Thực trạng và hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư đóng tàu và vận tải biển ở Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Chi nhánh Thủ đô

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ngân hàng thương mại là một trung tâm tài chính có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế thông qua chức năng cung cấp tín dụng, nhận tiền gửi và thực hiện các dịch vụ ngân hàng. Bên cạnh các nghiệp vụ truyền thống một nghiệp vụ hỗ trợ và mang tính chất khá quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, nó giúp cho cán bộ tín dụng và ban lãnh đạo có quyết định đúng hơn đối với từng món vay, đó chính là nghiệp vụ thẩm định trong ngân h

doc94 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1184 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư đóng tàu và vận tải biển ở Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Chi nhánh Thủ đô, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
àng. Ngày nay, các ngân hàng có xu hướng mở rộng các loại hình dịch vụ của mình nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao, các mánh khóe trong xã hội ngày càng tinh vi, phức tạp hơn, điều đó sẽ đem lại những rủi ro cho hoạt động tín dụng ngân hàng. Chính điều này càng khẳng định vai trò của thẩm định trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, đặc biệt là công tác thẩm định dự án đầu tư. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Chi nhánh Thủ đô được nâng cấp và phát triển lên thành ngân hàng chi nhánh cấp I của Hệ thống ngân hàng nông nghiệp và phát triển Nông thôn kể từ 24/12/2007, trong suốt quá trình hoạt động trước đó và ngày từ khi phát triển lên chi nhánh cấp I Ngân hàng đã chú trọng đến công tác thẩm định. Các cán bộ tín dụng khi có dự án phải trực tiếp tiến hành thẩm định để từ đó đưa ra quyết định cho từng món vay và giúp Ban lãnh đạo có quyết định đúng trong việc cho vay, giúp cho Ngân hàng giảm bớt các rủi ro trong hoạt động cho vay.Và cũng kể từ thời gian này thì Ngân hàng đã và đang đón nhận những dự án thuôc lĩnh vực đóng tàu và Vận tải biển nhiều hơn một lĩnh vực không mới với ngành ngân hàng nhưng cũng không phải là cũ với các dự án mà các doanh nghiệp đang đầu tư. Bên cạnh những đóng góp của công tác thẩm định đối với hoạt động cho vay thì công tác thẩm định tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Chi nhánh Thủ đô còn có phát sinh những tồn tại cần tháo gỡ. Chính điều này tôi chọn đề tài “Thực trạng và hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư đóng tàu và vận tải biển ở Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Thủ đô.” làm đề tài chuyên đề 2. Mục đích nghiên cứu Chuyên đề đề cập nghiên cứu hệ thống vấn đề lý luận cơ bản về dự án đầu tư và thẩm định dự án đầu tư trong ngân hàng, vai trò của thẩm định ngân hàng trong nền kinh tế, đồng thời phân tích, đánh giá thực trạng về công tác thẩm định dự án đầu tư của Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Chi nhánh Thủ đô trong lĩnh vực đóng tàu và vận tải biển. Trên cơ sở đó đưa ra những định hướng, giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thẩm định tại Ngân hàng. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Thẩm định ngân hàng là một nghiệp vụ rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh ngân hàng và khá rộng vì trong ngân hàng thẩm định có thể diễn ra ở tất các khâu trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Chính vì vậy, để có thể đi sâu vào một nghiệp vụ cụ thể của Ngân hàng, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của chuyên đề là thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Chi nhánh Thủ đô nói chung và thẩm định các dự án trong lĩnh vực đóng tàu và vận tải biển nói riêng. 4. Phương pháp nghiên cứu Chuyên đề sử dụng các phương pháp lý thuyết hệ thống duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phân tích hoạt động kinh tế, thống kê, tổng kết thực tiễn, phân tích… 5. Bố cục luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung luận văn gồm hai chương : Chương I : Thực trạng Công tác thẩm định dự án đầu tư đóng tàu, vận tải biển tại Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn chi nhánh Thủ Đô Chương II: Giải pháp và kiến nghị về công tác thẩm định dự án đầu tư tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Chi nhánh Thủ Đô CHƯƠNG I THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ ĐÓNG TÀU, VẬN TẢI BIỂN TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN CHI NHÁNH THỦ ĐÔ I. Giới thiệu về Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chi nhánh Thủ Đô 1.1. Giới thiệu chung về chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Chi Nhánh Thủ Đô 1.1.1. Bối cảnh ra đời Với mục tiêu phát triển bền vững, từng bước củng cố nâng cao vị thế và vai trò của NHNo & PTNT Việt Nam đối với sự nghiệp hiện đại hoá công nghiệp hoá đất nước. Từ đầu năm 2000, NHNo & PTNT Việt Nam có những bước chuyển biến rất rõ nét trong việc xác định chiến lược kinh doanh, xác định thị trường, thị phần. Quá trình xây dựng và thực thi chiến lược kinh doanh tại các đô thị loại I nhằm thu hút nguồn vốn, hiện đại hoá công nghệ, triển khai ứng dụng các dịch vụ ngân hàng hiện đại đã cho thấy với định hướng đúng, giải pháp phù hợp, NHNo & PTNT Việt Nam đã thu được những kết quả khả quan, tạo nên sức mạnh mới, vị thế mới trong hoạt động ngân hàng trong nước và quốc tế. Trong khi đó, khu vực phía Chi Nhánh Thủ Đô là nơi phát triển các khu công nghiệp, thu hút nhiều doanh nghiệp có tiềm năng lớn như: Tổng công ty vật tư nông nghiệp, Tổng công ty cà phê, Công ty xây dựng số 3…Ngoài ra còn có các doanh nghiệp làm kinh tế của Quân đội đang chiếm tỷ lệ đáng kể trên địa bàn. Nhìn chung các nhà máy, xí nghiệp đang có xu hướng chuyển dần sang khu vực ven đô phía tây. Để đáp ứng cho yêu cầu phát triển kinh tế của thủ đô nói chung và nhu cầu phát triển kinh doanh của các thành phần kinh tế trên địa bàn nói riêng, đòi hỏi hoạt động của các Ngân hàng thương mại phải đa dạng, phong phú cả về vốn và các dịch vụ tiên tiến của ngân hàng hiện đại. Trong bối cảnh đó NHNo & PTNT Chi Nhánh Thủ Đô được thành lập và đưa vào hoạt động để khai thác tiềm năng kinh tế tại chỗ, thực hiện chức năng trung gian tín dụng, cung cấp các dịch vụ tiên tiến hiện đại cho các thành phần kinh tế xã hội trong khu vực nói riêng và Hà Nội nói chung. Ngày 24/12/2007 Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chi nhánh Thủ đô được nâng cấp và phát triển từ chi nhánh cấp II Bùi Thị Xuân thành chi nhánh cấp I theo Quyết định số 1377/QĐ/HĐQT-TCCB của Chủ Tịch Hội Đồng Quản trị Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông Thôn Việt Nam. Ngân hàng NHNo & PTNT Chi Nhánh Thủ Đô là Chi nhánh cấp I trực thuộc Ngân hàng NHNo & PTNT Việt Nam. Một Ngân hàng thương mại hàng đầu có vốn điều lệ lớn nhất, hệ thống mạng lưới rộng khắp Việt Nam. 1.1.2. Chức năng nhiệm vụ của Chi nhánh NHNo & PTNT Chi Nhánh Thủ Đô Theo Pháp lệnh Ngân hàng Nhà Nước và điều lệ hoạt động của NHNo & PTNT Việt Nam, NHNo & PTNT Chi Nhánh Thủ Đô có những chức năng và nhiệm vụ chủ yếu sau: Huy động vốn bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ với nhiều hình thức: mở tài khoản tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm, kì phiếu, trái phiếu…Đầu tư vốn tín dụng bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ đối với các thành phần kinh tế. Làm đại lý và dịch vụ uỷ thác cho các tổ chức Tài chính, Tín dụng và cá nhân trong và ngoài nước như tiếp nhận và triển khai các dự án, dịch vụ giải ngân cho các dự án, thanh toán thẻ Tín dụng, séc du lịch…Làm đại lý nhận lệnh cho Công ty chứng khoán - Ngân hàng No&PTNT Việt Nam. Thực hiện thanh toán bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ như: Chuyển tiền điện tử trong nước, thanh toán quốc tế qua mạng SWIFT…Chi trả kiều hối, mua bán ngoại tệ, chiết khấu, cho vay cầm cố các chứng từ có giá. Bảo lãnh bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ dưới nhiều hình thức khác nhau trong và ngoài nước. Thực hiện các dịch vụ khác. 1.1.3. Cơ cấu tổ chức Trong nhiều năm qua, cùng với sự mở rộng của hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam và sự phát triển của chi nhánh cũng kéo theo những thay đổi về cơ cấu tổ chức theo hướng mở rộng hơn, nhiều phòng ban mới, số lượng cán bộ công nhân viên vì thế mà cũng tăng lên để đáp ứng được yêu cầu mới. Trong công tác xây dựng, ổn định mô hình tổ chức, chi nhánh Chi Nhánh Thủ Đô luôn coi trọng đội ngũ cán bộ, luôn bồi dưỡng nâng cao phẩm chất năng lực chuyên môn, năng lực quản lý điều hành và coi đó là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu Tại hội sở, Phòng tín dụng có nhiệm vụ Nghiên cứu xây dựng chiến lược khách hàng tín dụng, phân loại khách hàng và đề xuất các chính sách ưu đãi đối với từng loại khách hàng nhằm, mở rộng theo hướng đầu tư tín dụng khép kín: sản xuất, chế biến, tiêu thụ, xuất khẩu và gắn tín dụng sản xuất, lưu thông và tiêu dùng. Phân tích kinh tế theo ngành, nghề kinh tế kỹ thuật, danh mục khách hàng lựa chọn biện pháp cho vay an toàn và đạt hiệu quả cao. Thẩm định và đề xuất cho vay các dự án tín dụng trung hạn và dài hạn theo phân cấp uỷ quyền. Thẩm định các dự án, hoàn thiện hồ sơ trình NHNo & PTNT cấp trên theo phân cấp uỷ quyền. Tiếp nhận thực hiện các chương trình, dự án thuộc nguồn vốn trong nước, nước ngoài. Trực tiếp làm dịch vụ uỷ thác nguồn vốn thuộc Chính phủ, Bộ, Ngành khác và các tổ chức kinh tế, cá nhân trong và ngoài nước. Xây dựng và thực hiện các mô hình tín dụng thí điểm, thử nghiệm trong địa bàn và ngoài địa bàn đồng thời theo dõi, đánh giá, sơ kết, tổng kết; đề xuất Tổng giám đốc cho phép nhân rộng và thiết lập quan hệ tín dụng với khách hàng ngoài địa bàn. Thường xuyên phân loại dư nợ, phân tích nợ quá hạn, tìm nguyên nhân và đề xuất hướng khắc phục. Giúp Giám đốc chi nhánh chỉ đạo, kiểm tra hoạt động tín dụng của các chi nhánh NHNo & PTNT trực thuộc trên địa bàn. 1.1.4. Mô hình tổ chức màng lưới Từ việc xây dựng hướng đi, mặc dù hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp nhưng Ngân hàng đang có xu hướng phát triển lấy các Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh vừa và nhỏ, các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh làm đối tượng phục vụ nhất là lấy khách hàng là mục tiêu phục vụ chủ yếu. Mỗi thành công mà NHNo & PTNT Chi Nhánh Thủ Đô đạt được cần phải kể đến vai trò của Bộ máy quản lý Ngân hàng trong việc bố trí người lao động để phát huy tối đa năng lực của từng người. Khi mới thành lập, Chi nhánh chỉ có 39 cán bộ và 04 phòng nghiệp vụ, Ban giám đốc. Cho đến nay Chi nhánh đã có 186 cán bộ (116 cán bộ trong biên chế và 70 cán bộ hợp đồng) với 184 cán bộ có trình độ đại học và trên đại học. Hiện nay Chi nhánh có 07 phòng giao dịch. Phòng giao dịch Nhân Chính, Phòng giao dịch Trường Chinh, Phòng giao dịch Hàng Trống, Phòng giao dịch Hàng Lược, Phòng giao dịch Hoàng Văn Thái, Phòng giao dịch số 08, Phòng giao dịch Nguyễn An Ninh. Cho đến nay các Phòng giao dịch hoạt động kinh doanh bước đầu đã có hiệu quả. Đồng thời các phòng đều có qui định chức năng nhiệm vụ, qui chế hoạt động rõ ràng, bổ nhiệm các chức danh điều hành gồm các Giám đốc phòng giao dịch, Phó giám đốc phòng giao dịch phù hợp với trình độ nghiệp vụ và khả năng đáp ứng công việc của từng người, tạo nên sức mạnh tổng hợp để hoàn thành công việc chung trong toàn Chi nhánh NHNo&PTNT Chi Nhánh Thủ Đô. 1.1.5. Tình hình hoạt động kinh doanh của Chi nhánh NHNo& PTNT Chi Nhánh Thủ Đô 1.1.5.1. Những thuận lợi và khó khăn ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh + Những thuận lợi - Nền