Tìm hiểu báo Nông nghiệp Việt Nam trong sự nghiệp CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn

Mục lục 1. Lý do chọn đề tài 4 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứ 5 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 5 4. Phương pháp nghiên cứu 6 Chương 1: Lịch sử hình thành và phát triển của báo nông nghiệp Việt Nam 7 1. Lịch sử hình thành và phát triển của báo nông nghiệp Việt Nam 7 2. Chức năng, nhiệm vụ của báo nông nghiệp Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, 8 2.1. Báo chí với công tác tuyên truyền công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông t

doc76 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1252 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tìm hiểu báo Nông nghiệp Việt Nam trong sự nghiệp CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hôn 8 Chương 2: Nội dung thể hiện của báo nông nghiệp trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn (khảo sát năm 2001 - 2002) 1. Thời sự, kinh tế nông nghiệp, nông thôn 14 1.1. Phản ánh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn 14 1.1.1. Những thành tựu trong chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn 14 1.1.2. Những vấn đề vướng mắc 18 1.2. Đầu tư vốn, xây dựng cơ sở hạ tầng 20 1.3. Thực hiện quy chế dân chủ ở nông thôn 23 2. Văn hoá, xã hội nông thôn và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng 25 2.1. Văn hoá -xã hội 25 2.1.1. Góp phần xây dựng nông thôn mới, con người mới 26 2.1.2. Giữ gìn nét đẹp trong văn hoá xã hội truyền thống ở nông thôn 28 2.1.3. Phê phán xự xuống cấp của văn hoá xã hội ở nông thôn 31 2.2. Chăm sóc sức khoẻ cộng đồng 35 3. Khuyến nông, khoa học kỹ thuật và tiến bộ canh tác 37 3.1. Hiệu quả của công tác khuyến nông trong tuyên truyền khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp, nông thôn 39 3.2. Trao đổi, phổ biến kinh nghiệm sản xuất 45 3.2.1. Nêu gương những điển hình làm ăn kinh tế giỏi 45 3.2.2. Trao đổi kinh nghiệm, ứng dụng khoa học, kỹ thuật trong nông nghiệp 47 3.2.2. Trao đổi kinh nghiệm, ứng dụng khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp 47 4. Vấn đề bạn đọc 50 4.1. Phản ánh những vấn đề tồn tại trong nông nghiệp, nông thôn 50 4.2. Biểu dương gương người tốt, việc tốt 53 Chương 3: Hình thức thể hiện trên báo nông nghiệp Việt Nam 54 1. Đánh giá chung 54 2. Hệ thống các thể loại thường xuyên xuất hiện 56 2.1. Tin 56 2.2. Bài phản ánh 58 2.3. Thể loại phóng sự 61 2.4. Ghi chép 63 2.5. Điều tra 64 3. Hình thức trình bày báo nông nghiệp Việt Nam 65 3.1. Chuyên trang, chuyên mục 66 3.2. Khổ báo 67 3.3. Măng - séc 67 3.4. Chữ (text) 68 3.5. Màu sắc 69 3.6. Fi - lê (Filet) 70 3.7. Nền (Trame) 70 3.8. Biểu tượng (vi nhet - vingette) 70 3.9. ảnh 71 Kết luận 73 Lời cảm ơn. Tôi xin chân thành cảm ơn thầy Trần Quang, người đã nhiệt tình hướng dẫn tôi hoàn thành khoá luận tốt nghiệp. Tôi xin cảm ơn Nhà văn Văn Chinh cùng các anh chị trong toà soạn báo Nông nghiệp Việt Nam đã giúp đỡ tôi trong quá trình khảo sát và tìm tư liệu phục vụ khoá luận. Cảm ơn các thầy cô trong khoa Báo chí đã dẫn dắt và cung cập kiến thức cho tôi trong suốt quá trình học tập. Sinh viên: Lê Thu Hà Mở đầu 1. Lý do chọn đề tài. Trước đổi mới (năm 1986), cả nước ta có trên 50% nông dân đói nghèo, nay đã không còn hộ đói, số hộ nghèo giảm xuống còn 16%. Đây là một trong những kết quả đạt được trong quá trình CNH, HĐN đất nước với sự góp sức của nông nghiệp, nông thôn, cùng với sự nỗ lực của các cấp, các ngành địa phương. Nông nghiệp, nông thôn và nông dân luôn giữ vai trò quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến đời sống kinh tế- xã hội của đất nước. Kể từ khi thành lập cho đến nay, Đảng ta luôn khẳng định vai trò, sức mạnh to lớn của nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Đặc biệt trong quá trình đổi mới, đường lối đúng đắn của Đảng về phát triển nông nghiệp, nông thôn đã thực sự phát huy vai trò và khơi dậy tiềm lực trong nhân dân. Tuy nhiên, phát triển nông nghiệp, nông thôn trong quá trình CNH, HĐH là công việc hết sức khó khăn, thử thách. Bởi nước ta tiến hành CNH, HĐH trong điều kiện nền kinh tế tăng trưởng không cao, trình độ dân trí thấp, cơ sở hạ tầng... không đảm bảo. Do đó tuyên truyền về CNH, HĐH trở thành yêu cầu chung của mọi cấp, mọi ngành trong cả nước, trong đó có sự đóng góp quan trọng của báo chí. Cùng với qúa trình CNH, HĐH đất nước, hầu hết các cơ quan báo chí từ trung ương đến địa phương đều tập trung phản ánh, tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với các chính sách phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá, chính trị, an ninh quốc phòng, đánh giá và rút ra bài học kinh