanh và uy tín của ngành. Tiếp tục tăng cường chất lượng Đại hội CNVC, nhân rộng các hình thức dân chủ công khai như tổ chức “mở rộng hình thức đối thoại","trả lời chất vấn ngay tại hội nghị". Phân công rõ ràng, giao trách nhiệm cụ thể hơn cho các cấp Công đoàn trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn hàng năm, tiến hành rà xét lại trình độ cán bộ Công đoàn từ tổ trưởng Công đoàn trở lên.Có kế hoach thực hiện tốt chủ trương bồi dưỡng tập huấn nghiệp vụ Công đoàn cho 100% cán bộ Công đoàn từ cấp tổ tới cấp cơ sở. Cần xây dựng và công khai tiêu chuẩn cán bộ Công đoàn làm cơ sở tuyển chọn cán bộ. Cần có kế hoạch phát triển công tác đối ngoại, đặc biệt với Công đoàn Đường sắt các nước trong khối ASEAN, sẵn sàng cho công tác hội nhập Đường sắt xuyên á, có kế hoach đẩy mạnh công tác kiểm tra việc chấp hành Luật lao động, Luật Công đoàn, chính sách pháp luật và công tác thu chi tài chính của Công đoàn các cấp. Hà nội, ngày 14 tháng 5 năm 2004 Sinh viên thực hiện Đỗ Văn Hoà Tài liệu tham khảo 1. Các Mác - F.Ăngghen, Bàn về Công đoàn, NXB Lao động, Hà nội. 1996 2. Hồ Chí Minh với công nhân và Công đoàn, NXB Lao động, Hà nội 1985 3. Văn kiện Đại hội Đảng Cộng Sản Việt nam lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, 2001 4. Văn kiện Đại hội Công đoàn Việt nam lần thứ IX, NXB Lao động, H. 2003 5. Tổng LĐLĐ Việt nam, Xu hướng biến động giai cấp công nhân Việt nam trong những năm đầu thế kỷ XXI, NXB Lao động, Hà nội.1998 6. Tổng LĐLĐ Việt nam, Những vấn đề công tác tổ chức và cán bộ Công đoàn, NXB Lao động, Hà nội.1998 7. Trường Đại học Công đoàn, Giáo trình Lý luận và nghiệp vụ Công đoàn, NXB Lao động, Hà nội. 1999 8. Trường Đại học Công đoàn, Kỷ yếu hội thảo khoa học giai cấp công nhân và Công đoàn Việt nam trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, Hà nội.2002 9. Trường Đại học Công đoàn, Kỷ yếu hội thảo khoa học Thực trạng và phương hướng nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn, H.2003 10. PGS.TS Nguyễn Viết Vượng (chủ biên ), Giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt nam trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, NXB Lao động, Hà nội.2003 11. Công đoàn giáo dục Việt nam, 3/4 thế kỷ Công đoàn Việt nam xây dựng và phát triển, NXB Chính trị quốc gia, 2003 12. Vũ Oanh, Đổi mới nội dung tổ chức cán bộ và phương pháp hoạt động của Công đoàn trong giai đoạn hiện nay, NXB Lao động, Hà nội.1997 13. Mai Thanh, Định hướng XHCN với giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt nam, NXB Lao động, Hà nội.2002 14. Gunter Endrweit và G. Trommsdortff (Nguyễn Hoài Bão dịch), Từ điển Xã hội học, NXB Thế giới, Hà Nội. 2002. 