Tiền công - Thu nhập của người lao động ở Doanh nghiệp tư nhân và việc tạo động lực cho người lao động

Lời mở đầu Từ khi chuyển nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, kinh tế Việt Nam đã có nhiều thay đổi và phát triển đi lên. Các hoạt động trong xã hội đều bị chi phối của các qui luật thị trường, đặc biệt là qui luật cạnh tranh. Theo đó, xã hội luôn mong muốn tạo ra được nhiều của cải vật chất, các tổ chức kinh tế thì mong không ngừng tăng lợi nhuận qua việc sản xuất hàng hoá, dịch vụ. Để đáp ứng được

doc44 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1448 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tiền công - Thu nhập của người lao động ở Doanh nghiệp tư nhân và việc tạo động lực cho người lao động, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mong muốn đó, con người hoặc phải tăng quĩ thời gian dùng cho sản xuất hoặc phải tăng năng suất lao động. Trong các yếu tố đó, quĩ thời gian dành cho sản xuất là có hạn, mỗi người chỉ có tối đa là 24h/ngày làm việc, còn tăng năng suất thì có thể không ngừng tăng lên do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Vậy cần thiết phải nghiên cứu các yếu tố làm tăng năng suất lao động, trong đó tiền lương và thu nhập là yếu tố tác động trực tiếp đến người lao động là động cơ chính để họ tăng năng suất lao động. Nghiên cứu mối quan hệ giữa tiền lương và thu nhập với năng suất lao động là rất quan trọng, tác động đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của các tổ chức. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này trong các doanh nghiệp tư nhân và được sự giúp đỡ nhiệt tình của cô giáo Nguyễn Thanh Thuỷ .Tôi đã đi sâu vào nghiên cứu đề tài: “Tiền công - Thu nhập của người lao động ở doanh nghiệp tư nhân và việc tạo động lực cho người lao động”. Tôi đã cố gắng đưa ra một cách khái quát và đầy đủ nhất về vấn đề. Song do thời gian có hạn và là lần đầu viết về vấn đề này nên không thể tránh được những thiếu sót ,rất mong được những ý kiến góp ý để tôi có thể nắm vững hơn về vấn đề và hoàn thiện hơn trong những lần viết sau: Bài viết gồm ba phần. Chương1: Cơ sở lý luận chung về tiền công - thu nhập và việc tạo động lực cho người lao động. Chương2: Thực trạng tiền công - thu nhập của những người lao động trong các doanh nghiệp tư nhân hiện nay. Chương3: Một số giải pháp hoàn thiện công tác trả công - thu nhập trong các doanh nghiệp tư nhân hiện nay nhằm tạo động lực cho người lao động. Chương1 Cơ sở lý luận về tiền công thu nhập và việc tạo động lực cho người lao động 1. Thực chất của tiền công thu nhập trong doanh nghiệp. 1.1. Khái niệm chung về tiền công - thu nhập: Tiền lương hay tiền công là một phạm trù kinh tế, là số tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động khi họ hoàn thành một công việc nào đó. Có nhiều quan niệm khác nhau về tiền lương phụ thuộc vào các thời kỳ khác nhau và góc độ nhìn nhận khác nhau. Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác: “Tiền lương là một phần của thu nhập quốc doanh mà Nhà nước xã hội chủ nghĩa phân phối cho người lao động làm việc trong khu vực nền kinh tế quốc dân dưới hình thức tiền tệ căn cứ vào số lượng và chất lượng lao động của mỗi người đã cống hiến”. ở nước ta trong thời kỳ bao cấp, chúng ta đã từng quan niệm rằng: “Tiền lương là một bộ phận của thu nhập quốc dân được Nhà nước phân phối có kế hoạch cho người lao động căn cứ vào số lượng và chất lượng của mỗi người đã cống hiến”. Theo quan niệm này, tiền lương mang nặng tính chất bao cấp, bình quân, dàn đều. Nó chưa đảm bảo được nguyên tắc phân phối tiền lương theo lao động, từ đó khuyến khích nâng cao trình độ chuyên môn, tính chủ động sáng tạo của người lao động và coi nhẹ lợi ích thiết thực của người lao động. Kết quả là đã không gắn được gắn lợi ích của người lao động với thành quả mà họ đã sáng tạo ra, không có trách nhiệm với công việc được giao... Khi chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường, ở đây mọi người được tự do mua, bán sức lao động của mình, vì thế sức lao động được nhìn nhận như một hàng hoá và tiền lương không phải là cái gì khác mà nó chính là giá cả của sức lao động. Thật vậy, sức lao động là cái vốn có của người lao động người sử dụng lao động lại có điều kiện và muốn sử dụng nó để tạo ra của cải vật chất. Do vậy người sử dụng lao động phải trả cho người chủ sở hữu sức lao động hay người lao động một số tiền nhất định để đổi lấy quyền sử dụng sức lao động của người lao động. Về phía người lao động, họ muốn bán sức lao động để có một khoản tiền nhất định nuôi bản thân và gia đình. Vì vậy giữa người sử dụng lao động và người nảy sinh quan hệ mua bán và cái được trao đổi, mua bán ở đây là sức lao động của người lao động và số tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động chính là giá cả của sức lao động. Hay nói khác đi tiền lương chính là giá cả của sức lao động. Lúc này, Đảng và Nhà nước ta đã nhận định “Tiền lương là giá cả của sức lao động, được hình thành qua sự thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động thông qua hợp động, phù hợp với các quan hệ lao động của nền kinh tế thị trường đang trong quá trình hoàn thiện theo định hướng XHCN”. Điều đó có nghĩa là tiền lương là phải được trả theo đúng giá trị sử dụng lao động, phải coi tiền lương như một động lực thúc đẩy từng cá nhân người lao động hăng say làm việc, nhưng phải tránh tính chất bình quân. Có thể cùng trình độ chuyên môn, cùng bậc thợ, nhưng tiền lương lại rất khác nhau do hiệu quả sản xuất khác nhau hay do giá trị sức lao động khác nhau. Quan điểm mới này về tiền lương đã tạo cho việc trả lương đúng với giá trị sức lao động, tiền tệ hoá tiền lương triệt để hơn, xoá bỏ tính phân phối cấp phát và trả lương bằng hiện vật. Đồng thời nó đã khắc phục quan điểm coi nhẹ lợi ích cá nhân như trước kia, tiền lương phải được sử dụng đúng vai trò đòn bẩy kinh tế của nó kích thích người lao động gắn bó hăng say với công việc. Tóm lại: Tiền lương là một khoản tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động khi họ hoàn thành một công việc nào đó theo đúng số lượng và chất lượng đã thoả thuận. Sức lao động là hàng hoá, tiền lương là giá cả sức lao động, và người sử dụng lao động phải căn cứ vào số lượng và chất lượng lao động của người công nhân, cũng như mức độ phức tạp, tính chất độc hại của công việc để trả lương cho người lao động. Thu nhập là khoản tiền mà người lao động trong doanh nghiệp được người sử dụng lao động trả theo lao động và là khoản thu thường xuyên, tính bình quân tháng trong năm bao gồm: Tiền lương (tiền công), tiền thưởng chia phần lợi nhuận, các khoản phụ cấp lương, những chi phí thường xuyên ổn định mà người sử dụng lao động chi trực tiếp cho người lao động như tiền ăn trưa, ăn giữa ca, tiền xăm lốp xe... và các khoản thu khác, trong đó tiền lương là một phần chủ yếu trong thu nhập. Như vậy tiền lương, thu nhập về cơ bản đều là số tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động, đều là giá cả sức lao động, nên nó là một khoản mục chi phí cấu tạo nên giá thành sản phẩm do đó nó là mọt khoản khấu trừ vaò doanh thu khi tính kết quả sản xuất kinh doanh ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Tuy nhiên tiền lương còn được chủ doanh nghiệp dùng như một công cụ tích cực đến người lao động. Tiền lương, thu nhập gắn chặt với quy luật nâng cao năng suất lao động và tiết kiệm thời gian lao động. Bởi tăng năng suất lao động là cơ sở tăng tiền lương đồng thời phần tiết kiệm do năng suất lao động được dùng để tăng tiền lương lại là động lực thúc đẩy tăng sản lượng và chất lượng sản phẩm. Tiền lương, thu nhập là lợi ích vật chất trực tiếp mà người lao động được hưởng từ sự cống hiến sức lao động của họ. Vì vậy trả lương xứng đáng với sức lao động mà họ bỏ ra sẽ có tác dụng khuyến khích người lao động tích cực lao động, quan tâm đến kết quả lao động của họ. Từ đó tạo điều kiện tăng năng suất lao động, thúc đẩy sản xuất phát triển. 