Thuế quan (Thuế Nhập khẩu) Việt Nam trong quá trình hội nhập AFTA

LỜI MỞ ĐẦU Trong điều kiện ngày nay, toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế đã trở thành một xu thế khách quan trong tiến trình phát triển kinh tế thế giới và đang cuốn hút toàn thể nhân loại hoà vào dòng chảy của nó. Quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra những thời cơ thuận lợi cho các quốc gia đang phát triển, nhưng cũng đặt mỗi nước phải đối mặt với không ít khó khăn, trong đó vấn đề xoá bỏ hàng rào thuế quan nhằm thực hiện tự do hoá thương mại toàn cầu đang là một thách thứ

doc76 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1815 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thuế quan (Thuế Nhập khẩu) Việt Nam trong quá trình hội nhập AFTA, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c to lớn. Việc cắt giảm thuế quan không chỉ ảnh hưởng đến tính hệ thống của chính sách thuế nói chung mà điều quan trọng hơn, tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế và sự thay đổi của chính sách kinh tế xã hội của đất nước. Ngày 28/7/1995 Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội các Đông Nam Á (ASEAN) và cam kết bắt đầu thực hiện Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực (CEPT) do khối Khu vực Thương mại Tự do ASEAN (AFTA) từ 1/1/1996, hoàn thành vào năm 2006. Tham gia AFTA và hoạt động trong ASEAN, Việt Nam đồng thời là thành viên sáng lập Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM), đã gia nhập diễn dàn kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC), ký kết Hiệp định Thương mại Hoa kỳ tại Washington có hiệu lực kể từ ngày 13/7/2000 và đang đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) Việt Nam hội nhập các tổ chức kinh tế quốc tế trong một bối cảnh mới, trước những thách thức mới.Việt Nam là một nước đang phát triển, nền kinh tế phát triển còn ở mức thấp, đang trong quá trình chuyển đổi. Hội nhập mang lại sự tăng trưởng, phát triển, nhưng phải đối đầu với những vấn đề phát sinh do hội nhập, cạnh tranh, thậm chí do khủng hoảng kinh tế - tài chính gây ra đối với nền kinh tế của đất nước. Ảnh hưởng của sự hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế là quan trọng, nhưng nói chung thì nó không thâu tóm được những ảnh hưởng đối với từng ngành, đặc biệt đối với ngoại thương. Toàn cầu hoá với quy mô lớn hơn, tốc độ nhanh hơn, không ngừng. Nó không đơn thuần là xu hướng, mà là xu hướng hối thúc các nước hội nhập mạnh hơn cả về kinh tế, sản xuất, buôn bán, công nghệ, bảo vệ môi trường… Các lực lượng kinh tế, chính trị và công nghệ mạnh nắm chắc hầu hết các nền kinh tế quan trọng của thế giới đang gia tăng thúc giục sự hội nhập toàn cầu của các nền kinh tế. Một nền kinh tế toàn cầu, cũng đòi hỏi trật tự chính trị thế giới ứng với nó. Kinh tế toàn cầu về mặt lô gíc biện chứng sẽ làm cho nhiều quyết định quốc gia về chính sách sản xuất, tài chính, thương mại, đầu tư, viện trợ Nhà nước vv... được đặt trong sự thoả thuận quốc tế, trong khuôn khổ các tổ chức quốc tế. Quốc tế còn bàn và quyết định cả những vấn đề về trốn thuế, chiếm đoạt bản quyền, tội phạm xuyên biên giới, rửa tiền, tham nhũng. WTO khởi xướng một vòng đàm phán toàn cầu mới, vòng đàm phán thiên niên kỷ bắt đầu với Hội nhập Bộ trưởng của các nước thành viên WTO họp vào tháng 11/1999. Mục đích đàm phán là mở rộng thị trường một cách đáng kể trong lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ, hàng nông nghiệp, minh bạch trong mua sắm của chính phủ, đẩy nhanh tự do hoá thuế quan. Ngay cả trong APEC, nhiều vấn đề về kinh tế - thương mại quốc tế như các vấn đề về nông nghiệp, dịch vụ, thuế quan hàng công nghiệp, thương mại điện tử, thuận lợi hoá thương mại, đã được Hội nghị Cấp cao ở Newzealand đẩy nhanh hơn về tự do hoá và chuyển sang để đàm phán trong khuôn khổ WTO. Khi vòng đàn phán thiên niên kỷ mới bắt đầu, khả năng gia nhập WTO của một nước sẽ khó khăn hơn; các quy định của WTO về kinh tế - thương mại quốc tế sẽ càng chặt chẽ hơn, luật chơi mới cho thương mại thế giới trong thế kỷ 21 sẽ càng nghiêm khắc hơn. Toàn cầu hoá dẫn đến siêu cạnh tranh trong thương mại. Việc hạ thấp các hàng rào bảo hộ đẩy các nền kinh tế vào cạnh tranh toàn cầu. Trong bối cảnh này, việc cải cách thuế quan ở Việt Nam theo những quy định chặt chẽ và cụ thể của Hiệp định CEPT đòi hỏi phải cân nhắc tính toán kỹ lưỡng để thực hiện AFTA một cách có lợi và phù hợp nhất. Do vậy, nghiên cứu đề tài “Thuế quan(Thuế NK) Việt nam trong quá trình hội nhập AFTA” nhằm khái quát hoá những thay đổi về thuế nội địa và tiến hành thực hiện giảm thuế nhập khẩu theo chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung là một yêu cầu cấp thiết, có ý nghĩa cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn không chỉ đối với việc Việt Nam tham gia ASEAN, mà đối với việc nước ta tham gia APEC, gia nhập WTO. Các phương pháp nghiên cứu được vận dụng trong khoá luận này gồm duy vật biện chứng, so sánh, tổng hợp và phân tích, kết luận những kết quả thống kê với sự vận dụng lý luận. Khoá luận tốt nghiệp cũng vận dụng các quan điểm, đường lối phát triển chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước để khái quát, hệ thống và khẳng định các kết quả nghiên cứu. Bố cục khoá luận tốt nghiệp Nội dung chính của khoá luận tốt nghiệp được chia làm 3 chương: - Chương I: AFTA và những quy định chung về cải cách thuế quan trong khuôn khổ AFTA - Chương II. Thực trạng gia nhập AFTA của Việt nam - Chương III. Xu hướng cải cách thuế quan của Việt nam Ngoài ra, còn có Lời nói đầu và kết luận. Qua đây, em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến thầy giáo TS. Nguyễn Hữu Khải, người đã trực tiếp hướng dẫn khoa học, tận tình giúp đỡ em. Em cũng xin cảm ơn các thầy cô giáo trong Khoa kinh tế ngoại thương và những người đã ủng hộ, nhiệt tình góp ý kiến để em hoàn thành luận văn này. CHƯƠNG I AFTA VÀ NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ CẢI CÁCH THUẾ QUAN TRONG KHUÔN KHỔ AFTA I. VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO ASEAN 1. Từ hiệp định ưu đãi thương mại ASEAN (PTA) đến CEPT - sự hình thành AFTA. Ngay từ thời kỳ đầu, các nước ASEAN đã thấy được tầm quan trọng to lớn, vì thế đã chú trọng xây dựng, tăng cường liên kết kinh tế nói chung, thương mại nói riêng giữa các nước trong khối. Hiệp định ưu đãi thương mại là văn kiện quan trọng đầu tiên của ASEAN nhằm tiến tới tự do hoá buôn bán khu vực. Hiệp định này không đặt ra những mục tiêu đặc biệt như các hiệp định ưu đãi buôn bán khác của các nước đang phát triển, mà cố gắng thiết lập một cơ chế giúp hoạt động thương mại trong phạm vi ASEAN được tự do hoá từng bước, phù hợp với khả năng của thành viên. Ban đầu, các nước thực hiện ưu đãi với từng sản phẩm được lựa chọn theo phương pháp lập bảng ma trận và phương pháp tự nguyện. Theo Hiệp định, tổng số 71 mặt hàng được ưu đãi, trong đó 21 mặt hàng được hưởng quy chế của PTA theo phương pháp ma trận và 50 mặt hàng theo phương pháp tự nguyện. Sau năm 1980 các nước ASEAN hướng vào tự do hoá thương mại hơn nữa, chuyển từ phương pháp tự nguyện và lựa chọn từng sản phẩm sang ưu đãi toàn bộ với mọi thành viên, hiệu quả hơn. Mức giảm 20% thuế cho tất cả các thành viên được thông qua đối với 6000 sản phẩm với giá trị dưới 500.000 USD. Mức giới hạn này tăng dần từ 500.000USD lên 1 triệu, sau đó là dưới 10 triệu. Năm 1984 người ta chấp nhận giảm 20 - 25% thuế đối với tất cả các sản phẩm có giá trị buôn bán vượt 10 triệu USD. Tới tháng 6 -1986, có tất cả 12647 sản phẩm của nước ASEAN được hưởng ưu đãi theo PTA. Một nửa số nước này giảm thuế 20 - 25% các hàng khác nhau. Giới hạn ưu đãi thuế trung bình đối với từng quốc gia khác nhau. Ví dụ: Singapore có chế độ tự do hoá thương mại rộng rãi nên ngay từ trước khi thực hiện PTA, nhiều mặt hàng nhập khẩu đã không bị đánh thuế. Hầu như 95% mặt hàng nằm trong Danh mục ưu đãi của Singapore đã có thuế suất ở mức 0%, khiến cho tỷ lệ miễn giảm trung bình là 2,3% Mặc dù vậy, cho tới trước Hội nghị Cấp cao Manila, quá trình thực hiện PTA tiến triển hết sức chậm chạp. Vẫn còn rất nhiều mặt hàng nằm ngoài danh sách PTA. Nguyên nhân đầu tiên là thái độ thiếu tin cậy lẫn nhau giữa các nước trong quá trình thực hiện PTA. Sau khi cam kết cắt giảm thuế, các nước ASEAN tìm cách khai thác những biện pháp khác tạo ra hàng rào phi thuế quan nằm bảo vệ những quyền biện pháp kháo tạo ra hàng rào phi thuế quan nằm bảo vệ những quyền lợi của mình, cản trở quan hệ buôn bán giữa các nước thành viên. Do vậy, tỷ trọng các mặt hàng được hưởng quy chế PTA rất thấp. Năm 1987, trong số 1278 mặt hàng đưa vào danh sách PTA chỉ có 322 mặt hàng hàng (2,6%) thực sự được bảo đảm bằng ưu đãi về thuế. Tương ứng với số lượng mặt hàng này là 19% tổng giá trị buôn bán nội bộ ASEAN. Hơn nữa, những mặt hàng có giá trị buôn bán nội bộ ASEAN. Hơn nữa, những mặt hàng có giá trị buôn bán lớn chiếm một tỷ lệ cao trong danh sách những mặt hàng bị hạn chế (ở Malaysia tỷ lệ này là 60 - 80%) Mặc dù quan hệ buôn bán nội bộ ASEAN tăng nhanh xét về tỷ trọng của nó trong tổng số thương mại thời kỳ đầu những năm 80, nhưng điều đó không phải là kết quả thực hiện PTA. Buôn bán trong nội bộ ASEAN tăng chủ yếu là do tăng buôn bán dầu lửa. Dầu lửa chiếm tới 50% giá trị buôn bán giữa các nước này, nên dầu là yếu tố chính trong tăng buôn bán khu vực. Còn trên thực tế, tác động của PTA ở đây rất hạn chế. Tỷ lệ buôn bán dựa trên PTA chiếm 5% tổng giá trị ngoại thương. Đó là nguyên nhân thứ nhất. Nguyên nhân thứ hai là việc cắt giảm thuế chưa đạt tới mức độ cần thiết để tạo ra những kích thích mạnh mẽ việc buôn bán. Các nước dường như chỉ ưu đãi các mặt hàng với vai trò ít quan trọng trong buôn bán quốc tế và khu vực. Ví dụ, Thái Lan dành sự ưu đãi lớn cho việc nhập khẩu gỗ, mặt hàng mà nước này không hề nhập. Cũng như vậy, các ngành công nghiệp có lợi thế so sánh lớn cũng không được ưu đãi. Trong khi đó, việc giảm thuế chỉ hướng vào các ngành khá nhỏ. Nhận thấy quan hệ hợp tác kinh tế bắt đầu rơi vào trạng kém khả quan, bó hẹp trong những mục tiêu ngắn hạn, Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ ba năm 1989 tại Manila đã nhấn mạnh tới một số vấn đề gây cấn cản trở việc thực hiện PTA. Tại hội nghị này, các vấn đề về việc hoàn thiện PTA đã được thảo luận. Các nước thành viên cam kết thực hiện cắt giảm số lượng mặt hàng nằm trong danh mục hạn chế chỉ còn lại 10% và giá trị của chúng không vượt quá 50% tổng giá trị buôn bán trong khu vực. Thủ tục đưa các mặt hàng mới vào danh sách được ưu đãi của PTA cũng thay đổi từ việc xem xét hàng năm sang chương trình 5 năm (từ 1988 đến 1992). Sau một thời gian thực hiện chương trình này, đã có một số tiến bộ. Số mặt hàng ưu đãi tăng, mức tăng thay đổi theo từng nước. Tuy nhiên, không phải cả các nước đều thực hiện đầy đủ và cho đến thời điểm đó, sự đóng góp của PTA đối với buôn bán trong khu vực, xét về giá trị tuyệt đối cũng như tỷ trọng vẫn còn ít. Mắc tăng nhapạ khẩu và xuất khẩu giữa các nước còn thấp. Ví dụ tỷ trọng xuất khẩu của Indonesia tới các thành viên theo PTA chỉ tăng từ 1,4% năm 1986 lên 3,5% năm 1989. Trong khi đó tỷ trọng nhập khẩu còn thấp hơn, từ 1,2% lên 1,6%. Tuy nhiên nhịp độ tăng trưởng này cũng vào loại khá so với mức tăng trưởng chung của toàn thế giới. Nhìn chung, tuy có một số tiến bộ nhưng tốc độ tự do hoá thương mại thực hện trong khuôn khổ PTA vẫn còn rất chậm và hạn chế. Những biện pháp mở rộng buôn bán thực chất chỉ là những biện pháp nhằm những mục tiêu ngắn hạn. Do vậy, các nước thành viên ASEAN thấy cần thiết phải có một cơ chế hợp tác mang tính thể