kinh tế Việt Nam nói chung và nền kinh tế thủ đô trước thời điểm và khi gia nhập WTO vẫn đang trên đà tiếp tục phát triển và ổn định, các thành phần kinh tế trên địa bàn thủ đô đang tự khẳng định mình trong cơ chế thị trường… Do đó nhu cầu sử dụng dịch vụ Ngân hàng tăng lên rất lớn, đông đảo người dân làm quen và sử dụng tiện ích dịch vụ Ngân hàng. Kết hợp với một số chính sách của Nhà nước và của Thành phố đã thông thoáng hơn có tác dụng tích cực thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển, tạo môi trường thuận lợi cho Ngân hàng hoạt động phát triển các loại hình dịch vụ như: Mở tài khoản, gửi tiền, thanh toán, cho vay..... - Trong lĩnh vực Ngân hàng: Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước có nhiều chủ trương, chính sách mới theo hướng mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các ngân hàng thương mại. - Ngân hàng NHNo & PTNT Việt Nam đã đưa ra nhiều hình thức huy động dự thưởng có lãi suất hấp dẫn đã tạo thuận lợi cho các Chi nhánh huy động tốt nguồn tiền gửi từ dân cư. - Có sự quan tâm chỉ đạo của Ban lãnh đạo Ngân hàng NHNo & PTNT Việt Nam, một số cơ chế, qui chế đã ban hành hoặc bổ sung, sửa đổi phù hợp với hoạt động kinh doanh, tạo sự chủ động cho các Chi nhánh trong hệ thống. - Sự đoàn kết nhất trí trong Chi bộ và Ban Giám đốc NHNo & PTNT Chi Nhánh Thủ Đô cùng với sự cố gắng, nỗ lực của tập thể Cán bộ công nhân viên toàn Chi nhánh. + Những khó khăn Bên cạnh những thuận lợi trên, Chi nhánh NHNo&PTNT Chi Nhánh Thủ Đô cũng gặp không ít những khó khăn, đó là: - Về môi trường kinh doanh: Trên địa bàn có nhiều các NHTM hoạt động, cạnh tranh gay gắt trên các mặt như lãi suất huy động vốn, cho vay, phí dịch vụ…., khách hàng có uy tín đều có quan hệ chặt chẽ với một tổ chức tín dụng nào đó. Do đó, Chi nhánh còn gặp nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm và tiếp cận khách hàng. - Giá cả các mặt hàng tiêu dùng tăng cao, giá vàng tăng đột biến vào dịp cuối năm, thị trường bất động sản đóng băng đã tác động mạnh đến tâm lý người dân, ảnh hưởng không nhỏ đến việc huy động vốn của Ngân hàng. - Một số chính sách liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng như: Tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sắp xếp lại các Doanh nghiệp, cổ phần hóa triển khai còn chậm đã làm hạn chế hoạt động của Ngân hàng. - Việc huy động vốn vào Ngân hàng gặp khó khăn do xuất hiện các kênh thu hút vốn với lãi suất hấp dẫn, kỳ vọng lợi ích lớn như: Thị trường chứng khoán, cổ phần hóa doanh nghiệp, trái phiếu công trình, giá vàng có sự biến động lớn…. - Là Chi nhánh mới thành lập nên cơ cấu nguồn chưa hợp lý, vốn dài hạn chiếm tỷ trọng thấp, lãi suất đầu vào còn cao, không ổn định. Đây là một khó khăn lớn nhất của Chi nhánh. Trụ sở làm việc của Chi nhánh phần lớn phải đi thuê, chưa mang tính ổn định lâu dài, thiếu đồng bộ, chi phí cao, không có lợi thế trong hoạt động kinh doanh. 1.1.5.2. Tình hình hoạt động kinh doanh Với sự đoàn kết, nhất trí từ Ban Giám Đốc, Ban chấp hành công đoàn và toàn thể cán bộ công nhân viên và có sự giúp đỡ của NHNo&PTNT Việt Nam. Trên cơ sở nhận thức sâu sắc những khó khăn và khai thác những thuận lợi một cách có hiệu quả, mặc dù mới đi vào hoạt động từ năm 2003 cho đến nay, NHNo&PTNT Chi Nhánh Thủ Đô bước đầu đạt được một số kết quả như sau: + Tình hình huy động vốn Do Chi nhánh mới thành lập nên mục tiêu của Chi nhánh đề ra trước mắt là “Huy động vốn để cho vay” nên công tác huy động vốn được Chi nhánh quan tâm hàng đầu. Tình hình huy động vốn của Chi nhánh NHNo&PTNT Chi Nhánh Thủ Đô thể hiện ở bảng 2.1: Bảng 2.1: TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỐN Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu 2004 2005 2006 2007 2005 so với 2004 2006 so với 2005 2007 so với 2006 +/- % +/- % +/- % Tổng nguồn vốn 2464 2673 2751 3540 209 8,48 78 2,91 789 29 Nguồn vốn nội tệ 1789 1996 2244 3193 207 11,57 248 12,42 949 42 Nguồn vốn ngoại tệ 675 677 507 347 2 0.29 -170 -25,11 -160 -32 (Nguồn: Phòng Tín dụng NHNo & PTNT Chi Nhánh Thủ Đô) Theo số liệu phía Ngân hàng cung cấp, khi mới thành lập năm 2003 tổng nguồn vốn của Ngân hàng mới chỉ đạt 852 tỷ đồng chủ yếu huy động từ vốn được giao từ Trung ương. Tuy nhiên từ năm 2004 đến 2007 lượng vốn huy động đã tăng lên đáng kể từ nhiều nguồn. Năm 2004, tổng nguồn vốn của Ngân hàng đạt 2.464 tỷ đồng, tăng 1.612 tỷ đồng tương ứng 189,2% so với năm 2003. Sang năm 2005, tiếp tục có sự tăng trưởng tổng nguồn vốn đạt 2.673 tỷ, tăng 209 tỷ tương đương 8,48% so với năm 2004. Năm 2006, vẫn có sự tăng trưởng tuy nhiên tăng nhẹ so với các năm trước, tổng nguồn vốn đạt 2.751 tỷ, tăng 78% tỷ tương đương 2,91% so với năm 2005. Xem xét về cơ cấu vốn qua các năm ta thấy vốn nội tệ tăng rõ rệt qua các năm, cụ thể năm 2005, tăng 207 tỷ, tăng tương ứng 11,57% so với năm 2004. Năm 2006, vốn nội tệ tiếp tục tăng mạnh so với năm 2005 là 248 tỷ tương đương 12,42%. Tuy nhiên, nguồn vốn ngoại tệ năm 2005 tăng 2 tỷ so với năm 2004 tương đương 0,29%. Sang năm 2006, có sự sụt giảm mạnh so với năm 2005, thậm chí sụt giảm mạnh so với năm 2004. Cụ thể, so với năm 2005 giảm 170 tỷ tương đương 25,11%. Đánh giá chung về kết quả Ngân hàng đạt được, thấy rằng tổng nguồn vốn của Ngân hàng tăng, đây là một thuận lợi cho Ngân hàng trong thực hiện nghiệp vụ cho vay, mang lại lợi nhuận cho Ngân hàng. Bên cạnh đó, việc vốn nội tệ tăng rõ rệt trong khi vốn ngoại tệ giảm mạnh điều này cũng dễ hiểu bởi sự mất giá của VND với USD, của USD với EURO, của USD với vàng. Đây là khó khăn không chỉ của riêng Chi nhánh NHNo&PTNT Chi Nhánh Thủ Đô, mà của cả các Ngân hàng khác trong và ngoài hệ thống. + Tình hình dư nợ Tình hình dư nợ của Chi nhánh thể hiện ở bảng 2.2: Bảng 2.2. TÌNH HÌNH DƯ NỢ Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu 2004 2005 2006 2007 1. Dư nợ theo thời gian 966 1,270 1,497 1.908 -Dư nợ ngắn hạn 533 573 813 1.247 -Dư nợ trung hạn 215 444 297 353 -Dư nợ dài hạn 218 253 387 308 2. Dư nợ theo TPKT 966 1,270 1,497 1.908 - Doanh nghiệp nhà nước 495 473 666 348 - Doanh nghiệp ngoài QD 354 661 688 1.359 - Dư nợ hợp tác xã 2 2 1 - Kinh tế cá thể 115 134 141 201 Tổng dư nợ năm 966 1,270 1,497 1.908 (Nguồn: Phòng Tín dụng NHNo & PTNT Chi Nhánh Thủ Đô) Từ khi mới thành lập cho đến nay doanh số cho vay của NHNo&PTNT Chi Nhánh Thủ Đô không ngừng tăng lên, dư nợ tăng trưởng từng bước ổn định. Tính đến thời điểm 31/12/2006, tổng dư nợ là 1.497 tỷ đồng (kể cả cho vay ủy thác đầu tư và cho vay theo chỉ định) vượt 19% so với kế hoạch năm 2006, so với năm 2005 tăng 227 tỷ đồng bằng 118% so với năm 2005. Trong đó cho vay trung, dài hạn 682 tỷ đồng (bao gồm cả cho vay ủy thác đầu tư và cho vay theo chỉ định là 262 tỷ). Nếu loại trừ khoản cho vay này thì dư nợ: 1.230 tỷ đồng đạt 98% so kế hoạch năm 2006. Năm 2004 khi NHNo&PTNT Chi Nhánh Thủ Đô đã chính thức đi vào hoạt động tổng dư nợ đạt 966 tỷ đồng, bao gồm cả dư nợ ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, trong đó dư nợ ngắn hạn chiếm chủ yếu. Các đối tượng được cấp tín dụng đã được mở rộng trên tất cả các thành phần kinh tế, đăc biệt là sự tăng nhanh ở khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế ngoài quốc doanh - một thành phần kinh tế rất quan trọng ở nước ta đặc biệt là từng giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế như hiện nay. Tổng dư nợ tiếp tục tăng trong năm 2005 và tăng đều trên cả dư nợ ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và khu vực kinh tế cá thể được ngân hàng cấp tín dụng tiếp tục tăng trưởng đều, đây là một tín hiệu đáng mừng trong hoạt động cung cấp tín dụng cho nền kinh tế của ngân hàng. Sự giảm dư nợ đối với Doanh nghiệp Nhà Nước và tăng dư nợ đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hộ kinh doanh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã phần nào đáp ứng được định hướng mục tiêu năm 2005 là chuyển đổi cơ cấu đầu tư của Ngân hàng về công tác cho vay. Sang năm 2006 kết quả mà Ngân hàng thu được khá tốt, dư nợ tiếp tục tăng so với 2005 và tăng gấp 1,5 lần so với năm 2004. Cơ cấu nợ đã có sự chuyển biến mạnh mẽ theo hướng tích cực, dư nợ ngắn hạn và dư nợ đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm chủ yếu trong tổng dư nợ. + Tình hình nguồn vốn và dư nợ Tình dư nợ so với nguồn vốn thể hiện ở bảng 2.3 Bảng 2.3: TÌNH HÌNH NGUỒN VỐN VÀ DƯ NỢ Đơn vị tính: Tỷ đồng Chỉ tiêu Năm Nguồn vốn Dư nợ Tỷ trọng dư nợ so nguồn vốn 2004 2,464 966 39% 2005 2,673 1,270 48% 2006 2,751 1,497 54% 2007 3,540 1,908 54% (Nguồn: Phòng Tín dụng NHNo & PTNT Chi Nhánh Thủ Đô) Nhìn vào bảng 2.3 ta thấy rằng, tỷ trọng dư nợ so với tổng nguồn tăng lên. Năm 2004 tổng nguồn 2.464 tỷ đồng và dư nợ là 966 tỷ đồng chiếm 39%. Đến ngày 31/12/2006, tổng nguồn huy động được là 2.751 tỷ đồng. Trong khi đó, tổng dư nợ là 1.497 tỷ đồng, chiếm 54,4% tổng nguồn vốn huy động được. Sang thời điểm 31/12/2007, tổng dư nợ đạt: 1.908 tỷ đồng (không kể cho vay uỷ thác đầu tư và cho vay theo chỉ định) đạt 93% so với kế hoạch năm 2007, so với năm 2006 tăng 411 tỷ đồng tương đương 134% so với năm 2006. Như vậy, đến thời điểm 31/12/2007 thì tổng dư nợ so với tổng nguồn vốn chiếm 54%. Kết quả đạt được cho thấy so với năm 2005 có tốt hơn, cụ thể năm 2005 chỉ là 48%, so với năm 2006 thì năm 2007 thấp hơn nhưng không đáng kể. Tuy nhiên hiện tại thu nhập chủ yếu của Ngân hàng vẫn là từ chênh lệch lãi suất huy động và cho vay. Bởi vậy đòi hỏi Ngân hàng cần có chính sách, biện pháp thích hợp để có thể tăng cho vay, tận dụng tối đa nguồn vốn của mình, nhằm tăng lợi nhuận. + Tình hình nợ quá hạn Sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng được đánh giá qua việc mở rộng và nâng cao tín dụng được cấp, doanh số cho vay gia tăng làm cho dư nợ cũng tăng theo. Nợ quá hạn là một chỉ tiêu phản ánh rõ nét nhất chất lượng tín dụng và cơ sở để mở rộng tín dụng của Ngân hàng. Tình hình nợ quá hạn của Chi nhánh được thể hiện ở bảng 2.4: Bảng 2.4: TÌNH HÌNH NỢ QUÁ HẠN NĂM 2007 Đơn vị: Triệu VNĐ TT Chỉ Tổng số nợ xấu Tỷ lệ (%) Phân loại Theo nhóm Nhóm 3 Nhóm 4 Nhóm 5 1 Doanh nghiệp Nhà nước 0 0 Ngắn hạn 0 0 Trung, dài hạn 0 0 2 Doanh nghiệp ngoài quốc doanh 12.163 0,6 12.163 Ngắn hạn 9.366 0,46 9.366 Trung, dài hạn 2.797 0,13 2.797 3 Hợp tác xã 0 Ngắn hạn 0 Trung, dài hạn 0 4 Hộ gia đình cá thể 2.191 0,10 2.191 Ngắn hạn 1.832 0,09 1.832 Trung, dài hạn 359 0,02 359 Tổng cộng 14.354 0,7 14.354 TĐ: Ngoại tệ quy đổi VND (Nguồn: Phòng Tín dụng NHNo & PTNT Chi Nhánh Thủ Đô) Tính đến thời điểm 31/12/2007, tổng nợ xấu là 14,4 tỷ đồng chiếm 0.7% tổng dư nợ. Nguyên nhân ở đây là do xác định đối tượng đầu tư chưa phù hợp, việc quản lý, đôn đốc thu hồi nợ chưa được chặt chẽ. Để khắc phục tình trạng này cần chấn chỉnh Công tác tín dụng, nâng cao trình độ cũng như kỹ năng cho Cán bộ tín dụng và Cán bộ thẩm định, đặc biệt coi trọng Công tác phân tích, đánh giá, xếp loại khách hàng, thực hiện kiểm soát trước, trong và sau khi cho vay thông qua đó để có hướng đầu tư chuẩn xác và hiệu quả cao. + Kết quả tài chính Tình hình hoạt động kinh doanh thể hiện ở bảng 2.5: Bảng 2.5: KẾT QUẢ TÀI CHÍNH Đơn vị: Triệu VNĐ Chỉ tiêu Năm 2005 2006 2007 2005 so 2006 2006 so 2007 +/- % +/- % Tổng thu 207 232 281 25 12 49 21 Thu lãi 205 292 27 87 42 -265 -91 Thu dịch vụ 2.3 2.2 5 0 -4 2.8 127 Tổng chi 179 199 244 20 11 45 23 Chi trả lãi 152 162 175 10 7 13 8 Chi khác 69 2 69 Chênh lệch thu nhập – Chi phí 28 33 37 5 18 4 12 (Nguồn: Chi nhánh NHNo&PTNT Chi Nhánh Thủ Đô) Qua bảng 2.5 ta thấy, tính đến 31/12/2006 tổng thu đạt được là 232 tỷ, tăng so với 31/12/2005 là 25 tỷ, trong đó thu lãi là 292 tỷ; thu dịch vụ là 2.2 tỷ. Tuy nhiên