Thuế giá trị gia tăng (VAT) và các phương pháp hoàn thiện hạch toán thuế giá trị gia tăng

Đề tài : Thuế giá trị gia tăng và các phương pháp hoàn thiện hạch toán thuế giá trị gia tăng. A: Lời Mở Đầu Với bất kì nước nào thì thuế cũng luôn góp phàn quan trọng và chiếm phần lớn trong tổng thu ngân sách .Thuế chính là công cụ chủ yếu để đọng viên tài chính cho ngân sách nhà nước.Việc thực thi một chính sách thuế có hiệu quả sẽ đảm bảo mở rộng kinh tế và phát triển . Thuế GTGT nói riêng là sắc thuế gián thu cơ bản và đặc biệt quan trọng việc huy đọng nguồn thu cho Ngân sách nhà nước .D

doc30 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1552 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thuế giá trị gia tăng (VAT) và các phương pháp hoàn thiện hạch toán thuế giá trị gia tăng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o vậy ở nước ta phải có phương pháp , chính sách thuế thật hoàn chỉnh để thuế sẽ phát huy được tối đa nhưng ưu việt và tầm quan trọng của nó . Trước đây trong nền kinh té KHHTT thuế lợi tức , thuế hàng hoá và thuế doanhthu tỏ ra phù hợp thì khi bước sang cơ chế mới nó đã thể hiện những mặt yếu kém,.Việc áp dụng chế độ thuế GTGT thay thế đã tác đọng nhiều mặt đến nền kinh tế của nước ta . Bản thân sắc thuế này tuy có nhiều ưu điểm song vẫn cònnhững mặt yếu kém cần khấưc phục . Mọtt trong những mục tiêu quan trọng của cuộc cải cách thuế giai đoạn II phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hoọi giai đoạn 2001-2010. Bên cạnh đó , bối cảnh phát triển kinh tế trong thời kì mới đòi hỏi phải có những cải cách về chính sách thuế để phù hợp với yêu cầu của các nước trong khu vực và các tổ chức kinh tế trên thế giới mà chúng ta tham gia . Ngoài ra hiện nay rất nhiều các tổ chức doanh nghiệp đã lợi dụng những sơ hở của cơ quan thuế để nhằm thu lợi nhuận cao nhất , giảm phần thu của ngân sách nhà nước . Tóm lại , có rất nhiều lí do khiến chúng ta cần phải nghiên cứu thực trạng và đè ra những giải pháp hoàn thiện thuế nói chung và đặc biệt thuế GTGT nói riêng . Nhiệm vụ nghiên cứu dề tài : Làm rõ một số vấn đề lí luận về thuế GTGT Trên cơ sở mô hình lí thuyết và thực tiễn áp dụng ,đánh giá thực trạng thuế GTGT ở Việt Nam và phát hiện những vấn đề cần giải quyết . Đề ra các giải pháp hoàn thiện . Dù có nhưng cố gắng song bài viết của em khôn gthể tránh khỏi những giới hạn nhất định em mong các thầy cô sẽ đóng góp ý kiến để bài viết lần sau hoàn thiện hơn . Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn PGS.TàI SảN Nguyễn Minh Phương đã nhiệt tình hướng dẫn em hoàn thành đề án này . B : Nội dung Chương I: Những lí luận chung về thuế GTGT và hạch toán thuế GTGT trong các doanh nghiệp . I Những vấn đề cơ bản về thuế GTGT 1.Khái niệm Cho đến bây giờ vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về thuế .Các quan điểm khác nhau được nhìn nhân từ những góc độ khác nhau của thuế.Theo nhà kinh điển thì thuế :”Để duy trì quyền lực công cộng đó ,cần phải có những sự đóng góp của những người công dân ,của nhà nước đó là thuế .”(Mac-Angen-TTT2.NXBSự thật –Hà Nội .) Sau này khái niệm thuế ngày càng bổ sung Trong cuống từ điển kinh tế của hai tác giả người Anh Chrisopher Pass ,Bryan Lower cho rằng :” Thuế suất là một biện pháp của chính phủ đánh trên thu nhập của cải và vốn nhận được của các cá nhân hay doanh nghiệp trên việc chi tiêu về hàng hoá ,tài sản “. Còn một định nghĩa về thuế tương đối hoàn chỉnh trong cuốn Economics của hai nhà kinh tế Mĩ như sau :Thuế là một khoản chuyển giao bắt buộc bằng tiền của công ty và các hộ gia đình cho chính phủ mà trong sự trao đổi họ khôn g nhận được một cách trực tiếp hàng hoá dịch vụ nào cả ,khoản nộp đó không phải là tiền phạt mà toà án tuyên án do hành vi vi phạm pháp luật . ở nước ta cũng chưa có một định nghĩa nào hoàn chỉnh ,thống nhất về thuế .Theo từ điển Việt Trung 1998 thuế là khoản tiền vay hiện vật mà người dân hoặc các tổ chức kinh doanh tuỳ theo tài sản thu nhập nghề nghiệp ...buộc phải nộp cho Nhà nước theo quy định .Tóm lại , thuế là một khoản chuyển giao thu nhập bắt buộc từ các thể nhân và pháp nhân cho Nhà nước theo mức độ và thời hạn được pháp luật quy định ,nhằm sử dụng cho mục đích công cộng . 