chế, thống nhất tiêu chí phối hợp hành động, tăng mức ưu đãi, đơn giản hoá các thủ tục, nhắm tới những mục tiêu xa hơn. Nhất là sau chiến tranh lạnh, sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường của hàng loạt các nước như Trung Quốc, Ấn Độ và các nước Đông Âu, các quốc gia ASEAN ngày càng có nhều đối thủ cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài và cạnh tranh thương mại. Các nền kinh tế ASEAN đứng trước những thách thức mới do sự xuất hiện của những tổ chức hợp tác khu vực hơn hẳn về quy mô, tiềm năng và trình độ phát triển như EU, NAFTA. Trước sức ép của chủ nghĩa khu vực và xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, ngày càng có nhiều dấu hiệu làm mất đi các lợi thế cạnh tranh của các nước ASEAN, buộc các nước ASEAN phải có sự thống nhất phối hợp hành động, nỗ lực tìm những biện pháp thúc đẩy nhanh chóng buôn bán nội bộ và tự do hoá quan hệ thương mại. Hàng loạt cuộc gặp gỡ giữa các quan chức chính phủ ASEAN đã diễn ra nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trên. Ngày 28/1/1992, tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ 4 diễn ra tại Singapore, các nước thành viên ASEAN đã chính thức ký kết các văn kiện thành lập AFTA. Một trong những văn kiện quan trọng nhất đối với việc thành lập AFTA là Hiệp định về ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung dành cho AFTA (CEPT). Trên nguyên tắc, Hiệp định Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) đã được thông qua tháng 10 - 1991 thay thế choi PTA. Theo hiệp định CEPT , các nước ASEAN thoả thuận giảm thuế quan trong thương mại nội bộ ASEAN xuốn còn từ 0% đến 5%, loại bỏ các hạn chế về định lượng và các hàng rào phi thuế quan, đồng thời tăng cường hợp tác trong lĩnh vực hải quan. Chương trình thực hiện CEPT ban đầu được dự kiến kéo dài trong vòng 15 năm, bắt đầu từ 1/3/1993, hoàn thành vào 1/1/2008. Tuy nhiên, với những kết quả khả quan theo hướng đẩy mạnh tự do hoá thương mại của các vòng đàm phán U rugoay, trước những bước tiến nhanh của Khu vực thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA) và kế hoạch tự do hoá thương mại đầy tham vọng nhưng cũng rất khả thi của Tổ chức Hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC), tại Hội nghị Bộ trưởng ASEAN lần thứ 26 họp tại Thái Lan (tháng 9/1994), các nước ASEAN đã thống nhất về nguyên tắc sẽ hoàn thành thực hiện AFTA sớm hơn, kết thúc vào năm 2003. Quyết đinh này đã được chính thức hoá tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần IV họp vào tháng 9/1995 tại Bangkok. Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN chính thức lần thứ VI họp tại Hà Nội tháng 12/1998, các nước ASEAN đã thống nhất đẩy nhanh hơn nữa tiến trình thực hiện AFTA. Tổng thư ký hiệp hội các nước Đông Nam Á Rodoflo Severino đề nghị ASEAN nên đẩy nhanh thời hạn chót đề ra đến hết năm 2010 phải xoá bỏ mọi hàng rào thuế quan nhằm đương đầu với sự cạnh tranh ngày càng tăng vào đầu tư. Phát biểu tại diễn đàn thông tin tại Manila, Ông Severino cho biết nếu đợi đến năm 2010 ASEAN mới dỡ bỏ mọi hàng rào thuế quan trong khi các nước đưa ra thời hạn chót mới vì cho rằng thời hạn này sẽ do các nước thành viên ASEAN đề ra. Năm 1993, ASEAN đã đề ra một kế hoạch giảm thuế quan để thành lập khu vực tự do thương mại ASEAN (AFTA), kế hoặch AFTA đã đạt một bước lớn hồi tháng 1/2002 khi 6 nước thành viên cũ ASEAN và cũng là 6 nước ký AFTA đầu tiên là Brunây, Inđonêxia, Malaixia, Philippin, Xingapo và Thái Lan đã giảm thuế quan ở mỗi nước xuống từ 0-5%. Sáu nước này chiếm hơn 96% kim ngạch thương mại trong khu vực. Mục tiêu giảm thuế xuống từ 0-5% đã được các nước ASEAN đẩy nhanh gấp đôi, một phần là để đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 đã đẩy khu vực này rơi vào suy thoái nghiêm trọng nhất trong lịch sử. Các nhà lãnh đạo ASEAN đã quyết định lấy năm 2010 là năm huỷ bỏ hoàn toàn thuế đối với buôn bán của các nước thành viên cũ trong ASEAN. Trong khi thời hạn chót đối với các nước thàh viên mới là vào năm 2015. Mức thuế trung bình đối với hàng hoá buôn bán trong khu vực ASEAN ước tính vào khoảng 3,5%, giảm so với 12,76% khi AFTA được khởi xướng năm 1993. Theo hiệp định tự do thương mại ASEAN, những hàng hoá buôn bán giữa các nước thành viên ASEAN được miễn thuế nếu những mặt hàng này có tỉ lệ nội địa ít nhất 40%. Ông Severino cho biết các nước thành viên ASEAN nên đề ra thời hạn chính xác hơn để các nước này giảm thuế xuống 0% với tốc độ nhanh hơn. Ông cho biết ngoài thời hạn chót là năm 2010-2015 để các nước thành viên cũ và mới trong ASEAN bãi bỏ hoàn toàn thuế, một tiêu chuẩn khác để thực hiện kế hoạch AFTA là vào năm 2003 giảm xuống 0% thuế đối với các mặt hàng hiện bị đánh thuế tới 60%. Ông cho rằng ASEAN sẽ phải tăng cường nỗ lực hội nhập khu vực do các khu vực khác nên nỗ lực bãi bỏ hàng rào phi thuế quan đối với buôn bán trong khu vực , trong đó có các quy định kiểm dịch y tế và phân phối độc quyền . Kim ngạch thương mại trong khu vực Châu á, đạt hơn 700 tỉ USSD. Các nhà lãnh đạo ASEAN đang có kế hoạch thành lập một khu vực tự do thương mại Đông á lớn bao gồm ASEAN, Trung Quốc, Nhật bản và Hàn Quốc, trở thành một thị trường gồm hơn 2 tỉ người. Bằng cách tạo dựng nền tảng thuế quan chung trong khuôn khổ AFTA, các quốc gia thành viên ASEAN sẽ có thể tạo ra được sự tương hợp, phát huy được lợi thế so sánh của mình trong quá trình tổ chức sản xuất và phân công lao động khu vực. 2. Các mục tiêu cơ bản của AFTA AFTA được thiết lập nhằm vào các mục tiêu cơ bản sau đây: Tự do hoá thương mại nội bộ ASEAN Đây là mục tiêu đầu tiên, được thực hiện bằng cách loại bỏ hàng rào thuế quan và phí thuế quan, nhờ đó sẽ mang lại cho các quốc gia ASEAN một thị trường rộng hơn, thị phần thương mại lớn hơn. Có thể thấy rằng công nghiệp hoá đã làm tăng nhanh chóng quy mô buôn bán giữa các nền kinh tế ASEAN. Người ta tính rằng, vào đầu những năm 90, phần xuất khẩu nội bộ ASEAN trong tổng kim ngạch xuất khẩu của nhóm nước này đã đạt khoảng 20%. Khuynh hướng liên kết thương mại khu vực ngày càng trở nên mạnh mẽ. Hơn nữa, do đặc tính hướng ngoại của nền kinh tế ASEAN, các nền kinh tế này sẽ thuận lợi hơn trong việc tiến tới tự do hoá. Điều này mặc dù không thể giúp các quốc gia thành viên ASEAN đạt được những thoả thuận thương mại lớn cho thị trường khu vực như EU, AFTA, song chí ít nó cũng hỗ trợ cho các quốc gia này đẩy nhanh tăng trưởng, thay đổi cơ cấu, bổ sung lẫn nhau theo hướng trở thành một đối tác cạnh tranh có ưu thế so với các thị trường khu vực khác. Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài Đây là mục tiêu trọng tâm của AFTA. AFTA sẽ tạo dựng một thị trường thống nhất trong ASEAN, cho phép thúc đẩy quá trình hợp lý hoá, chuyên môn hoá sản xuất trong nội bộ khu vực, phát huy và khai thác các thế mạnh của nền kinh tế thành viên. Thực hiện mục tiêu này nằm giải quyết ba vấn đề: - Phân công lao động quốc tế trong toàn bộ nền kinh tế ASEAN nói chung, trong từng ngành sản xuất nói riêng, thúc đẩy các công ty đa quốc gia đầu tư trực tiếp vào ASEAN. Thông qua AFTA, các nhà đầu tư nước ngoài được hưởng các quy chế ưu đãi đầu tư ở tất cả các thành viên. - Tăng đầu tư trực tiếp vào các nước ASEAN. Đó là nhờ kết quả mậu dịch giữa các nước thành viên tăng lên theo AFTA và do đó kích thích các công ty Nhật , Mỹ, EU và NICs đầu tư trực tiếp nhiều hơn nữa để giữ thị trường này thay vì trước đây họ thường cung ứng từ các cơ sở sản xuất ngoài ASEAN. - Tăng sự lớn mạnh của chính thị trường nội địa khu vực nhờ sự tăng lên của sức mua thị trường khu vực ASEAN. Với định hướng phát triển ra ngoài khu vực trên cơ sở liên kết thị trường bên trong AFTA, ASEAN hoàn toàn có thể kỳ vọng ở khả năng đẩy mạnh thế thương lượng cạnh tranh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Làm cho ASEAN thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế đang thay đổi, đặc biệt là phát triển trong xu thế tự do hoá thương mại toàn cầu. AFTA là nấc thang quan trọng đầu tiên trên đường tiến tới thực hiện sự hợp tác toàn diện về kinh tế giữa các nước ASEAN. Trước những biến động của bối cảnh quốc tế, đặc biệt sau cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực vừa qua, AFTA buộc phải đẩy nhanh tiến độ thực hiện và có thể sẽ không dừng lại ở một khu vực mậu dịch hay liên minh thuế quan, mà trong tương lai nó sẽ có thể được tiếp tục phát triển thành một liên minh tiền tệ, một liên minh kinh tế. II. VAI TRÒ VÀ NỘI DUNG CẢI CÁCH THUẾ QUAN TRONG KHUÔN KHỔ AFTA. 1. Vai trò của cải cách thuế quan. Để thấy được vai trò của cải cách thuế quan, trước hết xét tác động của việc duy trì hệ thống thuế quan có thuế xuất cao đối với các hoạt động kinh tế. Thuế quan với thuế suất cao làm tăng đáng kể giá hàng nhập khẩu, tạo điều kiện cho các nhà sản xuất nội địa tăng giá hàng của mình bằng mức giá sau thuế cua hàng nhập khẩu cùng chủng loại. Giá hàng hoá trong nước tăng, người tiêu dùng chịu thiệt. Đồng thời, dẫn tới tình trạng sử dụng không hiệu quả các nguồn lực kinh tế, do các ngành được bảo hộ sẽ có khả năng chi trả cao hơn lao động, đất và vốn so với các ngành không được hay được bảo hộ ở mức thấp hơn. Điều này không chỉ làm tăng giá các nguồn tài nguyên khan hiếm mà việc phân bổ chúng cũng không chính xác vì những dòng tài nguyên này sẽ chảy sang các lĩnh vực kém hiệu quả hơn của nền kinh tế. Như vậy, thuế quan cao tác động tới toàn bộ nền kinh tế, tới giá các mặt hàng chịu thuế và phổ biến hơn là giá các yếu tố sản xuất. Ngoài gia các nhà sản xuất cà cung ứng hàng hoá, dịch vụ cho xuất khẩu sẽ phải chịu tác động mạnh bởi vì thuế cao sẽ làm tăng chi phí tiêu thụ hàng hoá, trong khi đó giá xuất khẩu đựoc định bằng mức cạnh tranh quốc tế, như vậy lợi nhuận sẽ giảm. Nói cách khác, thuế quan cao có tác động hạn chế xuất khẩu. Để hạn chế tác động tiêu cực của chế độ bảo hộ bằng hàng rào thuế quan cao, các quốc gia đã tiến hành cải cách thuế quan và áp dụng hệ thống thuế quan “thấp và đồng nhất”. Đây là một hệ thống thuế mà khoảng cách giữa mức thuế suất cao nhất và thấp nhất có xu hướng thu hẹp và thuế xuất trung bình giảm dần xuống tưới mức hợp lý. Cải cách thuế quan theo hướng này đã được áp dụng trong suốt những năm 80 tại Châu Mỹ - La Tinh, Châu Á, Châu Phi và gần đây là ở Đông Âu. Vòng đàm phán Urugoay và cá thoả thuận thương mại khu vực như CEPT/AFTA đã tạo thêm động lực cho quá trình cải cách này. Cải cách thuế quan theo cơ chế “ thấp và đồng nhất” đem lại nhiều lợi ích khách nhau: - Tăng cường buôn bán và hợp tác kinh tế quốc tế. - Khuyến khích các nước tích cực tham gia vào phân công lao động quốc tế. - Xoá bỏ chinh xác bảo hộ các ngành kinh tế kém hiệu quả. - Ngoài ra thuế quan thấp còn hạn chế tình trạng nhập khẩu bất hợp pháp trốn thuế. Thực vậy, nếu thuế suất cao, các thương gia có thể trốn thuế bằng cách buôn lậu hay những phương thức bất hợp pháp khác nhau như khai gian, khai giảm ( gian lận thương mại). Nếu thuế suất giảm, lượng hàng nhập khẩu hợp pháp có thể tăng vì mắc độ rủi do cao trong buôn lậu lớn hơn việc nhập khẩu hợp pháp. Đồng thời qua giảm thuế, chúng ta có thể hạn chế các hoạt động thương mại bất hơp pháp mà không cần thực hiện qua các hoạt động kiểm tra, giám sát hàng hoá, chứng từ và các quy định hành chính khác; do đó giảm bớt được tình trạng nhũng nhiễu, gây lãng phí thời gian và tiền của các thương gia cũng như các nhà chức trách. Tóm lại, việc cắt giảm thuế quan hiện nay trong nền kinh tế thế giới có vai trò hết sức quan trọng, góp phần khắc phục những hạn chế của hàng rào thuế quan cao và tăng cường các tác động tích cực của hệ thống thế quan ‘ thấp và đông nhất”. 