tổng chi 199 tỷ, so với 31/12/2005 là 20 tỷ, trong đó chi trả lãi 162 tỷ, chiếm 81.5% trong tổng chi. Lợi nhuận để lại sẽ là 33 tỷ, tăng so với 31/12/2005 là 5 tỷ, đạt 133% kế hoạch năm 2006. So với tổng thu, tổng chi tương đối lớn do lãi suất huy động vốn tăng cao. Để khắc phục cần thiết phải điều chỉnh lại phí điều hòa vốn, tránh cho các đơn vị thừa vốn chịu lỗ. 1.2. Tổng quan về Dự án và Thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng Thương mại. Tổng quan về dự án đầu tư 1.2.1.1. Khái niệm về dự án đầu tư Dự án và đầu tư có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Đầu tư phát triển là nguồn gốc ra đời của các dự án. Ngược lại, việc xây dựng và thực hiện các dự án đầu tư sẽ kiểm nghiệm tính đúng đắn và hiệu quả của quyết định đầu tư. Hiện nay chưa có định nghĩa nào thật hoàn chỉnh về dự án đầu tư được mọi người chấp nhận. Tuy nhiên, dự án đầu tư có thể được xem xét từ nhiều góc độ. Theo luật đầu tư của Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam số 59/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005 thì dự án đầu tư được định nghĩa như sau: Dự án đầu tư là tập hợp các đề xuất bỏ vốn trung và dài hạn để tiến hành các hoạt động đầu tư trên địa bàn cụ thể, trong khoảng thời gian xác định. Ngân hàng thế giới xem xét dự án là tổng thể các chính sách, hoạt động và chi phí liên quan với nhau được hoạch định nhằm đặt được những mục tiêu nhất định trong thời gian nhất định. Về mặt hình thức đầu tư là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi tiết và có hệ thống các hoạt động và chi phí theo một kế hoạch để đạt được những kết quả và thực hiện được những mục tiêu nhất định trong tương lai. Trên góc độ quản lý dự án đầu tư là một công cụ quản lý việc sử dụng vốn, vật tư, lao động để tạo ra kết quả tài chính, kinh tế - xã hội trong một thời gian dài. Trên góc độ kế hoạch hoá, dự án đầu tư là một công cụ thể hiện kế hoạch chi tiết của một công cuộc đầu tư sản xuất kinh doanh, phát tiển kinh tế xã hội, làm tiền đề cho quyết định đầu tư và tài trợ. Dự án đầu tư là một hoạt động riêng biệt nhỏ nhất trong công tác kế hoạch hoá nền kinh tế nói chung. Xét về mặt nội dung, dự án đầu tư là tập hợp các hoạt động có liên quan với nhau được kế hoạch hoá nhằm đạt các mục tiêu đã định bằng việc tạo ra các kết quả cụ thể trong một thời gian nhất định, thông qua việc sử dụng các nguồn lực xác định. Dù xem xét dưới bất kỳ góc độ nào thì dự án đầu tư cũng bao gồm các thành phần chính như sau: - Các mục tiêu cần đạt được khi thực hiện dự án. Cụ thể là khi thực hiện dự án sẽ mang lại những lợi ích gì cho đất nước nói chung và cho bản thân chủ đầu tư nói riêng. Những mục tiêu này cần được biểu hiện bằng kết quả cụ thể như tạo nguồn thu cho ngân sách, giải quyết việc làm cho người lao động, mang lại lợi nhuận cho chủ đầu tư… - Các hoạt động của dự án: Dự án phải nêu rõ những hành động cụ thể phải thực hiện, địa điểm diễn ra các hoạt động của dự án, thời gian cần thiết để hoàn thành và các bộ phận có trách nhiệm thực hiện những hành động đó. - Các nguồn lực: hoạt động của dự án không thể thực hiện được nếu thiếu các nguồn lực về vật chất, tài chính, con người…Vì vậy, phải nêu rõ các nguồn lực cần thiết cho dự án, tổng hợp các nguồn lực này chính là vốn đầu tư cần cho dự án. Tóm lại, dự án đầu tư là tập hợp kết quả nghiên cứu các nội dụng có liên quan, ảnh hưởng đến sự vận hành và tính sinh lời của công cuộc đầu tư. 1.2.1.2. Phân loại dự án đầu tư Để thuận tiện cho việc theo dõi quản lý và đề ra các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động đầu tư cần tiến hành phân loại dự án đầu tư. Có thể phân loại các dự án đầu tư theo các tiêu thức sau: a. Theo cơ cấu tái sản xuất Phân loại theo hình thức này dự án đầu tư được phân thành dự án đầu tư theo chiều rộng và dự án đầu tư theo chiều sâu. Dự án đầu tư theo chiều rộng yêu cầu cần có vốn lớn, thời gian thực hiện đầu tư và thời gian cần hoạt động để thu hồi vốn lâu, tính chất kỹ thuật phức tạp, độ mạo hiểm cao. Ngược lại, dự án đầu tư theo chiều sâu thì đòi hỏi khối lượng vốn ít hơn, thời gian thực hiện không lâu, độ mạo hiểm thấp hơn so với dự án đầu tư theo chiều rộng. b. Theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội của dự án đầu tư Theo hình thức này có thể phân chia thành dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng…Hoạt động của các dự án đầu tư này có quan hệ tương hỗ với nhau. Chẳng hạn các dự án đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật và cơ sở hạ tầng tạo điều kiện cho các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao, còn các dự án đầu tư phát triển kinh doanh đến lượt mình lại tạo tiềm lực cho các dự án đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, cơ sở hạ tầng và các dự án đầu tư khác. c. Theo giai đoạn hoạt động của các dự án đầu tư trong quá trình tái sản xuất xã hội Theo cách thức này thì dự án đầu tư sản xuất kinh doanh có thể chia ra thành dự án đầu tư thương mại và dự án đầu tư sản xuất. Dự án đầu tư thương mại là loại dự án đầu tư có thời gian thực hiện đầu tư và hoạt động của các kết quả đầu tư để thu hồi vốn đầu tư ngắn, tính chất bất định không cao lại dễ dự đoán và dự đoán dễ đạt độ chính xác cao. Nhìn trên giác độ xã hội thì loại dự án này không tạo ra của cải vật chất cụ thể một cách trực tiếp, những giá trị tăng thêm do hoạt động của dự án đầu tư này đem lại chỉ là sự phân phối lại thu nhập giữa các ngành, các địa phương, các tầng lớp dân cư trong xã hội. Dự án đầu tư sản xuất là loại dự án đầu tư có thời hạn hoạt động dài hạn (từ 5, 20 năm hoặc lâu hơn), với vốn đầu tư lớn, thu hồi chậm, thời gian thực hiện đầu tư lâu, độ mạo hiểm cao, tính chất kỹ thuật phức tạp, chịu tác động của nhiều yếu tố bất định trong tương lai không thể dự đoán hết và dự đoán chính xác được (về nhu cầu, giá cả đầu vào, đầu ra, cơ chế chính sách…). Thực hiện loại dự án này cần phải chuẩn bị kỹ, cố gắng dự đoán những gì có liên quan đến kết quả và hiệu quả của hoạt động đầu tư trong tương lai xa, phải xem xét các biện pháp xử lý khi các yếu tố bất định xảy ra để đảm bảo thu hồi đủ vốn và có lãi khi hoạt động của dự án đầu tư kết thúc. d. Theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng để thu hồi đủ vốn đã bỏ ra Theo hình thức này có thể phân chia các dự án đầu tư thành dự án đầu tư ngắn hạn (như dự án đầu tư thương mại) và dự án đầu tư dài hạn (các dự án đầu tư sản xuất, đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, xây dựng cơ sở hạ tầng…) e. Theo phân cấp quản lý Điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng ban hành theo nghị định 52/1999/NĐ - CP ngày 08/07/1999 của Thủ tướng Chính phủ phân chia dự án thành 3 nhóm A, B, C tuỳ theo tính chất và quy mô của dự án. Trong đó nhóm A do thủ tướng Chính phủ quyết định, nhóm B và C do Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ, UBND cấp tỉnh (và thành phố trực thuộc trung ương) quyết định. f. Theo nguồn vốn Dựa vào nguồn vốn, dự án đầu tư có thể được phân chia thành: Dự án đầu tư có vốn huy động trong nước (vốn tích luỹ của ngân sách, của doanh nghiệp, tiền tiết kiệm của dân cư). Dự án đầu tư có vốn huy động từ nước ngoài (vốn đầu tư trực tiếp, vốn đầu tư gián tiếp). Việc phân loại này cho thấy tình hình huy động vốn từ mỗi nguồn và vai trò của mỗi nguồn vốn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của từng ngành, từng địa phương và toàn bộ nền kinh tế. g. Theo vùng lãnh thổ (theo tỉnh, theo vùng kinh tế của đất nước) Cách phân loại này cho thấy tình hình đầu tư của từng tỉnh, địa phương, vùng kinh tế và ảnh hưởng của đầu tư với tình hình phát triển kinh tế - xã hội ở từng địa phương. Trong thực tế người ta có thể phân loại dự án đầu tư theo nhiều tiêu thức khác nhau để đáp ứng yêu cầu quản lý và nghiên cứu kinh tế. Cơ cấu dự án đầu tư Các loại dự án khác nhau thì có cơ cấu khác nhau. Tuy nhiên nhìn chung một dự án đầu tư gồm các phần sau: Một là, chủ đầu tư dự án: Trong phần này giới thiệu chung về chủ dự án đầu tư, địa chỉ, người đại diện chức vụ. Giới thiệu về năng lực và khả năng thực hiện dự án của chủ đầu tư. Hai là, những căn cứ, cơ sở xác định sự cần thiết phải đầu tư Ở phần này nêu ra cơ sở căn cứ pháp lý của dự án, nguồn gốc các tài liệu sử dụng. Phân tích các kết qủa điều tra về điều kiện tự nhiên tài nguyên, chính sách kinh tế chính trị xã hội liên quan đến việc phát triển ngành, các lợi ích của dự án sẽ đem lại cho vùng, lãnh thổ nơi thực hiện dự án đầu tư. Đồng thời cũng đưa ra các mục tiêu của dự án đầu tư (tiêu dùng trong nước, xuất khẩu, thay thế nhập khẩu...._.). Phân tích tình hình thị trường, đánh giá kết luận về nhu cầu hiện tại, dự báo nhu cầu tương lai (khu vực, trong nước, ngoài nước nếu có dự kiến xuất khẩu) về cả số lượng, chất lượng, giá cả... các nguồn đáp ứng nhu cầu hiện tại. Dự báo mức độ gia tăng cung cấp cho tương lai, sự thiếu hụt so với nhu cầu thị trường. Các căn cứ về khả năng phát triển về năng lực sản xuất. Quy mô năng lực hiện tại của ngành và năng lực huy động. Đánh giá tình trạng hoạt động hiện tại và nhịp độ tăng trưởng tương lai... Dự báo số lượng, giá cả hàng hoá bán ra, khả năng cạnh tranh với các nhà sản xuất trong và ngoài nước, khả năng xâm nhập thị trường, hướng lựa chọn thị trường. Ba là, lựa chọn hình thức đầu tư, công suất Phân tích các điều kiện và lợi ích của việc huy động năng lực hiện tại, đầu tư chiều sâu, mở rộng các cơ sở đã có, so với đầu tư mới từ đó lựa chọn phương thức đầu tư. Phân tích các điều kiện, yếu tố để lựa chọn hình thức đầu tư (Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, xí nghiệp liên doanh, xí nghiệp quốc doanh...). Phân tích lựa chọn công suất thích hợp. Nêu các phương án và chọn công suất tối ưu, khả thi. Bốn là, chương trình sản xuất và các yêu cầu đáp ứng . Trong phần này nêu nên cơ cấu sản xuất: số lượng sản phẩm hàng năm, chất lượng giá cả. Số hàng bán dự kiến. Lượng lưu kho trung bình. Lịch trình sản xuất như thế nào (vận hành, chạy thử, chạy hết công suất ...). Bán thành phẩm, phế liệu. Các nhu cầu đầu vào và các giải pháp đảm bảo. Phải xác định được nhu cầu đầu vào cho từng loại sản phẩm và toàn bộ nhu cầu sản xuất hàng năm: Nhu cầu và đặc điểm nguyên vật liệu (vật liệu thô, các hoá phẩm, vật liệu đã qua chế biến, các sản phẩm nhập khẩu, vật liệu phụ...). Tình trạng cung ứng, yêu cầu dự trữ nguyên vật liệu. Chương trình cung cấp nguyên vật liệu sản xuất: các giải pháp về nguồn cung cấp (trong nước, nhập khẩu) phương thức cung ứng (quy hoạch sản xuất, mua theo hợp đồng, vận tải, nếu nhập khẩu cần xác định nguồn cung cấp hình thức nhập, điều kiện giao hàng, giá cả), phân tích các thuận lợi hạn chế, các ảnh hưởng bất lợi, hướng khắc phục. Lịch trình cung cấp, các chi phí cho từng lịch trình cung cấp. Các giải pháp đảm bảo kết cấu hạ tầng và phục vụ sản xuất. Các nhu cầu cung cấp điện, nước, hơi cho sản xuất, giao thông nội bộ và bên ngoài, kho bãi, thông tin, khả năng về nguồn, giải pháp cung cấp. Năm là, các phương án về khu vực địa điểm và địa điểm cụ thể (hoặc tuyến công trình). Mỗi dự án thường có ít nhất 2 phương án địa điểm. Phương án địa điểm phải thu thập đầy đủ các tài liệu điều tra cơ bản, tài liệu khảo sát đủ độ tin cậy. Mỗi phương án địa điểm cần phân tích các mặt như điều kiện cơ bản về tự nhiên khí tượng, thuỷ văn, đất nước...và điều kiện xã hội kỹ thuật như tình hình dân cư, phong thủy tập quán, các chính sách khu vực. Hoạt động kinh tế, trình độ kỹ thuật...Các điều kiện về quy hoạch vùng, nhu cầu sử dụng đất. Ngoài ra phương án còn phân tích kinh tế địa điểm, phân tích các lợi ích và ảnh hưởng xã hội của địa điểm, những ảnh hưởng đến