1.2. Động lực lao động và tạo động lực lao động 1.2.1. Động lực lao động Động lực lao động là sự khao khát và tự nguyện của con người nhằm nâng cao mọi nỗ lực để đạt mục tiêu hay kết quả cụ thể nào đó. Động lực lao động bao hàm động cơ lao động và mục đích hoạt động của con người, trong đó động cơ lao động là quan trọng nhất vì nó quyết định quá trình lao động của con người. + Động cơ lao động là những gì tiềm ẩn trong con người, nó chỉ thể hiện ra thông qua các hoạt động của con người và động cơ này là khác nhau ở mỗi người. Động cơ lao động thường xuyên thay đổi theo từng thời kỳ xuất hiện những nhu cầu. Vì vậy, phải tìm hiểu kỹ động cơ lao động của con người. Quá trình hình thành động cơ lao động có nguồn gốc từ sự xuất hiện nhu cầu. Có thể nói động cơ là nhu cầu mạnh nhất của con người trong một thời điểm nhất định và nhu cầu sẽ quyết định hoạt động của con người. Nhu cầu trở thành động cơ khi có đủ ba yếu tố. Đó là sự mong muốn, chờ đợi, tính hiện thực của sự mong muốn và hoàn cảnh môi trường xung quanh. Muốn biết nhu cầu của con người xuất hiện do đâu thì phải tìm hiểu kỹ động cơ lao động của họ, tuy nhiên động cơ nhiều khi là vô thức nên rất dễ đánh giá sai. + Mục đích hoạt động của con người là nhằm thoả mãn những nhu cầu, mong ước của chính mình. Như vậy, nhu cầu bao giờ cũng xuất hiện trước và được thoả mãn sau bằng chính hoạt động xuất phát từ nhu cầu đó. Khi một nhu cầu này đựơc thoả mãn thì xuất hiện nhu cầu khác cao hơn. Vì vậy, giữa nhu cầu và sự thoả mãn luôn có khoảng cách nhất định. S nhu cầu – S thoả mãn > 0 Chính khoảng cách này đã tạo ra động lực cho người lao động, nó làm người ta hướng tới mục tiêu mới và sẽ cố gắng để đạt được bằng sự nỗ lực của chính mình một cách tự nguyện. Có thể định nghĩa tổng quát về động lực lao động Động lực lao động là những tác động thúc đẩy từ bên trong con người nhằm nâng cao mọi nỗ lực để đạt được mục tiêu hay kết quả cụ thể nào đó một cách tự nguyện. 1.2.2. Tạo động lực lao động Như ta đã biết nhu cầu tạo ra động cơ cho người lao động còn động lực xuất hiện như thế nào? Động cơ lao động xuất phát từ nhu cầu của con người, từ động cơ ấy sẽ tạo ra lợi ích và đến lượt nó lợi ích lại tạo động lực cho người lao động. Hệ thống nhu cầu của con người gồm hai loại chính là nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần. Chúng thường xuyên thay đổi và có xu hướng tăng lên cả về số lượng và chất lượng. Nhân tố số lượng là có giới hạn nhất định còn nhân tố chất lượng có xu hướng được đặt lên hàng đầu. Nguyên nhân của hiện tượng này là do sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Cách phân loại này có ưu điểm riêng là làm rõ hệ thống nhu cầu. Trong thực tế sự phân chia này chỉ là tương đối, chúng thường hoà quyện vào nhau, có mối quan hệ với nhau và khó phân tích một cách rạch ròi. Để thoả mãn đựơc tất cả các nhu cầu đặt ra con người phải tham gia vào lao động xã hội. Có thể thấy rằng nhu cầu là động cơ thúc đẩy con người làm việc và tham gia vào nền sản xuất xã hội. Với ý nghĩa đó, động cơ lao động nói chung là biểu thị thái độ chủ quan của con người đối với hoạt động của mình. Nó phản ánh mục tiêu đặt ra là có ý thức, xác định và giải thích cho hành vi. Kết quả lao động đạt đựơc sẽ chứng minh cho hành vi đó. Tuỳ thuộc vào việc xác định hoạt động, động cơ đựơc phân thành động cơ cảm tính và động cơ lý tính. Động cơ cảm tính gắn liền với sự hứng thú lao động. Lúc này cường độ lao động có thể đạt đến mức tối đa, mang lại sự hứng thú trong lao động và lao động là hoạt động hoàn toàn tự nguyện mang tính bản năng. Động cơ lý tính là biểu hiện của sự nhận thức rõ ràng mục tiêu cụ thể nhất định. Lúc này, hoạt động của con người là hướng về mục tiêu mà họ đặt ra, động cơ là có ý thức và hoạt động là có điều kiện. Thật khó để phân biệt được đâu là động cơ cảm tính