Thực trạng và một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty Da Giầy Hà Nội trước xu thế hội nhập và hợp tác kinh tế quốc tế

Lời nói đầu Chất lượng sản phẩm hàng hoá là một trong những vấn đề bức thiết ở nước ta trong nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung, quan liêu, bao cấp. Trong những năm gần đây, cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, thì vấn đề chất lượng sản phẩm ngày càng đóng vai trò quan trọng, có ý nghiã quyết định đến việc thành bại trong sản xuất kinh doanh. Đặc biệt trong đièu kiện hiện nay, khi xu hướng hội nhập và hợp tác phát triển

doc84 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1173 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty Da Giầy Hà Nội trước xu thế hội nhập và hợp tác kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kinh tế quốc tế đang là một xu hướng chủ đạo và bao trùm lên mọi tư duy kinh tế hiện đại. Trong xu thế chung của phong trào hội nhập và hợp tác ấy, để củng cố vị trí của mình, để tồn tại và cao hơn nữa là để phát triển và để tự khẳng định mình, mỗi doanh nghiệp phải tự mình tìm ra một con đường, một cách thức và nỗ lực để tự vươn lên bằng tất cả khả năng của mình. Công ty Da giày Hà Nội là một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Tổng công ty Da giầy Việt Nam và chịu sự quản lí trực tiếp của Bộ công nghiệp, đã trải qua một thời gian dài tồn tại và phát triển, cho đến nay công ty đã và đang trên con đường của sự phát triển nhất là trong xu thế hội nhập và hợp tác. Sản phẩm của công ty đã có mặt trên khắp các thị trường từ thị trường của các nước EU, thị trường Mỹ, thị trường australia … Đạt được điều đó, nhân tố chủ yếu và quyết định chính là việc công ty đã đáp ứng được các yêu cầu, đòi hỏi của thị trường về chất lượng sản phẩm mà công ty sản xuất ra. Cũng giống như các doanh nghiệp Việt Nam khác, hiện nay công ty đang hướng các nỗ của mình vào việc nâng cao chất lượng sản phẩm, đẩy mạnh hiệu quả cạnh tranh và thâm nhập, củng cố các thị trường tiêu thụ quốc tế. Qua thời gian thực tập, được làm việc và tìm hiểu thực tế tại công ty, em xin mạnh dạn chọn đề tài: “Thực trạng và một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ở công ty Da Giầy Hà Nội trước xu thế hội nhập và hợp tác kinh tế quốc tế'' làm luận văn tốt nghiệp của mình với hy vọng góp phần nhỏ vào sự phát triển của Công ty trong tương lai. Bố cục của luận văn này bao gồm : Chương I: Lý luận chung về chất lượng sản phẩm, xu thế hội nhập và hợp tác. Chương II: Thực trạng về chất lượng sản phẩm ở Công ty Da giầy Hà Nội. Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty Da giầy Hà Nội trước xu thế hội nhập và hợp tác. Em xin chân thành cảm ơn Thầy giáo, GS-TS Nguyễn Đình Phan đã giúp đỡ em hoàn thiện bài viết này. Em xin chân thành cảm ơn Ban giám đốc, phòng QC và toàn thể cán bộ công nhân viên trong công ty Da giầy Hà Nội đã tạo điều kiện cho em hoàn thành đợt thực tập tốt nghiệp cũng như bài viết này. Chương i những vấn đề chung về chất lượng sản phẩm và xu thế hội nhập, hợp tác kinh tế quốc tế I. Những vấn đề cơ bản về chất lượng sản phẩm 1. Các khái niệm cơ bản về chất lượng sản phẩm Chất lượng là một thuật ngữ đã được hình thành từ lâu trong đời sống kinh tế - xã hội của loài người nói chung và trong sản xuất kinh doanh nói riêng. Mặc dù vậy, việc đưa ra một định nghĩa chính xác và thống nhất về thuật ngữ này vẫn đang là điều còn gây ra nhiều tranh cãi. Lý do chính là các định nghĩa về chất lượng này thường được đưa ra bởi các quan điểm, các cách tiếp cận khác nhau về chất lượng. Do vậy, giữa các định nghĩa này với nhau thường tồn tại một số sự khác biệt và đôi khi còn mâu thuẫn với nhau. Theo định nghĩa của triết học: Chất lượng là tính xác định bản chất nào đó mà nó chính là cái đó chứ không phải là cái khác hoặc cũng nhờ nó mà nó khác biệt với các khách thể khác. Chất lượng của khác thể không quy về những tính chất riêng biệt của nó mà gắn chặt với khách thể như một khối thống nhất bao trùm toàn bộ khách thể. Theo định nghĩa trên về chất lượng thì chất lượng chỉ bao gồm trong nội bộ của sản phẩm cùng với những đặc tính kỹ thuật, những tính chất mà không phụ thuộc vào các yếu tố khác. Chất lượng theo định nghĩa này hoàn toàn mang tính độc lập mà không phụ thuộc vào bất kỳ mối liên hệ nào khác ngoài vật thể là sản phẩm. Điều này là không hợp lý và không đảm bảo tính khoa học trong khi xem xét vấn đề, cụ thể ở đây là chất lượng sản phẩm. Ngoài ra định nghĩa về chất lượng theo quan điểm triết học cũng làm cho thuật ngữ về chất lượng bị trìu tượng hoá. Do đó nó chỉ có những khả năng và tính chất về mặt định tính, mặt định lượng cụ thể lại bị lu mờ. Chính vì vậy, định nghĩa về chất lượng theo quan điểm triết học thường ít có giá trị thực tiễn mà nó chỉ được sử dụng về mặt nghiên cứu khoa học. Theo quan điểm của người sản xuất: Chất lượng sản phẩm là sự đạt được và tuân thủ đúng những tiêu chuẩn, những yêu cầu về kinh tế - kỹ thuật đã thiết kế. Theo quan điểm này, khi sản xuất hàng loạt những sản phẩm không đảm bảo các đặc tính kỹ thuật cần thiết sẽ được phát hiện bằng phương pháp thống kê đo lường chất lượng sau dó sẽ được phân tích tỉ mỉ và có những biện pháp khắc phục và sửa chữa kịp thời. Qua nhiều thập kỷ, ở các nước xã hội chủ nghĩa và ở cả trong các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, cách tiếp cận này về chất lượng đã được chấp nhận một cách rộng rãi. Tuy nhiên, trong những năm gần đây của thế kỷ XX và những năm đầu của thế kỷ XXI, cách tiếp cận này đã tỏ ra không hợp lý và mất dần đi sự phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh hiện đại. Lý do chính là vì nó chỉ chú trọng vào các yếu tố bên trong của sản phẩm. Đó là các yếu tố liên quan đến các đặc tính về kinh tế - kỹ thuật của sản phẩm. Cách thức mà quan điểm này sử dụng để đạt đến chất lượng là sự kiểm soát mang tính chất cứng nhắc và hoàn toàn chủ quan. Do vậy, chất lượng sản phẩm ngày càng có nguy cơ tụt hậu so với nhu cầu của người tiêu dùng vì các tiêu chuẩn thiết kế được xuất phát từ trình độ thiết kế, tay nghề và các ý niệm của người sản xuất. So với nhu cầu của người tiêu dùng, rất có thể các thiết kế này vẫn còn một sự khác biệt. Hơn nữa, nhu cầu của người tiêu dùng là luôn luôn thay đổi trong khi các thiết kế trong các đặc tính của sản phẩm thì lại chậm thay đổi hoặc hầu như không thay đổi. Hệ quả của việc này là việc chất lượng sản phẩm thường bị tụt hậu so với yêu cầu của thị trường về mẫu mã, hình dáng và các chất lượng hình thức cũng như chất lượng, nội dung khác thường kém phong phú và đa dạng. Để khắc phục các mặt hạn chế của quan điểm trên, các nhà quản lý đã nhanh chóng đưa ra một định nghĩa mới về chất lượng. định nghĩa mới này lại dựa trên quan điểm của người tiêu dùng cùng với những đòi hỏi luôn thay đổi của họ. Định nghĩa này cho rằng: " chất lượng là sự phù hợp với mục đích và yêu cầu của người tiêu dùng" bởi vì "chất lượng hoàn toàn dựa trên các đánh giá của người tiêu dùng". Theo định nghĩa này về chất lượng thì mọi cố gắng trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm trước hết sẽ được tập trung vào việc nghiên cứu, tìm hiểu nhu cầu của khách hàng và luôn hướng tới việc cải tiến chất lượng liên tục để thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Đây là một quan điểm rất đặc trưng của nền kinh tế thị trường và đang được thực hành hiện nay trong sản xuất kinh doanh hiện đại. Tuy nhiên, ngoài những ưu điểm mà định nghĩa về chất lượng dựa trên quan điểm này mang lại thì nó còn tồn tại những nhược điểm. Đó là sự phụ thuộc đôi khi tỏ ra thái quá của nhà sản xuất vào người tiêu dùng. Điều này vi phạm nguyên tắc tự chủ trong kinh doanh và sản xuất kinh doanh. Theo