đời sống dân cư khi có thiên tai dịch hoạ, đến phong tục tập quán... Sáu là, phần công nghệ kỹ thuật của dự án, bao gồm: (1) Công nghệ: Các phương án công nghệ sản xuất chủ yếu, quy trình sản xuất có thể chấp nhận, mô tả, phân tích, đánh giá mức độ hiện đại, tính thích hợp, kinh tế, những điểm ưu việt và hạn chế của công nghệ lựa chọn (thông qua so sánh một số chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật như quy cách, chất lượng năng suất...). Nội dung chuyển giao công nghệ và sự cần thiết phải chuyển giao, phương thức thanh toán, điều kiện tiếp nhận. Những vấn đề môi trường sinh thái liên quan đến công nghệ, khả năng mức độ gây ô nhiễm hoặc làm biến đổi môi trường do việc hình thành công trình (nước, không khí, đất đai, tiếng ồn, phóng xạ, bụi do nguyên vật liệu...) và hậu quả có thể có. Đưa ra các giải pháp chống ô nhiễm, bảo vệ môi trường sinh thái, các phương án xử lý chất thải... Các phương án trong lĩnh vực khác: Lựa chọn quy mô và phương án cung cấp nước, thoát nước cho dự án. Lựa chọn các phương án cung cấp điện, khí cho sản xuất.... (2) Thiết bị: Nêu các phương án về thiết bị. Danh mục thiết bị sản xuất chính, phụ, hỗ trợ, các phương tiện khác, phụ tùng thay thế, dụng cụ thiết bị văn phòng... Các phương án mua sắm thiết bị, so sánh, lựa chọn. Bẩy là, phần xây dựng và tổ chức thi công xây lắp. Về mặt xây dựng nêu được các phương án thi công xây dựng, xác định tiêu chuẩn cấp công trình, các giải pháp kiến trúc, phối cảnh, các phương án kết cấu của các hạng mục công trình, yêu cầu kỹ thuật, thiết bị xây lắp đáp ứng kết cấu được chọn. Các phương án xây dựng công trình bảo vệ môi trường, xử lý ô nhiễm, khối lượng các hạng mục công trình, nhu cầu, điều kiện về nguyên vật liệu xây dựng...Về mặt tổ chức thi công xây lắp và tổng tiến độ dự án: Nêu được các điều kiện tổ chức thi công, lựa chọn phương án thi công, các yêu cầu về thiết bị thi công... Tám là, tổ chức quản lý sản xuất và bố trí lao động Xác định được nhu cầu nhân lực cách bố trí nhân lực, sơ đồ quản lý tổ chức sản xuất. Xác định các chi phí: Chi phí quản lý, chi phí nhân công, chi phí phân xưởng, chi phí hành chính, chi phí đào tạo, chi phí bảo hiểm... Chín là, phân tích tài chính – kinh tế. Đây là phần khá quan trọng đối với mội dự án đầu tư. Phần này phản ánh tính hiệu quả của dự án về mặt kinh tế. Khi phân tích tài chính của dự án: phải nêu được các chỉ tiêu thành phần vốn của dự án (vốn cố định, vốn lưu động, vốn dự phòng...). Nguồn vốn (vốn của đơn vị, vốn vay, ...). Các hình thức góp vốn, tiến độ thực hiện chi phí vốn... Tính toán hiệu quả tài chính của dự án: phải nêu ra được tổng chi phí dự án, doanh thu của dự án, lợi nhuận của dự án. Sau khi có các thông số lập biểu tính toán hiệu quả của dự án, tính điểm hoàn vốn, thời gian hoàn vốn, độ nhậy của dự án. Từ đó đưa ra các kết luận về mặt tài chính của dự án. Về mặt kinh tế - xã hội: dự án đã đem lại cho xã hội những lợi ích gì. Giá trị sản phẩm hàng hoá ra tăng. Tính đa dạng hoá sản phẩm của nền kinh tế, dự án đem lại việc làm và thu nhập cho người lao động, đóng góp vào ngân sách quốc gia, thu hút nguồn ngoại tệ. Mười là, kết luận và kiến nghị Trong phần này, đưa ra các kết luận kiến nghị các chính sách và chế độ ưu đãi. 1.2.2 Thẩm định dự án đầu tư tại ngân hàng thương mại 1.2.2.1. Khái niệm, vai trò và nội dung thẩm định dự án đầu tư a. Khái niệm thẩm định dự án đầu tư Hoạt động đầu tư đã đóng một vai trò không nhỏ vào việc xây dựng và phát triển ổn định kinh tế xã hội. Để phát huy được mặt tích cực của các dự án đầu tư và hạn chế được những mặt tiêu cực của nó thì khi chấp thuận việc thực hiện một dự án, người ta thường phân tích đánh giá, xem xét dự án về các mặt tài chính, kinh tế xã hội… Để có được một quyết định đúng đắn khi đưa dự án vào thực hiện. Những hoạt động xem xét, đánh giá dự án nhằm những mục tiêu nói trên được gọi là “thẩm định dự án”. Vậy thẩm định dự án đầu tư là việc tổ chức xem xét một cách khách quan có khoa học toàn diện các nội dung cơ bản ảnh hưởng trực tiếp tới tính khả thi của một dự án. Từ đó ra quyết định đầu tư và cho phép đầu tư. Đây là một quá trình kiểm tra, đánh giá các nội dung của dự án một cách độc lập tách biệt với quá trình soạn thảo dự án. Thẩm định dự án đã tạo ra cơ sở vững chắc cho hoạt động đầu tư có hiệu quả. Các kết luận rút ra từ quá trình thẩm định là cơ sở để các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước ra quyết định đầu tư và cho phép đầu tư. Đứng trên góc độ ngân hàng, thẩm định dự án đầu tư là việc tổ chức xem xét, phân tích một cách khách quan toàn diện, độc lập những nội dung cơ bản của dự án đầu tư đồng thời đánh giá chính xác những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến tính khả thi của dự án nhằm đưa ra quyết định cho vay đảm bảo hiệu qủa an toàn. b. Vai trò của thẩm định dự án đầu tư Đối với chủ đầu tư: Ngân hàng với kinh nghiệm của mình trong thẩm định dự án đầu tư có thể tư vấn cho doanh nghiệp phương án đầu tư có hiệu quả mà bản thân doanh nghiệp do thiếu khả năng phân tích tổng hợp, thiếu thông tin không thể lựa chọn được. Đối với cơ quan quản lý nhà nước: Thẩm định dự án đầu tư giúp các cơ quan quản lý nhà nước đánh giá được sự cần thiết và tính phù hợp của dự án đối với quy hoạch phát triển chung của ngành, địa phương và cả nước trên các mặt: mục tiêu, quy mô, quy hoạch và hiệu quả. Đối với nền kinh tế: Thẩm định dự án đầu tư giúp xác định được sự lợi hại của dự án khi đi vào hoạt động trên khía cạnh: cộng nghệ, vốn, ô nhiễm môi trường và các lợi ích kinh tế - xã hội khác. Nền kinh tế đang cần các dự án đầu tư phát triển phục vụ cho sự pháp triển đất nước song đó là các dự án có hiệu quả kinh tế xã hội và lợi ích nhiều mặt khác. Đầu tư kém hiệu quả, sai mục đích có thể đem đến những nguy hại. Hơn nữa với điều kiện hạn chế về vốn đầu tư của mình, ngân hàng đã giúp nền kinh tế có những dự án thực sự tốt, đem lại hiệu quả đầu tư như mong muốn. Đối với ngân hàng: Nếu ngân hàng làm tốt công tác thẩm định dự án đầu tư sẽ tạo tiền đề cho việc thu hồi cả vốn lẫn lãi đúng hạn, tạo điều kiện cho vốn tín dụng luân chuyển nhanh, an toàn và hiệu quả. Bởi vậy thẩm định dự án đầu tư là việc hết sức cần thiết và có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng, thể hiện: (1) Rút ra các kết luận chính xác về tính khả thi, hiệu quả kinh tế của phương án hoặc dự án vay vốn, khả năng trả nợ, những rủi ro có thể xẩy ra để quyết định cho vay hoặc từ chối cho vay một cách đúng đắn và chính xác nhất. (2) Tham gia góp ý cho chủ đầu tư về phương án sản xuất kinh doanh, tạo tiền đề để đảm bảo hiệu quả cho vay, thu được nợ gốc và lãi đúng hạn và hạn chế rủi ro tới mức thấp nhất. (3) Xác định khả năng và ý muốn của người cho vay trong việc trả nợ vay (cả gốc lẫn lãi) phù hợp với các điều khoản của hợp đồng tín dụng. (4) Là cơ sở để xác định mức rủi ro có thể chấp nhận, xác định số tiền cho vay, thời gian cho vay, mức thu nợ hợp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. (5) Rút ra kinh nghiệm và bài học để thực hiện các dự án sau được tốt hơn. Vì vậy, trong công tác thẩm định dự án đầu tư, phải rất thận trọng để đem lại sự an toàn cần thiết cho ngân hàng, nâng cao chất lượng tín dụng đồng thời không bỏ lỡ cơ hội đầu tư có lãi, phục vụ khách hàng đầu tư có hiệu quả. c. Nội dung của thẩm định Hoạt động cho vay là hoạt động chủ yếu và cũng là nguồn thu chủ yếu của các ngân hàng thương mại. Để đánh giá đúng và đem lại hiệu quả trong hoạt động kinh doanh ngân hàng thì việc thẩm định món vay là cần thiết đối với ngân hàng. Trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng việc đầu tư các dự án cũng đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. Vậy đứng trên góc độ một nhà đầu tư thì ngân hàng phải xem xét đến các khía cạnh của dự án và đi đến kết luận cuối cùng dự án có khả thi hay không. Để làm được điều này các cán bộ tín dụng của ngân hàng cần thẩm định các nội dung sau của dự án đầu tư: * Thẩm định hồ sơ pháp lý của dự án Khi thẩm định hồ sơ pháp lý của dự án thì cần phải xem xét xem dự án có phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước, địa phương. Phù hợp với quy hoạch phát triển ngành, địa phương có liên quan. Dự án có thuộc đối tượng sản xuất kinh doanh trong đăng ký kinh doanh không. Mỗi dự án bao giờ cũng có bộ hồ sơ pháp lý. Hồ sơ pháp lý của dự án bao gồm các giấy phép, quyết định liên quan đến dự án mà chủ đầu tư đang thực hiện như: Báo cáo nghiên cứu khả thi, quyết định phê duyệt luận chứng kinh tế kỹ thuật của cấp có thẩm quyền phê duyệt, giấy phép xây dựng hoặc giấy chứng nhận đầu tư của cấp có thẩm quyền phê duyệt, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc hợp đồng thuê đất, các văn bản pháp lý khác có liên quan đến dự án đầu tư... *Thẩm định sự cần thiết của dự án Khi tiến hành thẩm định dự án, trước hết ngân hàng phải xem xét đến các mục tiêu, định hướng của dự án bởi vì dự án được thực hiện sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống nhân dân, đến toàn bộ nền kinh tế, xã hội, ảnh hưởng đến cung cầu hàng hoá, hoạt động xuất nhập khẩu trong nước, môi trường tự nhiên... Như vậy, cần phải thẩm định đánh giá xem xét dự án có thật sự cần thiết trong tình hình hiện nay không, có phù hợp với xu hướng phát triển ngành của vùng, đất nước không, có tuân thủ đúng quy hoạch, kế hoạch đầu tư, định hướng phát triển của bộ ngành... Muốn vậy, ngân hàng cần đối chiếu mục tiêu và phương hướng phát triển của dự án với mục tiêu, định hướng chung của ngành, địa phương và những quyết định của nhà nước trong tương lai. Tuỳ theo từng dự án theo đuổi mục tiêu nào mà ngân hàng sẽ chú trọng đến mục tiêu đó. Song điều quan trọng là dự án đã đem lại lợi ích cho chủ đầu tư, ngân hàng và xã hội. *Thẩm định phương diện thị trường Thị trường là một nhân tố quyết định việc lựa chọn mục tiêu và quy mô của dự án. Một dự án ngày càng có vị thế và chỗ đứng trên thị trường thì khả năng thu hồi vốn của ngân hàng ngày càng trở lên chắc chắn hơn. Thẩm định phương diện thị trường của dự án là để xác định các yếu tố: Thị trường cung cầu sản phẩm hoặc dịch vụ mà dự án sẽ mang lại tại thời điểm hiện tại, tiềm năng phát triển của thị trường này trong tương lai các yếu tố kinh tế và phi kinh tế tác động đến nhu cầu về sản phẩm và dịch vụ mà dự án mang lại như thế nào. Các biện pháp khuyến thị và tiếp thị cần thiết giúp cho việc tiêu thụ sản phẩm hoặc tiến hành các hoạt động dịch vụ của dự án được thuận lợi. Khả năng canh tranh của các sản phẩm cùng loại có sẵn hoặc các sản phẩm sẽ được sản xuất sau này. Thẩm định môi trường của dự án cán bộ thẩm định phải thẩm địch các nội dung sau: + Xem xét mức tiêu thụ hiện tại và trong quá khứ Đánh giá nhu cầu thị trường đối với loại sản phẩm của dự án là một vấn đề tối cần thiết với các nhà sản xuất. Nó có tính chất quyết định đến sự thành bại của một doanh nghiệp, đồng thời nó cũng là một vấn đề rất phức tạm mang nặng tính lý thuyết, vận dụng vào thực tế gặp nhiều khó khăn. Do vậy việc dự đoán, dự báo thường sai lệch so với thực tế và được điều chỉnh trong quá trình thực hiện dự án. Để xác định được nhu cầu sản phẩm thì phải phân loại thị trường và để xác định được mức tiêu hao sản phẩm thì cần có các thông số để đo lường cụ thể như: khối lượng sản xuất trong năm, mức tồn kho cuối năm của sản phẩm, giá cả của sản phẩm...Các số liệu này có thể lấy từ các cơ quan thống kê hoặc tự doanh nghiệp điều tra. + Dự báo nhu cầu thị trường trong tương lai. Việc dự báo nhu cầu trong tương lai ngoài việc dựa vào nhu cầu và mức tiêu thụ sản phẩm trong quá khứ thì cần phải xem xét thêm một số yếu tố: Tính đàn