nghiệm trên tất cả các lĩnh vực. Tìm hiểu vai trò của báo chí trong công tác tuyên truyền CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, có nhiều đề tài nghiên cứu của các nhà khoa học, sinh viên đã đề cập đến như: “Báo chí với sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn”, “Những vấn đề then chốt của việc phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH”... Nhưng dường như rất ít đề tài tập trung nghiên cứu vai trò của một tờ báo cụ thể trong công tác tuyên truyền CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Và để có cái nhìn toàn diện về sự biến đổi của nông thôn trong quá trình CNH, HĐH đất nước, nên tôi chọn đề tài: “Tìm hiểu báo Nông nghiệp Việt Nam trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn”. Đây là một trong số ít những tờ báo trong những năm qua đã làm tốt chức năng là diễn đàn xã hội vì sự phát triển của nông nghiệp và nâng cao dân trí nông thôn, được người dân đánh giá chất lượng. Đã từng bước đưa nghị quyết của Đảng, Nhà nước vào cuộc sống có hiệu quả, nhằm đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Qua tìm hiểu báo NNVN trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, tác giả muốn cung cấp một cái nhìn tương đối toàn diện về những biến động của quá trình đổi mới đang diễn ra ở nông thôn. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Nghiên cứu đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội... thông qua những bài báo tiêu biểu trên báo NNVN trong hai năm (2001-2002), để làm nổi bật vai trò, vị trí của tờ báo trong công tác tuyên truyền về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Đồng thời khoá luận có tham khảo, kế thừa một số bài viết về CNH, HĐH trong thời kỳ đổi mới, một số công trình nghiên cứu về đề tài Báo chí với sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn... 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. Qua việc nghiên cứu, tìm hiểu báo NNVN, là cơ hội tốt để tôi tiếp cận với phương pháp làm việc có khoa học, hệ thống, để học hỏi, tích luỹ kinh nghiệm, nghiệp vụ của người đi trước. Đồng thời đây là dịp để tôi có thể hiểu sâu rộng hơn sự biến đổi của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thông qua phản ánh của báo chí nói chung và báo NNVN nói riêng. Nghiên cứu, khảo sát, thống kê, phân loại nội dung, phân tích các đặc điểm về nội dung tác phẩm báo chí viết về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn trên các lĩnh vực: Thời sự- kinh tế, Văn hoá- xã hội, Khuyến nông- khoa học kỹ thuật và tiến bộ canh tác... Nghiên cứu hình thức thể hiện của tờ báo NNVN: Thể loại, Makét, Chuyên trang, chuyên mục... gắn liền với việc đề xuất ý kiến, kiến nghị về nội dung và hình thức thể hiện của báo NNVN. 4. Phương pháp nghiên cứu. Sưu tầm, khảo sát, thống kê số liệu thu thập được. Phân tích, đánh giá và bám sát đường lối, quan điểm của Đảng, Nhà nước và Bộ NN& PTNT về chính sách đối với nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Để thấy được vai trò, vị trí của công tác tuyên truyền của báo chí nói chung và báo NNVN nói riêng trong thời kỳ đổi mới. Qua đó thấy rõ được những đóng góp của tờ báo đối với sự nghiệp CNH-HĐH nông nghiệp - nông thôn, đồng thời chỉ ra các khuyết điểm, hạn chế trong cách thể hiện cũng như nội dung phản ánh để từng bước đưa tờ báo gần với người nông dân hơn, bám sát hơn nữa chủ trương, chính sách của Đảng và ngày một hoàn thiện vai trò, nhiệm vụ của mình trong đời sống xã hội. Chương 1 lịch sử hình thành và phát triển của báo Nông nghiệp Việt Nam 1. lịch sử hình thành và phát triển của báo Nông nghiệp Việt Nam. Tiền thân của báo là tờ “Tấc đất”, ra đời năm 1946 trong hoàn cảnh đất nước đang trong tình trạng đói kém triền miên. Năm 1947, “Tấc đất” đổi thành “Toàn dân canh tác” nhằm cổ vũ, hướng dẫn nông dân sản xuất nông nghiệp, tự túc nguồn lương thực- thực phẩm, và hàng tiêu dùng trong cả nước. Đến năm 1949 báo có tên “Canh nông tập san”, nhằm giới thiệu chủ trương, biện pháp lớn về nông nghiệp và những kết quả thực nghiệm, nghiên cứu khoa học- kỹ thuật của ngành. Hoà bình lập lại, cùng thời điểm thành lập Bộ Nông Lâm, tờ báo có khổ A2. Năm 1962 sau khi tách Bộ Nông Lâm thành Bộ Nông nghiệp và Bộ Lâm nghiệp, theo chỉ thị của đồng chí Nguyễn Chí Thanh- Uỷ viên Bộ Chính trị kiêm Trưởng Ban Nông nghiệp Trung ương, báo gấp thành quyển 13x19cm với măng séc “Tạp chí Khoa học kỹ thuật nông nghiệp”, phát hành mỗi tháng 2 kỳ. Chủ yếu giành cho nông dân, xã viên. Năm 1968, tờ “Tạp chí Khoa học kỹ thụât nông nghiệp” lại được mở ra thành khổ báo như hiện nay là 42x 29cm, 8 trang và mỗi tháng 2 kỳ. Ngày 30.5.1987 Bộ Nông nghiệp và Công nghệ thực phẩm ra quyết định số 89 NN- CNTP/ QĐ, cho phép