quan điểm của W.A.Shewart: Chất lượng sản phẩm trong sản xuất công nghiệp là tập hợp các đặc tính của sản phẩm phản ánh giá trị sử dụng của nó. Theo quan điểm này, Shewart đã đưa ra một định nghĩa về chất lượng mà ở đó nó không có sự trừu tượng về chất lượng theo quan điểm triết học. Nó đã giảm bớt được sự phụ thuộc hoàn toàn vào khách hàng. Ngoài ra định nghĩa này cũng đảm bảo tính khách quan hơn quan điểm sản xuất kinh doanh. Trong định nghĩa này của Shewart, chất lượng được thể hiện trong các đặc tính kinh tế kỹ thuật của sản phẩm. Do vậy, chất lượng ở đây hoàn toàn có thể đo được, đếm được...hay nói tóm lại, nó có những tính chất có thể lượng hoá. Điều này có thể có ích hơn trong việc hoạch định chất lượng sản phẩm thông qua việc điều tra, nghiên cứu nhu cầu của khách hàng từ đó thiết kế và cho ra đời các sản phẩm phù hợp hơn với đòi hỏi của thị trường và người tiêu dùng. Tuy nhiên, định nghĩa về chất lượng theo quan điểm này ngoài ý nghĩa trên, nó còn tồn tại một số những nhược điểm nhất định. Nếu muốn nâng cao chất lượng sản phẩm thì điều đó đồng nghĩa với việc bổ sung thêm các đặc tính mới, điều này có thể làm ảnh hưởng tới các đặc tính khác vốn đã có trong sản phẩm và làm cho chất lượng sản phẩm giảm đi. Trường hợp khác, việc bỏ sung thêm các đặc tính của sản phẩm có thể làm cho giá thành sản phẩm bị đẩy lên cao, người tiêu dùng sẽ phải trả thêm cho sự gia tăng chất lượng đó một khoản tiền. Mà đôi khi, khoản tiền này còn có giá trị lớn hơn là sự gia tăng mà chất lượng mang lại. Như vậy định nghĩa trên đây về chất lượng của W.A. Shewart vẫn có một sự xa vời so với nhu cầu của khách hàng, chưa lấy sự thoả mãn của khách hàng là mục tiêu để phấn đấu cho chất lượng. Nó không tính đến sự khác nhau có khi đến mâu thuẫn lẫn nhau về sở thích hay các đòi hỏi của khách hàng, người tiêu dùng. Vì lẽ trên, trong một số quan điểm khác về chất lượng, định nghĩa về chất lượng còn có thể được phát biểu như sau: "chất lượng là sự phù hợp với khách hàng". Thực hiện một cách triệt để theo quan điểm "chất lượng là sự phù hợp với khách hàng" các doanh nghiệp Trung Quốc hiện nay đã thu được một số thành công rực rỡ trong sản xuất kinh doanh. Các sản phẩm xe gắn máy, đồ gia dụng và điện tử của Trung Quốc đã xâm nhập mạnh và cạnh tranh quyết liệt với các doanh nghiệp Việt Nam và một số thị trường Đông Nam á khác. Ngoài các quan điểm về chất lượng nêu trên, một số các định nghĩa khác về chất lượng dựa trên những quan điểm khác nhau cũng được đưa ra và sử dụng rộng rãi. Theo định nghĩa của ISO - 8402: Chất lượng là tập hợp các đặc tính của mọi thực thể tạo cho thực thể ấy những khả năng thoả mãn nhu cầu đã xác định hoặc cần đến. Theo định nghĩa của ISO - 9000/2000: Chất lượng là mức độ của một tập hợp các đặc tính vốn có đáp ứng các yêu cầu: Với các chuyên gia về chất lượng: - Chất lượng là sự phù hợp với yêu cầu. - Chất lượng là sự phù hợp với công dụng. - Chất lượng là sự thích hợp khi sử dụng. - Chất lượng là sự phù hợp với mục đích. - Chất lượng là sự phù hợp với tiêu chuẩn. - Chất lượng là sự thoả mãn với các nhu cầu của người tiêu dùng. Như vậy theo ý kiến đưa ra của các chuyên gia về chất lượng thì chất lượng một sản phẩm hàng hoá và dịch vụ chính là tổng hoà của các giá trị xuất phát cả từ phía người tiêu dùng, nhà sản xuất và xã hội về sản phẩm đó. Sự tổng hoà này luôn đòi hỏi một sự thoả mãn từ tất cả các bên tham gia vào quá trình sản phẩm. Đây cũng có thể xem như là việc xem xét về chất lượng trên tất cả các mặt, các phương diện. Vì thế tính thực tiễn và tính đúng đắn của có đã được khẳng định qua thực tiễn triển khai áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng thông qua quan điểm tổng hợp này. 2. Các mô hình chất lượng và quản trị chất lượng Khi nói tới các mô hình chất lượng, thông thường ta thường nghĩ ngay đến các mô hình của các nhà kinh điển trong lĩnh vực chất lượng. Đó là Deming, J. Jural, Feigenboun, P. Grossby,... 2.1 Triết lý chất lượng của Deming Đối với vấn đề quản lý chất lượng, Deming là người có đóng góp rất lớn. Nhiều người coi ông như là cha đẻ của phong trào chất lượng trong sản xuất kinh doanh. Giải thưởng chất lượng lớn nhất của Nhật đã vinh dự được mang tên ông: Giải thưởng Deming. Triết lý cơ bản của Deming là "khi chất lượng và hiệu suất tăng thì độ biến động giảm và vì mọi vật đều biến động nên cần sử dụng các phương pháp thống kê để kiểm soát chất lượng". Chủ trương của Deming là dùng thống kê để kiểm soát và định lượng các kết quả ở trong tất cả các khâu chứ không phải ở một khâu riêng rẽ của sản xuất hay dịch vụ. Deming đã đưa ra vòng tròn chất lượng, 14 điểm mà các nhà quản lý cần phải tuân theo, 7 căn bệnh chết người của một doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh. Vòng tròn chất lượng của Deming được tiến hành như sau: Bước 1: Điều tra, nghiên cứu nhu cầu của khách hàng, người tiêu dùng ( plan: P) Bước 2: Trực hiện sản xuất sản phẩm (do: D) Bước 3: Kiểm tra sự tuân thủ của việc sản xuất theo kế hoạch đã đưa ra (check: C) Bước 4: Phân tích và điều chỉnh những sai sót. Ngoài ra, triết lý về chất lượng của Deming còn được tóm tắt trong 14 điểm và 7 căn bệnh chết người trong sản xuất kinh doanh. Sơ đồ 1: vòng tròn chất lượng của Deming A P C D D 2.2 Giáo sư Josept Jural. Là một chuyên gia về chất lượng nổi tiếng và là người đóng góp to lớn cho sự thành công cua các doanh nghiệp và các công ty Nhật Bản. ông là người đầu tiên đưa ra quan điểm chất lượng là sự phù hợp với các điều kiện kỹ thuật và cũng là người đầu tiên đưa ra vai trò to lớn trong công tác chất lượng thuốc về người lãnh đạo. Vì vậy Jural cũng xác định chất lượng đòi hỏi trách nhiệm của nhà lãnh đạo, sự tham gia của các thành viên trong tổ chức. Theo ông để đạt được chất lượng cần phải qua 3 bước cơ bản đó là: + Đạt được các cải tiến có tổ chức trên một cơ sở liên tục kết hợp với sự cam kết và một cảm quan về sự cấp bách. + Thiết lập một chương trình đào tạo tích cực. + Thiết lập một sự cam kết và sự lãnh đạo từ bộ phận quản lý cấp cao hơn. Jural cũng rất quan tâm tới yếu tố cải tiến chất lượng và đã đưa ra 10 bước để cải tiến chất lượng. Đồng thời ông cũng là người đầu tiên áp dụng nguyên lý Pareto trong quản lý chất lượng với hàm ý: "80% sự phiền muộn là xuất phát từ 20% những trục trặc. Công ty nên tập trung nỗ lực chỉ vào một số ít điểm trục trặc. Ngoài ra, Jural còn đưa ra thuyết 3 điểm về 3 chức năng quản lý nhằm đạt được chất lượng cao hơn. Các chức năng cụ thể đó là: + Hoạch định chất lượng + Kiểm soát chất lượng + Cải tiến chất lượng 2.3 Philip Grossby. Theo quan niệm của Philip Grossby thì "chất lượng là thứ cho không". Nhấn mạnh quan điểm này P. Grossby cho rằng thực hiện chất lượng không những là không tốn kém mà còn là một trong những nguồn lợi nhuận chân chính. Cách tiếp cận chung của Grossby về quản lý chất lượng là nhấn mạnh yếu tố phòng ngừa cùng quan điểm "sản phẩm không khuyết tật" và "làm đúng ngay từ đầu". 2.4 Tiến sĩ Feigenboun. Được coi là người đặt nền móng đầu tiên cho lý thuyết và quản trị chất lượng toàn diện TQM. ông đã nêu ra 40 nguyên tắc của điều khiển chất lượng tổng hợp. Các nguyên tắc này nêu rõ là tất cả các yếu tố trong suốt quá trình sản xuất kinh doanh từ khâu đặt hàng đến khâu cuối cùng là tiêu dùng đều ảnh hưởng tới chất lượng. Ông nhấn mạnh việc kiểm soát quá trình bằng phương pháp thống kê ở mọi nơi cần thiết và cho rằng điều khiển chất lượng toàn diện nhằm đạt được sự thoả mãn của khách hàng và đạt được lòng tin với khách hàng. 3. Vai trò của chất lượng sản phẩm . 