2. Nội dung cải cách thuế quan trong quá trình thực hiện AFTA. Cơ chế chủ yếu thực hiện AFTA là tham gia Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT). Phần này sẽ tập trung nghiên cứu nội dung cải cách thuế quan theo CEPT. 2.1. Những quy định chung của CEPT về cải cách thuế quan Mục tiêu của Hiệp định CEPT ban đầu (CEPT - 1992) chỉ là giảm toàn bộ thuế suất nộ bộ thương mại ASEAN xuống mức từ 0 - 5 % vào tháng 1 năm 2008. Các sản phẩm được chia thành 3 nhóm: giảm nhanh, giảm thông thường và nhóm loại trừ tạm thời. Trong số 44095 mặt hàng được trình cho ban thư ký ASEAN vào tháng 12 năm 1993, có 14855 mặt hàng thuộc nhóm giảm nhanh, 25918 mặt hàng thuộc nhóm giảm thông thường và 3322 mặt hàng thuộc nhóm còn lại. Các sản phẩm nông nghiệp chưa chế biến không được đưa vào Hiệp định CEPT -1992. Tháng 12 năm 1995, Hiệp định CEPT đã có những sửa đổi lớn bao gồm: - Xây dựng lại danh mục các hàng hoá loại trừ tạm thời. - Mở rộng phạm vi hàng hoá tham gia CEPT, gồm cả các sản phẩm nông nghiệp chưa chế biến. - Thành lập nhóm các mặt hàng nông sản chưa chế biến nhạy cảm. Các mặt hàng này được áp dụng một cơ chế tự do hoá riêng. - Rút ngắn thời gian hoàn thành AFTA trước 5 năm, tức là kết thúc vào năm 2003.  Đến tháng 12 năm 1995, có khoảng 89% toàn bộ các sản phẩm xuất nhập khẩu thuộc Danh mục giảm thuế nhanh và giảm thông thường 7,1% thuộc Danh mục loại trừ tạm thời và 2,9% là các sản phẩm nông nghệp chưa chế biến ( gồm cả các loại sản phẩm nhạy cảm). 1% còn lại thuộc Danh mục loại trừ hoàn toàn, không tham gia CEPT. Dự tính đến năm 2003 sẽ có 99% các sản phẩm xuất nhập khẩu được đưa vào CEPT. Như vậy, những quy định về cải cách thuế quan trong Hiệp định CEPT sửa đổi sẽ được áp dụng đối với mọi sản phẩm công nghiệp chế biến, kể cả các hàng hoá cơ bản và các sản phẩm nông nghiệp đã qua chế biến. Tuy nhiên, trong khung hiệp định đó, CEPT được nhấn mạnh cho các mặt hàng công nghiệp chế biến. Các sản phẩm công nghiệp chế biến là đối tượng chủ yếu được thụ hưởng các ưu đãi của chương trình giảm thuế quan. Nội dung cắt giảm thuế quan cho các sản phẩm thuộc từng Danh mục của CEPT được quy định như sau: - Danh mục các sản phẩm giảm thuế ngay: Danh mục này bao gồm những sản phẩm được cắt giảm thuế quan với lịch trình giảm nhanh và giảm bình thường. Lịch trình giảm thuế nhanh (còn gọi là kế hoạch giảm thuế tăng tốc) sẽ được áp dụng cho 15 nhóm mặt hàng công nghiệp chế biến của ASEAN như: xi măng, hoá chất, phân bón, chất dẻo hàng điện tử, hàng dệt, dầu thực vật, sản phẩm da, sản phẩm cao su, giấy, đồ gốm và thuỷ tinh, đồ dùng bằng gỗ và song mây, dược phẩm khoảng 3200 mặt hàng, chiếm tới 34% tổng số Danh mục giảm thuế của toàn ASEAN. Lịch trình giảm thuế nhanh được phân định thành hai nấc: một là, các sản phẩm có thuế suất trên 20% sẽ được giảm xuống còn 0 - 5% vào 1/1/2000 và các sản phẩm có thuế suất bằng hoặc thấp hơn 20% sẽ được giảm xuống còn 0 - 5% và 1/1/1998. Lịch trình giảm thuế bình thường: sẽ được áp dụng đối với các sản phẩm công nghiệp còn lại. Đối với những sản phẩm có mức thuế hiện hành trên 20% sẽ được thực hiện theo hai bước.Bước một, thuế từ mức hiện hành giảm xuống mức 20% vào năm 1998. Bước hai, giảm từ mức thuế 20% xuống mức cuối cùng 0 - 5% kết thúc vào ngày 1/1/2003. Đối với mức thuế hiện hành 20% hoặc thấp hơn sẽ được giảm xuống mức cuối cùng 0 - 5% trong vòng 7 năm, tức là kết thúc vào năm 2000. Các danh mục giảm thuế theo kênh thông thường hiện chiếm tỷ lệ là 55%, lớn nhất trong tổng số các Danh mục hàng hoá tham gia CEPT. Như vậy, Danh mục giảm thuế ngay chiếm một tỷ lệ lớn, khoảng 89% tổng số Danh mục giảm thuế của Chương trình thực hiện CEPT. Do đó, các lịch trình giảm thuế nhanh và giảm thuế bình thường nếu được thực hện, về căn bản, gần như đã hoàn thành tỷ suất tự do hoá thương mại nội bộ ASEAN. Điều đáng lưu ý ở đây là sau một số năm thực hiện CEPT, các nước thành viên ASEAN đã đề xuất về một lịch trình giảm thuế linh hoạt, nghĩa là không nhất thiết phải tuân thủ theo hai kênh đồng tuyến với các quy trình rạch ròi cho các thuế suất cần cắt giảm qua từng thời kỳ. Mà tuỳ theo đặc điểm cơ cấu thuế của từng nước, có thể xây dựng lịch trình cắt giảm thích hợp, miễn sao giảm nhanh thuế suất còn 0 - 5% trước năm 2003, sớm hơn càng tốt. Năm 1999, Hội đồng AFTA đã chấp nhận đề xuất đó như một sáng kiến nhằm đáp ứng các yêu cầu về việc tạo dựng một khu vực tự do hoá thương mại ASEAN trước thời hạn. Ngày 8/3/1999 Hội đồng AFTA quyết định các nước ASEAN cũ sẽ hoàn thành cắt giảm thuế quan xuống mức cơ sở 0% vào 2001. Tính tới tháng 4/1999, 73% tổng số các mặt hàng chịu thuế của ASEAN đã đựoc giảm thuế suát xuống còn từ 0 - 5%. Tính trung bình thuế suất ASEAN là 4,5% và năm 2000 giảm xuống mức 3,7%. - Danh mục các sản phẩm tạm thời chưa tham gia giảm thuế (danh mục loại trừ tạm thời). Xuất phát từ hoàn cảnh của từng quốc gia thành viên và để tạo điều kiện thuận lợi cho các nước naỳ có thời gian ổn định trong một số lĩnh vực cụ thể như : Tiếp tục các chương trình đầu tư đã được đưa ra trước khi tham gia kế hoạch CEPT hoặc có thời gian để hỗ trợ cho sự ổn dịnh thương mại, hoặc để chuyển hướng sản xuất đối với một số sản phẩm tương đối trọng yếu. Hiệp định CEPT đã được phép các nước ASEAN được đưa ra một số sản phẩm tạm thời chưa thực hiện tiến trình giảm thuế theo kế hoạch CEPT. Các sản phẩm trong Danh mục này sẽ không được hưởng ưu đãi. Sau 5 năm, hàng hoá loại trừ tạm thời phải được chuyển sang Danh mục giảm thuế theo hai kênh đồng tuyến đã quy định. Do đó, kể từ 1/1/1996 đến 1/1/2000, danh mục loại trừ tạm thời sẽ phải chuyển sang Danh mục giảm thuế theo CEPT bình quân 20% mỗi năm ( Danh mục này chỉ chiếm khoảng 7,1% tổng số các danh mục tham gia giảm thuế. - Danh mục sản phẩm nông nghiệp chưa qua chế biển. Các sản phẩm nông nghiệp chưa qua chế biến được phân định thành 3 nhóm: Nhóm giảm thuế, nhóm loại trừ hoàn toàn và một nhóm đặc biệt khác là nhóm các sản phẩm nông sản chưa chế biến nhạy cảm. Chương trình cắt giảm thuế của từng nhóm được quy định như sau: - Sản phẩm nông sản chưa chế biến trong Danh mục cắt giảm thuế ngay được đưa vào chương trình cắt giảm thuế nhanh hoặc chương trình cắt giảm bình thường vào 1/1/1996 và sẽ được giảm thuế xuống còn 0 - 5% vào 1/1/2003. - Các sản phẩm trong Danh mục loại trừ tạm thời của hàng nông sản chưa chế biến sẽ được chuyển sang Danh mục cắt giảm thuế trong vòng 5 năm, từ 1/1/1998 đến 1/1/2003, mỗi năm chuyển 20%. - Các sản phẩm nông sản chưa chế biến nhạy cảm được phân định vào hai Danh mục tuỳ theo mức độ nhạy cảm là Danh mục các sản phẩm nông sản chưa chế biến nhạy cảm và Danh mục các sản phẩm nông sản chưa chế cảm cao. đến nay, theo đề xuất của các quốc gia thành viên, những mặt hàng thuộc Danh mục các sản phẩm nông sản chưa chế biến nhạy cảm sẽ bắt đầu thực hiện cắt giảm thuế xuống còn 0 - 5% từ 1/1/2001 và kết thúc lịch trình giảm thuế vào ngày 1/1/2010. Trong khi đó, các sản phẩm nông nghiệp chưa chế biến nhạy cảm cao sẽ bắt đầu từ 1/1/2003 và kết thúc vào 2010. - Danh mục loại trừ hoàn toàn. Theo kế hoạch CEPT, tất cả các sản phẩm công nghiệp chế tạo và các sản phẩm nông nghiệp chế biến đáp ứng yêu cầu nội dung của sản phẩm có ít nhất 40% xuất xứ từ bất kỳ nước thành viên ASEAN nào đều nằm trong Danh mục sản phẩm trong kế hoạch CEPT vào một cách tự động được đưa vào kế hoạch giảm thuế CEPT. Tuy nhiên, một nước thành viên cũng có thể loại trừ một số sản phẩm không tham gia Hiệp định CEPT và xếp vào Danh mục loại trừ hoàn toàn. Các sản phẩm là những sản phẩm được xem là cần thiết để bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ đạo đức cộng đồng, sức khoẻ, sự sống của con người và động thực vật, ảnh hưởng đến việc bảo tồn các giá trị văn hoá nghệ thuật, các di tích lịch sử hay khảo cộ. Theo Chương trình CEPT, việc cắt giảm thuế cũng như xoá bỏ các biện pháp phi thuế quan đối với những mặt hàng này sẽ không được xem xét đến. Quy định này giống điều XX của hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch (GATT). Để đơn giản hoá, tháng 9/1996 ASEAN trao quyền cho các nước tự thiết lập lịch trình giảm thuế của mình cho đến naưm 2003. ASEAN ước tích rằng, khi thực hiện AFTA từng nước sẽ có thuế suất ưu đãi trung bình có hiệu lực chung ( thuế suất CEPT) vào năm 2003 như bảng sau: Bảng 1: Thuế suất CEPT trung bình của từng nước Nước Brunei Năm 1996 1.57 Năm 2003 0.84 Indonesia 9.05 3.72 Malaysia 4._..62 1.97 Philippines 9.22 3.72 Singapore 0.00 0.00 Thái Lan 14.41 4.63 Việt Nam 12.7 9.3 ASEAN 5.68 2.25 Nguồn: Ban thư ký ASEAN Các ưu đãi khi thực hiện CEPT của các quốc gia ASEAN được trao đổi trên nguyên tắc có đi có lại. Muốn được hưởng chế độ ưu đãi CEPT khi xuất khẩu một hàng hoá trong khối, một sản phẩm cần có các điều kiện sau: - Sản phẩm đó phải là một sản phẩm của khối ASEAN, tức là phải có hàm lượng xuất xứ từ các nước thành viên ASEAN (hàm lượng nội địa) ít nhất 40%) - Sản phẩm đó phải nằm trong Danh mục cắt giảm của cả nước xuất khẩu và nước nhập khẩu và phải có mức thuế quan nhập khẩu bằng hoặc thấp hơn 20%. - Sản phẩm đó phải có chương trình giảm thuế được hội đồng AFTA thông qua.  Các điều kiện này được đưa ra nhằm đản bảo sự bình đẳng hợp lý về cơ hội tiếp cận thương mại giữa các nhà sản xuất đang cạnh tranh trong các quốc gia ASEAn. Chúng cũng góp phần khuyến khích các nước thành viên trong đưa các sản phẩm vào Danh Mục giảm thuế và giảm thuế xuống dưới 20%. Các sản phẩm thuộc danh mục giảm thuế theo CEPT và các sản phẩm đủ điều kiện hưởng ưu đãi thuế quan của các nước thành viên khác sẽ được ghi rõ trong tài liệu hướng dẫn trao đổi nhượng bộ theo CEPT (CCEM) xuất bản hàng năm của mỗi nước thành viên. 2.2. Danh mục các sản phẩm thuế theo CEPT của các quốc gia thuộc ASEAN 6. Danh mục các sản phảm giảm thuế ngay. Cho đến năm 2003 tất cả các quốc gia ASEAn 6 đều có thuế suất CEPT trung bình từ 0 - 5%. Thực hiện, vào năm 2000 sẽ có khoảng 87% mặt hàng chịu thuế trong Danh mục giảm thuế ngay có thuế suất từ 0,5% và toàn bộ các quốc gia ASEAN6, ngoại trừ Thái lan, sẽ có tỷ lệ thuế suất trung bình trong khoảng 0 , 5%. 