15. Nhập môn lịch sử Xã hội học, NXB Thế giới, Hà nội.1997 16. GS. Phạm Tất Dong - TS. Lê Ngọc Hùng ( đồng chủ biên), Xã hội học, NXB giáo dục, 1999 17. Gunter Endrweit (chủ biên), Các lý thuyết Xã hội học hiện đại, NXB thế giới, Hà nội.1999 18. Nguyễn Quang Hà, Lý thuyết Xã hội học hiện đại, NXB Chính trị quốc gia, Hà nội.2000 19. Gunte Buschges, Nhập môn Xã hội học tổ chức, NXB thế giới, Hà nội.1996 20. Luật Công đoàn Việt nam, NXB Lao động 21. Điều lệ Công đoàn Việt nam, NXB Lao động 22. Liên hiệp ĐSVN, Đường sắt Việt nam 10 năm đổi mới, Hà nội.1999 23. Báo cáo Đại hội Công đoàn ĐSVN lần thứ 10, 11, 12. 24. Báo cáo tình hình Sxkd 2001, 2002, 2003.Nhiệm vụ 2004 của TCT ĐSVN. 25. Báo cáo tình hình phong trào CNVC và hoạt động Công đoàn ĐSVN 2000,2001,2002,2003.Nhiệm vụ trọng tâm 2004 của Công đoàn ĐSVN. 26. Báo cáo công tác bồi dưỡng cán bộ 2002,2003 và nhiệm vụ 2004. 27. Báo cáo công tác tổ chức và cán bộ của Công đoàn ĐSVN và một số tài liệu khác. Mục lục Trang Những chữ viết tắt CNVC- LĐ : Công nhân viên chức, lao động CBCNV : Cán bộ công nhân viên CNLĐ : Công nhân lao động CNVC : Công nhân viên chức CNH- HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hoá LĐLĐ : Liên đoàn lao động ĐSVN : Đường sắt Việt nam BCH : Ban chấp hành UBKT : Uỷ ban kiểm tra CNXH : Chủ nghĩa xã hội CNTB : Chủ nghĩa tư bản T.W : Trung ương CĐ : Công đoàn SXKDxkd : Sản xuất kinh doanh TCT : Tổng công ty TGĐ : Tổng giám đốc NXB : Nhà xuất bản Lời cảm ơn Sau ba tháng thực hiện, khoá luận"Sự chuyển biến cơ cấu tổ chức và hoạt động Công đoàn ngành đường sắt trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá"đã được hoàn thành với sự giúp đỡ tận tình của Thầy cô, các cán bộ Công đoàn ngành đường sắt, cùng bạn bè. Nhân dịp này, em xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Nguyễn Viết Vượng - Uỷ viên Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam - Hiệu trưởng Trường Đại học Công đoàn đã hướng dẫn, cung cấp cho em những tri thức và kinh nghiệm quý báu trong suốt quá trình nghiên cứu để em hoàn thành khoá luận này. Em xin chân thành cảm ơn các Thầy giáo, Cô giáo trong và ngoài trường Đại học Công đoàn đã tạo nhiều điều kiện giúp đỡ cho em trong suốt những năm học tập tại trường cũng như trong thời gian viết khoá luận. Xin cảm ơn đồng chí Mai Thành Phương - Trưởng ban cùng toàn thể cán bộ Ban tổ chức Công đoàn ngành đường sắt Việt Nam đã tạo điều kiện, cung cấp nhiều số liệu, giúp đỡ và đóng góp những ý kiến làm khoá luận phong phú, thiết thực hơn. Do thời gian và trình độ còn hạn chế, chắc chắn trong khoá luận này còn có những thiếu sót nhất định. Rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp và chỉ bảo của các Thầy cô và các bạn. Em xin chân thành cảm ơn! Hà nội, tháng 5 năm 2004 Sinh viên Đỗ Văn Hòa Phụ lục: Phỏng vấn số 1 Người phỏng vấn: Đỗ Văn Hoà. Người được phỏng vấn: Mai Thành Phương Tuổi: 41 Trình độ học vấn: Đại học Chức vụ: Trưởng Ban tổ chức cán bộ Công đoàn ngành Đường sắt Việt Nam Hỏi: Xin anh cho biết làm việc từ năm nào và tham gia công tác Công đoàn từ khi nào? Trả lời: Tôi vào đây làm việc từ năm 1996 sau đó làm công tác thanh niên rồi chuyển sang công