3.1 Vai trò của chất lượng sản phẩm. Trong đời sống tiêu dùng và trong việc sản xuất kinh doanh hiện nay, chất lượng sản phẩm đóng một vai trò hết sức quan trọng và không thể thiếu. Có học giả đã từng viết: các nấc thang đo của nền văn minh nhân loại chính là mức độ ngày càng hoàn thiện về chất lượng trong các loại sản phẩm mà con người đã sáng tạo ra. Thực vậy, khi loài người còn ở một trình độ phát triển thấp thì các loại sản phẩm tiêu dùng được sản xuất ra không chỉ với khối lượng ít ỏi mà chất lượng của chúng còn rất thấp. Chính các yêu cầu, các đòi hỏi của con người trước cuộc sống và với các sản phẩm đã làm cho chất lượng các sản phẩm được gia tăng. Điều này lại làm cho xã hội loài người tiến thêm một bước tiến mới. Khi nói đến vai trò của chất lượng sản phẩm, thông thường người ta đề cập đến nó trên các mặt sau: Chất lượng làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. - Sản phảm của doanh nghiệp có chất lượng cao hơn các sản phẩm cùng loại của các đối thủ cạnh tranh trong khi mức giá thành và mức giá bán là như nhau. Điều đó có nghĩa doanh nghiệp đã áp đảo các đối thủ khác trong việc chiếm lĩnh thị trường bằng việc thoả mãn tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Hệ quả của việc này là doanh nghiệp có thể mở rộng sản xuất, đa dạng hoá các loại sản phẩm và thực hiện các chiến lược sản xuất kinh doanh khác nhờ tích luỹ nhanh được vốn và việc mở rộng thị trường. Như vậy nâng cao chất lượng sản phẩm chính là nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. - Chất lượng sản phẩm ngoài việc tạo ra các ưu thế hơn về giá bán trong khi chất lượng vẫn ở mức chung hoặc cao hơn thì nó còn đảm bảo cho doanh nghiệp một mức doanh số bán hàng đều đặn. Điều này cũng có lợi khi doanh nghiệp thực hiện việc nhập vào các loại nguyên vật liệu, nhiên liệu và trong việc vay thêm vốn sản xuất kinh doanh từ ngân hàng và các tổ chức tài chính khác so với các đối thủ cạnh tranh. Chất lượng đóng góp vào việc nâng cao vị thế và uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Vị thế và uy tín của doanh nghiệp không phải được tạo ra một cách tức thời ngay sau khi nó đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh mà nó đòi hỏi một quá trình trong một thời gian dài mà ở đó, các nỗ lực xây dựng uy tín và vị thế của doanh nghiệp phải được xây dựng thông qua một mục tiêu chất lượng dài hạn. Các mục tiêu chất lượng này lại một lần nữa được cụ thể hoá bằng việc nâng cao chất lượng của các sản phẩm đơn vị bán ra trên thị trường. Uy tín và vị thế của doanh nghiệp trên thị trường được biểu hiện bằng số lượng thị trường và khách hàng sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp. Khi khối lượng thị trường và số lượng của khách hàng được gia tăng, quy mô của thị trường được mở rộng cho phép doanh nghiệp tăng lượng sản phẩm bán ra, chủng loại và số lượng cũng được mở rộng đồng thời chất lượng sản phẩm không ngừng được cải tiến và nâng cao tạo cho khách hàng một cảm giác tin tưởng và tín nhiệm. Do vậy uy tín của khách hàng nhờ đó mà được nâng cao. Vị thế của doanh nghiệp trên thị trường cũng vậy, được tạo ra từ các khả năng về tài chính và thị trường. Khi chất lượng sản phẩm được nâng lên cho phép doanh nghiệp gia tăng một lượng doanh thu nhất định và theo đó là một khoản tiền lợi nhuận. Điều này tạo cho doanh nghiệp một lợi thế rất lớn trong các giao dịch mua bán và cạnh tranh. Chất lượng làm tăng năng suất lao động. Giữa chất lượng và năng suất có mối quan hệ mật thiết với nhau. Để thấy được rõ mối quan hệ này ta có thể xem công thức sau: Y = IG + I(1 - G)R (1) Trong đó: Y: Năng suất (sản lượng) I: Số lượng sản phẩm đầu vào theo kế hoạch G: Tỷ lệ phần trăm các chi tiết đạt chất lượng R: Tỷ lệ phần trăm số lượng sản phẩm làm lại Ngoài ra, để chế tạo và sản xuất một sản phẩm thường phải trải qua nhiều công đoạn hoặc bước công nghệ khác nhau. Do đó cần nhiều chi tiết để hoàn thiện một sản phẩm. Vì vậy ta có thể tính năng suất theo công thức sau: Y = I.g1.g2....gn (2) gi: sản phẩm có chất lượng tốt ở mỗi công đoạn. Theo công thức (1), khi chất lượng sản phẩm được nâng cao, tỷ lệ các chi tiết đạt chất lượng càng cao hơn làm cho số lượng các sản phẩm đầu ra được nâng lên và do đó giá trị sản lượng hay năng suất lao động trên một khoảng thời gian với các yếu tố khác được nâng lên. Có thể khẳng định rằng, nếu tăng chất lượng có nghĩa là tăng năng suất nhưng điều ngược lại chưa chắc đã đúng bởi thúc đẩy cho năng suất chính là chất lượng chứ chưa chắc đã phải điều ngược lại. Chất lượng đảm bảo và đáp ứng các yêu cầu, đòi hỏi của khách hàng. Việc đáp ứng và thoả mãn các mong đợi của khách hàng, người tiêu dùng sẽ là điều kiện tiền đề cho việc tiết kiệm chi phí từ khâu thiết kế sản xuất cho tới khâu lưu thông, tiêu dùng và bảo hành. Thực vậy, sau khi đã nắm rõ được các yêu cầu của khách hàng về sản phẩm, nhà sản xuất có thể thiết kế sản phẩm đó sao cho phù hợp với công dụng đòi hỏi mà không thiết kế thừa các chi tiết và các công dụng khác, tiết kiệm chi phí cho nhà sản xuất. Đối với người tiêu dùng, một sản phẩm chất lượng cao phải đảm bảo đầy đủ các yêu cầu như tuổi thọ, kiểu dáng, mẫu mã,... Đây chính là các yêu cầu về sản phẩm mà nó có thể đảm bảo cho việc tiết kiệm chi phí vận hành, sửa chữa và các chi phí khác. Đối với xã hội, một sản phẩm chất lượng cao sẽ tiết kiệm được nhiều các chi phí về lao động xã hội, các chi phí về môi trường và các chi phí khác. Như vậy chất lượng cao sẽ tạo ra sự thống nhất về lợi ích giữa người tiêu dùng, nhà sản xuất và toàn xã hội. 3.2 Vai trò của công tác quản trị chất lượng . Chất lượng sản phẩm có một vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp, với người tiêu dùng và với toàn xã hội. Nhưng trước hết chất lượng sản phẩm có một vai trò đặc biệt quan trọng đối với doanh nghiệp. Đó là nền tảng, là cơ sở vững chắc nhất tạo ra các lợi thế về cạnh tranh nhất là trong điều kiện cạnh tranh hiện nay, từ cạnh tranh về giá đến cạnh tranh phi giá. Trong chiến lược cạnh tranh phi giá thì cạnh tranh về chất lượng là một vấn đề then chốt và chủ yếu. Để bảo đảm sản phẩm sản xuất ra luôn luôn ở mức chất lượng tối ưu nhất, công tác quản lý chất lượng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Quản lý chất lượng không chỉ đóng vai trò là người kiểm soát chất lượng thành phẩm hay bán thành phẩm mà nó còn quan tâm tới tất cả các khâu, các mặt của dây truyền sản xuất. Từ việc mua nguyên vật liệu, tuyển dụng lao động cho tới từng công đoạn, từng thao tác sản xuất của công nhân. Phát hiện các lỗi, các sai sót từ đó đưa ra các biện pháp khắc phục hiệu quả. Chất lượng sản phẩm một mặt phụ thuộc rất lớn vào trình độ kỹ thuật của công nghệ sản xuất, trình độ tay nghề của người lao động, chất lượng của nguyên vật liệu, mặt khác nó cũng chịu ảnh hưởng và tác động không nhỏ của công tác quản lý chất lượng trong doanh nghiệp. Với bộ máy quản lý trong doanh nghiệp, để đạt hiệu quả cao trong hoạt động sản xuất kinh doanh, hệ thống quản lý trong doanh nghiệp nói chung phải có sự phân cấp, phân tuyến và ngành rõ rệt. Điều này giống như một sự chuyên môn hoá trong quản lý nói riêng và trong lao động sản xuất kinh doanh nói chung. Sự phân chia các hoạt động quản lý theo chức năng này sẽ làm tăng tính hiệu quả trong từng chức năng quản lý. Tuy nhiên, để toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh được tiến hành một cách hiệu quả nhất thì đòi hỏi các chức năng, các phòng ban quản lý trong doanh nghiệp phải có sự phối hợp nhịp nhàng và ăn khớp với nhau. Mục tiêu của mỗi phòng ban, mỗi bộ phận chức năng không phải là của riêng mình mà phải lấy một mục tiêu chung nhất đó là mục tiêu của toàn doanh nghiệp. Bộ phận quản trị chất lượng trong doanh nghiệp cũng giống như nhiều bộ phận chức năng khác, được thành lập ra để quản lý về mặt chất lượng sản phẩm. Do vậy, công việc mà nó đảm nhận chủ yếu là các hoạt động hướng