5 nhóm mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong thương mại giữa các quốc gia ASEAN: - Máy móc, các thiết bị điện tử (HS 84 - 85) - Khoáng sản (HS 25 - 27) - Các sản phẩm sắt thép (HS 72 - 83) - Dệt may (HS 50 - 63) - Hoá chất (HS 28 - 38). Các mặt hàng trên đều có tỷ lệ thuế suất CEPT trung bình từ 0 - 5 % vào năm 2000. Chỉ có 5 mặt hàng không có thuế suất nằm trong khoảng 0 - 5% vào năm 2000 là: - Lương thực (HS 16 / 24) - Gỗ (HS 44 - 64) - Giầy dép (HS 63 - 67) - Vũ khí (HS 93) - Các sản phẩm chế biến hỗn hợp (HS 94 - 96) Xét về tỷ lệ % các sản phẩm tham gia CEPT, các nước ASEAN 6 đều có tỷ lệ của các sản phẩm thuộc Danh mục giảm thuế ngay chiếm khá cao, từ 85,7% (Philippine) tới 98,4% ( Thái Lan). Thái Lan quy định 8996 mặt hằng chịu thuế thuộc Danh mục giảm thuế ngay, cao nhất trong các thành viên ASEAN6 và có mức thuế CEPT trung bình ban đầu (năm 1993) cao nhất là 14,41%. Tiếp đó là Philippine, thuế suất CEPT trung bình của Philipine theo lịch trình sẽ giảm từ mức 9.22% trong năm 1966 xuống còn 3.72% vào năm 2003. Singaopore và Brunei có mức thuế suất trung bình của nhóm các mặt hàng trong Danh mục giảm thuế ngay là thấp nhất, tiếp sau đó là Malaysia. Danh mục loại trừ tạm thời: Ban đầu một số nước ASEAN 6 phải chịu sức ép mạnh từ một số tập đoàn kinh doanh lớn. Họ cản trở việc tham gia AFTA của các nước này bằng cách yêu cầu mở rộng. Danh mục các mặt hàng loại trừ tạm thời. Tuy nhiên, cuối cùng các quốc gia này cũng đã nhận được sự ủng hộ của các tập đoàn đối với mục tiêu tự do hoá thương mại của AFTA. Đặc biệt, Indonesia đã giảm mạnh số lượng nhóm mặt hàng trong Danh mục loại trừ tạm thời của mình từ 1652 nhóm xuống còn 752 nhóm mặt hàng ( từ tỷ lệ 14% xuống còn 10.4% tổng số các nhóm mặt hàng chịu thuée).Thái Lan giảm Danh mục loại trừ tạm thời của mình từ 147 xuống còn 111 nhóm mặt hàng (từ tỷ lệ 2% xuống còn 1,2% xuống còn 1,2% tổng số nhóm mặt hàng chịu thuế). Cho đến năm 1999, các quốc gia ASEAN 6 đều đang trong tiến trình chuyển lần thứ 3 các mặt hàng thuộc Danh mục loại trừ tạm thời ( các mặt hàng đã chế biến) sang Danh mục giảm thuế ngay. Trừ Thái Lan, các quốc gia ASEAN 6 đều đã đệ trình các nhóm mặt hàng chuyển lần 2 cùng với lịch trình giảm thuế yêu cầu lên ban thứ ký ASEAN. Tuy nhiên, tỷ lệ các mặt hàng chuyển lần hai của một số nước vẫn nhỏ hơn 20% tổng số các mặt hàng trong danh mục loại trừ tạm thời do phải thực hiện việc điều hoà thống nhất Danh mục biểu thuế quan của các nước ASEAN. Các quốcgia ASEAN cũng đã đệ trình tên các mặt hàng nông sản chưa chế biến thuộc Danh mục loại trừ tạm thời chuyển sang Danh mục giảm thuế ngay lân thứ nhất. - Danh mục các mặt hàng nhạy cảm: Philippine và Indonesia yêu cầu một số mặt hàng nhất định như gạo và đường phải được hưởng một chế độ đặc biệt vì vai trò qua ntrọng mang tính chất chiến lược và kinh tế xã hội của chúng. Đặc biệt, với Indonesia, gạo là mặt hàng nhạy cảm cao nhất vì ngành sản xuất gạo của Indonesia rất lớn nhưng lại không có hiệu quả tương đối so với các nước trong khu vực và chưa sẵn sàng để tham gia cạnh tranh quốc té. ASEAN đã có những bước tiến lớn trong việc giải quyết khó khăn của vấn đề này thông qua việc chia các mặt hàng nhạy cảm tình hai nhóm: Nhóm mặt hàng các hàng nhạy cảm và nhóm các mặt hàng nhạy cảm cao. Tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề chưa giải quyết: thuế suất khởi điểm và thuế suất cuối cùng cho các mặt hàng thuộc nhóm nhạy cảm cao liên quan đến vấn đề loại bỏ các hạn chế định lượng và các rào cản phi thuế quan khác, và sẽ cần phải làm gì đối với các mặt hàng này trước năm 2001 và 2003. CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG GIA NHẬP AFTA CỦA VIỆT NAM QUAN HỆ TM HOÁ VIỆT NAM – ASEAN: 1. Tình hình chung ASEAN Tổng thư ký ASEAN, Rodolfo C. Severino nhận xét: nhờ cải cách sâu sắc trong nội bộ để hội nhập, Đông Nam Á đã được củng cố vững chắc với viễn cảnh tăng trưởng ổn định. Giờ đây Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á đang là một thị trường rộng mở đối với Đông Nam Á và Thái Bình Dương. Ngày nay, điều mà chúng ta nhìn thấy ở ASEAN là một khu vực an toàn và ổn định. Điểm nổi bật của nền kinh tế là sự hội nhập trong khu vực với một viễn cảnh tăng trưởng ổn định do trong khu vực này đang diễn ra sự cải cách và hội nhập một cách sâu sắc. Một nhà đầu tư nào đó mong muốn có một tài năng trong lĩnh vực kỹ thuật cao, tính hiệu quả trong các loại hình dịch vụ, nhiều loại vật liệu thô hay giá nhân công rẻ có thể tìm thấy ở một hay nhiều quốc gia khác trong ASEAN. Có sự đầu tư thì toàn bộ Đông Nam Á là thị trường, bởi vì thị trường đó ngày càng hội nhập. Đó là lý do tại sao khi nói thị trường ASEAN cũng là nói đến nền kinh tế ASEAN. Khu vực thương mại tự do ASEAN (còn gọi là AFTA) về cơ bản đã trở thành hiện thực với hơn 85% loại thuế nhập khẩu trong hệ thống AFTA đã nằm trong danh mục loại thuế nhập khẩu tối thiểu. Số lượng hàng hoá nằm trong danh mục tối thiểu này chiếm hơn 90% số hàng hoá được giao dịch trong các nước ASEAN. Vào đầu năm 2002, phần lớn hàng hoá buôn bán trong ASEAN sẽ chịu thuế nhập khẩu 5% hoặc được miễn thuế hoàn toàn. Cũng vào năm 2002 thuế nhập khẩu trung bình áp dụng cho các mặt hàng buôn bán thuộc AFTA sẽ giảm từ 4,43% hiện tại xuống còn ít hơn 4%. 6 nước đối tác đầu tiên của hiệp hội AFTA dự định bỏ hết các loại thuế nhập khẩu trong mậu dịch với nhau vaò năm 2010. Việc bỏ hẳn hàng rào thuế quan đang được tháo gỡ dần dần Sự hội nhập của nền kinh tế ASEAN đang tạo ra một thị trường với nửa tỉ dân gần bằng nửa số dân của Trung Quốc và tổng sản phẩm nội bộ tương đồng với tổng sản phẩm của Trung Quốc. Điều đó là một yếu tố quan trọng cho sự quyết định đầu tư vào ASEAN. 2. Bối cảnh nền kinh tế Việt Nam Đánh gía hoạt động kinh tế , hợp tác quốc tế trong 10 năm qua (1992-2001) Việt Nam đã có được những bước tiến cơ bản: Về hợp tác quốc tế: Thiết lập quan hệ ngoại giao với 167 nước, mở rộng quan hệ thương mại với hơn 155 nước, thu hút đầu tư trực tiếp các tập đoàn và Công ty thuộc 70 nước và vùng lãnh thổ, tranh thủ viện trợ phát triển của 45 nước và định chế tài chính quốc tế. Ngày 25/7/1995 gia nhập ASEAN, tham gia AFTA; 3/1996 là thành viên sáng lập Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM); 11/1998 trở thành thành viên APEC, 13/7/2000 ký kết Hiệp định Thương mại với Hoa kỳ – Hiệp định có hiệu lực 10/12/2001, 12/1994 cho đến nay đang tiếp tục đàm phán gia nhập WTO; Thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế, cam kết với các nước và các tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế xoá bỏ từng bước các hàng rào thuế quan và phi thuế quan , phù hợp với trình độ phát triển của Việt Nam và pháp luật kinh tế quốc tế là mở rộng các cơ hội kinh doanh, thâm nhập thị trường quốc tế, tạo lập môi trường pháp lý ổn định để phát triển kinh tế, phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Về tình hình phát triển kinh tế: Từ ổn định về thị trường, Việt Nam ta sẽ có điều kiện thuận lợi để xây dựng những kế hoạch đầu tư, sản xuất, giải quyết việc làm, phát triển kinh tế. Hoạt động xuất nhập khẩu đạt được mục tiêu về quy mô và tốc độ tăng trưởng (kim ngạch xuất nhập khẩu thời kỳ 1991 -1995 tăng gấp 2-2,5 lần so với 5 năm trước;năm 2000 kim ngạch xuất khẩu đạt 14,45% tỷ USD, tăng 6 lần so với năm 1990 – 2,4 tỷ USD. Nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân 18,4% /năm, nhanh hơn tốc độ tăng trưởng GDP khoảng 2,6 lần). Cơ cấu xuất khẩu đã chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các mặt hàng chế biến (tăng từ 8% năm 1991 lêm 40% vào năm 2000). Nhập khẩu đã góp phần phục vụ sản xuất và đổi mới công nghệ (tư liệu sản xuất hiện nay chiếm khoảng 95% kim ngạch nhập khẩu trong đó máy móc thiết bị 26-27%, nguyên nhiên vật liệu khoảng 60% , khoảng 4% còn lại là hàng tiêu dùng), thúc đẩy nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của hàng hoá. Tình trạng nhập siêu đã giảm cả về giá trị tuyệt đối lẫn tương đối. Chủ trương đa dạng hoá thị trường và đa phương hoá quan hệ kinh tế được thực hiện tương đối thành công. Có được những thành tựu trên là do công cuộc đổi mới thúc đẩy, lực lượng sản xuất phát triển , cơ cấu sản xuất được chuyển dịch dần tạo điều kiện đẩy mạnh xuất khẩu và cải thiện cơ cấu xuất nhập khẩu.Tuy nhiên vẫn còn những tồn tại. Cụ thể là quy mô xuất khẩu còn nhỏ so với các nước trong khu vực . Cơ cấu hàng hoá còn lạc hậu, tỷ trọng hàng thô, hàng sơ chế và hàng gia công còn cao. Khả năng cạnh tranh hàng hoá còn thấp. Nhập khẩu chưa thay đổi được một cách cơ bản tình trạng lạc hậu về công nghệ ở một số ngành . Tình trạng nhập lậu vẫn khá nghiêm trọng. Những tồn tại trên bắt nguồn từ một số nguyên nhân khách quan, chủ quan nhưng chủ yếu là do trình độ phát triển kinh tế của nước ta còn thấp , cơ cấu chuyển dịch chậm. Do vậy, cải cách thuế quan, tự do hoá thương mại là tất yếu và đã từng bước phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển của nước ta càng sớm càng tốt để tranh thủ các cơ hội kinh doanh, tham gia vào quá trình hình thành luật kinh tế, thương mại quốc tế có lợi cho mình. Nếu tham gia muộn sẽ phải chấp nhận nhiều quy định đã rồi, các nghĩa vụ phải thực hiện sẽ lớn hơn và thời gian chuyển tiếp cũng ngắn hơn và Việt nam phải vượt qua nhiều thách thức hơn. Thực hiện chủ trương trên, từ 1/1/1996 Việt Nam bắt đầu thi hành nghĩa vụ theo thành viên AFTA, thực hiện cải cách thuế quan theo CEPT, mở đầu có tính chất đột phá trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế theo hướng tự do hoá thương mại của Việt Nam: Tạo thị trường láng giềng ổn định, tăng sự hấp dẫn đối với đầu tư nước ngoài, tạo vị thế quốc tế mới, thúc đẩy thêm quan hệ của nước ta với các nước khác, kể cả các nước lớn. Các nước ASEAN đánh giá việc Việt Nam thực hiện cải cách thuế quan theo CEPT/AFTA có ý nghĩa rất quan trọng, mở đầu cho một giai đoạn mới đưa ASEAN nhanh chóng trở thành tổ chức kinh tế chung . Sự thật về AFTA chứng minh rằng các nước ASEAN đều đã mở cửa nền kinh tế, tiến tới mức độ tự do hoá thương mại trên nền tảng như nhau của chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung. Tuy nhiên, tham gia khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN, nhìn chung có thể nói xuất phát điểm của Việt Nam tham gia AFTA có mặt không thực sự thuận lợi: quan hệ thương mại Việt Nam với các nước quốc gia ASEAN còn lỏng lẻo và mất cân đối lớn, trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam còn quá thấp trong khi hầu hết các nước ASEAN có nền kinh tế phát triển, điều đó cũng chính là thách thức đối với Việt nam khi gia nhập AFTA. II. NỘI DUNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH CẢI CÁCH THUẾ QUAN TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN AFTA Ở VIỆT NAM. Hệ thống thuế Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi và có nhiều cải cách, đặc biệt bắt đầu thực hiện AFTA. 1. Hệ thống thuế Việt Nam trước khi thực hiện AFTA Từ năm 1995, khi Việt Nam gia nhập ASEAN cam kết thực hiện chương trình CEPT.AFTA, Nhà nước đặc biệt quan tâm điều chỉnh thuế nội địa, ban hành và sửa đổi các sắc thuế nhằm hỗ trợ cải cách thuế xuất nhập khẩu theo cam kết thực hiện CEPT/AFTA. Các đặc điểm chủ yếu của hệ thống thuế Việt Nam trước khi thực hiện AFTA Hệ thống thuế Việt Nam có 4 nét nổi bật sau: - Các loại thế doanh thu và thuế lợi tức còn quá phức tạp, có nhiều chế độ miễn, giảm thuế và quá nhiều mức thuế. - Thuế tu từ các doanh nghiệp Nhà nước chiếm một tỷ trọng lớn. - Tính hệ thống giữa các chính sách thuế chưa chặt chẽ, vừa không bao quát hết được các nguồn thu, thậm chí thất thu nghiêm trọng, chưa bảo đảm thuế là nguồn thu chủ yếu, vừa có những điểm bất hợp lý, trùng lặp, thuế đánh trên thuế nhưng doanh thu. - Nhiều vấn đề còn chưa được công khai trong công tác hành chính và thu thuế. Điều này cộng với tính quan liêu bao cấp vẫn còn tồn tại đôi chút của các cấp và các cơ quan khác dẫn tới thuế có tính chất “khoản đóng góp mang tính thương lượng”. Chứ không mang tính khách quan. Do đó, cần cải cách những mặt hạn chế của hệ thống thuế Việt Nam, Tránh đánh giá thuế trùng lặp, giảm khả năng trốn thuế, lậu thế nằm thực hiện CEPT/AFTA.. Sau đó dần dần hoàn thiện, làm hài hoà hệ thống thuế nước ta với hệ thống thuế trong khu vực và trên thế giới, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển thương mại giữa Việt Nam và các quốc gia khác. 2. Cải cách thuế nội địa ở Việt Nam Để phù hợp với cách đánh thuế của các nước trên thế giới và các nước ASEAN, Chính phủ Việt Nam đang thực hiện cải cách thuế quan và đã vạch ra một chương trình bao gồm những thay đổi về thuế sẽ được thực hiện trong 5 năm 1999 đến 2004 và những năm tiếp theo. Một trong những thay đổi này là việc cải cách thuế nội địa: thay thuế doanh thu bằng thuế GTGT và thực hiện luật thuế thu nhập thay thuế lợi tức từ 1/1/1999. Cùng với quyết định sửa đổi luật thuế TTĐB lần 3 ngày 20/5/1998 (có hiệu lực từ 1/1/1999) nhằm tách thuế TTĐB ra khỏi thuế nhập khẩu để giảm thuế nhập khẩu theo cam kết thực hiện chương trình CEPT, điều này đã tạo điều kiện cho Việt Nam tham gia AFTA