2.Vai trò 2.1Thuế đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước Ngân sách là một bộ phận của tài chính .Nội dung các nguồn thu của các ngân sách nàh nước thì gồm nhiều khoản, sử dụng các hình thức khác nhau như: - Phát hành thêm tiền để trang trải nhu cầu chi tiêu cần thiết của nhà nước - Phát hành trái phiếu để vay trong và ngoài nước - Bán một phần tài sản quốc gia - Thu thuế Phát hành thêm tiền để chi tiêu là cách thức đơn giản nhất . Song việc phát hành thêm tiền để chi tiêu thiếu cơ sỏ vật chất đảm bảo sẽ dẫn đến lạm phát, càng làm khó khăn thêm ngân sách nhà nước Phát hành trái phiếu để vay trong và ngoài nước ừa phải chịu những ràng buộc về kinh tế, chính trị từ phía người cho vay, vừa phải tìm nguồn để hoàn trả cả gốc và lãi Ngân sách là một bộ phận của tài chính 2.2Thuế là công cụ điều tiết vĩ mô cho nhà nước Bên cạh vai trò đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước thì thuế còn là một công cụ điều tiết vĩ mô đắc lực của nhà nước đối với kinh tế xã hội Trong cơ kinh tế hoạch hoá tạp trung nhà nước trực tiếp can thiệp vào các hoạt động sản xuất kinh doanh bằng các chỉ tiêu và mệnh lệnh hành chính và chế độ bao cấp tràn lan nên tác động thu ngân sách nói chung, thuế nói riêng đến quá trình điều chỉnh kinh tế xã hội bị hạn chế, hiệu quả thực hiện của nó cũng không dược coi trọng. Cơ chế thị trường với sự đa dạng của các thành phàn kinh tế và phương thức quản lý vĩ mô của nhà nước, thuế góp phần bình ổn giá cả, kiềm chế lạm phát; là công cụ định hướng sản xuất, định hướng tiêu dùng từ đó điều tiết thu nhập, bảo hộ sản xuất trong nước và thúc đẩy hội nhập kinh tế 2.2.1. Bình ổn giá cả, kiềm chế lạm phát Nhà nước sư dụng nguồn ngân sách Nhà nước ( mà trong đó thuế là nguồn thu chủ yếu – như đã phân tích ở trên ) để điều chỉnh gía cả, chẳng hạn khi giá cả một hàng hoá nào đó giảm thì Nhà nước sẽ bỏ tiền ra mua để chống lại sự giảm giá Ngoài ra chính sách thuế cũng được sử dụng để kiềm chế lạm phát, cụ thể : Khi lạm phát xẩy ra do cung nhỏ hơn cầu( lạm phát cầu kéo ) thì nhà nước sẽ đánh thuế vào tiêu dùng hàng hoá để giảm cầu Hay lạm phát do chi phí đầu vào cao ( lạm phát chi phí đẩy ) thì sẽ giảm việc đánh thuế vào chi phí đầu vào 2.2.3Thuế là công cụ định hướng sản xuất, định hướng tiêu dùng * Điều tiết sản xuất Mỗi quốc gia mỗi nghành điều có các nghành kinh tế mũi nhọn. Vì vậy, việc định hướng sản xuất ,tiêu dùng để khai thác tiềm năng của ngành này là điều rất cần thiết của nhà nước .Để thực hiện côn gviệc này bên cạnh những chính sách chi tiêu tự cấp nhà nước cần sử dụng chính sách thuế .Thể hiện : Thứ nhất Sắp xếp và củng cố lại cơ cấu kinh tế theo hướng của nhà nước .Các quốc gia muốn phát triển kinh tế đều phải thực hiện một cơ cấu kinh tế và tiến bộ phù hợp với tình hình ,điều kiện của nước mình .Thuế chính là công cụ đắc lực trong việc điều chỉnh theo cơ cầu này . Thứ hai Tác động tích cực của thuế đối với sản xuất kinh doanh còn có thể thể hiện ở chỗ hoàn thiện nghĩa vụ nộp thuế cho NHà nước đòi hỏi đối tượng nộp thuế phải thực hiện nghiâm ngặt chế độ hạch toán kinh doanh ,tăng năng suất lao động ,áp dụng các thành tựu khao học kĩ thuật trong sản xuất kinh doanh . Thứ ba Thuế là một trong những biện pháp đươch nhà nước sử dụng để bảo vệ nền sản xuất trong nước ,thúc đẩy sự cạnh tranh chèn ép của nước ngoài cần thiết đối với nền kinh tế nước ta hiện nay khi mà lực lươch sản xuất cũng như khả năng cạnh tranh của ta chưa đủ mạnh .Thực tế cho thấy thuế đã thể hiện mặt ưu thế hơn hẳn so với một biện pháp khác để bảo hộ sãn xuất trong nước . *Điều tiết tiêu dùng Các chính sách và biện pháp kinh tế được nhà nước sử dụng để hướng dẫn tiêu dùng thường là đánh thuế với thuế suất cao vào những mặt hàng cần hạn chế tiêu dùng như những mặt hàng xa xỉ ,những mặt hàng tiêu dùng có ảnh hưởng không tốt đến sức khoẻ .Sự điều tiết này cũng góp phần tiết kiệm chi tiêu ,tăng tích luỹ ,hướng dẫn tiêu dùng lành mạnh .Ngoài ra nó cũng góp phần làm cân bằng , bình đẳng hơn trong xã hội giữa người giàu và ngươi nghèo . 