thành lập cơ quan báo Nông nghiệp Việt Nam và Tạp chí Khoa học kỹ thuật nông nghiệp trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Công nghịêp thực phẩm gọi là “Báo Nông nghiệp Việt Nam”, trên cơ sở hợp nhất báo Lương thực (Bộ lương thực cũ), báo Nông nghiệp và Tạp chí Khoa học kỹ thuật nông nghiệp (Bộ Nông nghiệp cũ). Lúc này số ngày phát hành được thu hẹp còn 10 ngày/1 kỳ, khổ 42x 29 cm với 8 trang. Năm 1998 số kỳ ra báo tăng lên 1 tuần 2 kỳ, 16 trang, có thêm tạp chí “Kiến thức gia đình” (phát hành năm 1995). Một năm sau tăng lên 3 kỳ 1 tuần, rồi năm 2000- 2001 báo tăng lên 4 kỳ và có thêm phụ san Dân tộc và Miền núi, phát hành vào thứ 4 hàng tuần. Ngày 1.4.2002 báo phát hành 5 kỳ. Báo in ở 2 miền; Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, năm sau báo mở rộng địa bàn in ở Đà Nẵng. Báo Nông nghiệp được đánh giá là tờ báo có số lượng phát hành ổn định, trước năm 2001 số báo phát hành khoảng 3 vạn và vẫn giữ vững cho đến bây giờ. 2. Chức năng, nhiệm vụ của báo Nông nghiệp Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. 2. 1. Báo chí với công tác tuyên truyền công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Nước ta là một nước nông nghiệp, trên 65% lao động xã hội và khoảng 80% dân cư sống ở nông thôn, bởi thế nông nghiệp Việt Nam “Là một trong hai ngành sản xuất vật chất chủ yếu của xã hội, sản phẩm của nông nghiệp là nhu cầu tối cơ bản của con người” [1, 193]. Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định: “Việt Nam là một đất nước sống về nông nghiệp. Nền kinh tế của ta lấy nông nghiệp làm gốc, nông dân giàu thì nước ta giàu, nông nghiệp thịnh thì nước ta thịnh”. Vì vậy nông nghiệp luôn là trọng tâm được đề cập đến trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của nước ta, là cơ sở để phát triển các ngành kinh tế khác, cho nên muốn qúa trình CNH, HĐH đất nước diễn ra thuận lợi và nhanh chóng thì phải cải tạo và phát triển nông nghiệp, nông thôn. Từ những năm 1990, Đảng và Nhà nước ta đã tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Với chủ trương đúng đắn đó, nền kinh tế nước ta đã thu được hiệu quả cao, làm thay đổi căn bản bộ mặt nông thôn, đời sống của đại bộ phận dân cư Việt Nam. Từ chỗ thiếu ăn, chúng ta đã giải quyết được vấn đề lương thực trong nước, tăng số lượng xuất khẩu lương thực, mức đóng góp của nông nghiệp lên tới 27%, giảm được tỷ lệ thất nghiệp, xóa đói giảm nghèo, đưa khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp, nâng cao nhận thức và văn hoá cho người dân. Đánh giá vị trí của CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, các nghị quyết TW Đảng đều đánh giá vị trí hàng đầu của nông nghiệp trong tiến trình xây dựng đất nước và đổi mới nền kinh tế. Hội nghị trung ương lần 5 khoá VII khẳng định: “Phát triển toàn diện nông nghiệp và kinh tế- xã hội nông thôn, coi đó là nhiệm vụ cấp bách để thực hiện CNH, HĐH nông thôn”. Chỉ thị 100 của Ban bí thư TW Đảng, các Nghị quyết của Đảng và chính sách của Nhà nước đều nhấn mạnh đến vai trò của nông nghiệp, nông thôn. Gần đây, báo cáo Chính trị tại Đại hội IX của Đảng đã nhấn mạnh: “Tăng cường sự chỉ đạo và các nguồn lực cần thiết cho CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Tiếp tục phát triển và đưa nông- lâm- ngư nghiệp lên một trình độ mới bằng việc ứng dụng những tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới cơ cấu cây trồng, vật nuôi... Đầu tư nhiều hơn cho phát triển hạ tầng kinh tế và xã hôi ở nông thôn, phát triển công nghiệp dịch vụ, các ngành nghề đa dạng, nhất là công nghiệp chế biến, cơ khí phục vụ nông nghiệp, các làng nghề; chuyển một bộ phận quan trọng lao động nông nghiệp sang khu vực công nghiệp, dịch vụ, tạo nhiều việc làm; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện đời sống nông dân và dân cư ở nông thôn”. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là lĩnh vực rộng lớn, bao trùm nhiều mặt của đời sống kinh tế- xã hội. Và để tiến hành thành công công cuộc xây dựng nông thôn trong thời kỳ đổi mới thì công tác tuyên truyền luôn được Đảng ta coi trọng hàng đầu, trong đó báo chí được coi là lực lượng xung kích và có hiệu quả nhất. Thông qua nhiều hình thức, báo chí đã góp phần quan trọng trong việc thông tin, chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, thâm canh, cổ vũ và biểu dương kịp thời và nhân rộng mô hình, hình thành trong phát triển nông nghiệp, nông thôn. Tại Đại hội lần VI, Hội nhà báo Việt Nam đồng chí Nguyễn Đức Bình- Uỷ viên Bộ chính trị đã đánh giá vai trò của báo chí: “Không thể hình dung được sự đổi mới mà không có sự tham gia của báo chí. Không thể hình dung công cuộc dân chủ hoá đời sống xã hội mà không có vai trò của báo