mà không bị thiệt thòi về kinh tế trong quan hệ buôn bán với các nước cùng tham gia ký kết hiệp định CEPT/AFTA. .2.1. Thay thế thuế doanh thu bằng GTGT Theo luật số 02/1997/QH9, được Quốc hội khoá IX, thông qua trong kỳ họp thứ 11, thuế GTGT sẽ được thực hiện bắt đầu từ 1/1/1999 thay thế thuế doanh thu. Đặc điểm của thuế GTGT. - Thuế GTGT đánh vào từng khâu sản xuất kinh doanh. Thuế suất đánh vào các khâu đều bằng nhau và chỉ đánh vào phần giá trị tăng thêm. Thuế tính ở khâu sau được khấu trừ số thuế đã nộp ở khâu trước nhưng phải căn cứ vào chứng từ hoá đơn hợp lệ. Sở dĩ phải thay thế thuế Doanh thu bằng thuế GTGT do: - Thuế Doanh thu tính trên doanh thu đã có thuế doanh thu, còn thuế GTGT tính trên gia bán hàng hoá dịch vụ chưa có GTGT. Như vậy, thuế GTGT khắc phục được nhược điểm thu trùng lắp của thuế Doanh thu. - Đối với hàng sản xuất để xuất khẩu không những không phải nộp thuế GTGT mà còn được khấu trừ hay hoàn toàn GTGT đầu vào nên tạo điều kiện hạ giá bán, nâng khả năng cạnh tranh trong trên thị trường quốc tế, góp phần đẩy mạnh xuất khẩu mở rộng lưu thông hàng hoá. Đây là một yếu tố rất cần thiết khi chúng ta tham gia AFTA. - Tham gia AFTA, thực hiện cắt giảm thuế quan theo chương trình CEPT tất yếu sẽ kéo theo việc giảm thu ngân sách. Một trong những biện pháp nhằm khắc phục khó khăn này là hạn chế tối đa hiện tượng trốn thuế, lậu thuế. Do thuế GTGT được thu tập trung ngay từ khâu đầu và việc thu thuế ở khâu csau còn kiểm tra được việc tính thuế, nộp thuế ở khâu trước nên hạn chế được tình trạng thất thu thuế. Mặt khác, trong thực tiễn kinh doanh, sổ sách chứng từ kinh doanh thường không rõ ràng, nên chủ kinh doanh dễ trốn thuế, lậu thuế. Với thuế GTGT, việc tính thuế ở đầu ra được khấu trừ số thuế đầu vào là biện pháp, lậu thuế. Với thuế GTGT, việc tính thuế ở đầu ra được khấu trừ số thuế đầu vào là biện pháp kinh tế góp phần thúc đẩy cả người mua và người bán cùng thực hiện tốt hơn chế độ hoá đơn, chứng từ, bảo đảm không trốn thuế, lậu thuế. 2.2.Thay thuế lợi tức bằng thuế thu nhập doanh nghiệp Đặc điểm thuế thu nhập DN: - Đối tượng thu nhập chịu thuế bao gồm thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, và thu nhạp khác kể cả thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ ở nước ngoài. Đây là một loại thuế trực thu, phụ thuộc và kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - Thuế suất thuế TNDN áp dụng chung đối với cơ sở kinh doanh trong nước và tổ chức cá nhân nước ngoài kinh doanh ở Việt Nam không theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam là 32%. Cơ sở sản xuất, xây dựng, vận tải áp dụng thuế suất mới cao hơn mức thuế suất cũ theo luật thuế lợi tức (25%), nếu có khó khăn sẽ được áp dụng thuế suất 25% trong thời hạn 3 năm kể từ năm 1999. Thuế suất thuế TNDN áp dụng đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và bên nước ngoài và bên nước ngoài tham gia Hợp đồng hợp tác kinh doanh được quy định trong luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. - Luật thuế thu nhập doanh nghiệp có quy định chế độ miễn, giảm thuế cho các cơ sở kinh doanh trong nước mới thành lập hoặc di chuyển đến các vùng khó khăn, các cơ sở kinh doanh mở rộng quy mô sản xuất,. Sử dụng nhiều nữ nhân công và trong một số trường hợp các cơ sở kinh doanh có vốn đầu tư nước ngoài và bên nước ngoài tham gia Hợp đồng hợp tác kinh tế kinh doanh cũng được hưởng chế độ miễn dịch giảm thuế TNDN. Thuế thu nhập từ doanh nghiệp thay thế cho thuế lợi tức từ1/1/1999 nhằm: - Bao quát và điều tiết được tất cả các khoản thu nhập đã, đang và sẽ phát sinh của cơ sở kinh doanh hoạt động trong nền kinh tế thị trường theo định hướng HXCN của Việt Nam. - Thông qua việc ưu đãi về thuế suất, về miễn thuế, giảm thuế, khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, tạo điều kiện cho các cơ sở yếu kém vươn lên, khuyến khích các tổ chức cá nhân trong nước tiến kiệm để dành vốn cho đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh , nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm trong nước trên trước quốc tế. Điều này đặc biệt có ý nghĩa khi chúng ta thực hiện AFTA, tham gia tự do hoá thương mại khu vực và thế giới. Hệ thống hoá những quy định ưu đãi về thuế trong các luật khác và Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, bảo đảm sự rõ ràng, thống nhất trong việc thực hiện các chế độ ưu đãi về thuế. 2.3. Cải cách thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) Đặc điểm: - Thuế TTĐB là một loại thuế gián thu, được cấu thành và giá cả hàng hoá và người mua là người chịu thuế. - Thuế TTĐB thường có thuế suất cao nhằm điều tiết thu nhập của những nhường tiêu dùng các loại hàng hoá, dịch vụ cao cấp. - Thuế TTĐB chỉ thu một lần ở khâu sản xuất hay nhập khẩu đối với hàng hoá thuộc diện chịu thuế TTĐB. - Các hàng hoá thuộc diện chịu thuế TTĐB khi xuất khẩu thì không phải nộp thuế TTĐB. Về sửa đổi của thuế TTĐB. Luật thuế TTĐB được Quốc hội thông qua ngày 30/6/1990, sửa đổi, bổ sung lần thứ nhất ngày 5/5/1993, lần hai ngày 28/10/1995, lần ba ngày 20/5/1998. Những thay đổi chính của luật thuế TTĐB. - Áp dụng thuế suất thuế TTĐB đối với ô tô nội địa ngang bằng ô tô nhập khẩu, phù hợp với yêu cầu của chế độ đãi ngộ quốc gia đối với hàng hoá nhập khẩu được ký kết giữa các nước tham gia AFTA. Tuy nhiên vẫn có sự phân biệt thuế suất đánh giá vào thuốc lá nhập khẩu và thuốc lá được sản xuất từ nguồn nguyên liệu trong nước. - Sửa đổi thứ hai của luật TTĐB chủ yếu để hạn chế tiêu dùng các loại hàng hoá, dịch vụ cao cấp ở Việt Nam. Đó là việc mở rộng phạm vi các mặt hàng và dịch vụ chịu thuế TTĐB. Hàng hoá: * Điều hoà nhiệt độ công suất sừ 90.000 BTU trở xuống * Bài lá * Vàng mã, hàng mã Dịch vụ: * Kinh doanh vũ trường, mát xa, karaoke * Kinh doanh vé đặt cược đua ngựa, đua xe * Kinh doanh Golf:Bán thẻ hội viên, vé chơi golf - Ban hành điều khoản phép miễn và giảm thuế gồm: * Cơ sở sản xuất bia có quy mô nhỏ nếu nộp đủ thuế TTĐB theo biểu thuế TTĐB tương ứng với số lỗ trong năm, hời hạn xét giảm thuế không quá 5 năm đầu kể từ khi luật có hiệu lực (1999 đến 2004) * Đối với cơ sở lắp ráp, sản xuất ô tô trong nước có thể được xét giảm thuế TTĐB từ 60 - 100% so với mức thuế của biểu thuế 1999 đến 2004. Nếu còn tiếp tục bị lỗ thì có thể được xét giảm thêm từ 1 đến 5 năm nữa . * Cơ sở kinh doanh Golf được giảm 30% số thuế TTĐB phải nộp theo Biểu thuế suất thuế TTĐB trong vòng 3 năm kể từ năm 1999. * Cơ sở sản xuất hàng hoá thuộc diện chịu thuế TTĐB gặp khó khăn do thiên tai, địch hoạ, tại nạn bất ngờ thi được xét miễn giảm thuế TTĐB. Mức giảm được tính theo phần trăm thiệt hịa về tài sản nhưng không quá 50% số thuế phải nộp trong kỳ xét miễn giảm và số tiền thuế được giảm không quá 50% số thuế phẳi nộp trong kỳ xét miễn giảm và số tiền thuế được giảm không quá 30% giá trị tài sản thiệt hại, thời gian giảm thuế không quá 180 ngày kể từ sau khi xảy ra thiệt hại và có xuất hàng. Chế độ thuế này được áp dụng nhằm giúp các doanh nghiệp giải quyết các khó khăn và thích ứng dần với những sửa đổi, cải cách thuế quan được thực hiện từ 1/1/1999. Và có thể nói với điều khoản này chế độ bảo hộ cao đối với các nhà sản xuất ô tô trong nước vẫn được duy trì những trên một cơ sở tế nhị hơn so với các quy định trước kia. 3. Nội dung cải cách thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam 3.1 Các cam kết giảm thuế thực hiện AFTA của Việt Nam Nghị định thư về việc Việt Nam tham gia thực hiện Hiệp định CEPT trong khuôn khổ AFTA đã được ký kết ngày 15/12/1995 tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAn lần thứ 5, tổ chức tại Bangkok. Ký kết nghị định thư này, Việt Nam phải tuân thủ và nghiêm túc điều khoản đã cam kết. Các cam kết tham gia AFTA, thực hiện cải cách thuế quan theo CEPT của Việt Nam này nhìn chung giống các cam kết của các quốc gia thành viên ASEAN khác như đã trình bày ở chương I. Chỉ có một sự khác biệt là Việt Nam có thời hạn hoàn thành các cam kết chậm hơn các nước thành viên khác để có thể khắc phục những khó khăn trong giai đoạn chuyển đổi kinh tế của mình. Các nghĩa vụ và cam kết chủ yếu hiện nay của Việt Nam theo AFTA là thực hiện:  - Quy chế tối huệ quốc (MFN) và đãi ngộ quốc gia (NT). Việt nam và các thành viên ASEAN dành cho nhau chế độ ưu đãi tối huệ quốc và đãi ngộ quốc gia. Đồng thời, phải cung cấp thông tin có liên quan về cơ chế thương mại của mình khi ASEAN yêu cầu. - Giảm thuế theo chương trình CEPT. Phân loại các sản phẩm vào 4 Danh mục gồm danh mục giảm thuế ngay (IL), Danh mục loại trừ tạm thời (TEL), Danh mục hàng nông sản chưa chế biến nhạy cảm (SL), danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL). Chuẩn bị lịch trình giảm thuế đến năm 2006 và ban hành các quy định thực hiện. Cụ thể hơn là: * Chuẩn bị Danh mục các hàng hoá giảm thuế ngay (IL). Các mặt hàng này sẽ bắt đầu giảm thuế từ 1/1/1996 và kết thúc vào 1/1/2006 với thuế xuất 0 - 5 %. Các mặt hàng có thuế suất trên 20% phải giảm xuống 20% vào 1/1/2001. Các mặt hàng có thuế suất nhỏ hơn hoặc bằng 20% sẽ giảm xuống 0 - 5% vào 2003. * Hàng năm chuyển 20% các mặt hàng thuộc Danh mục loại trừ tạm thời (TEL) sang Danh mục giảm thuế (IL), thực hiện trong vòng 5 năm, từ 1/1/1999 đến 1/1/2003. Sau khi được đưa vào IL, các hàng hoá này phải được giảm thuế chạm nhất là 2,3 năm một lần, mỗi lần không dưới 5%. * Đệ trình danh mục các mặt hàng loại trừ hoàn toàn (GEL) - Giảm thuế theo chương trình CEPT đối với các mặt hàng nông sản chưa chế biến. Các yêu cầu thực hiện tương tự như trên ngoại trừ khác biệt về khung thời gian và thêm Danh mục các hàng hoá nhạy cảm theo CEPT. - Chuẩn bị Danh mục các mặt hàng UASPs để thực hiện thuế bắt đầu từ 1/1/1996 và kết thúc vào năm 2006 với thuế suất từ 0 - 5%. - Hàng năm chuyển các mặt hàng USPs thuộc Danh mục TEL sang Danh mục IL, thực hiện trong vòng 7 năm, từ 1/1/2000 sang 1/1/2006. - Đệ trình Danh mục các mặt hàng UPAs nhạy cảm (SL) và lịch trình giảm thuế của chúng mình. - Đệ trình Danh mục các mặt hàng UAPs loại trừ hoàn toàn theo CEPT. 3.2. Quá trình thực hiện các cải cách thuế xuất nhập khẩu để thực hiện AFTA của Việt Nam. 3.2.1 Thực trạng hệ thống thuế nhập khẩu của nước ta trong bối cảnh hội nhập:  Bước vào những năm 1990, bối cảnh quốc tế có những thay đổi lớn và có tác động sâu sắc tới nền kinh tế nước ta. Từ năm 1991, nguồn vay bên ngoài giảm mạnh, sự ưu đãi về giá đã chấm dứt, nợ nước ngoài phải trả hàng năm tăng lên. Tình hình quốc tế có những biến động lớn về thị trường xuất nhập khẩu, về các chương trình hợp tác kinh tế quốc tế. Trong một thời gian ngắn chúng ta phải chuyển một phần đáng kể khối lượng buôn bán từ các thị trường truyền thống sang các thị trường mới và luôn chịu sự tác động lớn về biến động cung cầu và giá cả hàng hoá. Trước tình hình đó, hệ thống thuế nước ta phải có sự thay đổi cho phù hợp với sự biến động của tình hình quốc tế và trong nước. Hệ thống thuế giai đoạn này tập trung vào mục tiêu tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước và hướng về xuất khẩu, bảo hộ và thúc đẩy nền sản xuất trong nước phát triển. Năm 1992, luật thuế XNK ra đời đã thống nhất được chế độ thu thuế giữa hàng mậu dịch và hàng phi mậu dịch, do đó đối tượng nộp thuế có sự thay đổi. Thuế XNK đánh vào hàng hoá XNK của các tổ chức kinh tế thuộc các thành phần kinh tế, qua cửa khẩu biên giới Việt nam không phân biệt đó là hàng hoá mậu dịch hay phi mậu dịch, kể cả hàng hoá trong nước đưa vào khu chế xuất vào thị trường trong nước. Giá tính thuế của hàng hoá nhập khẩu là giá mua tại cửa khẩu nhập theo hợp đồng ngoại thương, kể cả chi phí bảo hiểm và chi phí vận