hồi của nhu cầu so với giá, tính đàn hồi của cầu so với thu nhập, các yếu tố khác ảnh hưởng đến nhu cầu, dự đoán nhu cầu cho một số các nhóm hàng tiêu biểu. + Vấn đề về tiếp thị và khuyến thị Việc xác định có nhu cầu của thị trường về sản phẩm của dự án mới chỉ cho phép giải quyết một số vấn đề về tiêu thụ sản phẩm còn làm thế nào để người tiêu dùng sử dụng sản phẩm của mình thay vì sử dụng sản phẩm của các dự án khác lại thuộc về khâu tiếp thị và khuyến thị. Tiếp thị và khuyến thị có nghĩa là xác định bằng cách nào với chi phí bao nhiêu để có thể tiêu thụ được sản phẩm của dự án. Tiếp thị là đưa sản phẩm đến tận tay của người tiêu dùng một cách hiệu quả nhất. Khi tiếp thị cần phải xem xét một số vấn đề: đối tượng khách hàng, cách thức phân phối sản phẩm, các chi phí để đưa hàng đến tận tay người tiêu dùng. Mỗi một khách hàng có một cách tiếp cận và phân phối sản phẩm khác nhau. Khuyến thị là một bộ phận chủ chốt của tiếp thị. Mục tiêu của khuyến thị là làm sao người tiêu dùng sử dụng sản phẩm của mình thay vì sử dụng sản phẩm cùng loại của các cơ sở khác. + Xem xét khả năng cạnh tranh của sản phẩm Có nhiều loại sản phẩm khác nhau sẽ đem đến nhiều loại hình lựa chọn khác nhau cho người tiêu dùng. Có những sản phẩm độc quyền nhưng cũng có những sản phẩm cho nhiều loại để thay thế. Bên cạnh đó cũng có nhiều nhà sản xuất cùng một loại sản phẩm. Chính vì vậy, để có thể tiêu thụ sản phẩm thuộc dự án của mình nhà đầu tư nói riêng và ngân hàng nói chung cũng cần phải xem xét đến tính cạnh tranh của sản phẩm mình sản xuất ra. Nhất là nếu sản phẩm của mình lại là loại sản phẩm có nhiều loại thay thế và có nhiều trên thị trường. Để xem xét được khả năng cạnh tranh sản phẩm của dự án người ta có thể áp dụng phương pháp điều tra mẫu hoặc so sánh sản phẩm của dự án với các sản phẩm cùng loại khác. Vấn đề giá và ưu thế về vốn của nhà đầu tư cũng là một vấn đề để khẳng định vị thế trên thị trường. Nhưng nhìn chung để đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường thì cần phải nắm rõ được một số thông tin: danh sách các đối thủ cạnh tranh, quy mô sản xuất của các đối thủ, các mặt mạnh, mặt yếu của họ. Vị thế cạnh tranh của dự án xem dự án có chỗ đứng trên thị trường không. Đưa ra những điềm mạnh và điểm yếu của dự án tìm cách khắc phục các điểm yếu. *Thẩm định phương diện kỹ thuật Thẩm định về phương diện kỹ thuật khá phức tạp đòi hỏi cán bộ thẩm định phải có một trình độ hiểu biết nhất định về các khía cạnh kỹ thuật của dự án. Tuỳ từng dự án mà nội dung phân tích về phương diện kỹ thuật khác nhau. Không có mô hình nào có thể áp dụng chung trong việc phân tích phương diện kỹ thuật. Tuy nhiên, để phân tích đánh giá được kỹ thuật của dự án người ta thường đánh giá ở các khía cạnh như đặc tính của sản phẩm và đánh giá chất lượng, phương pháp và kỹ thuật sản xuất. Đặc tính và công suất của máy móc thiết bị, đặc tính và nhu cầu nguyên vật liệu, cơ sở hạ tầng, địa điểm xây dựng nhà máy, vấn đề về xử lý chất thải... Do đó, tuỳ theo từng dự án cụ thể mà có thể xem xét các kỹ thuật của dự án ở những góc độ khác nhau. Khi đánh giá về phương diện kỹ thuật của dự án cán bộ thẩm định đi vào các nội dung sau: - Đánh giá đặc tính và chất lượng của sản phẩm: Để thực hiện được việc đánh giá đặc tính của sản phẩm thì cần xem về mặt lý học, hoá học của sản phẩm. So sánh với các sản phẩm tương tự trong nước và ngoài nước. Các hình thức đóng gói bao bì, các công dụng và cách sử dụng sản phẩm. Các sản phẩm: sản phẩm chính, sản phẩm phụ và chất thải... Xét về mặt chất lượng của sản phẩm thì cần có các phương pháp và phương tiện để kiểm tra sản phẩm. Xác định các yêu cầu về chất lượng sản phẩm phải đạt, dự kiến bộ phận kiểm tra chất lượng sau khi đã xác định phương pháp kiểm tra. - Phương pháp và kỹ thuật sản xuất, công suất của máy móc thiết bị Để tạo ra sản phẩm có nhiều phương pháp và kỹ thuật sản xuất khác nhau. Mỗi một loại hình kỹ thuật sẽ cho ra sản phẩm và đặc tính chất lượng và giá thành khác nhau. Vì vậy việc nghiên cứu để lựa chọn ra được phương pháp và kỹ thuật sản xuất phù hợp với loại sản phẩm của dự án, phù hợp với điều kiện máy móc thiết bị, phù hợp với khả năng tài chính của chủ đầu tư cũng là một yếu tố quan trọng cho sự thành công của dự án. Việc nghiên cứu kỹ thuật và phương pháp sản xuất cần đươc tiến hành theo các khía cạnh sau: Bản chất của kỹ thuật sản xuất, yêu cầu về tay nghề của người sử dụng, khả năng tiếp thu kỹ thuật, yêu cầu về nguyên vật liệu, năng lượng sử dụng. Khả năng chuyển sang sản xuất mặt hàng khác trong trường hợp mặt hàng cũ không còn nhu cầu hoặc chức năng không còn phù hợp nữa. Nhà cung cấp, cách thức cung cấp và quyền sở hữu công nghiệp, yêu cầu về vốn đầu tư và ngoại tệ. Đối với các sản phẩm đơn giản thì có kỹ thuật sản xuất đơn giản và ngược lại. Song đối với các sản phẩm phước tạp và đòi hỏi kỹ thuật cao thì khả năng lựa chọn công nghệ là ít. Sau khi nghiên cứu kỹ thuật – phương pháp sản xuất khác nhau thì cần phải lựa chọn một phương pháp sản xuất - kỹ thuật thích hợp nhất phù hợp với điều kiện thực tế hiện có của dự án mà vẫn đảm bảo đáp ứng được mọi yêu cầu về chất lượng, số lượng sản phẩm với chi phí hợp lý. Việc lựa chọn kỹ thuật công nghệ chú ý tránh lựa chọn các kỹ thuật quá mới mẻ hoặc đang thử nghiệm chưa có tính thực tế. Tuy nhiên cũng cần tránh việc lựa chọn các kỹ thuật quá lạc hậu không đem lại hiệu quả cao trong hoạt động sản xuất. Để lựa chọn công nghệ cần chú ý đến việc áp dụng công nghệ ở đâu, khả năng về vốn và lao động thế nào, xu hướng lâu dài của công nghệ, khả năng vận hành và quản lý công nghệ có hiệu quả không.... Khi đã quyết định là sử dụng công nghệ nào thì việc lựa chọn máy móc thiết bị để sử dụng hiệu quả công nghệ đó cũng là vấn đề nhà đầu tư phải quan tâm. Khi lựa chọn máy móc thiết bị thì cần có một danh mục thiết bị máy móc như: máy móc thiết bị chính trực tiếp sản xuất, thiết bị phụ trợ, thiết bị vận chuyển, thiết bị bảo dưỡng thay thế... Sau khi đã lựa chọn máy móc thiết bị thì ta cần phải biết được công suất của máy thế nào có đủ để đáp ứng đúng như nhu cầu của dự án không. Để từ đó đưa ra quyết định cuối cùng về việc lựa chọn công nghệ và máy móc thiết bị cho dự án. - Thẩm định việc cung cấp các yếu tố đầu vào khác Để đánh giá việc cung cấp các yếu tố đầu vào cán bộ thẩm định phải kiểm tra việc tính toán tổng nhu cầu hàng năm về nguyên vật liệu chủ yếu năng lượng, điện, nước...trên cơ sở các định mức kinh tế kỹ thuật, so sánh mức tiêu hao thực tế, kinh nghiệm các doanh nghiệp đang hoạt động. Đối với nguyên vật liệu thời vụ cần tính toán mức dự trữ hợp lý để đảm bảo cung cấp nguyên vật liệu thường xuyên, tránh ứ đọng vốn. Đối với nguyên vật liệu nhập khẩu hoặc khan hiếm cần xem xét khả năng cung ứng thực tế trong và ngoài nước qua các hợp đồng hoặc các văn bản cam kết của doanh nghiệp với các nhà cung cấp về số lượng quy cách, chất lượng, giá cả, điêu kiện giao hàng, thanh toán... Đối với các dự án khai thác sử dụng tài nguyên khoáng sản, phải kiểm tra tính đúng đắn của các tài liệu điều tra, thăm dò khảo sát, đánh giá phân tích về trữ lượng, hàm lượng chất lượng tài nguyên, giấy phép khai thác khoáng sản của cấp có thẩm quyền để đảm bảo dự án hoạt động lâu dài. - Thẩm định về lựa chọn địa điểm xây dựng của dự án Việc lựa chọn địa điểm đầu tư đúng cũng góp một phần vào sự thành công của dự án. Chính vì vậy việc lựa chọn địa điểm đầu tư cần phải được cân nhắc cẩn thận và đảm bảo các nguyên tắc: Địa điểm gần nơi cung cấp nguyên vật liệu chủ yếu hoặc gần nơi tiêu thụ chính. Gần nơi có giao thông thuận tiện (đường bộ, đường biển, đường sông...) có chi phí vận chuyển hợp lý để hạ giá thành sản phẩm. Tận dụng cơ sở hạ tầng có sẵn: đường sá, bến cảng, điện nước... Mặt bằng cần đủ rộng không những phù hợp với quy mô hiện tại mà còn dự phòng cho phát triển mở rộng trong tương lai, đặt yêu cầu về vệ sinh công nghiệp, xử lý ô nhiễm môi trường, phòng cháy chữa cháy... Địa điểm xây dựng phù hợp với quy hoạch chung của vùng, phải tuân thủ đúng các văn bản pháp luật về đất đai, xây dựng, giải phóng mặt bằng...Tất cả các vấn đề trên cần được khảo sát lựa chọn kỹ lưỡng để đưa ra một phương án tối ưu nhất. - Kiểm tra tính hợp lý về kế hoạch tiến độ thực hiện dự án Đây là một yếu tố quan trọng liên quan đến việc sử dụng vốn, kế hoạch sản xuất, kế hoạch cho vay thu nợ của ngân hàng. Khi kiểm tra tính hợp lý về kế hoạch thực hiện dự án thì cần xác định được thứ tự ưu tiên để tập trung vốn đầu tư hoàn thành dứt điểm. Tránh tình trạng dàn đều tất cả các hạng mục cùng một lúc sẽ không có hiệu quả thậm chí có thể dẫn đến lãng phí về nguyên liệu, nhân công không cần thiết. *Thẩm định nội dung tổ chức, quản lý thực hiện vận hành dự án Trong phần này cán bộ thẩm định cần phải nắm được rõ mô hình thực hiện quản lý dự án của chủ đầu tư như thế nào. Cách thức quản lý ra sao, năng lực của chủ đầu tư. Nguồn lao động của dự án. Để từ đấy có thể tư vấn cho chủ đầu tư cách thức nào là hợp lý và phù hợp với dự án nhất. *Thẩm định tài chính của dự án Tài chính dự án là một phần nội dung quan trọng trong tổng thể của dự án. Bất kỳ một dự án nào dù là tiền khả thi hay khả thi thì cần phải tiến hành phân tích tình hình tài chính của dự án. Đối với ngân hàng phân tích tình hình tài chính lại có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng. Chính vì vậy đây là một công việc mà các bộ thẩm định không thể bỏ qua trong thẩm định dự án đầu tư. Ngoài ra thông qua việc phân tích tài chính của dự án còn cho ta xác định được quy mô đầu tư, cơ cấu các loại vốn, nguồn tài trợ cho dự án, tính toán thu chi lỗ lãi những lợi ích thiết thực mang lại cho nhà đầu tư và cả cộng đồng. Việc tính toán, phân tích tình hình tài chính của dự án được tiến hành theo nội dung sau: - Xác định vốn đầu tư, cơ cấu các loại vốn, nguồn tài trợ. - Tính toán các khoản thu, chi, lợi nhuận. - Xác định các chỉ tiêu hiệu quả và các vấn đề liên quan khác. * Xác định vốn đầu tư, cơ cấu các loại vốn, nguồn tài trợ Đây là việc đầu tiên khi tiến hành phân tích tài chính của dự án. Tính toán chính xác tổng mức vốn đầu tư có ý nghĩa rất quan trọng đối với tính khả thi của dựa án. Tổng mức vốn đầu tư của dự án bao gồm toàn bộ số vốn cần thiết lập và đưa dự án vào hoạt động. Tổng mức vốn này được chia thành hai loại: Vốn cố định và vốn lưu động ban đầu (chỉ tính cho 1 chu kỳ sản xuất kinh doanh đầu tiên), vốn dự phòng. Vốn cố định bao gồm: chi phí chuẩn bị cho dự án, chi phí cho xây lắp và mua máy móc thiết bị. Vốn lưu động ban đầu gồm các chi phí để tạo ra các tài sản lưu động ban đầu (cho một chu kỳ sản xuất kinh doanh đầu tiên) nhằm đảm bảo cho dự án có thể đi vào hoạt động bình thường theo các điều kiện kinh tế, kỹ thuật đã dự tính. Nó bao gồm vốn sản xuất, vốn lưu động. Vốn dự phòng: là vốn mà chủ đầu tư phải để ra để dự phòng cho dự án. Thông thường nguồn vốn này sẽ được chủ đầu tư tính bằng 10% tổng vốn đầu tư. Sau khi xác định được tổng vốn đầu tư thì cần phải xem cơ cấu vốn tham gia vào dự án như thế nào. Vốn tự có của chủ dự án tham gia là bao nhiêu, vốn vay là bao nhiêu, các nguồn vốn huy động khác là bao nhiêu. Đối với một dự án nguồn vốn tham gia thường là từ nhiều nguồn khác nhau: có thể vốn đi vay từ trong nước, ngoài nước, vốn ngân sách, vốn liên doanh liên kết, vốn cổ phần và các nguồn vốn khác. Tuy nhiên, nhà đầu tư nói chung và ngân hàng cũng cần xem xét đến tính hợp lý cơ cấu của các nguồn vốn tham gia. Nếu nguồn vốn đi vay để thực hiện dự án quá lớn sẽ dấn đến chủ đầu tư gặp khó khăn tài chính vì gánh nặng về lãi suất. *Xác định các khoản thu chi, lợi nhuận Sau khi đã xác định được