2.2.4Bảo hộ sản xuất trong nước thúc đẩy hội nhập kinh tế Bảo hộ hợp lí nền kinh tế trong nước tránh khỏi sự cạnh tranh từ bên ngoài là hết sức cần thiết đối với các nước chậm phát triển và đang phát triển .Thuế thục hiện sự bảo hộ nền sản xuất nội địa và kiểm tra kiểm soát hoạt động ngoại thương thuế xuất nhập khẩu .Sự ưu đãi các hiệp định về theo thông lệ quốc tế .Tóm lại thuế về bản chất kinh tế là một công cụ tài chính hết sức quan trọng khôn gchỉ tạo ra nguồn thu to lớn cho ngân sách nhà nước mà còn có khả năng tác đọng điều chỉnh kinh tế xã hội ở tầng vĩ mô . 3.Phân loại thuế 3.1Phân loại theo cơ sở đánh thuế 3.2Phân loại theo phương thức đánh thuế II Nội dung , phương pháp tính và hạch toán thuế GTGT 1. Khái niệm thuế GTGT và sự cần thiết áp dụng thuế GTGT 1.1Khái niệm về thuế GTGT -Định nghĩa -Đối tượng tính thuế -Đối tượng nộp thuế 1.2. Sự cần thiết áp dụng thuế GTGT thay thế thuế doanh thu -Nhược điểm của thuế doanh thu -Ưu điểm và nhược điểm của thuế GTGT 2.Khái quát thực tiễn áp dụng chế độ thuế GTGT ở một số nước 2.1Nhu cầu áp dụng chế độ thuế GTGT ở một số khu vực kinh tế điển hình -Pháp -Mĩ -Trung Quốc 2.2Cơ cấu chế độ thuế GTGT -Phạm vi áp dụng -Căn cứ tính thuế - Quy định về khấu trừ thuế -Quy định ưu đăi , miễn giảm thuế -Quy định về kê khai nộp thuế 3.Phương pháp tính thuế GTGT ở nước ta 3.1Phương pháp khấu trừ 3.2Phương pháp trực tiếp 3.3Ưu nhược điểm của từng phương pháp 4.Sổ sách chừng từ kế toán thuế GTGT 4.1Chứng từ -Hoá đơn GTGT -Hoá đơn bán hàng thông thường -Hoá đơn thu mua nông , lâm ,thuỷ sản của người trực tiếp sản xuất 4.2 Sổ kế toán -Sổ theo dõi thuế GTGT -Sổ chi tiết thuế GTGT được hoàn lại -Sổ chi tiết thuế GTGT được miễn giảm -Báo cáo thuế GTGT 5. Nguyên tắc hạch toán thuế GTGT 6.Hạch toán thuế GTGT 6.1 Tài khoản sử dụng a. Tài khoản ( TK) 133- thuế GTGT được khấu trừ -Kết cấu và nội dung TK 133 >Bên Nợ >Bên Có >Số dư bên Nợ >TK133 có 2 TK cấp 2: +TK1331: Thuế GTGT được khấu trừ của hàng hoá ,dịch vụ +TK1332:Thuế GTGT được khấu trừ của TSCĐ b.TK3331-Thuế GTGT phải nộp -Kết cấu và nội dung của TK 3331 >Bên Nợ >Bên Có >Số dư bên Nợ >Số dư bên Có >TK 3331 có 2 TK cấp 2 +TK 33311-Thuế GTGT đầu ra +TK33312-Thuế GTGT hàng nhập khẩu 6.2 Phương pháp hạch toán a. Theo phương pháp khấu trừ -Hạch toán thuế GTGT đầu vào -Hạch toán thuế GTGT đầu ra -Hạch toán thuế GTGT phải nộp -Hạch toán hoàn thuế GTGT -Hạch toán miễn giảm thuế GTGT -Hạch toán thuế GTGT ở đơn vị và ở tổng công ty + Sơ đồ hạch toán b. Hạch toán thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp -Phương pháp hạch toán -Sơ đồ hạch toán 7. Quan hệ thuế GTGT với các loại thuế khác +Với thuế xuất nhập khẩu +Với thuế TTĐB +Với thuế TNDN Chương II: Thực trạng hạch toán thuế GTGT trong các doanh nghiệp Những thành tựu đạt được Sự thay đổi phương pháp tính thuế tránh được sự chồng chéo , buộc chủ thề phải làm quen với các hoá đơn chứng từ Thuế GTGT được tính theo 2 phương pháp :phương pháp khấu trừ và phương pháp trực tiếp .Các cơ sở kinh doanh phải áp dụng phuơng pháp khấu trừ là hầu hết và phải đáp ứng quy định về sổ sách kế toán , hạch toán số thuế đầu ra và số thuế đầu vào .Với phương pháp khấu trừ thuế GTGT đã thể hiện rõ bản chất thuế gián thu .Chủ thể kinh doanh chỉ là người thu thuế hộ nhà nước .Thói quen về thuế chồng thuế sẽ không còn lí do tồn tại .Thay vào đó là một tư duy mới chủ động , tự hoàn thiện được thể hiện ở một phần rất quan trọng là phương pháp tính thuế. Việc bổ sung thêm TK 1331 ( Thuế GTGT đầu vào và sửa đổi TK3331 