và đâu là động cơ lý tính. Trong thực tế, con người hoạt động chủ yếu là vì động cơ lý tính. Động cơ đó được phản ánh qua thái độ của con người đối với hoạt động của mình. 1.3. Vai trò của tiền lương trong việc tạo động lực lao động Tiền lương là lĩnh vực không chỉ các doanh nghiệp quan tâm mà nó còn được toàn xã hội chú ý. Sở dĩ như vậy vì tiền lương liên quan trực tiếp đến các vấn đề xã hội cũng như kinh tế (lạm phát) và tiền lương được xem là biện pháp kích thích vật chất chủ yếu đối với người lao động. Trong doanh nghiệp, một mặt tiền lương trước hết là yếu tố đảm bảo cuộc sống cho người lao động, nó là động lực chủ yếu khuyến khích người lao động làm việc tốt, mặt khác lại là nguyên nhân gây bất mãn, trì trệ do tiền lương không thoả đáng, không công bằng. Điều đó có nghĩa là tiền lương là động lực không đủ mạnh để thúc đẩy con người làm việc hoặc không phản ánh được kết quả (số lượng và chất lượng) mà họ đạt được. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, đặc biệt là từ sau cải cách tiền lương, chúng ta càng thấy rõ hơn sức lao động là hàng hoá. Người lao động bán sức lao động của mình cho doanh nghiệp và nhận lại từ doanh nghiệp một khoản gọi là tiền lương (hay tiền công). Như vậy tiền lương chính là một phần thu nhập mà người lao động được người sử dụng lao động trả cho sau khi họ đã hoàn thành một công việc nhất định. Vì tiền lương là giá cả sức lao động cho nên tiền lương cũng bị quyết định bởi các quy luật về giá cả của tất cả các hàng hoá khác và bởi quan hệ giữa cung và cầu trên thị trường. Trong quá trình hoạt động của các doanh nghiệp, tiền lương là một phần chi phí cấu thành sản xuất, vì vậy nó được tính là chi phí kinh tế (chi phí sản suất, kinh doanh). Do đó tiền lương luôn phải được tính toán và quản lý chặt chẽ. Tóm lại, tiền lương vừa là yếu tố kinh tế, vừa mang tính chất xã hội. Càng hiểu rõ bản chất của tiền lương, ta càng thấy tiền lương giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong chính sách khuyến khích vật chất và hơn nữa nó cũng là biện pháp kích thích tinh thần. ở nước ta hiện nay, với bất kỳ một người lao động nào thì tiền lương cũng là mối quan tâm hàng đầu của họ, nó là động lực chủ yếu thúc đẩy họ làm việc tốt hơn bởi vì tiền lương hiện nay chính là phần thu nhập chủ yếu của người lao động. Cuộc sống của họ phụ thuộc vào mức tiền lương mà họ nhận được từ công việc. Vì thế, tiền lương trước hết là biện pháp kích thích vật chất. Biểu hiện rõ nhất là nếu tiền lương thoả đáng, phù hợp với sức lao động mà họ đã bỏ ra sẽ khiến họ hăng hái làm việc. Ngược lại, nếu tiền lương mà họ nhận được quá thấp, không xứng đáng sẽ làm giảm đi sự kích thích trong lao động. Người lao động sẽ không quan tâm đến công việc của mình và có thể sẽ tìm kiếm công việc khác làm thêm bù vào phần thu nhập của mình hoặc tìm kiếm công việc mới có thu nhập cao hơn đủ đảm bảo cho cuộc sống của mình. Tiền lương cũng là một biện pháp kích thích về mặt tinh thần bởi vì nó có thể biểu hiện giá trị, địa vị và uy tín của người lao động đối với gia đình, công ty và cả xã hội. Điều này có nghĩa là tiền lương chính là biểu hiện giá trị của quyền lực, địa vị và sự thành đạt. Nó làm cho con người ta cảm thấy tự hào, niềm tự hào đó là chính đáng và đáng được khuyến khích. Tiền lương ngoài tác dụng trên còn là công cụ thúc đẩy kinh tế của chính đơn vị đó. Với mức tiền lương thoả đáng con người sẽ làm việc hăng hái hơn, dẫn đến năng suất lao động tăng và tiết kiện được thời gian hao phí lao động. Mặt khác, tăng tiền lương lại dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động. Cơ sở của việc tăng sản phẩm vật chất cho xã hội là phần giảm thời gian hao phí lao động trong sản xuất. Mối quan hệ tác động qua lại này tạo nên sự kích thích mạnh mẽ giúp người lao động làm việc tốt hơn. 1.4.Các phương hướng tạo động lực trong lao động 4.1.Xác định nhiệm vụ và tiêu chuẩn thực hiện công việc cho nhân viên Xác định mục tiêu hoạt động của tổ chức và làm cho người lao động hiểu rõ mục tiêu đó. Xác định nhiệm vụ cụ thể và các tiêu chuẩn thực hiện công việc cho người lao động. Đánh giá thường xuyên và công bằng mức độ hoàn thành công việc của người lao động. 4.2.Tạo đièu kiện thuận lợi để người lao động hoàn thiện công việc Loại trừ các trở ngại cho thực hiện công việc của người lao động. Cung cấp các điều kiện cần thiết cho công việc. Tuyển chọn và bố trí người phù hợp để thực hiện công việc. 4.3.Kích thích lao động Sử dụng tiền công tiền lương như một công cụ cơ bản để kích thích vật chất đối với người lao động. Tiền công tiền lương phải được trả thoả đáng so với đóng góp của người lao động, phải công bằng. Sử dụng hợp lý các chính sách khuyến khích như: tăng lương tương xứng với thực hiện công việc áp dụng các hình thức trả công khuyến khích, tiền thưởng và phần thưởng. Sử dụng hợp lý các chính sách khuyến khích phi tài chính để thoả mãn nhu cầu tinh thần cho người lao động. 2.Doanh nghiệp tư nhân 1. Khái niệm về doanh nghiệp tư nhân. Xuất phát từ luật doanh nghiệp tư nhân, luật công ty do Quốc hội nước CHXHVN Việt Nam thông qua ngày 21/12/1990 tại kỳ họp thứ 8 quốc hội khoá VIII ta có DNTN là đơn vị kinh doanh, có mức vốn không thấp hơn vốn pháp định (vốn pháp định tuỳ theo từng nghề và tối thiểu là 20 triệu đồng), do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. 2. Vai trò của doanh nghiệp tư nhân trong sự phát triển của đất nước. ở nước ta, trong vòng 30 năm ở miền Bắc và 10 năm ở miền Nam kinh tế tư nhân không được chấp nhận tồn tại, là đối tượng phải cải tạo, xoá bỏ. Từ sau đại hội VI của Đảng (1986) khu vực kinh tế này được thừa nhận tồn tại lâu dài. Đến nay khu vực kinh tế này đã đóng góp vai trò to lớn trong sự phát triển của đất nước. Nó gồm có vai trò chủ yếu sau: - Góp phần tạo công ăn việc làm cho người lao động: Sau năm 1986, sự dôi dư lao động với quy mô lớn ở khu vực kinh tế tư nhân khi tiến hành sắp xếp lại sản xuất theo QĐ 176/HĐBT, cùng với sự hạn chế của ngân sách ngày một gia tăng ở các doanh nghiệp được bao cấp trước đây, việc trở về của hàng trăm ngàn lao động từ nước ngoài (Đông âu), và sự tăng trưởng hàng triệu lao động hàng năm... đã làm cho sức ép về việc làm trở nên cấp bách. Trước tình hình đó, việc phát triển các doanh nghiệp tư nhân đóng vai trò cực kỳ quan trọng, để trong một thời gian ngắn tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động. Tính đến 31/12/2002, các doanh nghiệp này đã thu hút 339638 lao động, chiếm 7,3% lực lượng lao động xã hội. Tính cả khu vực Kinh tế tư nhân thì đã thu hút tới 89,6% lực lượng lao động xã hội. - Tạo ra thu nhập, bảo đảm đời sống cho người lao động: Chính từ việc giải quyết việc làm cho người lao động trong xã hội mà khu vực Kinh tế tư nhân nói chung và các Doanh nghiệp tư nhân Doanh nghiệp tư nhân nói riêng đã tạo thu nhập, nâng cao đời sống cho người lao động. Kết quả điều tra một số doanh nghiệp năm 2003 tính bình quân cho các doanh nghiệp thì thu nhập bình quân của người lao động đạt 1,422 triệu đồng /tháng điều đó phản ánh năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp tư nhân cao hơn sản xuất cá thể và hộ gia đình nông nghiệp thuần tuý. Từ đó, khu vực kinh tế tư nhân đã đóng góp 51,5% trong GDP năm 2003 - Tận dụng các nguồn lực xã hội: Doanh nghiệp tư nhân phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, lĩnh vực sản xuất kinh doanh chủ yếu tập trung vào thế mạnh của từng ngành, nghề thuộc địa phương, vùng mà doanh nghiệp hoạt động. Vốn của nó thường nhỏ, nên đã được đông đảo nhân dân tham gia hoạt động qua đó thu hút nguồn vốn trong dân cư vào sản xuất kinh doanh. Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp này thường nhằm mục tiêu sản xuất kinh doanh phục vụ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, sử dụng nhiều lao động, ít vốn, với chi phí thấp nhất. Do vậy, phần nhiều khu vực này không đòi hỏi lao động có trình độ cao, chỉ cần bồi dưỡng hoặc đào tạo ngắn hạn là có thể tham gia vào sản xuất trong doanh nghiệp được. Khi sử dụng máy móc thiết bị, nó thường lựa chọn kỹ thuật phù hợp với trình độ, khả năng của người lao động, kết hợp giữa thủ công và kỹ thuật mà đa số quần chúng lao động có thể nhanh chóng tiếp thu và làm chủ trong sản xuất. Do đó, thiết bị của doanh nghiệp thường là sản phẩm trong nước. Với việc sản xuất kinh doanh những mặt hàng mà nguyên vật liệu sẳn có, tại chỗ, dễ khai thác sử dụng, đã tạo việc làm trong khu vực, sử dụng nguyên vật liệu có hiệu quả. - Tăng nguồn thu cho ngân sách quốc gia: Hàng năm, khu vực kinh tế này đóng góp trên 51% cho ngân sách Nhà nước. - Đóng vai trò quan trọng đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Quá trình phát triển của các doanh nghiệp tư nhân cũng là quá trình cải tiến máy móc, thiết bị, nâng cao năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm để đáp ứng nhu cầu thị trường, đến một mức độ nào đó, nhất định sẽ dẫn đến đổi mới công nghệ, làm cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước diễn ra không chỉ ở chiều sâu mà cả ở chiều rộng. Sự phát triển của các doanh nghiệp này làm cho Công nghiệp, Dịch vụ phát triển theo, dẫn đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo xu hướng tiến bộ, đặc biệt ở các vùng nông thôn. 3. Đặc điểm, vị trí, vai trò của tiền lương hay thu nhập trong DNTN. a. Tiền lương mà chủ doanh nghiệp trả cho người lao động theo đúng bản chất là giá cả của sức lao động. Khi chủ doanh nghiệp đầu vốn tiến hành sản xuất kinh doanh, tuyển lao động, người lao động đem bán sức lao động của mình cho chủ doanh nghiệp. Tiền lương lúc này được trả theo đúng bản chất là giá cả sức lao động, hoạt động theo quy luật cung cầu về sức lao động, thông qua sự thoả thuận bằng hợp đồng lao động giữa chủ doanh nghiệp và người lao động. Kết quả là tiền lương trong DNTN phản ánh tương đối rõ nét những mức trả lương khác nhau theo đặc thù riêng của từng vùng, từng khu vực. Chủ doanh nghiệp tư nhân là chủ sở hữu đích thực có thể đồng thời là người chủ huy, người sử dụng lao động, trả lương cho người lao động bằng chính nguồn tài chính của riêng mình và không hề được sự hỗ trợ của ngân sách Nhà nước Trung ương hay địa phương. ở đây, tiền lương là một yếu tố của chi phí sản xuất như mọi chi phí khác. Do vậy mà chủ doanh nghiệp tính toán một cách rất chi li, thậm chí tìm cách hạ thấp mức trả lương xuống dưới giá trị sức lao động, nhất là việc tính toán kỹ lưỡng nhu cầu công nhân để có được giá thành hạ, thu được nhiều lợi nhuận hơn. Tuy vậy, chủ doanh nghiệp cũng biết sử dụng đúng chỗ, đúng lúc nhân kích thích của tiền lương để trả tương đối thoả đáng cho người lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao. Chủ DNTN không phải tìm nguồn tài chính bất hợp lệ, bất hợp pháp để trả lương cho người lao động mà chỉ bằng nguồn vốn của mình. Trong việc trả lương cho người lao động chủ DNTN có lợi thế ở chỗ: chỉ phải thuân thủ các quy định của pháp luật là không được trả lương dưới mức tiền lương tối thiểu cho người lao động làm những công việc giản đơn không qua đào tạo và tuân thủ quy định pháp luật về hạch toán kế toán thống kê tiền lương. Ngoài ra thì được hoàn toàn chủ động trong các việc như: xây dựng thang lương, bảng lương, định mức lao động và đơn giá, ấn định các mức lương trên mức lương tối thiểu cho lao động kỹ thuật, xác định các hình thức trả lương thích hợp với từng loại công việc. Do đó, phương pháp tiến hành những công việc này nói chung là đơn giản, nhiều trường hợp tuỳ thuộc vào trình độ, phương thức quản lý của chủ doanh nghiệp kể cả tính của người chủ mà tiến hành cho hợp lý. Ngay cả việc tuân thủ pháp luật về tiền lương tối thiểu, về thực hiện pháp lệnh hạch toán kế toán thống kê cũng đã có nhiều chủ doanh nghiệp tìm cách lảng tránh, thiếu trung thực. b. Trong các DNTN, người lao động không