rõ nguồn vốn đầu tư thì điều quan trọng là phải xác định được dòng tiền của dự án để đánh giá được tính khả thi của dự án. Để xác định được dòng tiền của dự án thì cần xác định được luồng tiền ra luồng tiền vào, xác định được lợi nhuận của dự án qua các năm. Dòng tiền ra của dự án là các khoản chi phí để thực hiện dự án bao gồm: chi phí đầu tư tài sản cố định, chi phí hoạt động, chi phí khấu hao tài sản cố định, chi phí quản lý, chi phí bán hàng, chi phí lãi vay, thuế thu nhập phải nộp, các loại chi phí khác,… Dòng tiền vào của dự án là các khoản tiền chảy vào dự án: các nguồn vốn tài trợ, doanh thu hàng năm của dự án, giá trị thanh lý tài sản, vốn lưu động được giải phóng khi kết thúc dự án. Lợi nhuận của dự án là khoản tiền thu được hàng năm sau khi đã trừ đi tất cả các khoản chi phí. Dòng tiền ròng (thu nhập ròng) = Lợi nhuận sau thuế + khấu hao TSCĐ * Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của dự án Chỉ tiêu 1: Giá trị hiện tại ròng (Net Present Value – NPV) Giá trị hiện tại ròng của dự án đầu tư là số chênh lệch giữa giá trị hiện tại của luồng tiền ròng kỳ vọng trong tương lai với giá trị hiện tại của vốn đầu tư. Để tính được giá trị hiện tại ròng ta phải quy giá trị dòng tiền về một năm gốc (thường là năm hiện tại của dự án) nhất định. Công thức tính: NPV = - CFo + CF1 (1+i)1 + CF2 (1+i)2 + .... + CFn (1+i)n (1) Trong đó: NPV: Giá trị hiện tại ròng tại thời điểm ban đầu. CF0: Vốn đầu tư ban đầu CF1, CF2, ..., CFn: là các luồng tiền ròng dự tính trong tương lai i: là tỷ lệ chiết khấu n: số năm dòng đời của dự án Giá trị hiện tại ròng đo lường phần giá trị tăng thêm dự tính của dự án đem lại cho nhà đầu tư với mức rủi ro có thể của dự án. Khi NPV<0 dự án bị lỗ, phản ánh dự án không có hiệu quả, các khoản thu không đủ bù bắp được các khoản chi phí bỏ ra để thực hiện dự án. Khi NPV>0 dự án lãi, phản ánh dự án có hiệu quả, các khoản thu được từ dự án đủ để bù đắp các khoản chi phí bỏ ra để thực hiện dự án và có lãi. Khi NPV=0 điều đó có nghĩa là dự án thực hiện được chỉ đủ hoàn vốn mà không sinh ra lợi nhuận. Đây là điểm hoà vốn của dự án, các khoản thu từ dự án chỉ đủ bù đắp các khoản chi cho dự án. Đối với chủ đầu tư để có thể lựa chọn được một dự án khả thi thì họ bao giờ cũng quan tâm đến giá trị của NPV tại thời điểm hiện tại cao hay thấp. Dự án nào có NPV càng cao thì đồng nghĩa với hiệu qủa của dự án càng cao. Đó cũng là một trong những điều kiện đánh giá tính hiệu quả của dự án. Tính NPV cho biết quy mô về số tiền lãi ròng có thể thu được khi thực hiện dự án. Tuy nhiên chỉ tiêu này lại phụ thuộc nhiều vào lãi suất chiết khấu. Khi lãi suất tăng thì NPV nhỏ và ngược lại. Chỉ tiêu này rất nhạy cảm với sự tăng giảm của lãi suất. Chính vì vậy khi tính toán chỉ tiêu này cần phải xác định mức lãi suất thật chính xác phù hợp với điều kiện thực tế. Chỉ tiêu 2: Tỷ suất hoàn vốn nội bộ (Internal Rate of Return – IRR) Tỷ suất hoàn vốn nội bộ IRR là một chỉ tiêu được dùng phổ biến nhất hiện nay. IRR là mức lãi suất tối đa mà dự án chịu đựng được hay nói cách khác tại mức IRR đó dự án hoà vốn, các khoản thu từ dự án bằng các khoản chi của dự án. IRR của dự án là tỷ lệ lãi suất phải đủ trả cho các khoản vay trong suốt thời gian hoạt động của dự án để đảm bảo dự án không bị lỗ thì dự án mới được chấp nhận. Cách tính IRR Để xác định được IRR ta phải tính NPV tại hai mức lãi suất khác nhau. Tại mức lãi suất r1 thì tính được mức NPV1 >0 và tại mức r2 thì tính mức NPV2<0. Công thức tính IRR IRR = r1+ (r2 – r1) NPV1 NPV1 +/NPV2/ (2) IRR tìm được thường phải lớn hơn hoặc bằng lãi suất định mức (thường là lãi suất vay thực tế). Nếu IRR tìm được mà nhỏ hơn lãi suất vay thực tế thì dự án có thể coi như không hiệu quả vì dự án không chịu đựng được với mức lãi suất vay hiện tại. IRR tìm được càng lớn thì chứng tỏ dự án chịu đựng được với mức lãi suất khá cao. Tại mức lãi suất cho vay dự án có hiệu quả. Tính IRR có thể cho ta biết mức lãi suất tối đa mà dự án chịu đựng được hay chấp nhận được. Nhưng lại không cho biết q._..0000 Tấn 48.000 Cty TNHH TM VT Hải Phòng 2008 4 Đóng mới tàu 3.000 T 950 Cty CP Đóng tàu Thủy sản - HP 2007 5 Đóng mới tàu 5.000 T ssó 1 1.100 Cty CP Đóng tàu Thủy sản - HP 2007 6 Đóng mới tàu 5.000 T ssó 2 1.500 Cty CP Đóng tàu Thủy sản - HP 2008 7 Hoán cải tàu ánh Dương 1.000 Cty TM ánh Dương 2008 Qua bảng trên cho thấy đơn vị đã có kinh nghiệm trong việc gia công đóng mới các tàu có trọng tải tương tự và lớn hơn tàu Trường Phát 45. Hình thức thực hiện chủ yếu của đơn vị là gia công phần thân vỏ tàu. Theo cách thức đã thực hiện khi đóng tàu Trường Phát 45 thì Cty CP Vận tải Thủy Bộ Trường Phát sẽ cung cấp toàn bộ nguyên liệu, thiết bị, máy chính, thông tin nghi khí, . . . Cty CP dịch vụ kỹ thuất Cảng Hải Phòng chỉ có chức năng gia công. Tiến độ tàu Trường Phát 45 đến thời điểm hiện tại: Theo biên bản xác nhận giữa Cty Trường Phát và Marseco ngày 10/01/2009 thì khối lượng thực hiện của tàu Trường Phát 45 đạt được khoảng 55% khối lượng, dự kiến sẽ hạ thủy tàu vào tháng 5/2009. KL: với kinh nghiệm và năng lực nhân sự, máy móc thiết bị hiện có Công ty Marseco hoàn tòan có khả năng hoàn thiện tàu Trường Phát 45 theo đúng thiết kế đã được duyệt và theo hợp đồng đóng tàu giữa Cty CP Trường Phát và Marseco. Rủi ro liên quan đến khả năng khai thác đầu ra của dự án Khả năng quản lý của Ban lãnh đạo Ban lãnh đạo Cty đã có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực VTB trên tuyến Đông Nam Á và Trung Quốc, Cty đã từng làm đại lý vận tải trực tiếp cho Cty TNHH Phúc Hải và khai thác tàu trên tuyến trên với trọng tải lên đến 27.000 Tấn. Các Cty trong hệ thống Cty gia đình nhà Ông Thơ chủ yếu hoạt động trên tuyến Đông Nam Á, đây được xem là tuyến mang lại lợi nhuận cao cho các đơn vị VTB do quãng đường vận chuyển không dài, giá cước hợp lý và ít biến động mạnh. Các thuyền viên thực hiện khai thác tàu Cty Trường Phát đang có 02 tàu hoạt động trên tuyến Đông Nam Á và Trung Quốc với số lượng thuyền viên trên 30 người, khi tàu Trường Phát 45 hạ thủy đơn vị sẽ phân bổ một phần những thuyền viên có kinh nghiệm từ tàu Trường Phát 36 và Nguồn hàng vận chuyển của khách hàng Hiện nay đội tàu biển của làng nghề Thủy Nguyên được tổ chức khá chặt chẽ, các đội tàu ở đây có sự trao đổi, giới thiệu nguồn hàng cho nhau thường xuyên, vì vậy các đội tàu tại làng nghề Thủy Nguyên gần như không có thời gian chờ tàu. Mặt khác, do thời gian tàu chạy thường dài (trung bình 1 tháng/ chuyến), do đó việc chủ động bố trí nguồn hàng hoặc thông qua các đại lý được thực hiện chuẩn xác. Hiện gia đình nhà Ông Thơ có 4 Công ty chuyên vận tải biển là: Công ty TNHH Hưng Phát, Công ty TNHH vận tải thủy bộ Nam Phát, Cty TNHH Đức Phát và Cty vận tải thủy bộ Trường Phát. Chi tiết về năng lực vận tải của các Cty trên như sau: Công ty Vốn CSH (Tr.đồng) Đội tàu Trọng tải (Tấn) Kinh nghiệm hoạt động Công ty TNHH Hưng Phát 45.000 5 10.730 16 năm (từ năm 1993) Công ty TNHH vận tải thủy bộ Nam Phát 11.000 5 năm (từ năm 2004), hoạt động kinh doanh hang Taxi 86 tại Hải Phòng với trên 30 đầu xe Cty TNHH Đức Phát 6.300 2 3.399 8 năm (từ năm 2001) Cty vận tải thủy bộ Trường Phát 65.735 3 7.000 5 năm (từ năm 2004) Tổng 10 21.129 Tổng hợp doanh thu từng tàu theo tuyến của Công ty Trường Phát trong năm 2008 như sau: (Tr.đồng) Tàu Doanh thu Nội địa Doanh thu Quốc tế Tổng cộng Trường Phát 06 3.860 800 4.660 Trường Phát 18 7.082 7.082 Trường Phát 36 18.238 18.238 Tổng 3.860 26.120 29.980 KL: Nguồn hàng vận chuyển của đơn vị đảm bảo cho tàu Trường Phát 45 hoạt động trên tuyến Đông Nam Á. Hiệu quả tài chính dự án Không đồng ý với bảng tính của Chi nhánh Hải Phòng, một số vấn đề khác biệt như sau: + Thời gian cho vay của Chi nhánh đang để quá dài, trong khi khách hàng hoàn toàn có thể cân đối được nguồn trả nợ trong thời gian 7 năm. + Số chuyến hoạt động trong năm của Chi nhánh đang để 6 chuyến/năm, theo đánh giá của Phòng TTĐ – HS nếu hoạt động quay vòng nên trên thì tối đa số chuyến trong năm là 5 chuyến/năm. + Thời gian trích khấu hao: Theo Quyết định 206/2004/QĐ-BTC thì khung khấu hao Phòng TTĐ – HS đề xuất trích trong dự án lần này là 15 năm. + Lãi suất: Phòng TTĐ – HS điều chỉnh lại lãi suất theo diễn biến thị trường hiện tại + Về lạm phát: Chi nhánh chưa tính đến tỷ lệ lạm phát vào trong giá cước tàu và các loại Chi phí tàu + Chi phí nhiên liệu: Chi nhánh đang để chi phí nhiên liệu quá thấp (10% Doanh thu), theo thực tế thì lượng tiêu hao nhiên liệu hiện nay dao động khoảng 30% doanh thu. Phòng TTĐ – HS đã tính toán và điều chỉnh lại các thông số nêu trên (Chi tiết theo các phụ lục từ 02 đến 11), một số kết luận như sau: - Theo quan điểm Tổng đầu tư: + NPV: 14.358 Tr.đồng + IRR: 13% - Theo quan điểm Chủ đầu tư: + NPV: 46.488 Tr.đồng + IRR: 29% => Dự án có hiệu quả về mặt tài chính. Khách hàng có thể cân đối được nguồn trả nợ gốc và lãi cho NH Nhận Xét : Ta có thể thấy dự án được đánh giá và thẩm định ở trên được là một trong những dự án tốt, tính khả thi cao, khả năng thu hồi vốn và trả nợ lớn. Trong quá trình thẩm định dự án được đánh giá và xem xét ở tất cả các khía cạnh liên quan, và đặc biệt là tình hình tài chính khả năng trả nợ của ngân hàng, tính khả thi ( cả trong và ngoài nước). Dự án đã tính toán được tất cả những chỉ số vể NPV, IRR, thời hạn trả nợ, những rủi ro của dự án... do đó có thể thấy để đánh giá chính xác một dự án và có kết quả tốt thì công việc thẩm định phải thật kỹ lưỡng và chính xác và có thể thấy báo cáo thẩm định trên là một trong những báo cáo tốt, chi tiết cụ thể, để có ra quyết định cho vay đầu tư. CHƯƠNG 2 GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ VỀ CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ ĐÓNG TÀU VÀ VẬN TẢI BIỂN Ở NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN CHI NHÁNH THỦ ĐÔ 2.1. Định hướng nâng cao công tác thẩm định tại Chi nhánh NHNo&PTNT Chi nhánh thủ đô. Về cơ bản có thể thấy để nâng cao công tác thẩm định nói chung và công tác thẩm định dự án đầu tư đóng tàu và vận tải biển nói riêng của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh thủ đô chúng ta đều phải đi theo một định hướng và cùng thực hiện những giải pháp chung. 2.1.1 Về thẩm định dự án đầu tư nói chung. Để ngày một nâng cao chất lượng thẩm định và hoàn thiện trong công tác thẩm định dự án đầu tư Chi nhánh NHNo&PTNT Chi nhánh thủ đô đề ra phương hướng nhiệm vụ cụ thể như sau: - Xác định phương hướng nhiệm vụ trước tiên phải xuất phát từ việc nhận thức đúng vai trò, vị trí và nội dung của công tác thẩm định dự án. Thực hiện công tác này là một trong những yếu tố quyết định góp phần bảo vệ và nâng cao vị thế, uy tín cũng như sức mạnh của Ngân hàng. - Củng cố, hoàn thiện bộ máy tổ chức thẩm định dự án: Phòng tín dụng của ngân hàng sẽ phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng, đảm đương tốt nhiệm vụ thực hiện tốt chức năng chỉ đạo, điều hành, kiểm tra hướng dẫn công tác thẩm định dự án. - Xây dựng quy chế hoạt động, quy định thực hiện, điều hành công tác thẩm định dự án. Xác định rõ nội dung chức trách và mối quan hệ công tác giữa phòng tín dụng với các phòng khác phối hợp phân công hợp lý giữa công tác thẩm định và quản lý tín dụng. - Tăng cường công tác khoa học kỹ thuật thông tin: Tổ chức thu thập các thông tin, xử lý và quản lý thông tin nhằm cung cấp kịp thời phục vụ cho công tác thẩm định dự án, đồng thời có kế hoạch báo cáo thông tin cần thiết để tư vấn cho lãnh đạo. - Quan tâm phát triển công tác đào tạo và trao đổi nghiệp vụ, tạo điều kiện cho cán bộ Ngân hàng nâng cao trình độ. Đào tạo nghiệp vụ thẩm định chuyên sau theo ngành nghề, lĩnh vực dựa trên đặc điểm thế mạnh của địa phương. - Công tác thẩm định dự án phải trở thành thế mạnh trong cạnh tranh và trong kinh doanh, coi đó là một yếu tố thu hút khách hàng, tạo uy tín cho Ngân hàng qua việc nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư. 2.1.2. Về các Dự án đầu tư đóng tàu và vận tải biển nói riêng Để có thể chú trọng trong việc đẩy mạnh thu hút và nâng cao công tác thẩm định các dự án đóng tàu và vận tải biển nói riêng thì ngân hàng đã đưa ra những định hướng để phát triển sau: - Trên cơ sở tuân theo những định hướng để nâng cao công tác thẩm định dự án đầu tư nói chung thì việc đề ra những định hướng riêng cho ngành đóng tàu và vận tải biển là tất yếu. - Mở rộng các chi nhánh của Ngân hàng tại các địa điểm tập trung ngành công nghiệp đóng tàu và các cảng biển để có cái nhìn chân thực và đánh giá chính xác hơn trong công tác thẩm định và đưa ra quyết định cho vay đối với các dự án. - Đào tạo và nâng cao nghiệp vụ đối với các cán bộ thẩm định để có những kiến thức cơ bản và vững chắc hơn trong trong ngành đóng tàu và vận tải biển nói riêng, thành lập những đội ngũ cán bộ chuyên sâu trong lĩnh vực này để có thể đảm nhiệm các dự án trong ngành đóng tàu một cách chuyên môn hóa hơn. 2.2. Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư tại Chi nhánh NHNo&PTNT Chi nhánh thủ đô Để đạt được các mục tiêu trên đòi hỏi Chi nhánh NHNo&PTNT Chi nhánh thủ đô phải giải quyết nhiều vẫn đề. Một trong những vấn đề đó là phải nâng cao chất lượng tín dụng vì tín dụng chính là nghiệp vụ mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng. Tuy nhiên để hoạt động tín dụng đạt được hiệu quả thì điều đầu tiên phải nâng cao chất lượng trong công tác thẩm định tại Ngân hàng. Các giải pháp tập trung giải quyết các vấn đề về nâng cao chất lượng thu thập và xử lý thông tin, hoàn thiện nội dung thẩm đinh, nâng cao công nghệ và chất lượng nguồn nhân lực. 2.2.1. Nâng cao chất lượng công tác thu thập và xử lý thông tin Nguồn thông tin là một yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của công tác thẩm định trong hoạt động tín dụng, đặc biệt là tín dụng doanh nghiệp. Thông tin đầy đủ là cơ sở cần thiết để cán bộ tín dụng có thể phân tích và đưa ra nhận định chính xác về khách hàng, từ đó có những quyết định hợp lý trong việc đáp ứng nhu cầu vay của khách hàng. Ngoài ra nguồn thông tin đầy đủ cũng giúp ngân hàng nắm được diễn biến của thị trường trong nước và quốc tế, những biến động kinh tế và những thay đổi trong chủ trương, chính sách phát triển kinh tế của nhà nước, từ đó ngân hàng đề ra các biện pháp kịp thời, nhằm điều chỉnh các hoạt động tránh những rủi ro thiệt hại và ổn định để phát triển. Vì vậy ngân hàng cần phải có những giải pháp để nâng cao hơn nữa chất lượng công tác thu thập, nhất là các thông tin liên quan đến các doanh nghiệp. - Để có những thông tin có chất lượng cao, ngoài những hồ sơ tài liệu mà ngân hàng nhận được từ khách hàng vay vốn, ngân hàng cần phỏng vấn trực tiếp một số người chủ chốt liên quan tới dự án và doanh nghiệp: Giám đốc, Kế toán trưởng, người phụ trách kỹ thuật... Mục đích chính của cuộc phỏng vấn để xác định tư cách của người đứng đầu và hiểu thêm về dự án. Kết hợp với phỏng vấn là đi quan sát thực tế tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để nắm rõ tình hình hiện tại của doanh nghiệp. Tuy nhiên hiệu quả của công việc này phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệp và nghệ thuật của mỗi cán bộ tín dụng, nó yêu cầu năng lực tư duy và năng lực quan sát của mỗi người. - Khai thác triệt để nguồn thông tin từ trung tâm tín dụng CIC của Ngân hàng nhà nước, các cơ quan thông tin đại chúng và truyền thông, các nguồn thông tin từ các kênh khác nhau (Các ngân hàng mà doanh nghiệp có quan hệ, các bạn hàng...). Nó cho phép đánh giá sơ bộ khách hàng về những mặt: lịch sử quan hệ của khách hàng, uy tín thanh toán...Để đảm bảo việc cung cấp thông tin có chất lượng cao cho hoạt động đánh giá doanh nghiệp, trong các trường hợp đặc biệt cần thiết, ngân hàng nên tính đến việc mua các thông tin. Ngân hàng trang thiết bị các thiết bị kết nối internet, thiết bị kết nối với trung tâm thông tin thương mại, thông tin phòng ngừa rủi ro để có những thông tin đầy đủ. - Điều tra kỹ lưỡng thông tin về thị trường sản phẩm, kênh phân phối của doanh nghiệp, thị trường các yếu tố đầu vào để xem xét các sản phẩm của phương án, dự án có phù hợp với nhu cầu của thị trường không, đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống, yếu tố đầu vào có được cung cấp ổn định phù hợp với yêu cầu của phương án không. - Cán bộ tín dụng cần phải tham khảo các thông tin về chủ trương chính sách của nhà nước, định hướng ửu tiên phát triển của địa phương nơi dự án sản xuất hay kinh doanh, những quy định về vấn đề bảo vệ môi trường, xử lý ô nhiễm... để đánh giá tính hợp lý, hợp pháp của dự án, đảm bảo dự án không gặp những trắc trở về các vấn đề trên. - Với các thông tin đã thu thập, xử lý cần có hoạt động sắp xếp lưu trữ hợp lý. Hợp tác chặt chẽ với trung tâm CIC, sẵn sàng cung cấp thông tin cho họ để phục vụ các đơn vị khác. Từ mối quan hệ này, ngân hàng mới có thể dễ dàng khai thác thông tin tại đây hoặc từ các ngân hàng khác. Xây dựng quan hệ trao đổi thông tin với các ngân hàng trên địa bàn và trong hệ thống. 2.2.2. Hoàn thiện nội dung trong công tác thẩm định Trong nội dung thẩm định cán bộ tín dụng đã bán sát và thực hiện các mặt khi thẩm định khách hàng vay vốn song vẫn còn cần phải hoàn thiện một số vấn đề sau: * Thẩm định khách hàng vay vốn: Cán bộ tín dụng nên yêu cầu tất cả các doanh nghiệp khi quan hệ với ngân hàng đều phải có đủ hồ sơ pháp lý. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp đã quan hệ với ngân hàng thì khi có sự thay đổi về Giám đốc, hay đăng ký kinh doanh hoặc trụ sở thì phải thông báo cho Ngân hàng biết. Cung cấp các văn bản giấy tờ liên quan đến tính chất pháp lý của doanh nghiệp. Trên thực tế cán bộ tín dụng tại Chi nhánh vẫn còn chưa quan tâm đến việc này. Điều này sẽ dẫn đến rủi ro mang tính pháp lý cho ngân hàng. * Thẩm định khả năng tài chính của khách hàng vay vốn: Khi đánh giá về năng lực tài chính của khách hàng, Cán bộ tín dụng đã phân tích các chỉ số tài chình, các mối quan hệ của các khoản mục trong bản cân đối kế toán. Song lại chưa có sự so sánh các chỉ tiêu với ngành sản xuất tương ứng. Ngân hàng chưa thu thập được chỉ tiêu định mức của các ngành sản xuất, các lĩnh vực. Bên cạnh việc tính toán các chỉ tiêu cần phải nêu ra các nguyên nhân gây nên sự tăng giảm. Nếu không phân tích rõ nguyên nhân có thể ngân hàng sẽ bỏ qua cơ hội đầu tư hoặc sẽ đưa ra một kết luận không đúng. Yêu cầu khách hàng cung cấp báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Cán bộ tín dụng phải phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ để biết nhu cầu thực tế của khách hàng vay là bao nhiêu, cơ cấu tài trợ như thế nào, tiền tạo ra trong quá trình hoạt động là bao nhiêu. * Đánh giá năng lực kinh doanh: Rủi ro tín dụng mà ngân hàng gặp phải có thể xuất phát từ năng lực kinh doanh, khả năng điều hành sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc đánh giá năng lực kinh doanh của doanh nghiệp là khó khăn chung của các ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên không phải vì vậy mà ngân hàng được phép xem nhẹ và bỏ qua việc đánh giá. Cán bộ tín dụng cần phải gặp gỡ từng người trong đội ngũ cán bộ, lãnh đạo của doanh nghiệp để đánh giá năng lực của doanh nghiệp. * Về đánh giá phương án và dự án vay vốn: - Trong phân tích đánh giá dự án, cán bộ tín dụng cần xem xét phân tích đặc điểm của ngành xem dự án thuộc lĩnh vực ngành sản xuất kinh doanh nào từ đó nêu ra được điểm mạnh điểm yếu, cơ hội thách thức của doanh nghiệp trong lĩnh vực kinh doanh của dự án. Khi phân tích và nắm bắt được vẫn đề này cán bộ tín dụng sẽ hiểu hơn doanh nghiệp và ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp. - Phân tích thị trường nhu cầu thực tế của sản phẩm dự án, đánh giá được thị trường đầu vào và đầu ra của sản phẩm dự án, tính canh tranh của sản phẩm... - Tính dòng tiền của dự án: Cán bộ tín dụng phải xây dựng được báo cáo lưu chuyển tiền tệ của dự án qua các năm. Trên cơ sở đó kiểm tra và đánh giá các khoản thu chi của dự án đồng thời biết được tính thực tế của kế hoạch trả nợ. - Phải tính toán điểm hoà vốn và độ nhậy của dự án dựa trên các giả định về sự biến động của thị trường. - Khả năng trả nợ của dự án: Điều quan trọng nhất và mục đích cuối cùng của cán bộ tín dụng là dự án có hiệu quả và thu hồi được vốn đầu tư. Để đánh giá được điều này cán bộ tín dụng phải đánh giá được khả năng của dự án trong tương lai. Ngoài các nguồn thu từ dự án chủ đầu tư (doanh nghiệp) còn có nguồn thu nào khác không để có thể trả nợ. 2.2.3. Tăng cường kiểm tra sau giải ngân Thực tế cho thấy cán bộ tín dụng tại Chi nhánh sau khi giải ngân rất ít khi đi kiểm tra sau, giám sát việc sử dụng vốn. Để khắc phục vấn đề này Cán bộ tín dụng sau khi giải ngân có thể định kỳ đi kiểm tra sau món vay, giúp đỡ phân tích chủ dự án đề ra những phương án thu hồi vốn nếu dự án, phương án không đem lại hiệu quả như mong muốn. 2.2.4. Nâng cao trình độ cán bộ Trong hoạt động ngân hàng, đặc biệt trong hoạt đông tín dụng, tính phức tạp và rủi ro rất cao nên nhân tố con người đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Công tác đánh giá doanh nghiệp là một nghiệp vụ quan trọng của hoạt động tín dụng nên càng đòi hỏi cán bộ ngân hàng thực hiện công việc này phải có trình độ cao hơn các nghiệp vụ khác. Để nâng cao trình độ cán bộ tín dụng Chi nhánh cần có những biện pháp sau: - Liên tục bồi dưỡng và rèn luyện phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, sự tâm huyết của những cán bộ làm công tác tín dụng. Ban lãnh đạo của Chi nhánh NHNo&PTNT Chi nhánh thủ đô cần quan tâm động viên và thực hiện chế độ đãi ngộ theo quy định. - Ngân hàng thường xuyên có kế hoạch tổ chức cho cán bộ được đào tạo và đào tạo lại. Hướng dẫn, tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, thường xuyên được trang bị thêm hiểu biết về pháp luật, thị trường, kinh tế, ngoại ngữ, tin học, chế độ, thể lệ của ngành, liên ngành, chủ trương đường lối, mục tiêu phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước và địa phương, tạo điều kiện cho họ tự nâng cao trình độ kiến thức và năng lực kinh nghiệm làm việc. Đặt ra những yêu cầu chuyên môn bắt buộc, đòi hỏi đội ngũ này phải có kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực tài chính doanh nghiệp, tài chính ngân hàng, có khả năng phân tích tài chính, phân tích dự án đầu tư và phương án kinh doanh, nắm bắt và hiểu rõ các quy định của NHNo&PTNT Việt Nam. Kiên quyết thực hiện và sắp xếp lại cán bộ không đáp ứng được các yêu cầu công việc. Trong quá trình học tập và bồi dưỡng phải gắng lý luận với thực tiễn để cán bộ tín dụng có thể vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo và có hiệu qủa khi giải quyết cho vay. - Thực hiện phân công công việc theo năng lực, kinh nghiệm của mỗi người. Chuyên môn hoá cán bộ theo từng ngành, từng lĩnh vực cụ thể tạo sự chuyên sâu đối với từng ngành. - Ngân hàng cần có chính sánh thu hút và ưu đãi các chuyên gia giỏi để thu hút được đội ngũ này về làm việc cho ngân hàng, hoặc mới làm cố vấn, cộng tác viên trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. - Ngân hàng cần quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn, nghĩa vụ của từng cán bộ tín dụng đối với từng món vay. Có chế độ thưởng phạt rõ ràng đối với từng trường hợp cụ thể. Cần thiết có chế độ đãi ngộ, lương thưởng khác nhau đối với những nhiệm vụ quan trọng khác