về chất lượng của Công ty, doanh nghiệp. Mặc dù vậy, bộ phận quản lý chất lượng trong Công ty cũng phải kết hợp với các bộ phận khác và cung cấp các thông tin cần thiết về chất lượng cho các bộ phận khác như bộ phận Marketing, bộ phận tài chính, bộ phận nhân sự... Trong công tác hoạch định chiến lược, đề ra các kế hoạch sản xuất kinh doanh, bộ phận quản lý chất lượng cùng với các hoạt động kiểm tra kiểm soát về mặt chất lượng có nhiệm vụ cung cấp các thông tin và phối hợp với các bộ phận, các phòng ban khác trong việc xử lý các thông tin và giải quyết các vấn đề phát sinh. Ví dụ: Khi phát hiện ra một lô sản phẩm không đạt các yêu cầu đặt ra bằng công cụ thống kê, phòng quản lý chất lượng có thể phối hợp với các phòng ban khác như phòng Marketing, phòng nhân sự và các bộ phận khác để tìm biện pháp khắc phục. Biện pháp này có thể dẫn đến việc phải điều chỉnh lại chiến lược sản xuất kinh doanh nào đó. Như vậy, cùng với các bộ phận chức năng khác trong doanh nghiệp, quản trị chất lượng ngoài vai trò là nòng cốt cho việc nâng cao chất lượng sản phẩm còn có nhiệm vụ phối hợp với các bộ phận này hướng các hoạt động sản xuất kinh doanh của toàn doanh nghiệp theo hướng đạt hiệu quả tối ưu nhất. Đó là vai trò cơ bản của quản trị chất lượng đối với các chức năng quản trị khác trong toàn doanh nghiệp. 4. Phân loại chất lượng sản phẩm . Để có thể phân loại chất lượng sản phẩm, ta cần phải xem xét những đặc trưng cơ bản của chất lượng sản phẩm. + Đặc trưng cơ bản nhất của chất lượng sản phẩm đó là việc: chất lượng là một phạm trù kinh tế - xã hội. ở đây, chất lượng được quy định bởi 3 yếu tố: yếu tố kinh tế, yếu tố kỹ thuật và yếu tố xã hội. Chất lượng không chỉ đơn thuần bó hẹp trong bất kỳ một yếu tố nào mà nó đòi hỏi sự có mặt của cả 3 yếu tố trên trong một mối quan hệ tổng hoà. + Đặc trưng thứ hai, chất lượng sản phẩm là một khái niệm có tính chất tương đối. Chất lượng thường xuyên thay đổi theo thời gian và không gian. Một sản phẩm có thể được coi là chất lượng ở thời điểm này nhưng không thể coi là chất lượng ở thời điểm khác. Cũng vậy, ở thị trường này chất lượng sản phẩm có thể được chấp nhận và đánh giá cao nhưng ở thị trường khác thì điều này chưa chắc chắn. Chính vì tính chất trên đây nên chất lượng luôn phải cải tiến để có thể có một sự phù hợp tốt nhất với khách hàng ở từng thời điểm và ở từng thị trường khác nhau tuỳ thuộc vào từng điều kiện về kinh tế, văn hoá, xã hội và chính trị. + Chất lượng là một khái niệm vừa mang tính cụ thể vừa mang tính trừu tượng. Tính trừu tượng của chất lượng sản phẩm được thể hiện thông qua sự phù hợp của sản phẩm với nhu cầu. Sự phù hợp này phụ thuộc vào nhận thức chủ quan của khách hàng. Tính cụ thể của chất lượng sản phẩm được phản ánh thông qua các đặc tính chất lượng cụ thể có thể lượng hoá. Việc đánh giá những đặc tính này mang tính chất khách quan vì nó được thiết kế và sản xuất trong sản phẩm, được biểu hiện ra ngoài bằng các thông số kinh tế - kỹ thuật. Từ các đặc trưng cơ bản của chất lượng sản phẩm trên đây, ta có thể phân loại chất lượng sản phẩm theo các cách phân loại khác nhau. Căn cứ vào hình thức biểu hiện. Nếu phân loại theo hình thức biểu hiện thì ta có chất lượng nội dung và chất lượng hình thức. Cách phân loại này lấy cơ sở từ chính sản phẩm và đứng trên góc độ của người đánh giá trực tiếp chất lượng sản phẩm. Theo cách phân loại này thì : + Chất lượng nội dung: Là việc chất lượng phản ánh bản chất cùng với các công dụng hay giá trị sử dụng của sản phẩm. Mặt chất lượng này tiềm ẩn bên trong của sản phẩm và khó có thể nhận biết được bằng cảm quan. Đây chính là mặt chất lượng chủ yếu trong việc hình thành nên chất lượng sản phẩm. + Chất lượng hình thức: Là mặt chất lượng được biẻu hiện ra bên ngoài của sản phẩm như bao bì, mẫu mã, màu sắc, hình dáng,...mặt chất lượng này ngày càng có vai trò quan trọng trong việc tạo thành chất lượng sản phẩm. Trong một số mặt bằng và nhất là trong thời đại sản xuất kinh doanh hiện nay, mặt chất lượng này còn có vẻ chiếm ưu thế hơn mặt chất lượng nội dung. Căn cứ vào quá trình sản xuất. Theo cách phân loại này có thể phân chia chất lượng thành 2 loại: chất lượng thiết kế và chất lượng sản xuất. + Chất lượng thiết kế : Là mặt chất lượng có thể tính toán được trên các đặc tính kinh tế kỹ thuật của sản phẩm. Ví dụ, độ bền va đập, độ bền nén, ép của gạch, độ cong vênh của thép,....Khi tính toán chất lượng thiết kế, thông thường, nhà sản xuất chỉ ấn định chất lượng này trong một điều kiện sử dụng nhất định của sản phẩm. Vì thế chất lượng thiết kế thường chỉ đóng vai trò như là một mức độ tối thiểu hay tối đa trong sử dụng của sản phẩm tuỳ thuộc vào môi trường sử dụng, vận hành sản phẩm đó. + Chất lượng sản xuất: Đây chính là chất lượng thực tế mà sản phẩm có thể đạt được sau khi sản xuất ra. Về mặt lý thuyết, chất lượng thiết kế thường ở một mức cố định và không có sự sai khác giữa các sản phẩm với nhau. Tuy nhiên với chất lượng sản xuất, sự sai khác này lại là một hiện tượng thường xuyên gặp phải do tính không đồng đều của dây truyền công nghệ sản xuất. Căn cứ vào sự quản lý của Nhà nước. Nếu phân loại chất lượng sản phẩm theo sự quản lý mang tính pháp chế của nhà nước thì chất lượng có thể được chia thành chất lượng tiêu chuẩn và chất lượng cho phép. + Chất lượng tiêu chuẩn: là giá trị các chỉ tiêu đặc trưng của cấp cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền quy định đối với mỗi loại sản phẩm khác nhau. Chất lượng tiêu chuẩn dựa trên chất lượng nghiên cứu, thiết kế của các cơ quan Nhà nước. Theo mức chất lượng tiêu chuẩn này, doanh nghiệp sẽ căn cứ để đưa ra cho sản phẩm của mình một mức chất lượng đảm bảo đầy đủ các tiêu chuẩn mà cơ quan có thẩm quyền đòi hỏi. Thông thường mức chất lượng mà doanh nghiệp đưa ra thường lớn hơn mức chất lượng tiêu chuẩn theo quy định của Nhà nước về một loại sản phẩm hàng hoá nào đó. + Chất lượng cho phép: Là mức độ cho phép về độ lệch các chỉ tiêu chất lượng giữa chất lượng thực và chất lượng tiêu chuẩn. Như vậy để đạt được mức chất lượng cho phép, sản phẩm phải đạt được mức chất lượng tối thiểu theo quy định của nhà nước. Thông thường mức chất lượng này chính là mức chất lượng tiêu chuẩn. 5. Các chỉ tiêu chất lượng sản phẩm. Hệ thống chỉ tiêu chất lượng sản phẩm được phân làm 2 loại: Hệ thống các chỉ tiêu nghiên cứu xác định chất lượng trong chiến lược phát triển kinh doanh, hệ thống các chỉ tiêu nhằm kiểm tra, đánh giá chất lượng sản phẩm hàng hoá trong sản xuất kinh doanh. 5.1 Hệ thống các chỉ tiêu nghiên cứu xác định chất lượng trong chiến lược phát triển kinh tế. Mục đích chính của hệ thống chỉ tiêu này là nhằm kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm, kéo dài thời gian cạnh tranh trên thị trường. Hệ thống này bao gồm: + Chỉ tiêu công dụng: Các đặc trưng, các thuộc tính phản ánh giá trị sử dụng của sản phẩm như giá trị dinh dưỡng trong thực phẩm,... + Chỉ tiêu công nghệ: Đặc trưng cho quy trình chế tạo sản phẩm cho chất lượng cao, tiết kiệm nguyên vật liệu, chi phí thấp, giá thành hạ,... + Chỉ tiêu thống nhất hoá: Được đặc trưng bởi tính lắp liền của các linh kiện, phụ tùng trong sản xuất hàng hoá. + Chỉ tiêu độ tin cậy: Đảm bảo các thông số kỹ thuật làm việc trong khoảng thời gian nhất định. + Chỉ tiêu độ an toàn: Đảm bảo các thao tác an toàn đối với các công cụ sản xuất cũng như đồ dùng trong sinh hoạt gia đình. + Chỉ tiêu kích thước: Gọn nhẹ, thuận tiện trong sử dụng và vận chuyển. + Chỉ tiêu sinh thái: Mức độ gây ô nhiễm môi trường. + Chỉ tiêu lao động: Là mối quan hệ giữa người sử dụng với sản phẩm. Ví dụ: Các loại công cụ, dụng cụ phải được thiết kế phù hợp với người sử dụng để tránh ảnh hưởng tới sức khoẻ và cơ thể. + Chỉ tiêu thẩm mỹ: Là các đặc trưng phản ánh hình thức bên ngoài của sản phẩm, đó là tính truyền thống dân tộc, tính hiện đại, tính sáng tạo phù hợp với các quan điểm thẩm mỹ chân chính. + Chỉ tiêu về sự sáng chế phát minh: Chấp hành nghiêm túc pháp lệnh bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp, quyền phát minh sáng chế. Ngoài ra còn một số chỉ tiêu khác … 5.2 .Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá chất lượng sản ph._.ẩm trong sản xuất kinh doanh: Mục đích chính của việc sử dụng các chỉ tiêu này là tôn trọng khả năng trí tuệ, khuyến khích các hoạt động sáng tạo, áp dụng có hiệu quả các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, mở rộng quan hệ kinh tế, khoa học kỹ thuật với nước ngoài. Hệ thống các chỉ tiêu này được xây dựng trên các tiêu chuẩn của Nhà nước, tiêu chuẩn ngành hoặc các điều khoản trong hợp đồng kinh tế. Hệ thống này bao gồm các chỉ tiêu sau: + Nhóm chỉ tiêu công dụng: Đây là nhóm chỉ tiêu mà người tiêu dùng quan tâm nhất và thường dùng để đánh giá chất lượng sản phẩm. Nhóm chỉ tiêu công dụng bao gồm các chỉ tiêu sau: - Thời gian sử dụng, tuổi thọ. - Mức độ an toàn trong sử dụng. - Khả năng thay thế, sửa chữa. - Hiệu quả sử dụng. Có quan hệ nghiên cứu thiết kế sản xuất kinh doanh dùng các chỉ tiêu này để đánh giá giá trị sử dụng của sản phẩm. +Nhóm chỉ tiêu công nghệ: - Các chỉ tiêu về kích thước. - Các chỉ tiêu cơ lý. - Chỉ tiêu thành phần hoá học … Các chỉ tiêu kích thước thường được quy định trong các bảng chuẩn dùng để đánh giá sự hợp lý về kích thước của sản phẩm, hàng hoá. Chỉ tiêu cơ lý là một chỉ tiêu chất lượng quan trọng của hầu hết các loại sản phẩm gồm các thông số, các yêu cầu kỹ thuật, độ chính xác, mức an toàn và mức độ tin cậy. Chỉ tiêu thành phần hoá học là một chỉ tiêu rất quan trọng vì sự thay đổi tỷ trọng các chất hoá học trong sản phẩm tất yếu dẫn đến việc chất lượng sản phẩm cũng thay đổi. Đặc biệt, đối với các loại mặt hàng dược phẩm, thực phẩm, hoá chất… thì chỉ tiêu là một yêu cầu chất lượng trực tiếp. + Nhóm chỉ tiêu hình dáng, thẩm mỹ: - Hình dáng - Đường nét - Sự phối hợp và trang trí màu sắc - Tính thời trang - Tính văn hoá Đánh giá nhóm chỉ tiêu này phụ thuộc vào kinh nghiệm và trình độ thẩm mỹ, hiểu biết của người làm công tác kiểm nghiệm. Phương pháp thực hiện chủ yếu bằng cảm quan. Ngoài ra một số chi tiết có thể so sánh được với mẫu chuẩn bằng phương pháp thử nghiệm. + Nhóm chỉ tiêu chuẩn về bao gói, nhãn hiệu, vận chuyển và bảo quản: Mục tiêu của nhóm tiêu chuẩn này: - Giới thiệu sản phẩm cho người sử dụng . - Nâng cao tinh thần trách nhiệm của người sản xuất . - Cho phép truy tìm nguồn gốc của sản phẩm thông qua nhãn mác . Nhãn mác phải có tên, dấu hiệu, địa chỉ, ký hiệu, số hiệu, tiêu chuẩn, cấp chất lượng của cơ quan chủ quan và của sản phảm. Bao gói: Vật liệu của bao bì, số lượng sản phẩm trong bao gói, cách bao gói, yêu cầu đối với phương tiện vận chuyển. Bảo quản: Nơi bảo quản, điều kiện bảo quản, cách thức và thời hạn bảo quản. + Nhóm các chỉ tiêu về nguyên tắc và thủ tục: Quy định những nguyên tắc và thủ tục, những yêu cầu cần thiết nhằm đảm bảo cho quá trình hoạt động thống nhất hợp lý và có hiệu quả. Nhóm chỉ tiêu này bao gồm các chỉ tiêu sau: - Định mức và điều kiện kỹ thuật sử dụng sản phẩm. - Trình tự thực hiện các thao tác. + Nhóm chỉ tiêu kinh tế bao gồm: - Nhóm chi phí sản xuất. - Giá cả. - Chi phí phát sinh trong quá trình sử dụng sản phẩm. Đây là một nhóm chỉ tiêu quan trọng vì nó liên quan đến quyết định sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp và quyết định mua sản phẩm của khách hàng. 6. Các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm là một vấn đề được tạo ra và chịu ảnh hưởng, tác động của tổng hợp nhiều các yếu tố khác nhau. Đó là các yếu tố có thể thuộc cả về bên trong lẫn bên ngoài sản phẩm và quyết định trực tiếp hay gián tiếp đến chất lượng sản phẩm. Các yếu tố chính ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm có thể phân chia thành các yếu tố sau: 6.1. Các yếu tố thuộc về kinh tế -kỹ thuật: Các yếu tố kinh tế kỹ thuật ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm bao gồm các yếu tố thuộc về mặt kinh tế kỹ thuật của sản phẩm. Đó chính là các đặc tính về cơ lý, hoá học, kích thước… Đây chính là những ảnh hưởng trực tiếp và mang tính chất quyết định nhất đối với sản phẩm và chất lượng sản phẩm bởi mặt kinh tế kỹ thuật là mặt quan trọng nhất quyết định việc sản xuất hay không sản xuất sản phẩm. Có thể nói, mặt kinh tế kỹ thuật là những nền tảng cơ sở đầu tiên và không thể thiếu trong việc ra đời và tồn tại của sản phẩm. Các yếu tố kinh tế kỹ thuật ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm có thể bao gồm các yếu tố sau: Yếu tố công nghệ, dây truyền sản xuất: Công nghệ dây truyền sản xuất là một phần tất yếu và không thể thiếu đối với sản phẩm và chất lượng sản phẩm. Với vai trò là công cụ trực tiếp tạo ra sản phẩm, các tính chất và đặc điểm của công nghệ cũng quy định cho sản phẩm mà nó tạo ra. Điều này có nghĩa là, chất lượng của công nghệ sản xuất quy định chất lượng sản phẩm. Mối quan hệ giữa chất lượng sản phẩm và công nghệ trong bất kỳ tình huống nào cũng là mối quan hệ mang tính chất nhân quả. Thực vậy, không thể có một chất lượng sản tốt với một công nghệ sản xuất cũ kỹ và lạc hậu, hoạt động không hiệu quả. Ngoài các ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng sản phẩm, công nghệ sản xuất còn có các tác động và ảnh hưởng gián tiếp tới chất lượng sản phẩm. Điều này được thể hiện ở chỗ: Công nghệ sản xuất quy định cách thức tổ chức sản xuất kinh doanh và mặt quản lý trong một doanh nghiệp và do vậy nó đã gián tiếp ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. ý nghĩa của nó ảnh hưởng gián tiếp tới chất lượng sản phẩm còn thể hiện ở trên một bình diện rộng hơn. Đó là mặt xã hội, trình độ công nghệ chung của xã hội (bao gồm cả trình độ công nghệ của doanh nghiệp ) còn quy định nhu cầu của người tiêu dùng và do vậy ảnh hưởng tới việc chấp nhận hay không chấp nhận sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra. Như vậy, công nghệ sản xuất vừa có ảnh hưởng trực tiếp vừa có ảnh hưởng gián tiếp tới chất lượng sản phẩm. ảnh hưởng này hoặc là lâu dài hoặc là mang tính chất tạm thời. Nhưng nhìn chung đây là một ảnh hưởng có vai trò quan trọng và quyết định nhất tới chất lượng sản phẩm. Yếu tố nguyên vật liệu, lao động: Ngoài yếu tố công nghệ, nguyên vật liệu và lao động cũng là yếu tố trực tiếp và cấu tạo nên sản phẩm. Sự trực tiếp này thể hiện ở chỗ: Nguyên vật liệu dưới tác động của công nghệ sản xuất và lao động đã chuyển hoá về mặt vật chất và mặt giá trị vào trong sản phẩm. Do vậy, chất lượng của nguyên vật liệu cũng góp phần rất lớn vào chất lượng sản phẩm. Trong hệ thống quản lý chất lượng nói chung, việc quản lý các nguyên vật liệu đầu vào cũng đóng vai trò rất quan trọng không kém gì các công đoạn khác trong sản xuất kinh doanh. ở nhiều doanh nghiệp, với các đặc trưng về sản phẩm của mình, vấn đề quản lí các nguồn nguyên vật liệu còn có ý nghĩa then chốt hơn như ở các doanh nghiệp chế biến rau quả, thực phẩm sạch. Trong các doanh nghiệp như vậy, chất lượng của nguyên vật liệu thật sự có ý nghĩa quyết định tới chất lượng của các loại thành phẩm sản xuất. Tính chất của lao động cũng thực sự có một đóng góp không nhỏ vào hình thành chất lượng sản phẩm. Tính chất của lao động liên quan đến việc tuyển dụng lao động và các cách bố trí dây truyền sản xuất trong việc sản xuất sản phẩm. Ngoài ra tính chất của lao động còn trực tiếp liên quan đến trạng thái và thái độ làm việc của người lao động. Do vậy xét về mặt này thì tính chất của lao động cũng có ảnh hưởng nhất định tới chất lượng sản phẩm. Các yếu tố