tác Công đoàn từ năm 2000. Hiện đang làm Trưởng Ban tổ chức cán bộ Công đoàn ngành. Hỏi: Anh cho biết ngành Đường sắt Việt Nam có bao nhiêu công nhân viên chức lao động và số lượng người tham gia tổ chức Công đoàn là bao nhiêu. Trả lời: Số lượng công nhân viên chức lao động của toàn ngành là 44.813 người trong đó số lượng người tham gia tổ chức Công đoàn là 43.678 đoàn viên Công đoàn. Hỏi: Như thế còn gần 1.200 lao động chưa tham gia vào tổ chức Công đoàn vậy anh có cho rằng công tác phát triển đoàn viên của các cấp Công đoàn cần phải đẩy mạnh hơn nữa không? Trả lời: Công tác phát triển đoàn viên Công đoàn của các cấp hiện theo tôi là làm rất tốt 100% CNVC - LĐ có thời hạn từ 1 năm trở lên đều tham gia vào tổ chức Công đoàn kể cả trong các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Số lượng gần 1.200 lao động chưa tham gia vào tổ chức Công đoàn này là số lao động hợp đồng ngắn hạn theo thời vụ từ dưới 6 tháng trở xuống. Hỏi: Được biết cơ cấu tổ chức Công đoàn ngành hiện nay có nhiều thay đổi về tổ chức, về đội ngũ cán bộ. Xin anh nêu khái quát một vài thay đổi so với trước đây. Trả lời: So với trước đây cơ cấu tổ chức của Công đoàn ngành Đường sắt đã có nhiều thay đổi đặc biệt thời gian qua cơ cấu tổ chức của Công đoàn ngành đã phù hợp với sự chuyển đổi cơ chế quản lý. Công đoàn ngành từ 28 đầu mối trực thuộc đã nâng lên 63 đầu mối trực thuộc. Về đội ngũ cán bộ từ 40% cán bộ Công đoàn chuyên trách có trình độ Đại học trước năm 1996 hiện nay đã được nâng lên là 89% và 84,2% có trình độ cao cấp, trung cấp lý luận chính trị. Trong Ban Chấp hành Công đoàn ngành có 100% trình độ đại học, trong đó có 40% là Đại học Công đoàn và 100% có trình độ lý luận chính trị đủ trình độ đáp ứng sự nghiệp đổi mới của ngành. Hỏi: Như vậy sự thay đổi cơ cấu tổ chức đã phù hợp với nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của ngành trong giai đoạn hiện nay không? Trả lời: Tôi cho rằng sự thay đổi đó là phù hợp. Việc bỏ bớt cấp trung gian của 35 Công đoàn cơ sở tạo điều kiện cho Công đoàn ngành sát hơn với cơ sở. Hỏi: Hiện được biết các cấp Công đoàn đang lấy chức năng bảo vệ lợi ích CNVC - LĐ làm trọng tâm. Vậy anh cho biết việc triển khai cụ thể thiết thực chức năng đó như thế nào? Trả lời: Việc bảo vệ lợi ích hợp pháp chính đáng của CNVC - LĐ luôn được các cấp Công đoàn xác định là mục tiêu quan trọng nhất trọng tâm của hoạt động Công đoàn. Nó được lồng ghép trong nhiều hoạt động từ tham gia quản lý sản xuất kinh doanh đến chăm sóc sức khoẻ người lao động, từ tham gia xây dựng chế độ chính sách đến việc đại diện người lao động ký kết thoả ước lao động tập thể v.v... Ví dụ như việc tiến hành điều tra đánh giá về hoạt động chăm sóc sức khoẻ của mạng lưới Y tế cơ sở trong toàn ngành, tập trung và đưa ra 41 kiến nghị có liên quan đến điều kiện nâng cao sức khoẻ cho người lao động. Hay thường xuyên đi sâu kiểm tra phát hiện những bất hợp lý