chí. Không thể hình dung sự phát triển của đời sống văn hoá tinh thần xã hội, sự nâng cao dân trí mà không có vai trò của báo chí”. Với chức năng: Là người tuyên truyền, tổ chức và cổ vũ tập thể đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, báo chí phải truyền bá sâu rộng đường lối chính sách đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn, làm cho toàn Đảng, toàn dân nhất trí cao, tự giác, chủ động thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH nông thôn bằng những chương trình, kế hoạch cụ thể. Phải hướng dẫn cụ thể cách làm, cách chuyển đổi cơ cấu cây, con, cơ cấu kinh tế, lao động cho từng hộ, xã huyện, tỉnh. Bên cạnh đó là người cổ vũ tập thể, báo chí luôn phải bám sát thực tiễn, phát hiện và cổ vũ các nhân tố mới, các điển hình kinh tế, tổng kết các kinh nghiệm hay phổ biến nhằm nhân rộng các điển hình, tạo thành phong trào thi đua trong cả nước. Thực hiện thắng lợi sự nghiệp đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp và kinh tế nông thôn Việt Nam. Báo “Nông nghiệp Việt Nam” là một tờ báo chuyên sâu cung cấp cho nông dân những kiến thức xung quanh nghề nông (thổ nhưỡng, khí hậu, quá trình sinh học của từng giống cây, giống con mới), những kiến thức để đưa công nghiệp và dịch vụ về với nông thôn. Cung cấp đầy đủ kiến thức và hướng dẫn các hình thức hợp tác xã, liên kết của nông dân trong thôn, ấp, xã... Phản ánh kịp thời những tâm tư nguyện vọng, sáng kiến và ý chí của nông dân trong sự nghiệp chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên để tuyên truyền nông nghiệp, nông thôn và nông dân có hiệu quả thì báo không thể tuyên truyền một cách đơn điệu,chung chung. Mà cần phải có sự chọn lọc, đa dạng thông tin, kết hợp nhiều thể loại báo chí khác nhau, mở rộng chuyên mục, chuyên trang. Hiện nay ở hầu hết các tỉnh đều có báo của riêng mình, đây là tờ báo hoạt động có hiệu quả, gần gũi với người dân và phản ánh chân thực đời sống người dân. Nhưng báo địa phương có mặt hạn chế là chỉ phản ánh riêng ở một địa phương, nội dung không phong phú và bị bó hẹp bởi không gian địa lý. Báo “Nông nghiệp Việt Nam” là một trong số ít những tờ báo giành cho người nông dân từ khi ra đời đến nay đã khắc phục được nhược điểm trên. Nội dung mà tờ báo đề cập đa dạng và ở nhiều phương diện, gần gũi và hữu ích đối với mọi người dân. Tờ báo đã và đang làm tốt chức năng là diễn đàn xã hội vì sự phát triển nông nghiệp và nâng cao dân trí nông thôn trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. 2. 2. Công tác tuyên truyền của báo Nông nghiệp Việt Nam. Là tờ báo giành cho nông dân, lấy đối tượng nông dân làm hàng đầu, hoạt động với mục đích tôn chỉ vì sự nghiệp nông nghiệp, nâng cao dân trí nông thôn. Trải qua 58 năm hoạt động, báo NNVN đã cung cấp cho độc giả mà chủ yếu là bà con nông dân những kiến thức bổ ích về nông nghiệp- nông thôn, những đường lối chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, Bộ Nông nghiệp về nông nghiệp và phản ánh đa dạng đời sống nông dân trong cả nước qua các thời kỳ. Ngay khi có phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, ngày 3.9.1945 do Bác Hồ làm chủ toạ, trong tình hình hết sức cấp bách, Bác trình bày với các Bộ trưởng những nhiệm vụ trước mắt phải lo là “nhân dân đang đói”. Bác nhấn mạnh vai trò của báo chí trong việc phát triển nông nghiệp, trong công tác tuyên truyền và phổ biến kiến thức cho nông dân. Ngay sau đó Bác là người tiên phong trong phong trào viết về nông nghiệp, nông thôn và nông dân với hai bài: “Gửi nông gia Việt Nam”, số ra ngày 7.12.1945. Bài viết của Người đã trở thành tôn chỉ, mục đích của báo giành cho nông dân. Qua bài viết, Người chỉ ra rằng; “Loài người ai cũng “dĩ thực vi tiên” (nghĩa là trước tiên phải ăn); nước ta thì “ dĩ nông vi bản” (nghĩa là nghề nông làm gốc). Dân muốn ăn no thì phải giồng giọt nhiều. Nước muốn giàu mạnh thì phải phát triển nông nghiệp. Vậy chúng ta không nên bỏ hoang một tấc đất nào hết. Chúng ta phải quý một tấc đất như một tấc vàng...”; Tiếp đến bài báo thứ hai Bác phân tích; “Hợp tác xã là gì? Nói tóm lại, hợp tác xã là hợp vốn, hợp sức với nhau. Vốn nhiều, sức mạnh thì khó nhọc ít mà lợi nhiều. Vì vậy hợp tác xã nông nghiệp là một tổ chức có lợi to cho nhà nông. Nó là một cách đấu tranh có hiệu quả nhất để giúp vào việc xây dựng nước nhà. Hợp tác xã giúp cho nhà nông đật đến mục đích, đã ích nước thì lại lợi nhà...”