khác: Khi xem xét ảnh hưởng của mặt kinh tế thuật tới chất lượng sản phẩm, người ta thường nghĩ ngay tới các yếu tố thuộc về công nghệ, dây truyền sản xuất. Mặc dù vậy, chất lượng sản phẩm không chỉ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố trên mà nó còn chịu ảnh hưởng của nhiều các yếu tố khác như các yếu tố về nhiên liệu dùng cho sản xuất, cách thức lựa chọn và bố trí nơi sản xuất, chất lượng các thiết kế và công tác xây dựng nhà xưởng, mặt bằng sản xuất. Các yếu tố này tuỳ theo từng loại mà nó có ảnh hưởng ở các mức độ khác nhau, trực tiếp hay gián tiếp đến chất lượng sản phẩm. 6.2. Yếu tố quản lý ( yếu tố con người ). Yếu tố quản lý hay còn gọi là yếu tố con người trong doanh nghiệp cũng có ảnh hưởng rất quan trọng tới chất lượng sản phẩm đặc biệt là công tác quản lý chất lượng trong doanh nghiệp. Yếu tố quản lý bao gồm các mối quan hệ giữa các thành viên của doanh nghiệp trong việc tổ chức sản xuất và hoạt động kinh doanh hướng tới hiệu quả tối ưu cho toàn doanh nghiệp hay tổ chức. Một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh bằng một hệ thống quản lý hữu hiệu, tính chức năng của từng phòng ban, bộ phận được triệt để chấp hành và mặt khác, giữa các phòng ban chức năng, các bộ phận, và giữa các thành viên có sự phối hợp nhịp nhàng và khoa học trong hoạt động sẽ thúc đẩy tính hiệu quả trong hoạt động của toàn doanh nghiệp. Do vậy, chất lượng sản phẩm cũng được đảm bảo ở mức ổn định cao. ảnh hưởng của yếu tố quản lý tới chất lượng sản phẩm còn thể hiện rõ nét nhất ở ảnh hưởng của công tác quản lý chất lượng sản phẩm tới chất lượng sản phẩm. Là chức năng quản lý đảm trách về mặt chất lượng trong toàn doanh nghiệp, nên tính trực tiếp trong ảnh hưởng này cũng rất rõ rệt. Bộ phận quản trị chất lượng trong doanh nghiệp phải đảm bảo cung cấp các thông tin đầy đủ có liên quan tới chất lượng sản phẩm, tới giám đốc và các phòng ban, các bộ phận khác, cùng các bộ phận này giải quyết các vấn đề chất lượng một cách nhanh chóng và triệt để nhất. Một lỗi nhỏ trong công tác quản lý chất lượng của bộ phận chức năng này cũng sẽ ảnh hưởng ngay lập tức tới chất lượng sản phẩm. Sở dĩ có các ảnh hưởng trên tới chất lượng của công tác quản lý chất lượng là vì quản lý chất lượng là một công tác quản lý mang tính chất đặc thù, nó hướng tất cả các hoạt động của từng thành viên vào việc làm sao đạt chất lượng cao nhất trong công việc và sản phẩm của mình làm ra. Do đó, các ảnh hưởng này của công tác quản lý chất lượng cũng mang tính chất trực tiếp. Yếu tố con người cũng là một phần trong nhóm yếu tố quản lý có ảnh hưởng lớn đến chất lượng. Yếu tố con người ở đây thể hiện ở mối quan hệ hợp tác giữa các thành viên trong dây chuyền sản xuất và trong toàn doanh nghiệp, thái độ lao động và làm việc của các thành viên. Không thể có bất kỳ một hoạt động tốt nào nếu như thái độ và tinh thần lao động, làm việc của các thành viên không cao. Chất lượng sản phẩm cũng vậy, không thể có một mức chất lượng cao được xây dựng trên cơ sở một thái độ và một tinh thần lao động làm việc kém. Do vậy, việc đào tạo và giáo dục con người trong doanh nghiệp không những chỉ chú trọng đến việc đào tạo tay nghề cho công nhân mà còn phải giáo dục cho mõi thành viên trong doanh nghiệp một thái độ tích cực trong mối quan hệ giữa người với người và giữa người với công việc. Đỉnh cao của việc giáo dục này chính là việc hình thành nên văn hoá công ty, văn hoá tổ chức trong mỗi doanh nghiệp. Cũng giống như các yếu tố thuộc về kinh tế kỹ thuật, các yếu tố quản lý cũng có những ảnh hưởng và tác động mạnh tới chất lượng sản phẩm. Các ảnh hưởng này có thể theo nhiều chiều hướng khác nhau phụ thuộc vào tính chất trong công tác quản lý nói riêng và yếu tố con người trong toàn doanh nghiệp nói chung. Trong khi hoạch định các chính sách, các chiến lược chất lượng, ngoài việc chú ý cải tiến và đổi mới công nghệ sản xuất thì việc xem xét và điều chỉnh lại hệ thống quản lý con người cũng là một chìa khoá đem lại thành công cho doanh nghiệp. 6.3. Các yếu tố thuộc về xã hội. Chất lượng sản phẩm là một phạm trù kinh tế xã hội có tính chất tương đối và tính chất tương đối này thể hiện mạnh nhất, rõ rệt nhất những ảnh hưởng của các nhân tố xã hội tới chất lượng sản phẩm. Tính chất tương đối của chất lượng sản phẩm thể hiện ở chỗ, tuỳ thuộc vào điều kiện về kinh tế, văn hoá xã hội và chính trị mà có các mức chất lượng khác nhau. Không có mức chất lượng tuyệt đối cho mọi lúc và ở mọi nơi. Thực vậy một cộng đồng dân cư với các giá trị về văn hoá, tín ngưỡng, phong tục tập quán… có thể chấp nhận các đặc tính làm nên chất lượng sản phẩm. Nhưng trong một cộng đồng dân cư khác với các giá trị về văn hoá tín ngưỡng khác thì mức chất lượng ấy thậm chí cả sản phảm ấy thật khó có thể chấp nhận được. Cũng vậy ở một mức thu nhập thấp, người ta có thể dễ dàng chấp nhận một sản phẩm và một chất lượng hạn chế. Nhưng khi thu nhập cao lên thì việc chấp nhận ấy sẽ không còn nữa. Như vậy các yếu tố văn hoá xã hội cùng với những đòi hỏi của mình cũng có ảnh hưởng nhất định tới chất lượng sản phẩm và buộc nhà sản xuất phải có sự điều chỉnh nhằm phù hợp với những đòi hỏi này. II. Xu thế hội nhập và hợp tác kinh tế quốc tế. 1. Xu hướng hội nhập và hợp tác. Cùng với toàn cầu hoá, xu hướng hội nhập và hợp tác kinh tế quốc tế và khu vực đang là một xu hướng chính và chủ đạo trong các hoạt động sản xuất kinh doanh, liên doanh, liên kết. Hội nhập và hợp tác đã và đang xâm nhập vào tất cả các ngàng nghề, các lĩnh vực khác nhau của sản xuất kinh doanh tạo nên một diện mạo và một không khí mới trong nền kinh tế quốc dân. Trước hết phải nói rằng xu hướng hội nhập và hợp tác là một xu hướng tất yếu của thời đại và nó là một sản phẩm của sự chuyên môn hoá đã đạt tới một trình độ đỉnh cao. Cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học, kỹ thuật, các phương tiện giao thông cũng như liên lạc điện tử viễn thông đã thu hẹp dần khoản cách địa lý giữa các quố gia, các khu vực và các nền kinh tế trên thế giới. Thương mại quốc tế đã xuất hiện từ lâu đời, nay phát triển tới một trình độ mới, thúc đẩy sản xuất và các mối quan hệ, giao lưu giữa các quốc gia. Quá trình chuyên môn hoá sản xuất do đó đã không còn bó hẹp trong một phạm vi địa lý mà được mở rộng ra khắp thế giới. Đây chính là những điều kiện tiền đề đóng vai trò quyết định tới sự hình thànhvà phát triển của xu hướng hội nhập và hợp tác phát triển kinh tế quốc tế nói riêng và toàn cầu hoá nói chung. 2. ảnh hưởng của hội nhập và hợp tác. 2.1 Những ảnh hưởng chung đối với nền kinh tế quốc dân. Hội nhập và hợp tác đã và đang diễn ra hết sức mạnh mẽ trên khắp thế giới và đang làm thay đổi thế giới theo một xu hướng nhất định. Có thể nói, sự thay đổi ấy chính là sự phát triển về kinh tế, tỷ lệ tăng trưởng của GDP cũng như thu nhập đầu người ở mức cao. Các khối thị trường trong khu vực và trên toàn thế giới đang được hình thành và sẽ còn đạt tới một sự thống nhất cao về các nguyên tắc của thị trường. Điển hình cho việc hình thành các khối thị trường chung này là khối thị trường chung Bắc Mỹ (NAFTA), tổ chức thương mại thế giới (WTO), khu vực mậu dịch tự do Đông Nam á… Việt Nam là một nước nằm trong khối ASEAN và sẽ trở thành thành viên của khối AFTA vào năm 2003. Do vậy, xu hướng hội nhập mở cửa, hợp tác kinh tế cũng đang là một xu hướng chủ đạo trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Điều này cũng được thể hiện trong các chính sách về kinh tế, chính sách đầu tư nước ngoài và các chính sách về hợp tác kinh tế khác. Các hiệp định về kinh tế và thương mại song phương hoặc đa phương đã được ký kết và chính thức có hiệu lực, chẳng hạn như hiệp định thương mại Việt-Mỹ, các hiệp ước về khu vực mậu dịch tự do Đông Nam á mà chúng ta chính thức là thành viên và trong tương lai, Việt Nam sẽ gia nhập WTO. Như vậy, hội nhập và hợp tác đã có một ảnh hưởng to lớn tới toàn bộ nền kinh tế nước ta, nó đã làm thay đổi bộ mặt của nền kinh tế và tạo ra cho nước ta những cơ hội mới của sự phát triển nhưng cũng không ít những thách thức và khó khăn cần giải quyết. 