trong sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội để kiến nghị và phối hợp cùng chuyên môn chăm lo thực hiện đầy đủ các chính sách cho người lao động như tổ chức khám sức khoẻ định kỳ, khám chữa bệnh nghề nghiệp, giải quyết đền bù thiệt hại cho các đơn vị do khách quan và sâu sát trong quá trình cổ phần hoá 5 doanh nghiệp. Hỏi: Được biết sau 5 đơn vị đã tiến hành cổ phần hoá và theo kế hoạch năm 2004, các năm tiếp theo sẽ tiến hành thêm nhiều đơn vị nữa, vậy Công đoàn các cấp có hoạt động gì cụ thể để bảo vệ lợi ích người lao động. Trả lời: Cổ phần hoá các doanh nghiệp là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước hiện ngành đã làm tốt ở 5 doanh nghiệp. Trong quá trình này Công đoàn các cấp đã phối hợp rất sát với chuyên môn từ khâu sắp xếp lại đến giải quyết lao động dôi dư. Trước hết Công đoàn tuyên truyền cho công nhân lao động hiểu rõ chủ trương đúng đắn này, sau đó làm việc cụ thể cùng chuyên môn từng trước hợp một. Qua năm doanh nghiệp cổ phần hoá Công đoàn đã phối hợp tốt giải quyết về chính sách cho 398 lao động dôi dư với tổng số tiền là 14 tỷ đồng. Hỏi: Xin anh cho hỏi câu cuối cùng, được biết rất nhiều phong trào thi đua lao động đã được Công đoàn ngành phát động mạnh trong nhiều năm qua như thi đua lao động sáng tạo, thi đua lao động giỏi v.v... Vậy trong đợt thi đua lập thành tích chào mừng Đại hội IX CĐVN vừa qua anh thấy có công trình nào mang ý nghĩa nhất? Trả lời: Phong trào thi đua luôn được các cấp Công đoàn quan tâm đặc biệt và được xác định như là động lực để phát huy được nội lực trong CNVC - LĐ, thúc đẩy sản xuất kinh doanh năm sau phát triển hơn năm trước. Riêng đợt thi đua chào mừng Đại hội IX Công đoàn Việt Nam đã có 146 công trình sản phẩm mang tên “công trình chào mừng Đại hội IX CĐVN” trong đó đặc biệt nhất là công trình thiết kế và chế tạo đoàn tàu kéo đẩy và công trình rút ngắn hành trình chạy tàu khách tuyến Hà Nội - Lào Cai mang ý nghĩa chính trị, lợi ích kinh tế lớn. Xin chân thành cảm ơn anh. Phỏng vấn số 2 Người phỏng vấn: Đỗ Văn Hoà Người được phỏng vấn: Bùi Văn Đáng. Tuổi 57. Trình độ học vấn: Đại học Chức vụ: Chủ tịch Công đoàn Công ty TTTH Đường sắt Hà Nội. Hỏi: Xin chú cho biết bắt đầu làm việc từ năm nào? Trả lời: Chú vào ngành đường sắt từ năm 1965. Hỏi: Chú tham gia hoạt động Công đoàn và trở thành cán bộ Công đoàn từ khi nào? Trả lời: Chú đã tham gia hoạt động Công đoàn từ năm 1980 với vai trò là tổ trưởng Công đoàn, từ năm 1990 đến nay là Chủ tịch Công đoàn Xí nghiệp TTTH số 2 rồi Công ty TTTH Đường sắt Hà Nội. Hỏi: Như vậy chú đã có một thâm niên gần 15 năm trên cương vị là Chủ tịch Công đoàn cơ sở, vậy chú có thấy có chuyển biến nào rõ nét nhất trong hoạt động của Công đoàn? Trả lời: Gần 15 năm trực tiếp làm chủ tịch Công đoàn cơ sở hoạt động phân tán trên địa bàn dài hơn 500km. Chú thấy có một chuyển biến rất rõ nét trong hoạt động Công đoàn đó là việc bảo vệ lợi ích của CNVC - LĐ đang ngày một trở nên quan trọng nhất, được chú ý nhất. Có thể nói đây là một chức năng trung tâm của các cấp Công đoàn hiện nay mà việc thực hiện các chức năng khác cũng chính là để bảo vệ lợi ích người lao động. Trước kia có thể nói tổ chức Công đoàn chưa phát huy hết vai trò bảo vệ lợi ích này bởi hoạt động Công đoàn chưa đi sâu vào các đoàn viên để nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của họ. Hiện nay rất nhiều nội dung hoạt động đều để đạt mục đích bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của người CNVC - LĐ. Hỏi: Xin chú nêu cụ thể đó là những hoạt động gì? Trả lời: Ví dụ như tham gia xây dựng quy chế và Công đoàn xem người lao động thực hiện như thế nào, đúng hay sai để kịp thời có hình thức can thiệp phù hợp, hay tham gia xây dựng quy chế trả lương, xây dựng quy chế về chế độ học tập. Đặc biệt quan tâm đến biện pháp an toàn lao động, phòng chống cháy nổ, trang bị phòng hộ cá nhân, huấn luyện an toàn, vệ sinh lao động và cải thiện điều kiện làm việc và điều kiện cho người lao động v.v... Hoặc xây dựng riêng quỹ cứu trợ của Công đoàn Công ty do Chủ tịch Công đoàn quản lý, một quý xét cứu trợ cho các đối tượng có khó khăn một lần. Hỏi: Là một doanh nghiệp công ích của ngành. Việc mở rộng dịch vụ tăng thu nhập cho người lao động được Công đoàn tổ chức như thế nào? Trả lời: Đúng vậy, Công ty thuộc khối cơ sở hạ tầng nhưng công đoàn luôn chủ động bàn bạc với chuyên môn, Ban Giám đốc đề xuất các kế hoạch tham gia đấu thầu xây lắp. Đặc biệt là công trình đại tu đường dây thông tin, lắp đặt khoá khống chế ghi, khôi phục và làm mới thiết bị đóng đường bán tự động, lắp đặt đèn báo chắn đường ngang dân sinh với giá trị và hiệu quả kinh tế cao. Chính vì vậy doanh thu ngoài sản xuất chính của Công ty là 30% trong khi trung bình của ngành 20%. Xin cảm ơn chú. Phỏng vấn số 3 Người phỏng vấn: Đỗ Văn Hoà Người được phỏng vấn: Lê Hải Yến Tuổi: 39. Trình độ học vấn: Đại học Chức vụ: Cán bộ Công đoàn chuyên trách Công ty Vận tải hàng hoá. Hỏi: Xin chị cho biết chị làm công tác Công đoàn từ năm nào? Trả lời: Tôi làm công tác Công đoàn từ năm 1999, trước đây là phụ trách tài chính và nữ công của Công đoàn Xí nghiệp liên hợp vận tải Đường sắt khu vực 1 gồm 36 Công đoàn cơ sở. Nay sang công tác chuyên trách tại Công ty vận tải hàng hoá có 22 Công đoàn cơ sở thành viên. Hỏi: Vậy có nghĩa là khối lượng công việc bớt đi 1/3. Trả lời: Không phải thế, mặc dù số công nhân Công đoàn cơ sở thành viên có ít đi nhưng địa bàn lại trải rộng khắp đất nước nên đòi hỏi cần phải sát sao hơn đối với các Công đoàn cơ sở thành viên. Mặt khác vẫn thực hiện đầy đủ các chức năng, vai trò Công đoàn trong khi luôn có đổi mới trong nội dung và phương pháp hoạt động để góp phần nâng cao hiệu quả công tác Công đoàn trong sự nghiệp đổi mới của ngành. Hỏi: Chị cho biết việc thay đổi cơ cấu tổ chức theo cơ chế quản lý mới của chuyên