. Hiểu rõ lời dăn dạy của Bác, báo “Tấc đất” ngay sau khi ra đời (năm 1946), đã đảm nhiệm chức năng tuyên truyền chống giặc đói với phong trào “tấc đất tấc vàng”, phát động chiến dịch tăng gia sản xuất trong toàn dân sau khi đánh giá tình hình hiện tại của đất nước. Giới thiệu các tiến bộ khoa học kỹ thuật áp dụng trong nông nghiệp, nhất là các giống cây ngắn ngày như ngô, khoai lang và rau màu khác, báo cũng đăng nhiều bài nêu gương tăng gia sản xuất giỏi. Mục đích của báo lúc này, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Canh nông kiêm chủ nhiệm báo “Tấc đất” Nguyễn Xuân Yêm là nhanh chóng diệt giặc đói bằng mọi giá để đưa người dân thoát khỏi tình trạng đói kém. Từ năm 1954 báo mang tên “Nông nghiệp Việt Nam”, ngoài chức năng phổ biến kiến thức cho người dân nông thôn, báo còn góp phần xây dựng mô hình HTX nông nghiệp cấp thấp, cấp cao, cải tiến quản lý HTX nông nghiệp và nâng cao hơn nữa đời sống người dân ngay sau khi kết thúc chiến tranh ở miền Bắc, bước vào xây dựng CNXH và chi viện cho miền Nam. Công tác tuyên truyền của báo “Nông nghiệp” thể hiện trên bài “Cùng bạn đọc thân mến” (10.10.1987), của Phó thủ tướng Nguyễn Công Tạn, trước là Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm. Bài báo nêu lên Chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về Nông nghiệp, Lương thực, Công nghệ thực phẩm, cùng những chủ trương, chính sách của Ngành Nông nghiệp, trao đổi kinh nghiệm các điển hình tiên tiến, đấu tranh chống lại biểu hiện tiêu cực trong ngành. Hiện nay, báo “Nông nghiệp Việt Nam” đang phát huy vai trò của mình trong việc tuyên truyền, hướng dẫn thực hiện chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng và văn hóa nông thôn. Phổ biến đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước đến từng nhà nhằm phát triển kinh tế- văn hoá- xã hội, phát triển nông nghiệp- nông thôn và nâng cao nhận thức của người dân trong phong trào đóng góp ý kiến, nguyện vọng của mình để hoàn chỉnh hơn nữa hệ thống quản lý nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Bên cạnh đó báo còn cung cấp những thông tin ứng dụng khoa học kỹ thuật trong và ngoài nước vào sản xuất kinh doanh và đời sống người dân. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý khoa học, xây dựng nông thôn mới. Góp phần tiến tới hoàn thiện hệ thống CNH, HĐH Đảng, Nhà nước đã đề ra trong những năm tiếp theo. Báo “Nông nghiệp” luôn bám sát thực tế của nông nghiệp và nông thôn, kịp thời phản ánh tâm tư nguyện vọng của nhân dân. Trong giai đoạn hiện nay, báo đang làm tốt chức năng của mình trong tuyền truyền CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, thực sự trở thành người bạn đồng hành của bà con nông dân trong việc ứng dụng, phổ biến kiến thức khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp, nêu gương những điển hình kinh tế. Một mặt báo “Nông nghiệp” đề cập đến đời sống văn hoá ở nông thôn, cung cấp cho độc giả cái nhìn toàn diện về đời sống tinh thần- vật chất của người dân. Chương 2, tác giả sẽ đi sâu tìm hiểu nội dung mà báo “Nông nghiệp Việt Nam” đề cập qua 2 năm (2001- 2002), để làm nổi bật công tác tuyên truyền công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn của tờ báo. Chương 2 NộI DUNG thể hiện của BáO NôNG NGHIệP trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn (Khảo sát năm 2001- 2002) Báo “Nông nghiệp Việt Nam” có tôn chỉ mục đích rõ ràng là; vì sự phát triển nông nghiệp và nâng cao dân trí nông thôn. Đối tượng của tờ báo là đại đa số người dân lao động, tập trung ở vùng quê nông thôn và trình độ dân trí chưa cao so với các vùng khác. Vì vậy tuyên truyền về nông nghiệp, nông thôn, nông dân trên Nông nghiệp Việt Nam luôn phải đảm bảo tính định hướng của Đảng, Nhà nước, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, đảm bảo tính gần gũi, để dân có thể hiểu và tiếp nhận thông tin có hiệu quả nhất. Bên cạnh đó, để công tác tuyên truyền sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn có hiệu quả, tờ báo luôn cập nhật thông tin, phản ánh đa dạng, nhiều mặt, tạo ra một bức tranh hoàn chình về sự biến đổi của nông thôn trong quá trình đổi mới. Qua khảo sát 2 năm 2001- 2002, nội dung chính của tờ báo “Nông nghiệp Việt Nam” trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn gồm các vấn đề sau: * Thời sự, kinh tế nông nghiệp, nông thôn. * Văn hóa, xã hội nông thôn và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng. * Khuyến nông, khoa học kỹ thuật và tiến bộ trong canh tác. * Các vấn đề bạn đọc. 1. thời sự, kinh tế nông nghiệp, nông thôn. phản ánh Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. 