2.2. ảnh hưởng của hội nhập và hợp tác tới công ty Da giầy Hà Nội. Cũng như các doanh nghiệp công nghiệp khác của Việt Nam, Công ty Da giầy Hà Nội đang phải chịu những ảnh hưởng lớn do xu hướng hội nhập và hợp tác mang lại. Các ảnh hưởng này diễn ra theo nhiều xu hướng khác nhau. Xu hướng hội nhập và hợp tác làm thay đổi về thị trường tiêu thụ của Công ty và đây là sự ảnh hưởng lớn nhất. Ngoài ra, quá trình hội nhập cũng làm phát sinh thêm nhiều đối thủ cạnh tranh mới. Để thích ứng với sự thay đổi của môi trường kinh doanh do xu hướng hội nhập và hợp tác, Công ty Da giầy Hà Nội đã phải thực hiện nhiều sự thay đổi trong các chính sách sản xuất kinh doanh cuả mình. Đó là việc điều chỉnh lại các chiến lược về sản phẩm, về tiêu thụ và các chiến lược khác. Ngoài ra, dưới sức ép của cạnh tranh về chất lượng, công ty đã buộc phải liên tục cải tiến và đổi mới công nghệ sản xuất theo hướng hiện đại hoá để phù hợp với các đòi hỏi của thị trường. Như vậy, hội nhập và hợp tác đã có những ảnh hưởng và những tác động to lớn đến toàn bộ nền kinh tế và do đó nó cũng có nhứng ảnh hưởng lớn đến quá trình sản xuất kinh doanh của Công ty Da giầy Hà Nội. Các ảnh hưởng này tác động đến hầu hết các hoạt động trong Công ty, từ hoạt động tài chính, hoạt động mua bán đến các hoạt động xuất nhập khẩu… Những ảnh hưởng này đã và đang buộc Công ty phải có những thay đổi ở hầu hết các hoạt động sản xuất kinh doanh để đạt được sự thích ứng tốt đối với nó, tạo ra các ưu thế và cơ hội phát triển sản xuất kinh doanh. 3. Những cơ hội và thách thức đối với Công ty Da giầy Hà Nội trước xu thế hội nhập và hợp tác kinh tế quốc tế. Hội nhập và hợp tác phát triển kinh tế quốc tế luôn luôn đặt ra những đòi hỏi lớn đối với không chỉ các doanh nghiệp trong nước mà còn đối với cả nền kinh tế quốc dân. Việc đáp ứng các đòi hỏi này sẽ mang lại cho doanh nghiệp nhiều những cơ hội mới của sự phát triển cũng như luôn tạo ra những khó khăn thách thức, đòi hỏi phải giải quyết tốt và vượt qua những khó khăn này nếu muốn đi tiếp trên con đường đã chọn. 3.1. Cơ hội. Đó chính là các cơ hội về vốn, đầu tư, các cơ hội về thị trường, về công nghệ và tranh thủ sự giúp đỡ của nước ngoài thông qua việc cung cấp những thông tin phục vụ cho sản xuất kinh doanh, tìm kiếm thị trường … Xu hướng phát triển của phong trào hội nhập và hợp tác quốc tế là đạt tới sự thống nhất cao về thị trường trên cơ sở sự chuyên môn hoá quốc tế ở trình độ cao. Việc hình thành một thị trường thống nhất bao gồm cả thị trường sản phẩm, thị trường về vốn, thị trường về công nghệ, thị trường tài chính và các thị trường khác phục vụ cho sản xuất kinh doanh, sẽ mở ra cho các doanh nghiệp các cơ hội mới về thị trường sảm phẩm, sự cạnh tranh về tài chính, về vốn và công nghệ. Đây là các yếu tố tiền đề và làm cơ sở cho một sự phát triển mới. Nắm bắt và triệt để tận dụng các cơ hội do hội nhập và hợp tác mang lại là một yêu cầu bức xúc hiện nay đối với doanh nghiệp. Việc áp dụng thành tựu mới của khoa học, kỹ thuật trên thế giới sẽ cho ra đời một sản phẩm và có thể đây là sản phẩm trực tiếp đe doạ sự hưng vong của doanh nghiệp thông qua cạnh tranh và hội nhập, hợp tác. Mặt khác, các doanh nghiệp Việt Nam có trình độ công nghệ khá lạc hậu, chất lượng và giá thành sản phẩm còn chưa đáp ứng được các yêu cầu của thị trường. Đây chính là các thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam trên con đường tham gia hội nhập và hợp tác. 3.2. Thách thức. Các thách thức ở đây chủ yếu và trước hết là ở trình độ công nghệ sản xuất. Như đã biết, hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đang sử dụng những loại công nghệ đã lạc hậu so với khu vực và thế giới, do đó, chất lượng sản phẩm sản xuất ra không cao, các chi phí vận chuyển và vận hành lớn làm cho giá thành sản phẩm cao, không cạnh tranh được với sản phẩm cùng loại của nước ngoài. Ngoài các thách thức về công nghệ như trên, trong các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, cung cách quản lý và lao động sản xuất còn chưa hợp lý, mang nặng cung cách làm ăn của cơ chế quan liêu bao cấp. Có thể nói, cách tư duy kinh tế bao cấp chính là một trở ngại lớn nhất trên con đường hội nhập và phát triển. Chương II thực trạng chất lượng sản phẩm ở công ty Da giầy Hà Nội. Quá trình hình thành và phát triển của công ty Da giầy Hà nội. 1. Quá trình hình thành và phát triển. Công ty Da giầy Hà Nội, tiền thân là Công ty Thuộc da Đông Dương được thành lập từ năm 1912 do một nhà tư sản Pháp bỏ vốn đầu tư, xây dựng. Hiện nay, công ty là một doanh nghiệp Nhà nước và là thành viên của Tổng Công ty Da giầy Việt Nam. Công ty có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ theo luật định như một tổ chức kinh tế, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh. Công ty hoạt động theo cơ chế tự hạch toán kinh doanh, lấy thu bù chi và có lãi. Trụ sở chính của Công ty Da giầy Hà Nội đặt tại đường Nguyễn Tam Trinh, phường Mai Động, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội. Đây là địa điểm giao dịch và cũng là cơ sở sản xuất chính của Công ty hiện nay. Công ty Da Giầy Hà Nội có một quá trình phát triển lâu dài và trải qua nhiều giai đoạn từ năm 1912, năm thành lập, cho đến nay. Quá trình đó có thể được phân ra làm các giai đoạn sau: Giai đoạn từ năm 1912-1958: Đây là giai đoạn mà Công ty Thuộc da Đông Dương hoạt động dưới cơ chế quản lý tư bản chủ nghĩa. Mục tiêu hoạt động chủ yếu của Công ty trong giai đoạn này là lợi nhuận và sản xuất phục vụ các nhu cầu của quân đội viễn trinh Pháp trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam và Đông Dương. Các loại máy móc, thiết bị sản xuất được đưa từ Pháp sang, quá trình sản xuất sử dụng lao động thủ công là chủ yếu, quy mô sản xuất nhỏ. Sản lượng của Công ty trong giai đoạn này còn thấp và đạt mức khoảng từ 200.000 đến 300.000 Bia da mềm( Bia là đơn vị đo diện tích của da, 1 bia = 30*30cm) và khoảng từ 10 đến 15 tấn da cứng/năm. Đến năm 1954, sau khi hoà bình lập lại ở miền Bắc thì Công ty thuộc da Đông Dương bị đóng cửa để giải quyết các vấn đề về kinh tế cấp bách và chuyển nhượng lại cho phía Việt Nam. Năm 1958, Công ty chính thức chuyển sang hình thức Công ty hợp doanh và gọi là nhà máy Da Thuỵ Khuê. Đây là hình thức mà Chính phủ cùng với khoảng 80 nhà tư sản Việt Nam mua lại nhà máy từ tay nhà tư sản Pháp. Quy mô nhà máy được mở rộng, sản lượng tăng khoảng 20 đến 30% so với trước. Giai đoạn 1958- 1970: Đây là thời kỳ công ty đang hoạt động dưới hình thức hợp doanh. Tức là cả Nhà nước và tư nhân đều bỏ vốn đầu tư và quản lý sản xuất kinh doanh. Đầu năm 1960, Công ty được sự giúp đỡ của Tiệp Khắc trong việc đào tạo cán bộ công nhân viên và trang bị thêm máy móc thiết bị, nhờ đó công ty tiếp tục phát triển và làm chủ hoàn toàn thị trường da thuộc miền Bắc. Thời kỳ 1958-1970, cũng là thời kỳ cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, chống lại sự leo thang phá hoại của không quân Mỹ. Cơ chế hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong thời kỳ này là cơ chế bao cấp, quan liêu. Các sản phẩm của công ty làm ra chủ yếu để bán cho Chính phủ và Chính phủ sẽ phân phối lại cho các đơn vị. Giá cả do Nhà nước quy định, tiền lương của cán bộ công nhân viên được trả theo ngạch bậc thống nhất trong cả nước. Kèm theo đó là chế độ tem phiếu, định lượng tiêu chuẩn của cán bộ công nhân viên. Sản lượng sản