môn hiện nay có phù hợp không? Trả lời: Để hiệu quả tổ chức Công đoàn hoạt động tốt theo tôi việc đổi mới cơ cấu tổ chức cho phù hợp cũng là một yếu tố rất quan trọng. Việc đổi mới cơ cấu tổ chức hiện nay đang trong quá trình tổng kết, đánh giá nhưng tôi cho rằng việc thay đổi đó tạo ra sự chuyên môn hoá hơn, tập trung hơn, hợp lý hơn và sát hơn do chỉ tập trung vào một vài lĩnh vực chủ yếu. Hỏi: Được biết chị đảm nhận công tác nữ công, vậy theo chị có những chuyển biết gì trong công tác này? Trả lời: Có thể nói cùng với sự chuyển biến mọi mặt hoạt động của tổ chức Công đoàn hiện nay thì công tác nữ công cũng đang được sự chú ý của các cấp công đoàn. Việc thành lập và duy trì hoạt động với nhiều nội dung phong phú của CLB nữ công nhân khu vực Hà Nội với định kỳ sinh hoạt 2 tháng 1 lần là một ví dụ, và từ hiệu quả hoạt động này đã thành lập tiếp 3 CLB nữ công khác ở các khu vực Yên Bái, Vinh, Quảng Bình. Các cấp Công đoàn đều tổ chức kỷ niệm ngày 8/3, 20/10 và gắn với các chuyên đề như phòng chống ngộ độc thức ăn; bữa ăn dinh dưỡng cho gia đình; tìm hiểu luật an toàn giao thông; liên hoan văn nghệ; thi đấu thể thao; tham quan du lịch. Hỏi: Ngoài những nội dung hoạt động Công đoàn truyền thống như tuyên truyền giáo dục, tổ chức thi đua, tham gia quản lý, bảo vệ lợi ích ra thì chị cho biết trong đổi mới nâng cao hiệu quả tổ chức Công đoàn hiện nay có những nội dung mới nào khác? Trả lời: Để nâng cao vai trò, vị thế của tổ chức Công đoàn hiện tôi thấy có một số nội dung đã được chú ý đó là việc đẩy mạnh các hoạt động xã hội từ thiện, tham gia phòng chống các tệ nạn xã hội và chăm lo đào tạo bồi dưỡng cán bộ đoàn. Cụ thể là Công đoàn ngành đã phân bổ 100 đơn vị đảm nhận 100 mái ngói tình thường, giá trị 300 triệu đồng hỗ trợ nhân dân nghèo tỉnh Quảng Bình. Đóng góp quỹ vì người nghèo 100 triệu đồng, vận động CNVC - LĐ mua công trái giáo dục 3,6 tỷ đồng, trái phiếu Chính phủ để làm giao thông thủy lợi tổng cộng là 5,2 tỷ đồng. Hỏi: Giải quyết tranh chấp lao động cũng là một nội dung vậy vấn đề này đã được quan tâm đúng mức chưa? Trả lời: Nội dung này rất được chú ý nhưng do làm tốt các khâu từ Đại hội CNVC đến ký thoả ước lao động tập thể, ký cam kết phối hợp với chuyên môn v.v... nên theo tôi được biết trong năm vừa qua toàn ngành không xảy ra một vụ tranh chấp lao động nào cần phải giải quyết. Xin cảm ơn chị. Phỏng vấn số 4 Người phỏng vấn: Đỗ Văn Hoà Người được phỏng vấn: Lê Thị Hạ Tuổi: 35. Trình độ học vấn: Trung cấp kỹ thuật Chức vụ: Tổ trưởng Công đoàn phân đoạn KCCB toa xe khách. Hỏi: Chị tham gia hoạt động Công đoàn lâu chưa? Trả lời: tôi mới tham gia hoạt động Công đoàn 2 năm trở lại đây. Hỏi: Tức là từ năm 2002. Vậy động lực nào để chị quyết định tham gia hoạt động Công đoàn khi vẫn phải bảo đảm làm tốt công việc của mình. Trả lời: Trước hết do mọi người tin tưởng giao phó cho nhiệm vụ đó. Ngoài ra bản thân tôi cũng thấy hoạt động