từ thuế doanh thu sang thuế GTGT phải nộp đã giúp các doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc theo dõi tình hình thanh toán với các cơ quan nhà nước cũng như đáp ứng thoả đáng nhu cầu của người sử dụng thông tin kế toán , chấn chỉnh công tác hạch toán kế toán đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân . Có thể thấy , việc kê khai thuế GTGT , khấu trừ thuế GTGT đầu vào thực hiện nguyên tắc phải có hoá đơn , chứng từ đã thúc đẩy các doanh nghiệp , người kinh doanh chú trọng tổ chức tốt hơn công tác mở sổ sách kế toán , ghi chép , quản lí và sử dụng tố hơn hoá đơn chứng từ. Theo cuộc điều tra năm 1999 số lượng hoá đơn sử dụng tăng gấp đôi so với năm 1998 và điều đó thể hiện một bước tiến mới trong công tác sử dụng hoá đơn và quản lí của doanh nghiệp . Việc thực hiện thuế GTGT với ba thuế suất 0%, 5% , 10% .ít hơn so với 11 mức thuế suất doanh thu trước đây (từ 0,5% đến 30% )cũng đòi hỏi các doanh nghiệp phải tổ chức lại sản xuất kinh doanh , thực hiện hạch toán kinh doanh , tính toán giá thành giá bán phù hợp với thị trường và nộp được thuế ,vì thế hiệu qủ kinh doanh sẽ cao . Nhiều các doanh nghiệp thuộc những ngành như cơ khí , dệt may , gia dày , mía đường trước khi thực hiện luật thuế GTGT , sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn , kinh doanh không có hiệu qủa .Nhưng sau khi thực hiện sắc thuế này đa số các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đã có hiệu quả , nộp đủ thuế theo quy định . Về vấn đề thị trường giá cả, giá một số mặt hàng lương thực , thực phẩm công nghệ phẩm , y tế ...đã nhích lên , và dần dần do sự chỉ đạo của các cấp trung ương đén địa phương tăng cường quản lí tốt , nên thị trường giá cả trở nên ổn định , không có những biến động lớn .Cho đến năy , các doanh nghiệp đã thực hiện công tác kế toán , hoá đơn chứng từ theo chế độ nhà nước .Việc quyết toán thuế được thực hiện nhanh chóng có nhiều tiến bộ so với những năm trước đây .Từ đó tạo điều kiện để cơ quan thuế và các cơ quan quản lí nhà nước kiểm tra , giám sát hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp làm cho các hoạt động kinh tế được lành mạnh , chống việc thất thu cho ngân sách nhà nước .Điếu đó phần nào làm giảm tiêu cực trong xã hội , góp phần ổn định kinh tế . đối với những công trình xây dựng cơ bản được hạch toán riêng , không tính vào giá thành công trình , không phải khấu hao tài sản sau này mà được khấu trừ hoặc hoàn thuế tạo điều kiện cho giá thành của nó giảm .(khoảng 10%).Mặt khác khi nhập khẩu thiết bị , máy móc , phương tiện vận tải chuyên dùng ,laọi trong nước chưa sản xuất được để đầu tư tài sản cố định theo dự án thì không chịu thuế GTGT .Đối với các công trình đầu tư bằng vốn ODA không hoàn lại thì không chịu thuế GTGT , nếu không thuộc vốn ODA vay thì được hoàn thuế GTGT trong 3 ngày kể từ ngày nộp tờ khai .Chính điều đó đã góp phần khuyến khích đầu tư , thúc đẩy phát triển kinh doanh . Bên cạnh đó , đối với các cơ quan thuế , các quy định về việc đăng kí mã số thuế và việc lập tờ khai thuế đã góp phần giúp cơ quan thuế nắm được đối tượng nộp thuế và quản lí tốt hơn .Đến hết năm 2000 là 1.212,139 đối tượng . Nói chung việc nước ta thực hiện luật thuế GTGT và các phương pháp hạch toán thuế GTGT trong bối cảnh kinh tế đất nước đang gặp nhiều khó khăn do thiên tai lũ lụt và những cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực nhưng tình hình giá cả thị trường không có biến động lớn ,vẫn đảm bảo số thu ngân sách nhà nước theo yêu cầu đặt ra .Không những thế còn góp phần khuyến khích mạnh mẽ đầu tư phát triển và xuất khẩu , thúc đẩy các doanh nghiệp hạch toán kinh doanh , tăng cường quản lí ...là một thành công rất lớn , được chuyên gia nước ngoài đánh giá cao . Những điều đó phần nào tạo điều kiện để VN hội nhập vào nền kinh tế thế giới. II.Những tồn tại -Sự phân chia đối tượng chịu thuế và đối tượng không chịu thuế gây hiện tượng phân đoạn