tải. Giá tính thuế hàng xuất khẩu là giá bán tại các cửa khẩu theo hợp đồng ngoại thương, không bao gồm chi phí vận tải và bảo hiểm. Nhìn chung chính sách thuế XNK trong thời gian này đã thực hiện được yêu cầu bảo hộ nền sản xuất trong nước còn non yếu. Tuy nhiên biểu thuế XNK giai đoạn này cũng bộc lộ nhiều hạn chế lớn như: - Biểu thuế nhập khẩu có mức thuế suất khá cao, bao gồm 36 mức áp dụng cho hơn 3.000 mặt hàng với mức chênh lệch thuế suất khá lớn (từ 0% đến 200%), hình thành một biểu thuế nhập khẩu khá phức tạp. - Có quá nhiều mức thuế suất thấp hơn 5% (chiếm 55,8% tổng danh mục hàng hoá trong biểu thuế nhập khẩu). Như vậy, mức thuế suất cao chỉ tập trung vào một nhóm nhỏ các mặt hàng, gây nên tình trạng phân bổ thuế suất không đồng đều. Điều này vừa hạn chế nguồn thu ngân sách, vừa làm cho chính sách bảo hộ chỉ tập trung cho một số mặt hàng. Đồng thời trong quá trình đàm phán cắt giảm thuế quan sẽ gặp nhiều khó khăn. Vì rằng, nhiều nhóm hàng hoá có mức thuế nhập khẩu cao, nếu đưa vào mục cắt giảm ngay sẽ không đủ sức cạnh tranh. Còn những mặt hàng có mức thuế suất thấp nếu giữ nguyên thì nguồn thu ngân sách nhả nước sẽ bị thiếu hụt. Trong trường hợp đó, để đảm bảo nguồn thu ngân sách Nhà nước, biện pháp tăng thuế suất có thể được sử dụng nhưng gây khó khăn phức tạp trong quá trình đàm phán. - Mức thuế suất cao đánh vào một số mặt hàng tiêu dùng mà trong nước chưa sản xuất được, hoặc sản xuất với giá thành cao, chất lượng thấp, chưa thoả mãn nhu cầu người tiêu dùng. Giá cả hàng nhập tăng cao tạo nên xu hướng gia tăng buôn lậu và gian lận thương mại làm công tác quản lý thị trường gặp nhiều khó khăn. Mặt khác mức thuế suất cao này lại không căn cứ vào tính chất của hàng hoá mà căn cứ vào mục đích sử dụng. Điều này hoàn toàn không phù hợp với thông lệ quốc tế. Rõ ràng, thuế nhập khẩu giai đoạn này chủ yếu đóng vai trò đảm bảo nguồn thu ngân sách nhà nước và thực hiện đường lối bảo hộ đối với sản xuất trong nước. Chính sách đó không thực sự phù hợp và hiệu quả trong điều kiện hội nhập kinh tế khu vực, quốc tế. Do đó cải cách thuế quan –thuế XNK là tất yếu để hội nhập. 3.2.2 Tiến trình cải cách thuế xuất nhập khẩu để thực hiện AFTA của Việt nam Thuế XNK sau khi tham gia hội nhập khu vực ASEAN – thực hiện AFTA Để phù hợp với lộ trình cắt giảm thuế quan, tháng 10 năm 1995 Nhà nước đã sửa đổi khung thuế suất nhập khẩu một số mặt hàng theo hướng giảm mức tối đa khung thuế suất xuống 60%, phần chênh lệch giữa mức thuế nhập khẩu cũ và mức thuế nhập khẩu mới đã được chuyển sang thuế TTĐB. Do đó, từ đầu năm 1996 số lượng mức thuế suất của biểu thuế nhập khẩu đã giảm đi còn 28 mức thuế, với mức thấp nhất là 0% và cao nhất là 60% Để phù hợp với một số luật thuế mới ban hành và phù hợp với quy định về thương mại quốc tế mà Việt nam đã và sẽ thực hiện cam kết, tháng 4 năm 1998 Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật thuế XNK. Nội dung sửa đổi như sau: - Thuế suất ưu đãi được áp dụng cho hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ từ nước hoặc khối nước có thoả thuận về đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với Việt nam được quy định cụ thể cho từng mặt hàng trong biểu thuế nhập khẩu ưu đãi - Thuế suất thông thường được áp dụng cho hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ từ nước hoặc khối nước không có thoả thuận về đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với Việt nam. Thuế suất thông thường được quy định cao hơn không quá 70% so với thuế suất ưu đãi của từng mặt hàng tương ứng do Chính phủ quy định. - Thuế suất ưu đãi đặc biệt là thuế suất được áp dụng cho hàng hoá nhập khẩu từ nước hoặc khối nước mà Việt nam và các nước hoặc khối nước đó có thoả thuận về ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu theo thể chế khu vực thương mại tự do, liên minh thuế quan hoặc để tạo điều kiện thuận lợi cho giao lưu thương mại biên giới và trường hợp ưu đãi đặc biệt khác. Nội dung này khắc phục được quy định trước đây của Luật thuế XNK về các laọi thuế suất chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo cơ sở pháp lý cho chúng ta thực hiện cam kết ưu đãi đặc biệt với ASEAN. Đối chiếu thực trạng chính sách thuế nhập khẩu của Việt nam với các cam kết giảm thuế trong hội nhập có thể rút ra một số nhận định như sau: Bảng 2: Phân bố các mức thuế suất thuế nhập khẩu so với các dòng hàng hoá nhập khẩu Mức thuế suất (%) Số lượng mặt hàng chịu thuế nhập khẩu Tỷ trọng trong tổng số thuế nhập khẩu (%) Ghi chú 0 1._.ờng nhập khẩu thành phẩm chủ yếu của Việt Nam là Đại Loan (chiếm đến 46%), Indonesia(khoảng 10%), Malaysia, Hàn Quốc, Nhật Bản, Nga, Trung Quốc ( khập lậu, nhập theo đường tiểu ngạch)… Thị trường nhập bột giấy chủ yếu của Việt Nam là Đức, Hồng Kông, Thái Lan, Phần Lan, Singapore… - Hiện nay mức thuế suất nhập khẩu áp dụng đối với các sản phẩm giấy ở mức tương đối cao từ 30% - 40% (cao hơn 20%) Lịch trình cắt giảm theo CEPT/AFTA. Để tránh gây tác đọng đột ngột đồng thời bảo hộ những mặt hàng trong nước đã bước đầu sản xuất hiệu quả, dự kiến thời điểm đưa vao thực hiện CEPT/AFTA cho các sản phẩm giấy cha đưa vào cắt giảm như sau: - Các loại giấy in báo, giấy viết va giấy phô tô coppy (nhóm 4801): giấy và bìa giấy không tráng, trừ giấy làm nền giảm xuất giấy nhôm (nhóm 4802); giấy vệ sinh hoặc giấy mỏng lau mặt và các loại giấy tương tự dùng cho mục đích vệ sinh (nhóm 4803); phong bì, bu thiếp, danh thiếp.. (nhóm 4817) và giấy vệ sinh và giấy tương tự sản xuất từ sợi xen lu lô ( nhóm 4818); vở ghi chép, vở bài tập.. (nhóm 4820); và giấy bìa, nỉ xen lu lô dùng để viết, in và các mục đích đồ hoạ khác (nhóm 4823): năm 2003 (lùi hơn so với thời điểm năm 2002 trong Lịch trình cũ). - Các loại giấy và bìa kraft không tráng ( nhóm 4804); giấy cuốn thuốc lá ( nhóm 4813); thùng carton, hộp, va li, tí sách và các loại bao bì khác bằng giấy… (nhóm 4819); và nhãn bằng giấy bọc bìa (nhóm 4821): năm 2002 (giống Lịch trình cũ). 6. Nhóm các sản phẩm hoá chất. Diện mặt hàng chính của ngành hàng hoá chất bao gồm: hoá chất thuần tuý; phân bón; thuốc trừ sâu; sản phẩm cao su; hoá mỹ phẩm, xà phòng và các chất tẩy rửa; và pin; ắc quy. Mức thuế suất nhập khẩu MEN của các nhóm mặt hàng hoá chất rất đa dạng: đối với những mặt hàng hoá chất thuần tuý, phân bón là những mặt Hà Nộiàg ta vẫn đang nhập nhiều thì có mức thuế suất MFN thấp (0 – 10%), sản phẩm cao su (30 – 50%), hoá mỹ phẩm, xà phòng và chất tẩy rửa (30 – 50%) pin, ắc quy (20 – 30%). Hiện nay, các nước ASEAN cũ đã đưa các mặt hàng này vào thực hiện cắt giảm theo CEPT/AFTA với mức thuế suất CEPT chủ yếu nằm trong giải 0 – 5% từ năm 2001 trở đi, trừ một số trường hợp các nước vẫn áp dụng mức thuế 15%, 10% chio năm 2001 rồi mới thực hiện cắt giảm tiếp xuống 5% nhanh đối với mặt hàng xà phòng (Philippines). Indonesia và Thái Lan ) Pin (thái Lan, Brunei) một số sản phẩm hoá mỹ phẩm (Philippines và Thái Lan)…. Lịch trình cắt giảm của các mặt hàng chính theo CEPT/AFTA. - Các hoá chất hữu cơ (nhóm 2901, 2905 – 2935, 2940): dự kiến các mặt hàng này vào thực hiện cept từ năm 2002, giống với lịch trình cũ. - Phân bón: Hiện nay ta phải nhập khẩu một số lượng lớn phân bón, chủ yếu là U rê, DAB, NPK Kali, trong đó nhập khẩu với kim ngạch tương đối lớn từ Indonesia. Thuế suất thuế nhập khẩu của các mặt hàng phân bón hoá học chủ yếu ở mức 0%. Tuy nhiên, phân bón hoá học hiện nay là một trong những mặt hàng thuộc diện cân đối lớn của nền kinh tế quốc dân, là đâu vào quan trọng của sản xuất nông nghiệp, được quản lý bằng hạn ngạch, đầu mối nhập khẩu… Hiện nay, đối với phân hoá học, ta đang nghiên cứu bỏ các biện pháp phi quan thuế, mà trước mắt các biện pháp hạn chế số lượng. Do vậy, dự kiến đưa các mặt hàng phân bón hoá học vào thực hiện CEPT vào năm 2003, giống với Lịch trình cũ. - Sản phẩm cao su ( chương 4 + Cao su nguyên liệu: đã đưa vào thực hiện CEPT từ năm 2000 trở về trước, có mức thuế suất MEN và CEPT đều thấp ( chủ yếu là 3%). + Lốp, xăm xe ô tô và xe máy: đưa vào thực hiện CEPT từ năm 2003, giống với lịch trình cũ. - Hoá mỹ phẩm, xà phòng và chất tẩy rửa: + Nước hoa và nước thơm ( nhóm 3303): năm 2002, giống với lịch trinh cũ. + Mỹ phẩm, đồ trang điểm, chế phẩm dùng cho tóc và dùng để vệ sinh (3304 – 3305, 3307): năm 2001, sớm hơn so với Lịch trình cũ 1 năm do đây là những mặt hàng ta không đâu tư sản xuất. + Chế phẩm bôi trơn, chất đánh bóng (nhóm 3403,3405): năm 2001, đẩy sớm lên một năm so với Lịch trình cũ do là những mặt hàng cha sản xuất được và không có hướng đầu tư trong thời gian tới. - Pin, ắc quy (nhóm 8506 – 8507) năm 2002, giống Lịch trình cũ. 7. Ngành hàng nhựa Nguyên liệu nhựa, trừ DOP và PVC đã sản xuất trong nước một phần, còn lại phải nhập để sản xuất nhựa thành phẩm. Các mặt hàng nguyên liệu ngành nhựa có mức thuế suất thấp (0 – 10%) và đưa vào cắt giảm từ trước. Những mặt hàng thành phần nhựa có mức thuế suất nhập khẩu MFN cao (20 – 50%). Trong ASEAN, tất cả các nước thành viên cũ đã đưa nhóm mặt hàng này vào thực hiện CEPT/AFTA với mức thuế suất CEPT thấp 0 – 5% từ năm 2001 trở đi, trừ Indonesia và Thái Lan vẫn áp dụng mức thuế suất CEPT cao hơn 15%, 10% vào năm 2001 với một số mặt hàng như chất hoá dẻo DOP và một số sản phẩm nhựa thành phẩm khác. Nhựa thành phẩm đa dạng, chất lượng có khả năng cạnh tranh được với thị trường khu vực và quốc tế (trừ sản phẩm nhựa cao cấp). Dự kiến thời điểm đưa vào thực hiện CEPT/AFTA cau các sản phẩm ngành nhựa như sau: - Chất hoá dẻo DOP (29.17.32.00) đưa vào thực hiện CEPT/AFTA từ năm 2002 ( Lịch trình cũ: 2003) - các sản phẩm bằng plastic + Nhóm 3915 – Phế liệu, phế thai, mẩu vụn của plastics: đưa vào thực hiện CEPT/AFTA từ năm 2002, lùi lại 1 năm so với Lịch trình cũ. cũ. + Nhóm 3918 – Tấm trải bằng plastic: 2001, sớm hơn 1 năm so với lịch trình + Nhóm 3919 – Tấm, phiến, màng, lá, băng, dải và các loại tấp phẳng bằng Plastics: 2002, lùi lại 1 năm so với Lịch trình cũ. + Nhóm 3923 – Các sản phẩm dùng trong vận chuyển hoặc đóng gói hàng hoá, bằng plastics; nút, nắp, mũ van và nút đậy khác bằng plastics: 2002 (giốn Lịch trình cũ) + Nhóm 3924 - Đồ ăn, đồ bếp bằng plastics: 2002 (muộn hơn 1 năm so với Lịch trình cũ) + Nhóm 3925, 3926, - Đồ vật bằng plastics khác: 2001 (giống Lịch trình cũ). 8. Ngành rượu bia, giải khát. Hiện nay, trừ loại nước khoáng và nước uống có ga, chủ yếu các dạng bia va rượu vẫn nằm trong Danh mục GE của nhiều nước ASEAN vì các lý do tôn giao và đạo đức tại cá nước này. Đối với nước khoáng và các nước uống có ga (nhóm 2201), các nước ASEAN đều đã đưa vào cắt giảm theo CEPT/AFTA với mức thuế suất rất thấp 0 – 5%. - Trong biểu thuế nhập khẩu hiện hành của ta, các mặt hàng rượu bia nước giải khát hiện đang có mức thuế suất nhập khẩu MFN rất cao, từ 50% đến 100%. - Bia (nhóm 2203): Trong 10 năm qua ngành bia có tốc độ tăng trưởng nhanh, hoạt động có hiệu quả và đóng góp cho ngân sách Nhà nước. Hiện tại bia của ta có chất lượng tốt, hợp gu người uống và được bảo hộ bằng mức thuế nhập khẩu cao nên chưa bị cạnh tranh với khu vực. Nhóm hàng này trước kia thuộc Danh mục Loại trừ hoàn toàn (GE), tuy nhiên, qua các đợt rà soát lại Danh mục GE do ban thư ký ASEAN khuyến nghị, ta đã chuyển mặt hàng này vào Danh mục Loại trừ tạm thời (TEL) và dự kiến đưa vào cắt giảm theo CEPT/AFTA vào năm 2003. - Nước khoáng và nước có ga, loại chưa pha thêm hương liệu (nhóm 2001): năm 2003; nước khoáng và nước có ga, loại đã pha thêm hương liệu (nhóm 2202): năm 2001. - Rượu vang (nhóm 2204 – 2205): Các mặt hàng rượu vang trước kia thộc danh mục GE, tuy nhiên, qua các đợt rà soát lại Danh mục GE do Ban thư ký ASEAN khuyến nghị, ta đã chuyển mặt hàng này vào Danh mục TEL. Dự kiến thời điểm đưa vào cắt giảm để thực hiện CEPT/AFTA vào năm 2002 - Đồ uống có men và cồn êtylíc (nhóm 2206- 2207): hai nhóm hàng này trước kia thuộc Danh mục GEL, tuy nhiên, qua các đợt rà soát lại Danh mục GEL do ban thư ký ASEAN khuyến nghị, ta đã chuyển mặt hàng này vào Danh mục TEL, dự kiến thời điểm đưa vào cắt giảm là năm 2003. 