nhau... Như vậy, sẽ kích thích được cán bộ tín dụng phấn đấu hoàn thành tốt công việc được giao. - Phân công cán bộ tín dụng giỏi có kinh nghiệm kèm cặp và hướng dẫn cán bộ tín dụng trẻ. Đây là một cách để có thể phổ cập và nâng cao trình độ của các cán bộ trong ngân hàng. - Hàng năm nên tổ chức các cuộc thi nghiệp vụ và tổ chức tập huấn nghiệp vụ, tổ chức các lớp tập huấn khi có sự thay đổi về luật pháp và các quy định trong ngành ngân hàng. 2.2.5. Nâng cao công nghệ phục vụ công tác thẩm định Công nghệ - trang thiết bị đối với hoạt động của bất kỳ ngân hàng nào cũng là một vấn đề hết sức quan trọng. Nó là một phần tạo nên lợi thế cạnh tranh và là điều kiện cần thiết cho sự phát triển của mỗi ngân hàng. Ngân hàng hiện đại trên thế giới đang ngày càng phát triển mạnh mẽ, hầu hết các ngân hàng thương mại hiện nay đều tăng cường đầu tư cải tiến trang thiết bị và công nghệ nhằm gia tăng chất lượng phục vụ để thu hút khách hàng về phía mình. Hiện nay, điều kiện trang thiết bị và phương tiện tại Chi nhánh chưa phải là hiệu đại. Vì vậy trong thời gian tới Ngân hàng cần có một số giải pháp nhằm nâng cao công nghệ như sau: - Đầu tư chiều sâu vào các trang thiết bị thuộc hệ thống thu thập thông tin của ngân hàng: máy tính kết nối mạng internet, kết nối mạng nội bộ với các phòng và với các ngân hàng khác trong cùng hệ thống. - Đầu tư cơ sở vật chất phục vụ công việc với số lượng phù hợp với điều kiện làm việc của từng cán bộ tín dụng. Nếu là trưởng phòng hoặc cán bộ tín dụng làm việc độc lập cần phải trang thiết bị máy tính các nhân. - Tìm hiểu khai thác những công nghệ, phần mềm mới: Phần mềm quản lý thông tin, phần mềm hỗ trợ thẩm định... trong lĩnh vực ngân hàng nhằm giảm bớt các công đoạn trong quá trình thực hiện đánh giá doanh nghiệp trong hoạt động tín dụng. 2.3. Một số kiến nghị nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư Thẩm định dự án đầu tư liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều đối tượng khác nhau. Để công tác thẩm định dự án đầu tư ngày càng hiệu qủa hơn thì cần có một giải pháp đồng bộ, có sự phối hợp nhịp nhàng của nhiều ngành nhiều cấp. Trên cơ sở đó tác giả đưa ra một số kiến nghị sau: 2.3.1. Kiến nghị với Nhà nước Hệ thống chính sách Nhà nước có ảnh hưởng và chi phối tất cả lĩnh vực như kinh tế, xã hội chính trị… Một sự thay đổi nhỏ hay lớn trong chính sách của Nhà nước được các Bộ, ngành và chính quyền địa phương thiết lập thành những văn bản cụ thể ban hành xuống từng cơ quan, đơn vị. Về lĩnh vực ngân hàng, các hoạt động kinh doanh ngân hàng luôn bị ảnh hưởng bởi chính sách kinh tế, tài chính – ngân hàng của Nhà nước. Chính vì vậy, để nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng và nâng cao chất lượng thẩm định trong hoạt động tín dụng không chỉ cần nỗ lực riêng của ngân hàng mà còn cần sự giúp đỡ và sự phối hợp của các cơ quan hữu quan khác. Tăng cường vai trò quản lý nhà nước trong lĩnh vực hoạt động tín dụng. Đây là một chính sách hết sức quan trọng trong lĩnh vực quản lý tài chính – ngân hàng của Nhà nước, nó tác động đến hoạt động tín dụng nói chung và ảnh hưởng đến công tác thẩm định nói riêng của ngân hàng. Nhà nước cần bổ sung hoàn thiện các văn bản, cơ chế chính sách nhằm quản lý tốt hơn đối với hoạt động tín dụng để hoạt động tín dụng này thực sự lành mạnh và hiệu quả. Đồng thời với việc ban hành các văn bản, cơ chế về hoạt động tín dụng, Nhà nước cũng cần tăng cường biện pháp thanh tra, giám sát đối với hoạt động này của ngân hàng. Nhà nước ủy quyền cho Ngân hàng nhà nước có trách nhiệm trong việc lập các tổ chức thanh tra thường xuyên kiểm tra định kỳ các tổ chức tín dụng để theo dõi và xử lý các vi phạm trong lĩnh vực tín dụng. Tuy nhiên, Nhà nước cũng không nên can thiệp quá sâu vào hoạt động tín dụng của ngân hàng. Phải để các ngân hàng được tự chủ trong vấn đề phát triển nghiệp vụ, nâng cao chất lượng kinh doanh. Mỗi quyết định đầu tư của ngân hàng phải dựa trên đánh giá của chính họ chứ không phải vì một sức ép nào đó. Quy định một hệ thống kế toán thống nhất và đồng bộ, thực hiện kiếm toán bắt buộc đối với tất cả các doanh nghiệp buộc các doanh nghiệp phải lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ và thuyết minh báo cáo tài chính. Hiện nay, công tác quản lý nhà nước về pháp lệnh kế toán thống kê đối với các doanh nghiệp chưa được chú ý đúng mức, nhất là đối với các doanh nghiệp phi nhà nước. Trong khi đó công ty kiểm toán của Nhà nước còn non trẻ, đội ngũ cán bộ chưa nhiều kinh nghiệm. Vì vậy Nhà nước cần ban hành những sác lệnh đi kèm với các chế tài bắt buộc để mọi doanh nghiệp áp dụng một cách thống nhất, đồng bộ chế độ kế toán, thống kê và thông tin báo cáo, chế độ kế toán phải trung thực đầy đủ. Bên cạnh đó nhà nước cần phải ban hành quy chế bắt buộc kiểm toán và công khai quyết toán của các doanh nghiệp. Việc thực hiện kiểm toán phải được tiến hành thường xuyên, những tài liệu cân đối kế toán và kết quả tài chính của doanh nghiệp phải được kiểm toán trước, trong và sau quá trình thẩm định của ngân hàng. Nhà nước cũng cần quy địng rõ các biện pháp chế tài, biện pháp xử lý nghiêm trong các trường hợp doanh nghiệp cung cấp thông tin sai, sử dụng đồng thời hai loại cân đối…để nhằm mục đích đưa các doanh nghiệp vào khuôn khổ hoạt động và phát triển lành mạnh. Có như vậy cán bộ tín dụng mới có thể sử dụng được các thông tin chính xác trung thực để có thể đánh giá và phòng ngừa các rủi ro trong quá trình cho vay đối với doanh nghiệp. Bên cạnh các chế tài thì Nhà nước cũng cần mở rộng thêm các cơ quan kiểm toán có chất lượng để tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện kiểm toán có hiệu quả. Nhà nước cần tạo một môi trường pháp lý ổn định, đặc biệt là các quy chế pháp luật liên quan đến đầu tư, sản xuất kinh doanh, tài chính kế toán… Điều này tạo điều kiện cho doanh nghiệp yên tâm trong đầu tư kinh doanh, ngân hàng có cơ sở pháp lý vững chắc xử lý những vẫn đề liên quan đến thẩm định. 2.3.2. Đối với Ngân hàng Nhà nước Ngân hàng Nhà nước cần hệ thống hóa những kiến thức cơ bản về thẩm định dự án, hỗ trợ các Ngân hàng thương mại và nâng cao nghiệp vụ thẩm định đồng thời mở rộng phạm vi, nội dung và tăng tính cập nhật của trung tâm phòng ngừa rủi ro tín dụng. Hàng năm, Ngân hàng Nhà nước cần tổ chức các hội nghị kinh nghiệm toàn ngành để tăng cường sự hiểu biết và hợp tác giữa các Ngân hàng thương mại trong công tác thẩm định. Ngân hàng Nhà nước có thể lập phòng hỗ trợ cho công tác thẩm định dự án của các Ngân hàng thương mại. Phòng này có nhiệm vụ giúp đỡ các Ngân hàng thương mại, đặc biệt là các ngân hàng mới thành lập trong việc thẩm định, tổng hợp những kinh nghiệm và bài học của các ngân hàng trong và ngoài nước về công tác thẩm định. Ngân hàng Nhà nước cần hỗ trợ các Ngân hàng thương mại trong việc thu thập thông tin. Hiện nay Ngân hàng Nhà nước đang thực hiện công việc này qua sự hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng CIC. Những thông tin từ CIC có độ chính xác song vẫn chưa đủ để đáp ứng nhu cầu thông tín của các tổ chức tín dụng. Trong khi đó trung tâm CIC còn có những vướng mắc về cơ sở pháp lý cũng như về sự phối kết hợp giữa các thành viên tham gia. Do vậy, cần phải cải tiến cơ chế làm việc của những trung tâm này, một mặt sắp xếp trung tâm thành một thành viên hoạt động độc lập, cung cấp những dịch vụ thông tin liên quan đến lĩnh vực ngân hàng, tài chính. Mặt khác, trung tâm cần phối hợp với các cơ quan liên quan của Chính phủ như: Ủy ban kế hoạch nhà nước, Tổng cục thống kê…để thu thập những thông tin đa dạng và phong phú hơn nữa về mọi ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế. Ngân hàng nhà nước có thể tham mưu cho Chính phủ trong việc hỗ trợ khuyến khích sự ra đời của các công ty chuyên kinh doanh thông tin. Các tổ chức này thực hiện thu thập, xử lý đánh giá thông tin về các đơn vị hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế sau đó bán thông tin cho các đơn vị cần sử dụng. Do có chuyên môn hóa hoạt động, do tác động của quy luật cung cầu, những thông tin này sẽ có độ chính xác cao. 2.3.3. Kiến nghị đối với NHNo&PTNT Việt Nam Từ các chính sách của Nhà nước và Ngân hàng nhà nước, NHNo&PTNT Việt Nam cần xây dựng một hệ thống quy trình đánh giá dự án mới rõ ràng, cụ thể hơn so với các văn bản hướng dẫn hiện hành. Quy trình mới với đầy đủ nội dung, cập nhật liên tục những thông tin, phương pháp tiên tiến trên thế giới. Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác thẩm định, có kế hoạch bố trí, tuyển dụng những nhân viên làm công tác tín dụng trong toàn hệ thống và ngoài hệ thống, có kế hoạch hỗ trợ đào tạo các cán bộ làm công tác chuyên môn. Hàng năm tổ chức các cuộc thi nghiệp vụ giữa các nhân viên để có thể nâng cao và củng cố kiến thức mới cho cán bộ công nhân viên trong Ngân hàng. Bên cạnh đó cũng có thể sang lọc ra được các cán bộ không đáp ứng được yêu cầu của công tác tác nghiệp trong ngân hàng từ đó có hướng bố trí sắp xếp lại cán bộ cho hợp lý đúng khả năng và năng lực của từng cán bộ. Tóm lại, để có thể đạt được các mục tiêu đề ra và nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng thì đòi hỏi phải có nỗ lực của các bộ phận trong Ngân hàng. Bên cạnh đó rất cần sự phối hợp của các cơ quan, tổ chức, các ngành các cấp cùng thực hiện thì chất lượng thẩm định dự án sẽ được nâng cao. KẾT LUẬN Thời gian qua, NHNo&PTNT Chi nhánh Thủ Đô đã tài trợ có hiệu quả cho nhiều dự án đầu tư phát triển nói chung và dự án đóng tàu và vận tải biển nói riêng, đóng góp và sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Đạt được kết quả đó là có phần quan trọng của công tác thẩm định. Song bên cạnh những kết qủa đạt được trong công tác thẩm định vẫn còn những hạn chế, tồn tại nhất định. Trong phạm vi giới hạn về không gian và thời gian, địa điểm, luận văn đã đạt được những kết quả sau: -Phân tích thực trạng công tác thẩm định nói chung và công tác thẩm định các dự án đầu tư trong lĩnh vực đóng tàu và vận tải biển nói riêng tại Chi nhánh NHNo&PTNT chi nhánh Thủ Đô từ đó đánh giá các kết quả đã đạt được đưa ra những phương hướng cần triể và nêu ra những mặt còn hạn chế và các nguyên nhân dẫn đến những hạn chế đó. -Từ những hạn chế trên đề xuất các giải pháp và những kiến nghị với các bộ ngành, Chính phủ và các bên liên quan nhằm hoàn thiện hơn công tác thẩm định dự án đầu tư tại Chi nhánh NHNo&PTNT Chi nhánh Thủ Đô Trong thời gian làm luận văn này, em được sự giúp đỡ tận tình của các anh, chị cán bộ tại Chi nhánh NHNo&PTNT Chi nhánh thủ đô cùng với sự chỉ bảo hướng dẫn của Thầy giáo - Tiến sĩ Nguyễn Hồng Minh. Vì vậy em đã hoàn thành luận văn này song không tránh khỏi những sai sót nhất định. Kính mong được sự góp ý của các thầy cô, các anh chị, các bạn quan tâm đến vấn đề này. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn! DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình kinh tế Đầu tư - TS Từ Quang Phương Giáo trình Lập Dự án - PGS.TS Nguyễn Bạch Nguyệt Giáo trình quản trị rủi ro - TS Nguyễn Hồng Minh Niên giám thống kê 2007 - NXB Thống kê Báo cáo kết quả kinh doanh của Ngân Hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Báo cáo Kết quả Kinh doanh của cục Hàng Hải Việt Nam DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT NHNo&PTNT :Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Ngoài QD : Ngoài quốc doanh TNHH : Trách nhiệm hữu hạn NPV : Giá trị Hiện tại dòng IRR : tỷ suất thu hồi nội bộ CPVT : Cổ phần Vận Tải VTB : Vận tải biển QSD : Quyền sử dụng TPKT : Thành Phần kinh tế 10.VND : Việt Nam đồng MỤC LỤC ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21685.doc
Tài liệu liên quan