các hoạt động kinh tế. Xét trường hợp cá ngành sử dụng nguyên liệu không chịu thuế GTGT để sản xuất ra các sản phẩm chịu thuế GTGT VD như ngành sản xuất bột canh từ nguyên liệu muối là đối tượng không chịu thuế GTGT , do vậy không phát sinh thuế GTGT đầu vào khi mua nguyên liệu .Trong khi đó sản phẩm tạo ra lại thuộc diện chịu thuế GTGT , nên khi bán thành phẩm doanh nghiệp phải nộp cho nhà nước số thuế GTGT đầu ra phát sinh ma fkhông được khấu trừ đầu vào tương ứng tính trên nguyên giá vật liệu mua vào .Do vậy sẽ ảnh hưởng đến giá bán , doanh thu của doanh nghiệp .Ví dụ khác như ngành in báo chí , sách giáo khoa khi bán hàng không phát sinh thuế nhưng khi mua nguyên liệu sản xuất như giấy , điện ,...lại phải chịu 10% thuế GTGT đầu vào .Do khong có thuế đầu vào để khấu trừ nên số thuế GTGT phải trả trước đó sẽ tính vào giá thành sản phẩm , gây khó khăn cho việc tiêu thụ . Thú hai . Việc sử dụng hoá đơn nảy sinh nhiều vấn đề . ỉng với hai phương pháp tính thuế đã nêu là hai loại hoá đơn :Hoá đơn GTGT (có sự tách biệt thuế GTGT ) và hoá đơn bán hàng thông thường ( gộp cả thuế GTGT vào tổng giá thanh toán ) Luật thuế quy định rằng “trường hợp những cơ sở kinh doanh mua vật tư hàng hoá không có hoá đơn chứng từ , hoặc có hoá đơn chứng từ nhưng không phải là hoá đơn chứng từ thuế GTGT , hoặc hoá đơn chưngtừ thuế GTGT nhưng không ghi riêng số thuế GTGT ngoài giá bán thì không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào ( trừ mọtt vài trường hợp có quy định riêng ).Tuy nhiên trong nền kinh tế không phải các khu vực kinh doanh nộp thuế theo từng phương pháp hoạt động riêng biệt với nhau mà có quan hệ mua bán trao đổi .Cho nên nếu doanh gnhiệp nộp thuế theo phương pháp khấu trừ mà có quan hệ mua bán trao đổi với nhóm đối tượng nộp thuế theo phương pháp trực tiếp thì sẽ không được khấu trừ phần thuế GTGT đầu vào mặc dù họ đẫ phải trả thuế GTGT cho số hàng mua đó .Trong điều kiện nước ta hiện nay , khu vực kinh doanh sử dụng hoá đơn thong thường khôn gghi riêng thuế GTGT vẫn còn chiếm tỉ trọng lớn nen đây cũng chính là một vướng mắc không nhỏ. Khi chúng ta áp dụng phương pháp khấu trừ thì hoá đơn chứng từ được coi là quan trọng nhất và cơ chế khấu trừ là điểm cốt lõi quyết định tính hiện đại và trung lập của thuế GTGT .Do vậy trong trường hợp “cơ sở sản xuất , chế biến mua nguyên vật liệu là nông , lâm , thuỷ sản chưa qua chế biến của người sản xuất bán ra không vó hoá đơn chứng từ và một số trường hợp khác như sắt thép , phế liệu , sẽ được tính khấu trừ phần thuế đầu vào theo tỷ lệ quy định trên trị giá hàng mua vào , suy ra sẽ không phản ưng đúng bản chất của thuế GTGT bởi vì số thuế được khấu trừ đầu vào được xác định trên số thuế GTGT thực tế phát sinh khi mua hàng mà nếu khấu trừ theo tỷ lệ quy định như trên sẽ phản ánh không chính xác số thực tế được . Ngoài ra vẫn còn nhiều trường hợp thực hiện chưa tốt việc quản lí , sử dụng hoá đơn chứng từ chưa thể hiện tốt .VD bán hàng không xuất hoá đơn chứng từ , in và sử dụng hoá dơn giả , mua đi , bán lại hoá đơn , viết không đúng doanh số trên hoá đơn .Trong trường hợp không có hoá đơn GTGT , việc cho khấu trừ đầu vào theo một tỷ lệ ấn định xuất phát từ tình hình thực tế của VN và nhằm khuyến khích cũng như đảm bảo công bằng đối với các mặt hàng nông , lâm , thuỷ sản , phế liệu do gần 80% dân số VN sản xuất ra .Chính đây cũng là việc phát sinh ra những mâu thuẫn hoặc lợi dụng sơ hở để chiếm đoạt trôn tránh thuế , gây thất thu cho ngân sách nhà nước. Thứ ba .Việc tính toán thuế còn gặp nhiều khó khăn , lúng túng . Trogn hai phương pháp tính thuế chỉ có phương pháp khấu trừ thể hiện sự trung lập kinh tế của thuế GTGT .