1.1.1. Những thành tựu trong chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Những năm qua, công cuộc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn đã làm thay đổi căn bản đời sống xã hội ở các vùng nông thôn. Thu nhập bình quân trong dân tăng đáng kể, đời sống văn hoá, xã hội được nâng cao, cơ sở vật chất, giáo dục và y tế đảm bảo. Kết quả này được phản ánh khá rõ nét trong bài “Hấp dẫn Tân Trường” (Số 1+2.2002) của Nguyễn Lễ. Bài viết là những ghi nhận về sự đổi thay của xã Tân Trường, Bến Cát, Bình Dương trong quá trình áp dụng giống cây trồng phù hợp, điển hình là cây xoài cát Hoà Lộc, xoài Bưởi, sầu riêng, nhãn tiêu da bò... Đời sống người dân nhờ đó được cải biện rõ rệt. Xây dựng được đường dây điện trung thế dài 6km, hoàn thiện trên 5km đường đá đỏ, 2km đường nội vùng nông thôn và trên 10km kênh mương thuỷ lợi, với tổng số vốn đầu tư là 460.5 triệu đồng. Đường sá đã được mở rộng, nối liền từ HTX đến quốc lộ 13. Tân Trường đã xoá đi sự cách biệt trong đời sống cộng đồng giữa vùng sâu vùng xa với thị trấn, thị xã. Giải quyết được công ăn việc làm cho 150 lao động nông thôn, thu nhập ổn định từ 500- 700 ngàn đồng/ tháng. Ngoài ra, những bài “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế miền núi. Đưa cá lên... rừng” (22.1.2002) của tác giả Nghiêm Thị Hằng, “Tháp Mười: dưa hấu mang lại nguồn thu lớn”- Lê Thị Diền (28.6.2001)... là những bài phản ánh khá rõ nét sự đổi thay của đời sống nông thôn từ khi các tỉnh, địa phương trong cả nước áp dụng chiến lược chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn. Điển hình là tại Yên Bái, “nhờ áp dụng chương trình chuyển dịch cơ cấu, đến nay diện tích nuôi thả cá là 21.000 ha và đạt 2.300 tấn, giá trị thuỷ sản đạt 28,5 tỷ đồng. Giá trị thuỷ sản trong chăn nuôi năm 1995 là 2,4% đến 2001 đã lên đến 12,8%. Số hộ nghèo năm 2000 là 19,2% còn 16,9% năm 2001” ( bài Chuyển dịch cơ cấu kinh tế miền núi. Đưa cá lên… rừng). Từ những thành tựu trên, mục tiêu từ nay đến năm 2020, phấn đấu đưa nước ta thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hoá đang diễn ra thuận lợi. Trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn thì mô hình đươc coi là có hiệu là kinh tế VAC. Kinh tế VAC ra đời cách đây gần 20 năm và giá trị của nó về nhiều mặt đã được khẳng. Trong những năm qua, bằng sự cố gắng nỗ lực không ngừng, báo NNVN đã thực sự trở thành người bạn đường của kinh tế VAC trong việc tuyên truyền những ưu điểm trong mô hình kinh tế này, giới thiệu những cách làm sáng tạo, hiệu quả cao của trang trại VAC. Thực tế cho thấy rằng, qua sự phản ánh của báo thì mô hình VAC đã được phát triển và nhân rộng ở khắp các vùng nông thôn. Các bài: “Chuyển dịch cơ cấu vùng ĐBSH. Những mảnh đất thu bạc tỷ” (Trần Cao. 21.1.2002), “Kinh tế trang trại, tín hiệu của nền sản xuất hàng hoá lớn” (8.2.2002)... là những bài viết tiêu biểu về vấn đề này. Trong bài “Kinh tế trang trại, tín hiệu của nền sản xuất hàng hoá lớn”, tác giả Duy Chiến đánh giá: “Kinh tế trang trại đã đi tiên phong thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trên lĩnh vực nông lâm thuỷ sản”. Tính ưu việt của kinh tế trang trại thể hiện ở nhiều mặt: Khai thác và sử dụng có hiệu quả tiềm năng đất đai, lao động, tiền vốn. Có khoảng 300.000 lao động ở nông thôn đã có việc làm ở trang trại đồng thời kinh tế trang trại còn là hình mẫu tổ chức sản xuất và quản lý kinh tế ở nông thôn theo cơ chế thị trường. Số liệu thống kê trong bài báo “Kinh tế trang trại, tín hiệu của nền sản xuất hàng hóa lớn” cho chúng ta thấy thành quả mà mô hình VAC đem lại. (Đơn vị: Triệu đồng) Vùng Vốn sản xuất bình quân/trang trại Thu nhập bình quân/trang trại Cả nước 93,96 37,98 Đồng bằng sông Hồng 122,14 42,06 Đồng bằng sông Cửu Long 59,92 35,95 Đồng bằng Nam Bộ 211,18 54,04 Tây Nguyên 190,59 53,95 Nhờ quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế, trong đó có mô hình kinh tế trang trại “đã khai thác tốt tiềm năng đất đai, lao động, kinh tế và sản phẩm nông nghiệp”. Trong bài “Kinh tế trang trại- Bước đột phá của Bình Dương” (8.2.2001), tác giả Ngọc Lễ đã nhận xét: “Chăn nuôi chưa hẳn là cứu cánh của người nghèo nhưng đó đã là phương cách làm giàu của nhiều người dân”. Vì thế mà năm 1996, tỷ lệ đói nghèo ở Bình Dương là 14,17% thìa năm 2000 giảm xuống còn 2,8%. Đời sống nông dân đã dần khấm khá và có của ăn của để, không còn phải chịu cảnh đói rét thất thường. Cơ sở hạ tầng cũng được nâng cấp, đầu tư thích đáng. Nông dân không còn chịu cảnh đói thông tin, bênh tật được hạn chế, đẩy lùi... Hiệu quả mà mô hình kinh tế VAC đem lại là tín hiệu vui không chỉ với người nông dân, mà còn khẳng định sự đúng đắn trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở nước ta trong thời kỳ đổi mới. Cùng với cả nước, ngành Thuỷ sản cũng đã bước vào cuộc với sức đầu tư lớn từ nhiều nguồn khác nhau; Nghề nuôi trồng thuỷ sản được xem là mô hình ứng dụng vào thực tiễn mang lại hiệu quả cao. Năm 2001, kim ngạch xuất khẩu của ngành thuỷ sản đạt 1,8 tỷ USD, trở thành cường quốc xuất khẩu thủy sản đứng thứ hai trong khu vực và