Công đoàn trong vài năm lại đây ngày càng trở nên thiết thực cho đội ngũ công nhân lao động chúng tôi, ngày càng gắn bó với các đoàn viên do nhiều nội dung hoạt động phong phú thực sự trở thành chỗ dựa tin cậy của CNVC - LĐ. Hỏi: Vậy thời gian chị dành cho hoạt động Công đoàn vào lúc nào? Trả lời: Cả trong giờ làm việc chuyên môn lẫn ngoài giờ làm việc chuyên môn. Hỏi: Xin chị cho biết một vài hoạt động của Công đoàn cơ sở nơi chị công tác. Trả lời: Công đoàn cơ sở ở đây là một tổ chức lớn với hơn 1800 CBCNVC. Chính vì vậy tại đây có rất nhiều hoạt động với những nội dung phù hợp khác nhau. Cùng với công tác tuyên truyền giáo dục, hoạt động văn hoá nghệ thuật - TDTT, tổ chức tết trồng cây “đời đời nhớ ơn Bác” diễn ra sôi nổi ở các khu vực và cơ sở nhân kỷ niệm các ngày lễ lớn đã thu hút đông đảo CBCNV tham gia tạo không khí vui tươi, phấn khởi, khích lệ CBCNV toàn ngành hăng say, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Ngoài ra nhiều hội thi đã tổ chức định kỳ hàng năm như “Khám chữa toa xe giỏi”, “hoà giải lao động giỏi”, “người phục vụ giỏi thanh lịch” đã tạo điều kiện và động lực cho CNVC - LĐ hăng hái thi đua góp phần hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu sản xuất kinh doanh của ngành đề ra. Xin cảm ơn chị và chúc chị thành công trong công tác hoạt động Công đoàn. Phỏng vấn số 5 Người phỏng vấn: Đỗ Văn Hoà Người được phỏng vấn: Vũ Hồng Phương Tuổi: 31. Trình độ học vấn: Đại học Chức vụ: Cán bộ Công đoàn chuyên trách - Xí nghiệp vận dụng toa xe khách Hà Nội. Hỏi: Được biết anh là một trong số ít cán bộ chuyên trách Công đoàn trẻ tuổi của ngành đường sắt vậy xin anh cho biết anh tham gia hoạt động chuyên trách Công đoàn từ khi nào? Trả lời: Trước đây tôi hoạt động Đoàn Thanh niên rồi sang chuyên trách công đoàn cơ sở từ tháng 4/2001. Hỏi: Có nghĩa khi sang hoạt động chuyên trách anh mới 28 tuổi, một độ tuổi rất trẻ khi đảm nhận vai trò cán bộ chuyên trách anh thấy có khó khăn gì khi làm việc không? Trả lời: Hoàn toàn không có vấn đề gì. Ngược lại từ cán bộ Đoàn Thanh niên chuyển sang tôi lại thấy rất phù hợp và nắm bắt nhanh công tác Công đoàn bởi đã có sẵn kinh nghiệm làm công tác đoàn thể. Hiện Công đoàn cơ sở Xí nghiệp là một trong số ít có 3 cán bộ công đoàn chuyên trách bởi đặc thù hoạt động trải dài và có vai trò quan trọng trong việc giữ uy tín chất lượng phục vụ của ngành. Hỏi: Vậy xin anh cho biết ý kiến riêng về đội ngũ cán bộ Công đoàn ngành hiện nay? Trả lời: Cán bộ Công đoàn ngành hiện nay trình độ được nân lên cao một cách rất rõ rệt. Tuy nhiên công tác trẻ hoá cán bộ theo tôi cần đẩy mạnh hơn nữa. Cần đưa vào cơ cấu độ tuổi 30/40 nhiều hơn nữa so với 40/50. Cần phải nhận thức lại cán bộ Công đoàn có thể là trẻ và rất trẻ nhưng cần được đào tạo chính quy qua quy hoạch đào tạo từ cán bộ chuyên môn hay cán bộ công tác đoàn. Hỏi: Được biết là một trong những đơn vị làm rất tốt công tác xây