Đối với cách tính thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp , thời điểm ban đầu được coi là phù hợp với hoàn cảnh kinh tế , với các cơ sở kinh doanh nhỏ và các hộ kinh doanh cá thể chưa có điều kiện thực hiện chế độ hoá đơn chứng từ đầy đủ áp dụng phương pháp khấu trừ.Các đối tượng này vẫn phải ghi sổ sách đầy đủ thì mới xác định được doanh số bán hàng và giá vốn đầu vào để tính GTGT làm căn cứ tính thuế .Như vậy nếu thực hiện được và chấp nhận tố chế độ ghi sổ thì họ đã có đủ căn cứ nộp thuế theo phương pháp khấu trừ .Còn trong trường hợp không thực hiện được thì việc xác định GTGT làm căn cứ dễ tạo ra sự nhầm lẫn tránh nghĩa vụ thuế bằng cách khai giảm doanh thu .Như vậy phương pháp trực tiếp chỉ là một cách tiếp cận khoa học trong gnhiên cứu nhăm chỉ rõ thuế GTGT là loại thuế chỉ đánh vào giá trị tăng thêm khi có GTGT xuất hiện hơn là để tính thuế và thu thuế .Tính toán theo phương pháp nằy phức tạp và dễ gây nhầm lẫn , khó áp dụng trong các doanh nghiệp Một điểm nữa cần nói tới là đại bộ phận các đối tượng nộp thuế theo phương pháp trực tiếp đang nộp theo mức khoán mang tính chủ quan ,chưa xát thực với thực tiễn nên dẫn đến không công bằng . Quy định không tính thuế đầu ra và xác định thuế GTGT đầu vào được nêu tron là chưa rõ ràng dễ dẫn đến cơ sở kinh doanh vận dụng khác nhau như các trường hợp : Cơ sỏ mua ngoài dùng để khuyến mại hay tiếp thị , quảng cáo, nếu phát sinh chi phi phí tiếp tân hội nghị có chứng từ theo quy định của bộ tài chính bằng hoặc vượt quá tỷ lệ chi phí khác khống chế theo quy định nhưng đồng thời cơ sở cũng phát sinh các chi phi phí khuyến mại , tiếp thị , quảng cáo có chứng từ theo quy định , thì cơ sở sẽ xét mức thứ tự ưu tiên các khoản chi phí này tính vào chi phí khác như thế nào để làm căn cứ tính chi phí hợp lí để xác định thu nhập chịu thuế và xác định thuế GTGT đầu vào đối với chi phí quảng cáo , tiếp thị ....Đối với hàng hoá dung fđể tiếp thị , khuyến mại quảng cáo do chính cơ sở sản xuất ra phải chịu thuế GTGT thì quy định này trở nên phức tạp , toàn bộ thuế GTGT của chi phí đầu vào cho sản xuất đều được tính khấu trừ theo tháng phát sinh , nếu giá trị hàng hoá quảng cáo , khuyến mại trở nên vượt tỷ lệ khống chế thì số thuế GTGT đầu vào không được tính khấu trừ tương ứng sẽ được xác định như thuế nào để giảm trừ số thuế đầu vào đã tính khấu trừ. Ngoài ra , một số cơ sở kinh doanh còn tỏ ra lúng túng trong việc xác định thuế GTGT đầu vào , đầu ra , luân chuyển chứng từ hoá đơn trong trường hợp hàng bán bị trả lại do kém phẩm chất , sai quy cách chủng loại . Tren cơ sở chấp thuận giữa bên bán và bên mua .Về bản chất hàng bán bị trả lại coi như là chưa tiêu thụ được , người bán trả lại tiền cho người mua theo số lượng hàng bị trả lại và đơn giá thanh toán bao gồm cả thuế GTGT tính trên giá trị hàng bị trả lại .Vấn đề vướng mắc là cơ sở bán hàng , thu tiền và đã xác định thuế GTGT đầu ra phải nộp và cơ sở mua hàng đã tính , kê khai số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ , nếu xử lí không tính thuế GTGT đối với hàng bán bị trả lại thì đưa vào cơ sở nào để người bán hoàn lại số thuế GTGT mà người mua đã thanh toán theo hoá đơn mua hàng làm căn cứ xác định số thuế GTGT phải nộp của người bán cũng như của người mua . Hơn nữa thuế GTGT áp dụng trong ngành vận tải còn gặp nhiều vướng mắc , đặc biệt đối với các HTX vận tải hoạt động theo mô hình dịch vụ hỗ trợ .HTX và chủ phương tiện là hai đối tượng kinh doanh dịch vụ chịu thuế GTGT , nên chế độ thuế GTGT hiện hành , HTX thực hiện và chủ phương tiện phỉa đăng kí , kê khai nộp thuế , HTX thực hiện theo phương pháp khấu trừ , chủ phương tiện thực hiện theo phương pháp trực tiếp .Như vậy cùng một doanh nghiệp thu từ hợp đòng HTX kí với khách hàng có hai đối tượng nộp thuế GTGT .HTX kê khai thuế GTGT đầu ra 10% trên doanh thu theo hợp đồng kí với khách hàng nhưng không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào của phần doanh thu HTX chuyển trả cho chủ phương tiện trogn khi đó doanh thu thực hưởng của HTX chỉ là 1-2 % trên doanh thu theo hợp đồng dẫn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các HTX vận tải theo mmo hình này là rất bế tắc . Việc chuyển đổi từ 11mức thuế suất sang 3mức thuế suất thuế GTGT đã gây sức ép về mức thuế suất .