đứng thứ 7 trên phạm vi toàn cầu. Và để đẩy mạnh hơn nữa hiệu quả của ngành thuỷ sản, đã có nhiều chính sách ưu đãi của Nhà nước và Bộ NN- PTNT đối với ngành kinh tế mũi nhọn này. 23 tỷ đồng đã được đầu tư cho khuyến ngư, trong đó vốn đầu tư cho địa phương là 10 tỷ đồng (bài: “Năm 2001 đầu tư 23 tỷ đồng cho khuyến ngư” (S32.2001), “140 dự án trong chương trình phát triển thuỷ sản được phê duyệt; các dự án chuyển tiếp được triển khai. Chương trình phát triển thuỷ sản được Trung ương hỗ trợ 340 tỷ đồng”. (“Thuỷ sản Việt Nam đang... khát vốn”- Nghiêm Thị Hằng 7.1.2002). Đây là sự đầu tư thích đáng cho một ngành kinh tế mũi nhọn, thành viên mạnh của nền kinh tế nước nhà. Đánh giá những thành quả mà thuỷ sản Việt Nam đạt được kể từ khi đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tác giả Kim Châu trong bài: “Thuỷ sản Việt Nam, bước chân dài qua hai thế kỷ” (22-301.2001) đã nhận xét: “Hiện nay thuỷ sản Việt Nam đã có uy tín trên thị trường gần 60 nước. Thuỷ sản Việt Nam không chỉ giữ vững được thị trường EU mà đã bước chân sang các thị trường khó tính như Nhật Bản, Hoa Kỳ”. Những kết quả thu được đã khẳng định đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước, Bộ Nông nghiệp là hoàn toàn đúng đắn, hợp với nguyện vọng của quần chúng nhân dân, là yêu cầu thiết yếu của nông nghiệp, nông thôn. Muốn CHN, HĐH đất nước, trước tiên phải đổi mới từ nông nghiệp, nông thôn. Nghị quyết TW5 khóa IX cũng đã chỉ rõ; “Dựa vào nội lực là chính, đồng thời tranh thủ tối đa các nguồn lực từ bên ngoài, phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế”. Vì vậy, chúng ta phải dựa vào chính nguồn lực sẵn có, đó chính là tiềm năng kinh tế nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Với chức năng, nhiệm vụ của mình, báo Nông nghiệp đã kịp thời cung cấp thông tin kinh tế, thời sự trong đa dạng và nhiều chiều. Qua những bài báo được đăng tải, người nông dân đã thực sự hiểu lợi ích khi tham gia phát triển kinh tế theo mô hình mới, biết cách thức tổ, làm ăn sao cho có hiệu quả. 1.1.2. Những vấn đề vướng mắc. Trong quá trình chuyển đổi kinh tế nông thôn ở một số nơi còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong giải quyết giống, khoa học kỹ thuật và đầu ra. Các cấp, các ngành có trách nhiệm tại địa phương chưa quan tâm xác đáng và điều chỉnh kế hoạch cho hợp lý. Việc chỉ đạo thông tin đến từng địa bàn dân cư gặp nhiều trở ngại, thiếu nhất quán và hành động dứt khoát do hạn chế về trình độ hiểu biết của người dân và cản trở do đói nghèo, lũ lụt... Báo NNVN đã có những bài báo phản ánh kịp thời về những vấn đề còn tồn đọng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, từ đó đề ra một số biện pháp cụ thể, có tính khả thi, đó là các bài: “Vụ đông xuân ở ĐBSCL: sẽ lặp lại điệp khúc “được mùa, rớt giá”?”- Hùng Anh (9.2.2001), “Giải quyết sự cố “ngô lai không hạt” ở Ninh Thuận như thế nào”- ĐQ (12.4.2001), “Suy nghĩ về phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá ở TX Bắc Giang”- Đỗ Thành Nam (5.3.2002), “Kỳ Anh sau cơn đại hoạ”- Võ Thanh Mai (22.5.2001)... Tìm hiểu thực trạng thiếu giống cây trồng, vật nuôi ở miền Trung- Tây Nguyên qua bài; “Lúa lai ở miền Trung- Tây Nguyên. Vẫn chưa có sự đột phá” (12.9.2002), tác giả Minh Trung cho rằng; “Nguyên nhân của vấn đề này là các tỉnh trong vùng phải đối mặt với sự khan hiếm giống bố mẹ gay gắt. Các địa phương phải phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn hỗ trợ của Bộ NN- PTNT hoặc tìm kiếm rất hạn chế qua khâu trung gian nhập khẩu từ Trung Quốc”. Còn tại Bắc Kạn, tìm hiểu nguyên nhân vì sao cây nguyên liệu chết nhiều, tác giả Văn Cao chỉ ra; Những người hướng dẫn kỹ thuật thiết kế và chỉ đạo triển khai chưa tốt. Việc phối hợp giữa người dân trồng r._.ừng và lãnh đạo địa phương chưa chặt chẽ”. (“Bắc Kạn. Cây nguyên liệu giấy chết nhiều”. 23. 9.2002). Trong bài; “Cần một chiến lược quốc gia cho cây ca cao Việt Nam” tác giả Minh Trung nêu lên thực trạng: “Khi cây cà phê đang rớt giá thì Nhà nước cần phải có động thái mở rộng diện tích trồng ca cao lên cao”. nhưng thực tế thì “ Ca cao Việt Nam gần như bị bỏ ngỏ, chưa có địa phương nào quy hoach, đầu tư”. Trong khi đó nhìn nhận từ thực tế thì “Viện nghiên cứu Ca cao Mỹ (ACRI) dự báo trong 10 năm tới, nhu cầu tiêu thụ ca cao sẽ tăng liên tục, bình quân 4 năm; trong khi đó lượng ca cao thế giới chỉ đáp ứng 3 triệu tấn/ năm, chiếm 1,5 % năm, do đó cầu sẽ vượt quá cung”. Vì thiếu thông tin, chậm nắm bắt nhu cầu thị trường nên mặt hàng ca cao vẫn chưa trở thành thế mạnh trong xuất khẩu nông sản của Việt Nam. Cho nên đã đến lúc “phải ý thức được tầm quan trọng của Công nghệ Thông tin và nhanh chóng ứng dụng chúng vào sản xuất và