thoát khỏi vị thế chung của người lao động là chủ yếu. Trong các DNTN, việc làm - thu nhập của người lao động hay thất thường, không ổn định. Trong khi đó sức ép về việc làm nói chung của nền kinh tế cũng làm cho sự yếu thế của người lao động so với các chủ doanh nghiệp, nhất là đối với lao động không có kỹ thuật hoặc kỹ thuật thấp, đặc biệt là lao động nông thôn nhập cư vào các thành phố. Điều đó sẽ tác động rất lớn tới quan hệ trả lương giữa chủ và thợ trong doanh nghiệp. Người lao động trong DNTN đại bộ phận lấy tiền lương làm nguồn sống chủ yếu cho bản thân và gia đình. Họ thường bằng lòng với cơ máy có được việc làm và thu nhập. Do vậy họ ít quan tâm tới việc đòi hỏi công bằng xã hội, đòi hỏi chủ doanh nghiệp phải trả đúng giá trị sức lao động của mình. So với các DNNN, người lao động trong các DNTN phần lớn ít được phổ biến, quán triệt pháp luật lao động... Do đó, ngoại trừ một bộ phận lao động quản lý có trình độ chuyên môn cao được trả lương thoả đáng cao hơn nhiều so với mức lương của người cùng trình độ trong doanh nghiệp và cơ quan nhà nước. Còn lao động phổ thông, lao động có trình độ khoa học kỹ thuật thấp, tuy mức lương nhiều trường hợp có cao hơn trong DNNN chút ít, nhưng vẫn phải chịu thiệt thòi về các quyền lợi tham gia bảo hiểm xã hội, tổ chức công đoàn, cải thiện điều kiện lao động, đảm bảo an toàn lao động, vệ sinh lao động, thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi, tranh chấp lao động. Việc giao kết hợp đồng lao động, ký kết thoả ước lao động tập thể ít được quan tâm, đòi hỏi theo luật định. Trong trường hợp có tổ chức công đoàn vững mạnh và biết dựa vào tổ chức công đoàn thì người lao động lại có lợi thế để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng. 3. Sự cần thiết phải nâng cao thu nhập cho người lao động trong các doanh nghiệp tư nhân. Khu vực kinh tế tư nhân (KTTN) nói chung và các DNTN nói riêng ở nước ta ta mới được thừa nhận và phát triển khoảng 10 năm lại đây, vì thế nó chưa được chú trọng và phát triển. Trong khi nó là thành phần kinh tế năng động, rất quan trọng chiếm đại bộ phận trong nền kinh tế quốc dân. Tiền lương của người lao động ở đây vẫn còn rất thấp, người lao động luôn luôn bị yếu thế hơn so với các DNNN, kết quả lao động của họ nhận được tiền lương, giá cả sức lao động chưa tương xứng với sức lao động của họ đã bỏ ra, thu nhập của họ phải được nâng cao từ kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đó cũng là chức năng phân phối thu nhập trong nền kinh tế quốc dân, đảm bảo tính công bằng trong xã hội, thực hiện “làm theo năng lực, hưởng theo lao động”. Trong những năm gần đây, sự tiến bộ khoa học kỹ thuật, sự hiện đại của máy móc thiết bị, chuyên môn hoá, hiệp tác hoá diễn ra rộng khắp được áp dụng vào sản xuất; Do nhu cầu đòi hỏi sự đa dạng hoá sản phẩm hàng hoá của người tiêu dùng... Từ đó, đòi hỏi trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động cũng phải được nâng cao tương xứng với trình độ của máy móc, thiết bị. Nếu trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động thấp thì việc áp dụng công nghệ, máy móc thiết bị mới hiện đại sẽ rất khó khăn không có hiệu quả, việc nâng cao trình độ lao động là hết sức cần thiết. Muốn vậy, người lao động cần được học tập, nâng cao trình độ hơn nữa. Việc nâng cao thu nhập cho người lao động là một tất yếu và cần thiết. Lúc đó sẽ tái sản xuất sức lao động mở rộng cả về chất lượng, phục vụ cho doanh nghiệp, cho xã hội. Hơn nữa, các doanh nghiệp cũng phải thấy rằng: Thu nhập là một khoản ứng trước cho hiệu quả, cho mục đích sản xuất kinh doanh của mình. Tiền lương, thu nhập là giá cả của sức lao động mà người sử dụng lao động trả cho người lao động theo thoả thuận. Vì thế nó là công cụ quản lý mà người sử dụng lao động có thể sử dụng nó để điều khiển người lao động trong một giới hạn nhất định một cách có hiệu quả. Mục đích của việc điều khiển ở đây là kích thích khai thác