Điều này cũng đưa đến các kết quả khác nhau :có các doanh nghiệp được hưởng lợi hơn do thực hiện thuế GTGT so với mức thuế suất thấp hơn thuế doanh thu , ngược lại có doanh nghiệp phải nộp thuế GTGT với mức thuế suất cao hơn thuế doanh thu trước đây ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh .Đặc biệt là việc xây dựng thuế suất chưa đồng bộ giữa các mặt hàng cùng nhóm hàng và các ngành tương ứng tạo ra sự bất bình đẳng trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế GTGT của các đơn vị kinh doan trong cùng một ngành . Thứ tư.Thuế GTGT gây khó khăn cho nhiều doanh gnhiệp về vốn .Quy định phải nộp thuế GTGT với những hàng nhập kho nhưng chưa bán lần nào làm cho các doanh nghiệp cũng gặp khó khăn trong vấn đề về vốn.Đặc biệt với những doanh nghiệp hoạt động chủ yếu bằng vốn vay , khi áp dụng luật thuế GTGT phải vay thêm để nộp thuế GTGT đầu vào , sẽ càng làm khó khăn thêm , ‘giảm đi sự khuyến khích đầu tư sản xuất. Thứ năm . Tốc độ hoàn thuế của doanh nghiệp còn chậm .Quá trình ,thủ tục xin hoàn thuế còn rắc rối khiến mất nhiều thời gian và công sức của các doanh nghiệp .Để được hoàn thuế các doanh nghiệp phải nộp hồ sơ và toàn bộ hoá đơn chứng từ lên cơ quan thuế rời chờ nhân viên thuế xuống đơn vị kiểm tra , đối chiếu hoá đơn , vì chỉ có hoá đơn thuế GTGT hợp lệ mới được xem xét khấu trừ thuế .Việc kiểm tra đối chiêu hoá đơn chứng từ thực hiện bằng phương pháp thủ công kéo dài mất nhiều thời gian kiểm tra và làm chậm việc hoàn thuế. Trường hợp doanh nghiệp hạch toán phụ thuộc làm chủ đầu tư một dự án khác ở địa phương nơi doanh nghiệp có trụ sở chính ,việc kê khai thuế GTGT phá sinh trong quá trình đầu tư xây dựng cơ bản được thực hiện tại doanh nghiệp chủ đầu tư .Như vậy việc hoàn thuế GTGT có thực hiện tại cục thuế địa phương nơi doanh nghiệp có trụ sở chính hay tại cục địa phương nơi có dự án đầu tư được xây dựng .những khúc mắc này cần có hướng dẫn cụ thể để các doanh nghiệp có thể thực hiện tốt các dự án. Sau gần 5 năm thực hiện ,đại bộ phận các tổ chức cá nhân kinh doanh đã có ý thức trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế .Tuy nhiên một số đối tượng đã lợi dụng cơ chế hoàn thuế trước kiểm tra và sau khầu trừ theo tỷ lệ 0% đối với hàng nông sản để chiếm đoạt tiền thuế. Tình trạng này tuy đã bị đưa ra pháp luật xử lí nghiêm khắc song vẫn còn tái diễn, vá đặc biệt hơn nữa có một số quan chức nhà nước không gương mẫu đã lợi dụng điều này để bảo trợ cho những kẻ xấu, góp phần làm tăng thất thu cho ngân sách nhà nước .Hởu quả này là do các cơ quan thuế chưa có sự kiểm soát thật nghiêm minh , chặt chẽ hơn nữa. Ngoài ra còn một vài khuyết điểm nữa trong cơ chế thu thuế của nhà nước. Trường hợp các doanh nghiệp khôn gthu được những khoản nợ khó đòi của which hàng song vẫn phải nộp thuế cho nhà nước trên phần trị giá đã chắc chăn bị mất không đòi lại được .Điều nay thúc sự sẽ làm giảm đi sự khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp . Như vậy bên cạnh những ưu điểm rất lớn vượt trội của thuế GTGT so với thuế doanh thu , chúng ta thấy thuế GTGT vẫn còn nhiều những tồn tại và vướng mắc do còn nhiều thiếu sót trong khâu chuẩn bị và điều hành .Để khắc phục những khuyết điểm này cần phải có sự nghiên cứu để đưa ra một số giải pháp . Chương III: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện hạch toán thuế GTGT trong các doanh nghiệp I Sự cần thiết phải hoàn thiện hạch toán thuế GTGT Nền kinh tế nước ta đã chuyển hướng từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng XHCN đã thu được những thành tựu đáng kể .Các doanh nghiệp Nhà nước cũng như tư nhân và nhiều loại hình doanh nghiệp khác đã góp phần đáng kể vào sự nghiệp phát triển của đất nước. Trong cơ chế qủn lí mới của nhà nước ta hiện nay Nhà nước lãnh đạo và quản lí kinh tế bằng các công cụ quản lí. Một