9. Ngành hàng xi măng. Trong ASEAN, tất cả các nước ASEAN cũ đều đã đưa nhóm mặt hàng này vào thực hiện cắt giảm với mức thuế suất CEPT thấp 0 – 5% từ năm 2001 trở đi nhằm mục đích tăng cường xuất khẩu sang cá nước còn lại. Về xuất nhập khẩu của Việt Nam với ASEAN: ta chủ yếu nhập khẩu clinker từ Thái Lan, Indonesia và Malaysia, mức nhập khẩu Clinker từ ASEAN chiếm tỷ trọng tương đối lớn, có năm chiếm tới trên 80% trong tổng kim ngạch nhập khẩu Clinker của ta. Về xuất khẩu, ta có xuất khẩu xi măng portland thành phẩm sang Lào và Campuchia (tuy nhiên lượng xuất không đáng kể). Mức kim ngạch nhập khẩu trong ASEAN của Việt Nam cụ thể như sau: Bảng 7: Mức kim ngạch nhập khẩu ASEAN của Việt nam Năm Clinker Xi măng trắng Xi măng đen và các dạng xi măng portland khác Xi măng đông cứng trong nước khác Kim ngạch (1000 USD) Tỷ trọng (%) Kim ngạch (1000U SD Tỷ trọn g (%) Kim ngạch (1000US D Tỷ trọn g (%) Kim ngạch (1000US D Tỷ trọng (%) 1997 9.566 24 1.026 22 25.524 49 21 100 1998 18.271 81 1.030 20 1.831 80 - - Ghi chú: Mức tỷ trọn được tính trên tổng kim ngạch nhập khẩu từ tất cả các nước của mặt hàng. Ngành hàng xi măng là ngành hàng có tiềm năng phát triển của Việt Nam. Hiện nay sản xuất xi măng trong nước của ta đã đáp ứng được nhu câu trong nước, thậm chí còn có khả năng cung vượt quá cầu trong nước, song đang vấp phải áp lực cạnh tranh của xi măng nhập khẩu được bán với mức giá thấp hơn. Hiện nay, mức thuế suất nhập khẩu MFN của các nhóm sản xuất xi măng tương đoío cao (clinker: 30%, các loại xi măng thành phẩm: 40%). Lịch trình cắt giảm thuế quan theo CEPT/AFTA: Theo lịch trình cũ, nhóm ngành hàng xi măng đưa vào thực hiện CEPT/AFTA sau cùng (năm 2003) với bước cắt giảm dần đều (2003 – 15%, 2004 – 15%, 2005 – 10% và 2006 – 5%) do mức thuế suất MFN hiện hành tại thời điểm xây dựng cho ngành xi măng trong thời gian vừa qua đã tăng lên đáng kể, 40% đối với xi măng thành phẩm và 30% đối với clinker. Do vậy, để có thê m thời gian cho ngành xi măng, dự kiến các mặt hàng clinker và xi măng thành phẩm sẽ được đưa vào thực hiện CEPT/AFTA từ năm 2003 với bước cắt giảm lân lượt là: 2003 2004 2005 2006 20 20 20 5 Clinker và xi măng thành phẩm (nhóm 2523) 10. Ngành hàng gốm sứ - thuỷ tinh xây dựng. Ngành hàng thuỷ tinh (kính xây dựng) và gốm xứ xây dựng của Việt Nam hiện đang trên đà phát triển với diện mặt hàng sản phẩm phong phú, đưa dạng về mẫu mã, chất lượng đảm bảo như gạch ốp lá ceramic và granitte, sứ vệ sinh, kính xây dựng, vật liệu xây lợp từ đất sét nung, vật liệu chịu lửa để đáp ứng nhu cầu của các ngành xi măng và luyện kim. Hiện nay tốc độ tăng trưởng binh quân của ngành hàng năm đạt từ 45% - 180%. Trong biểu thuế nhập khẩu hiện hành của Việt Nam, các mặt hàng thuộc ngành gốm sứ thuỷ tinh phục vụ xây dựng đều có mức thuế suất MEN cao (40 - 50%) và chủ yếu chưa đưa vào cắt giảm thực hiện AFTA. Trong ASEAN, hiện nay tất cả các nước thành viên cũ đều đã đưa mặt hàng này vào thực hiện cắt giảm với mức thuế CEPT thấp 0 - 5%, chỉ trừ có Philippines còn áp dụng mức thuế suất CEPT 10% vào năm 2001 Bảng 8: Lịch trình cắt giảm dự kiến theo CEPT/AFTA. Mô tả mặt hàng Dự kiến năm đưa vào cắt giảm 6904 – 6906: Các SP xây dựng bằng gốm 2001 (2003)* 6907 – 6908: Các loại tấm lát đường, gạch ốp lá tường và lát nền bằng gốm: Khối khảm bằng gốm sứ 2003 (2003) 6910: Bồn rửa, chậu giặt, bồn tắm.. và các sản phẩm phục vụ vệ sinh bằng gốm sứ 2003 (2003) 7003: Thuỷ tinh đúc và thuỷ tinh cán, ở dạng tấm hoặc hình 2003 (2003) * Số liệu trong ngoặc thể hiện thời điểm đưa vào cắt giảm theo Lịch trình cũ. 11. Ngành thép: Ngành thép Việt Nam có quá trình phát triển từ năm 1959 đối với các nhà máy ở miền Bắc và từ 1970 đối với các nhà máy ở miền Nam. Đánh giá về mặt công nghệ, trừ một số day chuyền cán liên tục và bán liên tục có trình độ công nghệ tương đối khá, thuộc loại trung bình tiên tiến trên thế giới thì các thiết bị còn lại đều thuộc loại cũ, quy mô khá nhỏ, trình độ công nghệ thấp, mức độ tự động hoá thấp không có điều kiện áp dụng các tiến bộ kỹ thuật mới trên thế giới. Nhìn chung cơ sở vật chất của ngành thép Việt Nam còn rất nghèo nàn, không đồng bộ, phổ biến ở quy mô nhỏ, trình độ công nghệ còn thấp dẫn đến năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất lớn và chất lượng sản phẩm chưa cao, khả năng cạnh tranh hạn chế. Ngành hẹp do vậy hiện phụ thuộc nhiều vào bảo hộ của Nhà nước. Tuy có sự phát triển tương đối nhanh trong 10 năm vừa qua song với thực trạng của ngành thép hiện nay có thể nhận định là ngành thép của Việt Nam vẫn trong tình trạng kém phát triển, đang ở điểm xuất phát thấp hơn các nước có sản xuất thép tỏng khu vực Thái Lan, Malaysia, và Indonesia.. Ngành thép của Việt Nam vẫn chưa có lợi thế và ưu thế rõ rệt so với các nước khác. Trong ASEAN, cá nước thành viên cũ đêu đã đưa nhóm mặt hàng này vào thực hiện cắt cắt giảm với mức thuế suất CEPT thấp 0 - 5% từ năm 2001, chỉ trừ Indonesia và Thái Lan vẫn áp dụng mức thuế suất 10% vào năm 2001 với một số sản phẩm thép nhất định. Lịch trình cắt giảm theo CEPT/AFTA,. - Phối thép, thép cán nguội, cán nóng và thép tấm (nhóm 7206 - 7209): đã đưa vào thực hiện cắt giảm trong CEPT/AFTA với mức thuế suất thấp (0%,1%,3%,5%), lộ trình cắt giảm giống Lịch trình cũ. - Các sản phẩm thép thanh, thép hình, thép dây và thép ống nhỏ (nhóm 7213 – 7216, 7305 – 7306) (có mức thuế suất MFN cao 40%, 20%): theo Lịch trình cũ, các nhóm mặt hàng này được đưa vào cắt giảm muốn nhất vào năm 2003, tuy nhiên đã đưa vào thực hiện CEPT từ năm 2000. Đối với những mặt hàng này, do trong nước công suất sản xuất và vượt quá cầu, việc duy trì mức thuế suất nhập khẩu ưu đãi hiện hành quá cao hiện nay (40%, 20%) có thể khiến cho các công ty trong nước vẫn tăng cường sản xuất những mặt hàng này, dễ gây ra tình trạng ứ thừa. Các nhóm mặt hàng này dự kiến có lộ trình cắt giảm cho đến 2006 như sau: Bảng 9: Lộ trình cắt giảm cắt mặt hàng ngành thép Nhóm HS T/s MFN (%) T/s CEPT (%) 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 7213 – 7216 - Thép thanh hình, dây 40 40 20 20 20 15 10 5 7305 – 7306 – Thép ốn 20 20 15 15 15 10 10 5 10 10 10 10 5 5 5 5 Các sản phẩm thép thanh, thép hình, thép dây và thép ống có đường kính lớn hơn (nhóm 7213 – 7216, 7305 – 7306) (Thuế suất MFN 10%, 5%,0%): đưa vào thực hiện CEPT/AFTA từ năm 2001 (giống Lịch trình cũ) - Các cấu kiện kim loại bằng sắt thép, bao gồm cửa ra vào , cửa sổ, các loại khung của và người cửa ra vào (7308.30.00) tấm lợp (7308.90.20), các loại thùng chứa ga nén hoặc ga lỏng (7311): đưavào CEPT/AFTA từ năm 2001 (giống Lịch trình cũ) 12. Ngành hàng điện tử – tin học Ngành điện tử - tin học là ngành công nghiệp mới phát triển ở nước ta, nhưng có tốc đọ phát triển bình quân cao, 20% năm . Giá trị sản xuất công nghiệp cũng như gái trị xuất khẩu của ngành có sự tăng tranh mạnh tron một thời gian ngắn như vậy là do mặt dù ngành điện tử - tin học ta xuất phát điểm thấp nhưng thu hút được đầu tư từ nhiêu côngty xuyên quốc gia lớn trên thế giới, do vậy có khả năng mở rộng và khai thác có hiệu quả thị trường thế giới. Tuy nhiên, ngành công nghiệp điện tử - tin học của ta hiện mới chỉ dừng chủ yếu ở khâu nhập linh kiện và phụ tùng để lắp ráp, chủ yếu lắp ráp CKD, chỉ có 10% là lắp ráp IKD, sản xuất cấu kiện không đáng kể và chỉ tập trung vào một số chi tiết sản phẩm đơn giản, công nghệ không đòi hỏi chính xác. Trình độ công nghệ của ngành công nghiệp điện tử hiện nay là thấp; khoảng cách về công nghệ từ 15 – 20 năm so với các nước trong khu vực. Xét về cơ cấu sản phẩm, các nhóm sản phẩm điện tử dân dụng ti vi, rađio, cassette phát triển mạnh và vợt cầu trong nước, còn các nhóm sản phẩm khác nhập khẩu là chính. Trong vài nưm qua hầu như các doanh nghiệp Việt Nam chưa xuất khẩu sản phẩm điện tử; các nhà đầu tư nước ngoài cũng chỉ xuất khẩu một số lượng hạn chế về sản phẩm điện tử tiêu dùng còn chủ yếu khai thác thị trường trong nước. Phần lớn các doanh nghiệp hoạt động đạt 30 – 40% công suất. Hiện nay, để nhằm phát triển công nghệ thông tin trong khu vực, các nước ASEAN đã ký kết Hiệp định điện tử ASEAN (Hiệp định E – ASEAN) trong đó các nước thành viên cũ của ASEAN cam kết dự kiến cắt giảm thuế suất CEPT của các mặt hàng công nghệ thôn tin xuốn 0% lần lượt vào các mốc 2003/2005, còn các nước thành viên mới vào 2008 /2010. Theo biểu thuế nhập khẩu hiện hành của Việt Nam, những mặt hàng điện tử học thành phẩm hiện có mức thuế suất MFN tương đối cao (20 – 50%). Những dạng linh kiện của sản phẩm điện tử tin học, do ta phải nhập khẩu để lắp ráp thành phẩm trong nước nên có mức thuế suất nhập khẩu MFN nhìn chung thấp (0 – 10%) và được xác định cụ thể theo Chương trình nội địa hoá. Lịch trình cắt giảm thuế quan theo CEPT/AFTA Dự kiến sẽ đưa những mặt hàng điện tử – tin học trong nước chưa thể sản xuất được hoặc những mặt hàng không quan trọng vào cắt giảm sớm từ năm 2001, còn những mặt hàng điện tử tin học khác sẽ đưa vào thực hiện CEPT từ năm 2002 hoặc 2003, tuỳ thuộc vào mức độ bảo hộ dành cho ngành hàng cũng như trên cơ sở kết hợp với chương trình hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO) để tăng cường hợp tác công nghiệp trên lĩnh vực này giữa ta với các ddoío tác nước ngoài. Cụ thể như sau: - Nhóm mặt hàng điện tử tiêu dùng: + Micro, loa, tai nghe (nhóm 8518): 2001 + Máy hát, máy chạy băng, cát – sét (nhóm 8519): 2001 + Máy ghi âm băng từ (nhóm 8520) 2001 + máy thu phát vi deo (nhóm 8521): 2001 + Băng đĩa đã ghi âm thanh (nhóm 8524): 2002 + Máy thu hình (nhóm 8528): 2003 - Nhóm mặt hàng thiết bị thông tin liên lạc, phát thanh truyền hình: nhóm mặt hàng này trước đây thuộc Danh mạuc GE, qua rà soát đã được chuỷen vào Danh mục TEL dự kiến có thời điểm đưa vào cắt giảm để thực hiện CEPT/AFTA như sau: + Thiết bị điện dùng cho điện thoại hoặc điện báo hưũ tuyến, bao gồm cả bộ điện thoại hữu tuyến có bộ tay cầm không dây và thiết bị viễn thông dùng hệ truyền tải hoặc hệ thống số; điện thoại vi deo (nhóm 8517): Năm 2003. + Máy thu dùng cho điện thoại vô tuyến, điện báo, truyên thanh vô tuyến (nhóm 8527): 2003. + Ăng ten vệ tinh dùng cho đài phát thanh truyền hình hoặc trạm viễn thông (các mặt hàng riêng thuộc nhóm 8529.2001. - Nhóm mặt hàng sản xuất thiết bị tin học phân mền và dịch vụ: Trong lĩnh vực sản xuất những mặt hàng này, cụ thể là các sản phẩm như máy tính PC, máy in, Các card giao dioện, Việt Nam hiện nay đi sau các nước trong khu vực rấ nhiều và cũng khó có khả năng đổi kịp để cạnh tranh trong tương lai. Với mục tiêu phát triển ngành kinh tế tri thức, cụ thể là phát triển lĩnh vực phần mềm và dịch vụ, dự kiến sẽ đưa các diện mặt hàng này vào cắt giảm sớm từ năm 2001 để hạ giá thành các sản phẩm máy tính và thiết bị, sản phẩm đi kèm, tạo điều kiện mở rộng khả năng tiếp cận , lĩnh hội và phát triển phần mềm của ta. - Nhóm mặt hàng thiết bị điện tử chuyên dụng: cân điện tử, tủ điều khiển dây chuyền sản xuất, thiết bị điện tử y tế và một số sản phẩm chuyên dụng phục vụ quân đội, công an: trừ những mặt hàng đã đưa vào thực hiện CEPT từ năm 2000 trở về trước, những mặt hàng còn lại sẽ đưa vào thực hiện CEPT sớm từ năm 2001. 