dựng Công đoàn cơ sở vững mạnh, anh có thể cho biết nguyên nhân thành công trong công tác này? Trả lời: Như tôi đã nói ở trên công việc của Xí nghiệp ảnh hưởng rất lớn đến uy tín, lòng tin của nhân dân vào ngành đường sắt. Chính vì vậy công tác xây dựng Công đoàn cơ sở vững mạnh luôn được đặc biệt chú trọng với 4 nội dung và 19 thông số do Công đoàn đường sắt ban hành. Xây dựng Công đoàn vững mạnh được chúng tôi gắn liền với thi đua xây dựng đơn vị “chính quy - văn hoá - an toàn” phong trào này đã làm góp phần thay đổi bộ mặt nhà ga, con tàu, nâng cao chất lượng phục vụ hành khách và chủ hàng, nâng cao ý thức chấp hành quy trình, quy phạm và kỹ năng làm việc của CBCNVC. Hỏi: Xin anh cho biết qua về việc thực hiện dân chủ tại doanh nghiệp? Trả lời: Việc phát huy dân chủ đang được phát triển tốt. Đặc biệt thể hiện qua Đại hội CNVC ở các cơ sở hàng năm. Tại Đại hội đã thực hiện các hình thức dân chủ như mở rộng hình thức đối thoại, trả lời chất vấn ngay tại hội nghị làm cho hội nghị sinh động và có chất lượng. Tại đại hội CNVC năm 2003 vừa qua đã có 59 ý kiến kiến nghị trong đó gần 1/2 liên quan đến đời sống và ngay tại diễn đàn đại hội đã giải quyết được 40 ý kiến trong đó phần lớn là ý kiến liên quan trực tiếp đến đời sống của CNVC. Ngoài ra có tổ chức tiếp CNVC - LĐ vào chiều thứ 2 hàng tuần để Công đoàn kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của công nhân lao động. Hỏi: Được biết do đặc thù công việc của Xí nghiệp, chính vì vậy vấn đề chống tiêu cực rất được quan tâm anh có thể cho biết cụ thể Công đoàn tham gia như thế nào? Trả lời: Đây là một vấn đề luôn làm nhức nhối các cấp lãnh đạo của ngành đường sắt. Chính vì vậy nó luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của chúng tôi. Công đoàn đã phối hợp với chuyên môn tiếp tục thực hiện kế hoạch liên tịch số 46 về tổ chức vận động CBCNV giám sát, phát hiện các hành vi tiêu cực trong sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội. Đã tổ chức đặt các hòm thư góp ý chống tiêu cực trên các đoàn tàu, ở các đơn vị để kịp thời nắm bắt các ý kiến phản ánh. Ngoài ra tiến hành mạnh công tác tuyên truyền giáo dục như giáo dục về luận pháp, giáo dục đề cao kỷ luận lao động, xây dựng tác phong làm việc công nghiệp. Đặc biệt coi trọng về thái độ và phong cách phục vụ hành khách. Hỏi: Trong tổ chức phong trào thi đua, anh thấy cần có các kinh nghiệm gì? Trả lời: Về tổ cức phong trào thi đua việc phát động đã nhằm vào các loại đối tượng, đi sâu vào chiều sâu, lấy hiệu quả kinh tế làm khâu then chốt. Thi đua đã đi sâu vào ngành nghề, đề ra mục tiêu khẩu hiệu sát với thực tế, có hình thức phù hợp. Khen thưởng thi đua cần làm chặt chẽ theo một quy trình hợp lý, đảm bảo các tiêu chuẩn đề ra tránh lối làm chiếu lệ, hình thức, khen thưởng tràn lan, “lạm phát bằng khen, cờ khen”. Xin cảm ơn anh! ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36147.doc
Tài liệu liên quan