trong những công cụ được nhà nước sử dụng đó là thuế. Các thành công ban dầu đã đạt được của việc thực hiện các luật thuế đặc biệt là thuế GTGT đã khẳng định hướng đi đúng đắn về sự cần thiết xây dựng chế độ thuế mới này thay thế chế độ thuế doanh thu . Để công cụ thuế phát huy một cách có hiệu quả hoàn thiện hạch toán thuế GTGT giữ một vai trò quan trọng .Thông qua chức năng ghi chép ,phản ánh tình hình thuế suất và sự vận động của thuế suất trong suốt quá trình sản xuất kinh doanh mà các doanh nghiệp có thể cung cấp một cách chính xác ,đầy đủ các nghĩa vụ của mình đối với nhà nước.Mặt khác qua việc phản ánh số liệu và thông tin của kinh tế ,cơ quan thuế suất có thể kiểm tra ,giám sát tính toán được việc thực hiện nghĩa vụ thuế của cac doanh nghiệp đúng đủ kịp thời vào ngân sách nhà nước. Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay , việc VN tham gia vào các tổ chức kinh tế đòi hỏi việc hình thành liên minh quan thuế trong khu vực và mỏe rộng trên phạm vi quốc tế .Chính sách thuế của Vn phải thay đổi một cách liên tục để không những phù hợp với nền kinh tế của Vn mà còn phù hợp với nền kinh tế thế giới.Tạo điều kiện thuận lợi cho việc chủ động tham gia phát triển , hợp tác quốc tế .một mặt Vn lại chịu những sức ép của việc tiến hành cắt giảm thuế nhập khẩu theo cam kết tham gia như :theo chính sách cắt giảm thuế nhập quan CEPT/A FTA,mặt khác tạo đà phát triển kinh tế thúc đẩy các doanh nghiệp VN thích ứng với những biến động và áp lực cạnh tranh tăng cường khả năng tiến tới mở cửa với quốc tế. Mục đích bảo hộ và tạo nguồn thu thông qua thuế quan không còn những tác dụng , nguồn thu từ thuế xuất nhập khẩu sẽ giảm , Nhà nước cần tìm kiếm các hình thức hạch toán khác đẻ đảm bảo số thu ngân sách .Vai trò của thuế GTGT phải được đề cao để khôn gnhững bù đắp mà còn làm tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Thêm vào đó xu thê toàn cầu hóa tạo khả năng di chuyển linh hoạt của các nguồn vốn và lao động trên phạm vi toàn cầu ,các nhà kinh doanh có thể tự do thiết lập cơ sở kinh doanh và khai thác triệt để lợi ích thông qua các biện pháp chuyển giá ,vì vậy khả năng trốn lậu thuế dễ dàng hơn .Do đó , sự cạnh tranh về thuế giữa các biện pháp khuyến khích đầu tư như miễn giảm thuế thu nhập tạo ra tình trạng hệ thống thuế các quốc gia có sự bám đuổi nhau , và càng hội tụ lại gần nhau về mục tiêu .Cải cách thuế trên thế giới trong thế kỉ 21 này cũng theo hướng đơn giản hóa chính sách thuế ,hình thành các liên minh về chính sách và quản lí thuế để hợp tác trao đổi thông tin chống lại việc trốn thuế .do đó, việc cải cách hoàn thiện dần luật thuế cũng như hạch toán thuế GTGT ở Vn là một yêu cầu cần thiết và quan trọng trong nội dung cải cách hệ thống thuế nói chung để phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi thực hiên hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Về mặt chủ quan thuế GTGT là một hình thức thuế mới mẻ ở VN ,mặc dù đã được chuẩn bị kĩ càng từ trước và triển khai thực hiện tích cực trong hơn 4 năm vừa qua ,nhưng do trong thời kì quá độ có những đan xen cần phải lưu ý về ảnh hưởng do khác biệt với thuế doanh thu trước đây nên còn một số vấn đề phức tạp trong công tác xây dựng pháp luật. II Một số nội dung cụ thể về hoàn thiện hạch toán thuế GTGT trong các doanh nghiệp Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền 1.1Về đối tượng chịu thuế theo các văn bản hiện có và dưới góc độ nhìn thì nền kinh tế được phân thành : -Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh các loại hàng hóa dịch vụ không thuộc diện điều tiết của thuế GTGT Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh các loại hàng hóa dịch vụ chịu sự điều tiết của thuế GTGT trong các doanh nghiệp này lại chia thành : + Các doanh nghiệp áp dụng phương pháp khấu trừ , được khấu trừ thuế GTGT đã nộp đầu vào . +C._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29523.doc
Tài liệu liên quan