13. Nhóm các sản phẩm cơ khí. Các nhóm sản phẩm chính của ngành hàng cơ khí: - Sản phẩm phục vụ cơ giới hoá nông nghiệp, chế biến lương thực, nông sản, đánh bắt và chế biến hải sản. Bao gồm các sản phẩm máy động lực và máy nông nghiệp, thiết bị cho ngành máu đường, thiết bị chế biến chè, cao su, cà phê, tơ tằm, rau quả. - Sản phẩm phục vụ ngành giao thông vận tải, chủ yếu là các phương tiện vận tải, gồm ô tô, xe đạp, xe máy, tàu thuỷ.. - Thiết bị an toàn bộ và phụ tùng, chế tạo cấu kiện kim loại và thiết bị tiêu chuẩn cho các ngành công nghiệp, bao gồm cả thiết bị phục vụ công nghiệp thép. - Sản phẩm cơ khí tiêu dùng. Đánh giá thực trạng ngành cơ khí Việt Nam, ta có thể thấy mặc dù là một ngành có thời gian phát triển tương đối lâu nhất song sức cạnh tranh của ngành cơ khí của ta là thấp. So sánh với các nước ASEAN, ta có những điểm tương đồng về lợi thế như có nguồn tài nguyên đáng kể, lao động có giá rẻ và có trình độ, tuy nhiên các nước ASEAN lại vượt trên ta về mặt đầu tư và công nghệ, do vậy, có nhiều lợi thế về mặt cạnh tranh hơn ta. Tuy vậy, ngành công nghiệp cơ khí của ta cũng đã tạo ra một số sản phẩm có thể cạnh tranh tốt với các nước ASEAN, đạt mức tiêu chuẩn cao (xấp xỉ tiêu chuẩn của một số nhà sản xuất của Nhật Bản) với mức giá thấp hơn nên đã và dadng xuất khẩu sang được các nước ASEAN như: các loại động cơ diesel có công suất từ 18 mã lực trở xuống, máy xay xát à quả lô máy xay xát các cỡ từ 700kg/h đến 2 tấn/ h, dây chuyền thiết bị xay xát gạo hoàn chỉnh, máy bơm nước lưu lượng nhỏ và cụm bơm nước lắp với động cơ diesel. Theo biểu thuế nhập khẩu hiện hành, thuế suất MFN của các mặt hàng cơ khí của ta có nhiều mức khác nhau, phụ thộc vào mức độ nhập khẩu và khả năng cung cấp trong nước của ta đối với mặt hàng này. Các mặt hàng cơ khí mà trong nước không có khả năng sản xuất và chủ yếu phải nhập khẩu có mức thuế MFN thấp (0 – 5%) và đã đưa vào thực hiện AFTA ngay từ đầu. Tuy nhiên, cũng có những mặt hàng như ô tô, xe máy, xe đạp lại có mức thuế suất nhập khẩu MFN rất cao (60 – 100%) và vẫn chưa được vào cắt giảm thực hiện AFTA. Hiện nay, các nước ASEAN cũ đã đưa ra các nhóm mặt hàng này vào thực hiện cắt giảm theo Chương trình CEPT/AFTA với mức thuế suất CEPT thấp 0 – 5%. Lịch trình cắt giảm thuế quan tổng thể theo CEPT/AFTA. Dự kiến các mặt hàng cơ khí đưa vào thực hiện CEPT/AFTA sẽ được đưa vào cắt giảm theo các mốc thời điểm sau: - Sản phẩm máy động lực và máy nông nghiệp và các thiết bị: + Động cơ đốt trong dùng cho ô tô và xe máy ( nhóm 8407): 2003 (giống Lịch trình cũ). + Các bộ phận dùng cho các dạng động cơ thuộc hai, nhóm trên (nhóm 8409): 2002 (giống lịch trình cũ). + Máy kéo (nhóm 8701): 2001 (giống Lịch trình cũ), 2003 đối với mặt hàng Máy kéo đạp chân có công suất đến 15CV (mã 8701.10.10). - Sản phẩm phục vụ ngành giao thông vận tải, chủ yếu là các phương tiện vận tải, gồm ô tô, xe đạp, xe máy, tàu thuỷ: + Ô tô chở khách từ 50 người trở lên (nhóm 8702) và xe tải (nhóm 8704): 2003 (giốn Lịch trình cũ) + Một số dạng ô tô chở khác loại đặc biệt (xe trượt tuyết, chơi gôn) và xe chuyên dụng (xe cứu thương, xe tang lễ, xe chở tù) (nhóm 8703): 2001 ( đây là những nhóm mặt hàng mới xuất hiện trong biểu thuế nhập ữu đãi mới, là những mặt hàng Việt Nam chưa sản xuất được và phải nhập khẩu – như xe cứu thương hoặc là những mặt hàng hầu như không có nhu cầu nhập khẩu - như xe trượt tuyết nên đề nghị đưa vào thực hiện cắt giảm sớm) + Các bộ linh kiện dạng CKD, IKD của các loại xe ô tô: 2001 (giống lịch tình cũ)  + Khung gầm và thân xe (nhóm 8706 và 8707):2002 (giống Lịch trình cũ đối với nhóm mặt hàng khung gầm, riêng thân xe đưa vào cắt giảm sớm hơn một năm so với Lịch trình cũ). + Phụ tùng và các bộ phận phụ trợ cho các dạng xe ôtô (nhóm 8708) :2003 (giống lịch trình cũ) + Xe máy có dung tích xi lanh từ 250cc trở lên (8711.30/40/50/90): 2003 (những mặt hàng này được chuyển từ Danh mục GE và TEL sau các lần rà soát). + Xe đạp (nhóm 7812) : 2003 (giống lịch trình cũ) + Phụ tùng và các bộ phận phụ trợ của xe đạp và xe máy (nhóm 7814): 2003 (giốn Lịch trình cũ). + Phương tiện bay, tầu vũ trụ và các bộ phận của chúng (chương 88): 2003 (nhóm mặt hàng này được chuyển từ Danh mục GEL và TEL sau các lần rà soát). +Tầu thuyền và các dạng phương tiện vận tải đường thuỷ ( chương 89): 2003 (giống lịch trình cũ). - Thiết bị toàn bộ và phụ tùng, chế tạo cấu kiện kim loại và thiết bị phi tiêu chuẩn cho các ngành công nghiệp, bao gồm cả thiết bị phục vụ ngành công nghiệp thép: đưa số các mặt hàng thuộc nhóm này đã đưa vào thực hiện CEPT từ năm 2000 trở về trước riêng có một sóo nhóm sản phẩm cấu kiện kim loại ( chủ yếu bằng sắt thép) chưa đưa vào thực hiện CEPT gồm cửa ra vào, cửa sổ, các loại khung cửa và ngưỡng cửa ra vào (7308.30.00) tấm lợp (7308.90.20) các loại thùng chứa ga nén hoặc ga lỏng (7311): đa vào CEPT/AFTA từ năm 2001 (giống Lịch trình cũ) - Sản phẩm cơ khí tiêu dùng: + Đồ da kéo, bộ đồ dùng cắt sửa móng tay móng chân, bộ đồ ăn bằng kim loại thường (nhóm 8214 – 8215): 2001 (đẩy sớm lên một năm so với Lịch trình cũ). + Đủ tài liệu, các chi tiết ghép nối dùng cho cặp giữ tài liệu và các đồ dùng văn phòng phẩm, chuông không dùng điện làm bằng kim loại thường (nhóm 8304 – 8306, 8308): 2002 ( đẩy sớm lên một năm so với Lịch trình cũ). + Quạt điện gia dụng: 2003: Quạt điện công nghiệp có công suất trên 125KW: 2003; c/s dưới 125KW: 2001; các bộ phận của quạt điện: 2002 (nhóm 8414) giống Lịch trình cũ). + Máy điều hoà (nhóm 8415): 2003 (giống Lịch trình cũ) + Tủ lạnh (nhóm 8418): 2002(giống Lịch trình cũ). + Máy giặt (nhóm 8450): 2003 (giống Lịch trình cũ) Tại Hội nghị Bộ trưởng kinh tế ASEAN không chính thức vừa được tổ chức tại Malaysia, các nước ASEAN đã đề xuất lộ trình đẩy nhanh thực hiện AFTA đối với 4 nước thành viên mới của ASEAN là Việt Nam , Lào, Campuchia và Myamar. Theo lộ trình này, số hàng hoá đạt mức thuế suất 0 – 5% của Việt Nam sẽ lên tới 80% vào năm 2003 (so với mục tiêu 65% của lịch trình cắt giảm thuế 2001 – 2006 hiện nay). Theo đánh giá của Bộ thương mại, thời hạn hoàn thành nghĩa vụ AFTA (1/1/2006) đang đến gần doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp khó khăn khi phải cạnh tranh với hàng nhập khẩu từ các nước ASEAN. Nếu đề xuất đẩy nhanh thực hiện AFTA trên là yêu cầu bắt buộc thực hiện, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải gánh chịu nhiều thách thức hơn. Do vậy, việc đẩy nhanh thực hiện AFA cần dựa trên tình hình thực tế và khả năng thực hiện từng nước thành viên mới của ASEAN. Để giải quyết vấn đề này, thời gian tới, Chính phủ sẽ tiếp tục đẩy mạnh cải cách kinh tế, trong đó, có việc cắt giảm số doanh nghiệp làm ăn thua lỗ trong tổng số 5.650 DNNN. Bộ tài chính vừa hoàn thành việc chuyển biểu thuế xuất nhập khẩu hiện hành sang biểu thuế quan chung của ASEAN. theo lộ trình chương trình thuế quan uư đãi có hiệu lực (CEPT), tiến tới gia nhập khu vực mậu dịch tự do thương mại ASEAN (AFTA). Như vậy, Nghị định ban hành danh mục hàng hoá và thuế suất của Việt nam để thực hiện chương trình cắt giảm thuế quan có khả năng được thực hiện theo đúng kế hoạch đã đề ra vào tháng 7 tới. Theo danh mục chuyển đổi biểu thuế quan xuất, nhập khẩu hàng hoá hiện hành có 6,495 dòng thuế khi chuyển sang danh mục thuế quan khu vực ASEAN sẽ được nâng lên 10.689 dòng thuế. Trong đó, danh mục cắt giảm ngay (IL) sẽ nâng từ 5.559 lên 8.807 dòng thuế; danh mục loại trừ tạm thời (TEL) từ 755 lên 1.376 dòng thuế; danh mục nông sản nhạy cảm (SL) từ 52 lên 91 dòng thuế và danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL) từ 139 lên 415 dòng thuế. Hiện nay, Việt nam đã cắt giảm được thuế suất của 5.500 mặt hàng chiếm gần 85% tổng số nhóm mặt hàng trong biểu thuế nhập khẩu hiện hành. Theo lộ trình, năm nay Việt nam sẽ đưa thêm 760 mặt hàng vào danh mục cắt giảm thuế với mức thuế suất hạ từ 40 -50% còn 15 - 20% và tiếp tục giảm xuống 0-5% vào năm 2006, hạn cuối cùng để Việt nam hoàn thành chương trình cắt giảm thuế quan Theo Thứ trưởng Bộ Thương mại Lương Văn Tự, việc cắt giảm thuế này chưa ảnh hưởng trực tiếp đến trao đổi thương mại giữa Việt nam và ASEAN. Lợi ích rõ ràng nhất khi tham gia CEPT/AFTA là mở được thị trường tiêu thụ. Sau 6 năm thực hiện CEPT, ASEAN đã trở thành thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam bên cạnh EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ KẾT LUẬN Giải phóng thương mại và đầu tư ra khỏi những trở ngại của hàng rào thuế quan, về thực chất, không phải là ý muốn chủ quan cua bất kỳ một quốc gia nào, mà là đặc trưng phát triển kinh tế quốc tế của thời đại. Thực hiện những sửa đổi cơ cấu hệ thống thuế nộ địa cũng như tham gia vào các chương trình cắt giảm thuế quan theo Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) dành cho Khu vực mậu dịch tự do ASEAN, từng bước làm cho nền kinh tế Việt Nam ngày càng thích ứng với xu hướng chung của quan hệ kinh tế quốc tế khu vực và thế giới, mà trước tiên đó là việc tạo dựng tính đồng nhất về những tiêu chí kinh tế, giảm dần những khác biệt về thể chế điều tiết, xác định quyền lợi và nghĩa vụ trong mọi tổ chức hợp tác kinh tế khu vực. Dù muốn hay không, chúng ta phải đối phó với các thách thức; nền công nghiệp chế biến non trẻ bị đe doạ, cá xu hướng phi điều chỉnh nảy sinh , ngân sách nhà nước bị thu hẹp. Song đó là cái giá phải trả cho sự tăng trưởng, tạo dựng môi trường thương mại và đầu tư có đặc tính cạnh tranh cao, là cáigiá phải trả cho việc tự do hoá thương mại nhằm thực hiện tốt các chương trình kinh tế vĩ mô cuả Nhà nước. Như vậy, việc Việt Nam thực hiện chương trình cải cách thuế quan không chỉ có cơ hội thuận lợi mà còn cả những khó khăn thách thức. Do đó, để tham gia có hiệu quả vào quá trình thực hiện AFTA, việc này đỏi hỏi một sự chủ động không hỉ từ cá Bộ, ngành quản lý Nhà nước mà quan trọng hơn là sự chủ động, tự điều chỉnh của các doanh nghiệp sản xuất trong nước để nâgn cao khả năng cạnh tranh của mình, tạo sức mạnh tham gia các hoạt động trong môi trường ngày càng đa dạng và phức tạp. Đối với Việt Nam, hội nhập kinh tế quốc tế còn là một việc làm mới lạ và có nhiều khó khăn phức tạp. Nhưng tin tưởng rằng, việc cải cách thuế quan để thực hiện CEPT/AFTA sẽ mở ra cho Việt Nam cơ hổi đậy ạnh hợp tác kinh tế và thương mại giữa Việt Nam và các nước ASEAN, hội nhập APEC, gia nhập WTO; góp phần xây dựng thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá, xây dựng nước mạnh, dân giàu, xã hội công bằng văn minh. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO I. Sách: - Võ Đại Lược, “ các khối kinh tế và mậu dịch trên thế giới” nhà xuất bản Chính trị Quốcgia, 1996 - Lịch trình giảm thuế của Việt Nam để thực hiện khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Nhà xuất bản Tài chính, 1998. - Danh mục hàng hoá và thuế suất của Việt nam để thực hiện CEPT của các nước ASSEAN năm 2002, Nhà xuất bản thống kê -2002 - Sổ tay các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế , Nhà xuất bản nông nghiệp HN 2002  - Doanh nghiệp Việt nam hội nhập kinh tế thế giới, Bộ thương mại 2002 - Sản phẩm hội nhập Việt nam tự do hoá thương mại – Bộ thương mại – Bộ văn hoá thông tin , năm 2003 - Chính sách thuế của nhà nước trong tiến trình hội nhập – Học viện tài chính, 2002 II. Tài liệu - Nguyễn Văn Luật “AFTA và tiến trình hội nhập Đông Nam á,” Văn phòng Chính phủ, 1998. - Nguyễn Thanh Trì: Pháp luật quốc tế khu vực ASEAN về thương mại và đầu tư trực tiếp của nước ngoài” Bộ tư Pháp – Viện nghiên ứu khoa học pháp lý 1998. - Công Báo, Thời báo kinh tế Việt Nam, Tạp chí thương mại, Tuần báo quốc tế năm 2002 – 2003. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8394.doc