tối đa khả năng lao động của người lao động. Việc nâng cao thu nhập cho người lao động sẽ nâng cao được tinh thần trách nhiệm, lòng nhiệt tình, hăng hái sản xuất, từ đó tăng năng suất lao động, hiệu quả sản xuất sẽ đạt được, đưa doanh nghiệp phát triển. Trong phạm vi một nền kinh tế quốc dân muốn CNH, HĐH diễn ra nhanh chóng thì đời sống của nhân dân phải được nâng cao, khi mà đời sống của người dân được cải thiện, nâng cao thì các nghĩa vụ, trách nhiệm của người dân đối với công việc chung, việc thực hiện các kế hoạch, chính sách của nhà nước mới thu được kết quả tốt. ở nước ta hiện nay vẫn là một nước nghèo, đời sống nhân dân vẫn còn khó khăn, việc nâng cao thu nhập cho người lao động là cần thiết, tạo sức mạnh của toàn dân trong công cuộc xây dựng đất nước. Nâng cao thu nhập, đời sống cho người lao động thực hiện “xã hội công bằng văn minh” cũng là mục tiêu cuối cùng của công cuộc CNH, HĐH đất nước. Đời sống của người dân vẫn còn nghèo đói khó khăn cũng có nghĩa là mục tiêu của CNH, HĐH chưa được thực hiện. Vì vậy nâng cao thu nhập cho người lao động nói chung và người lao động trong các doanh nghiệp tư nhân nói riêng là nhiệm vụ chung của toàn xã hội, đưa nước nhà phát triển. Chương2 Thực trạng tiền công thu nhập của người lao động trong các doanh nghiệp tư nhân hiện nay 1. Quá trình phát triển và đặc điểm tình hình sản xuất của các doanh nghiệp tư nhân trong các năm qua. 1.1. Về số lượng các doanh nghiệp tư nhân. Việt Nam, trong mấy chục năm qua, quan điểm chính thống đối với thành phần kinh tế tư nhân có những thay đổi. Kinh tế tư nhân phát triển qua các bước thăng trầm, có thể chia thành 2 giai đoạn chính. a. Trong thời gian đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta (sau cuộc cách mạng giành độc lập dân tộc). Trong thời gian này, do tư tưởng muốn hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa trong một thời gian ngắn mà kinh tế tư nhân không được thừa nhận, bị xoá bỏ, hoặc hoà tan vào trong thành phần kinh tế quốc doanh dưới hình thức Công ty hợp doanh. Sau năm 1954, trải qua một thời kỳ cải tạo ngắn ngủi, kinh tế tư bản tư nhân bị biến mất ở miền bắc. Đến cuối năm 1960, công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công nghiệp tư bản tư nhân căn bản hoàn thành và chuyển 729 xí nghiệp tư nhân thành 661 xí nghiệp công tư hợp doanh, và 68 xí nghiệp quốc doanh. Sau khi giải phóng miền Nam, cả nước thống nhất đã cùng đi lên chủ nghĩa xã hội, với tư tưởng đó, chúng ta lại tiến hành cải cách một cách triệt để và kinh tế tư nhân lại bị xoá bỏ ở miền Nam. Đến cuối năm 1975 thì thành phần kinh tế tư nhân bị xoá bỏ hoàn toàn. b. Giai đoạn từ Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đến nay. Từ Đại hội Đảng lần thứ VI, Đảng và nhà nước đã nhận được những sai lầm trong đường lối quản lý kinh tế nói chung và trong cải tạo xã hội chủ nghĩa nói riêng. Do vậy, đã thừa nhận sự tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta, trong đó có thành phần kinh tế tư nhân. Chính do nhận thức được tình hình tất yếu khách quan của thành phần kinh tế tư nhân, mà nhà nước đã ban hành hàng loạt các chủ trương chính sách, quy định về thành lập và hoạt động của doanh nghiệp tư nhân. Hội nghị lần thứ II của TW Đảng (ngày 4/4/1987) đã cụ thể hoá nghị quyết của đại hội VI về chính sách đối với kinh tế cá thể và kinh tế tư bản tư nhân, đề ra yêu cầu xoá bỏ sự phân biệt đối xử trong chính sách kinh tế xã hội đối với các thành phần kinh tế này. Các chính sách đó đã được thể chế hoá thành những văn bản pháp quy: Nghị định 27 HĐBT ngày 9 tháng 3 năm 1988 của hội đồng bộ trưởng ban hành quy định về chính sách đối với kinh tế cá thể, kinh tế tư doanh, nghị quyết 16 của Bộ chính trị về đổi mới chính sách và cơ chế quản lý đối với các cơ sở sản xuất thuộc thành phần kinh tế quốc doanh. Luật doanh nghiệp tư nhân ng._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28168.doc
Tài liệu liên quan