xuất trong giai đoạn này tăng so với giai đoạn trước từ 2-3 lần. Giai đoạn 1970-1986: Sau năm 1970 Công ty chuyển hẳn sang thành xí nghiệp quốc doanh TW 100% vốn Nhà nước và từ đó hoạt động dưới sự quản lý của Nhà nước. Tên chính thức của Công ty lúc này là nhà máy Da Thuỵ khuê. Tên này được sử dụng trong các giao dịch cho đến 1990. Trong giai đoạn này, nhà máy Da Thuỵ Khê( Tức Công ty Da giầy Hà Nội hiện nay) vẫn hoạt động theo cơ chế bao cấp, sức sản xuất đã phát triển nhanh đặc biệt sau ngày giải phóng 30/4/1975. Lúc đó sản lượng thuộc da đã đạt: Da mềm: Trên 1000.000 bia. Da cứng:Trên 100 tấn. Keo công nghiệp: 50-70 tấn. Ngoài ra các sản phẩm chế tạo từ da cũng rất phong phú như dây curoa, bóng đá, boa súng, găng tay… số lượng công nhân viên kỳ này đã tăng trên 500 người. Sau những năm 1980, đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, sản xuất buộc phải điều chỉnh theo nhu cầu của thị trường có sự cạnh tranh cao. Các sản phẩm làm ra phải tự tiêu thụ, tự hạch toán trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh đã làm cho Công ty gặp nhiều khó khăn, sản phẩm sản xuất ra không tiêu thụ được. Do vậy, sản lượng tiêu thụ bị giảm sút, có những năm, sản lượng da mềm chỉ còn từ 200 đến 300 ngàn bia, da cứng 20 đến 30 tấn, tức là bằng thời kỳ mới thành lập năm 1912. Bảng 1 : Sản lượng của Công ty qua các thời kỳ Chỉ tiêu Đơn vị 1912-1954 1958-1970 1975 1986 Da cứng Tấn 15 45 100 30 Da mềm 1000 bia 300 900 1000 300 Nguồn: Phòng kinh doanh. Năm 1990, do yêu cầu thay đổi, nhà máy Da Thuỵ Khuê được đổi tên thành Công ty Da giầy Hà Nội và tên này được sử dụng cho đến ngày nay. Thời kỳ 1990 đến nay: Từ năm 1990 đến năm 1998, Công ty vẫn thực hiện sản xuất kinh doanh các sản phẩm thuộc da. Tuy nhiên, do nhiều lý do, cả khách quan và chủ quan dẫn đến việc sản xuất kinh doanh bị thua lỗ và khó có chiều hướng phát triển nên lãnh đạo Công ty đã quyết định chuyển sang sản xuất mới là đầu tư vào ngành giầy vải và giầy da. Cùng với chủ trương chuyển hướng sản xuất, tháng 7/1999, theo quy hoạch mới, Tổng công ty Da giầy Việt Nam đã có quyết định chuyển toàn bộ dây chuyền thuộc da vào nhà máy Da Vinh-Nghệ An. Tháng 8/1999, Công ty đã tận dụng dây chuyền sản xuất giầy Mỹ. Đến nay, dây chuyền này được củng cố và đi vào sản xuất. Bảng 2: Sản lượng sản xuất từ năm 1998-2001. Chỉ tiêu Đơn vị 1998 1999 2000 2001 Da cứng Tấn 4,97 3 0 0 Da mềm 1000 bia 183 151 0 0 Keo Công nghiệp Tấn 2,452 3 0 0 Giầy vải 1000 đôi 11,25 400 785 876 Giầy da 1000 đôi 0 5 130 300 Lao động Người 580 700 1.000 1.125 Nguồn : Phòng kinh doanh Cùng với sự thay đổi chung, từ năm 1990, Bộ công nghiệp và thành phố cho phép Công ty Da giầy Hà Nội chuyển từ 151 Thuỵ khuê về số 409 đường Ngyễn Tam Trinh, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội để thực hiện các nhiệm vụ đề ra. Khu đất 151 Thuỵ Khuê đã được đưa vào để góp vốn liên doanh (có diện tích 20.3000 m2). Tháng 12/1998, liên doanh tại Thuỵ Khuê chính thức được thành lập và có tên là Việt Hà-Tungsin. Đây là một liên doanh giữa 3 đơn vị: Công ty Da giầy Hà Nội, Công ty may Việt Tiến và Công ty Tungsin-Hồng Kông, nhằm xây dựng khu nhà ở cao cấp để cho thuê, bán và khu văn phòng, giải trí… Bước vào đầu năm 2000, trước những thách thức, của cơ chế thị trường, Công ty đã quyết tâm xây dựng và áp dụng thành công mô hình quảm lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO-9002 và bước đầu dã thu được một số kết quả. Doanh thu tăng liên tục qua các năm, nhờ đó đẩy mạnh việc tiêu thụ hàng hoá và các hoạt động kinh doanh tổng hợp khác. Bảng 3 : Nhiệm vụ kinh doanh năm 2001 Đơn vị tính: 1000 đồng Stt Chỉ tiêu Kế hoạch Thực hiện % 1 Tiêu thụ nội địa 1.500.000 1.504.000 100,3 2 Kinh doanh tổng hợp 22.500.000 27.887.000 12,6 Tính đến cuối năm 2001 và những tháng đầu năm 2002, thị trường thế giới có nhiều biến động phức tạp nhất là từ sau thảm hoạ 11/9 đã có những ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty, do thị trường nước ngoài của Công ty chiếm một tỷ trọng khá lớn trong cơ cấu thị trường của Công ty. Vì vậy, việc tiêu thụ sản phẩm ở những thị trường này cũng bị ảnh hưởng bởi các sự kiện kinh tế, chính trị trên thế giới. Măc dù vậy, do tính chất của sản phẩm và tính chất của các loại thị trường tiêu thụ mà những ảnh hưởng này tác động lên công ty với một mức độ nhất định. Bảng 4: Một số chỉ tiêu sản xuất kinh doanh của Công ty 6 tháng cuối năm 2001. Chỉ tiêu Đơn vị tính Thực hiện(Th) 6 th 2000 Kế hoạch (KH)2001 Thực hiện 6th 2001 Tỷ lệ TH/KH 6th 2001 Tỷ lệ TH 6 th thth—th 2001 6th2000 Giá trịTSL Triệu đồng 10.743 20.000 11.774 59% 109,5% Doanh thu Triệu đồng 15.777 29.000 29.335 101% 185,9% Sản phẩm: - Giầy vải -Giầy da 1000 đôi 1000 đôi 428,822 85,627 1000 150 500,322 160,133 50% 107% 117% 188% Kim ngạch XNK 1000 USD 563,084 1.500 822,279 54,8% 146% Nộp nsách Triêu đồng 780 1000 500 50% 64% Nguồn : Phòng kinh doanh. Như vậy, mặc dù có nhiều biến động trên thị trường thế giới, nhưng hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty vẫn liên tục tăng so với năm 2000. Điều này được biểu hiện rõ rệt ở một số chỉ tiêu sản xuất, kinh doanh 6 tháng cuối năm 2001 so với 6 tháng cuối năm 2000. Liên tục các chỉ tiêu như giá trị tổng sản lượng tăng 9,5%, doanh thu tăng 85,9%, số lượng các loại sản phẩm (giầy vải, giầy da), kim ngạch XNK… đều có sự tăng trưởng. Đây là một dấu hiệu đáng mừng phản ảnh xu hướng phát triển của công ty. Tuy nhiên, các chỉ tiêu này ở hai tháng đầu năm 2002, do một số ảnh hưởng đã bị chững lại. Bảng 5: Tình hình hình thực hiện kế hoạch kinh doanh 2 tháng đầu năm 2002 Chỉ tiêu Đơn vị tính Thực hiện 2 th-2001 Kế hoạch 2002 Thực hiện 2th-2002 Tỷ lệ TH/KH 2th 2002 (%) Tỷ lệ (%) thực hiện 2th 2002 2th 2001 Giá trị TSL Triệu đồng 5.395 24.000 3.700 15,4 68,5 Doanh thu Triệu đồng 11.010 55.000 8.685 15,8 78,8 Sản phẩm -Giầy vải -Giầy da 1000 đôi 203 45 600 300 98,5 47,1 16,4 15,7 48,5 104,6 Kim ngạch XNK 1000 USD 464,904 1.650 482.802 29.2 103.8 Nộp nsách Triệu đồng 0 1300 220 16,9 Nguồn : Phòng kinh doanh. Chức năng, nhiệm vụ của Công ty Da giầy Hà Nội. Theo điều lệ của Công ty,Công ty Da giầy Hà Nội có các chức năng, nhiệm vụ chính như sau: + Sản xuất các loại da và thiết bị ngành da phục vụ cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Công ty sản xuất hai loại da chính là: -Da cứng: Dùng để chế biến thành công cụ và thiết bị ngành da phục vụ chủ yếu cho công nghiệp. -Da mềm: Dùng để sản xuất các loại quân trang, quân dụng, các oại hàng hoá tiêu dùng phục vụ cho đời sống nhân dân. + Kinh doanh xuất nhập khẩu các loại máy móc, thiết bị, các loại hoá chất thuộc ngành da. + Sản xuất da công gnhiệp. + Sản xuất giầy vải chủ yếu cho mục đích xuất khẩu. Trong thời gian qua, Công ty đã nỗ lực, cố gắng hoàn thành nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, đáp ứng nhu cầu thị trường. Mặc dù vậy, do liên tục phải gánh chịu những tác động bất lợi từ môi trường bên ngoài, Công ty cũng chưa hoàn toàn thích nghi được với môi trường sản xuất kinh doanh thay đổi liên tục, nên hiệu quả kinh tế của công ty còn thấp, lợi nhuận chưa cao, thậm chí có những lúc còn phải chịu thua lỗ. Trong thời gian tới, do thị trường thế giới dần đi vào ổn định, tạo cho công ty nhiều cơ hội phát triển mới và cũng đặt ra nhiều khó khăn, thách thức đòi hỏi Công ty phải vượt qua. Do vậy, Công ty cần phải xác định cho mình một hướng đi đúng đắn, một chương trình hành động cụ thể để kịp thời tận dụng cơ hội, hạn chế những rủi ro do đưa Công ty dần đi vào quỹ đạo của sự phát triển ổn định, đảm bảo thực hiện tốt vai trò và nhiệm vụ của mình. Các yếu tố kinh tế- kỹ thu._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33876.doc
Tài liệu liên quan