tiêu thụ sản phẩm”. Có như vậy mới từng bước hội nhập và cạnh tranh thắng lợi trên thị trường thế giới trong kỷ nguyên toàn cầu hoá. Phát triển sản xuất luôn phải gắn với thị trường, tìm được đầu ra, vì vậy công tác sản xuất nông nghiệp luôn phải được xây dựng cùng với công tác tiêu thụ và thường xuyên nắm bắt thông tin về thị trường. Dù vậy thì do không cập nhật thông tin kịp thời nên vấn đề này vẫn còn bỏ ngỏ. Nhận thức tầm quan trọng của công nghệ thông tin trong nông nghiệp, Trong bài “Cần coi trọng ứng dụng Công nghệ Thông tin trong lĩnh vực Nông nghiệp” (26.2.2002). Tác giả Hữu Hoà nêu lên thực tế; “ở nước ta công nghệ thông tin chưa được các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp coi trọng”. Và mặc dù Bộ NN- PTNT đã xây dựng trang web nhằm giới thiệu 1 cách khái quát về nền nông nghiệp Việt Nam song việc xử lý những thông tin để phổ biến đến nông dân, giúp họ có định hướng trong sản xuất thì còn hạn chế, người dân vẫn phải chịu cảnh đói thông tin và chịu nhiều thiệt thòi. Một vấn đề đặt ra đối với quá trình chuyển đổi kinh tế ở nông thôn là đòi hỏi nguồn lao động đa dạng và có trình độ tay nghề cao. Tuy nhiên thực trạng còn tồn tại ở hầu hết các địa phương là sự thiếu hụt lực lượng lao động , và trình độ tay nghề không cao, do đó ảnh hưởng đến chất lượng và năng suất công việc. Để đi tìm nguyên nhân, Trong bài “Nan giải tình trạng thiếu lao động ở các trang trại” (26.4.2001), tác giả Đỗ Quyên phản ánh một thực tế: Đó là các lao động có trình độ đổ về thành phố kiếm việc, không nặm mà với công việc đồng áng. Các chủ trang trại thuê lao động phần lớn không có chế độ bảo hiểm mang tính lâu dài, không có hợp đồng bài bản, chỉ giao kèo bằng miệng, trả công theo thoả thuận. Bên cạnh đó “một số sinh viên mới tốt nghiệp được các chủ trang trại tuyển dụng làm việc, nhưng chỉ trong thời gian ngắn thì bỏ việc, lên thành phố vì lương thấp, chủ trang trại đòi hỏi phải làm việc hết mình...”. Bên cạnh những bài ghi nhận những thành tựu đã đạt được trong ứng dụng chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở nông thôn, tờ báo còn phản ánh những vấn đề thời sự còn tồn đọng trong quá trình đổi mới kinh tế. Những thông tin đó đã giúp Bộ Nông nghiệp và các cấp, các ngành địa phương kịp thời rút kinh nghiệm. Điều chỉnh các hoạt động phát triển kinh tế địa phương cho phù hợp, tránh tình trạng đi theo vết xe cũ. 1.2. Đầu tư vốn, Xây dựng cơ sở hạ tầng Mục tiêu CNH, HĐH nông thôn là phát triển nông nghiệp và nâng cao đời sống người nông dân gắn với quy chế dân chủ ở nông thôn. Nghị quyết 06 NQ/ TƯ, ngày 10.11.1998 của Bộ Chính trị, có nhấn mạnh: “Từng bước tăng dần đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn, trước hết, tập trung đầu tư xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng (đường, thuỷ lợi, điện, trường học, trạm xá...) ở nông thôn, chú ý các vùng cao, vùng sâu, vùng xa...”. Trong hai năm (2001- 2002), báo “Nông nghiệp Việt Nam” cùng với cả nước đã phát động chương trình tuyên truyền về nông nghiệp, nông thôn, phản ánh công cuộc xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, nâng cao đời sống người nông dân. Những kết quả đạt được trong qúa trình xây dựng một nông thôn mới được phản ánh rõ nét qua từng số báo. Tác giả Duy Chiến trong bài “Đi tìm lộ trình tất yếu của CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn” (S1+2, 1.1.2002) đã có những ghi nhận: “Sản xuất nông nghiệp phát triển với tốc độ cao, trên 4,3% trong suốt 10 năm qua. Công nghiệp chế biến tăng 12- 14%. Điện khí hoá 100% số huyện, 81% số xã và 72% số hộ. 95% số xã đã có đường ô tô đến trung tâm. 85% số xã có điện thoại, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 20% năm 1995 còn 10- 11% năm 2000”. Đây là những ghi nhận ban đầu về những thành quả đã đạt được từ khi chuyển đối cơ cấu kinh tế nông thôn. Từ thành quả này, chúng ta có đủ cơ sở để khẳng đinh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là chiến lược phát triển đúng đắn và có hiệu quả. Nâng cao đời sống của người dân ở nông thôn là trách nhiệm chung của toàn Đảng, toàn dân. Bên cạnh việc đầu tư để phát triển kinh tế, Đảng cũng chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng, có chế độ, chính sách ưu đãi đối với từng vùng, miền trong từng địa phương. Mỗi năm, các nguồn vốn cả nước đã đầu tư cho khu vực nông thôn khoảng 250 triệu USD. 2235 xã nghèo vùng đặc biệt khó khăn đã được Nhà nước đầu tư cho cơ sở hạ tầng và các chương trình lồng ghép khác mỗi năm khoảng 150 triệu USD. Khi nói về tương lai nông thôn, Phó Thủ tướng Nguyễn Công Tạn cho rằng; Phải làm cho nông dân hạnh phúc khi họ sống ở nông thôn. Hạnh phúc, ấy là nông dân có nơi ăn chốn ở đàng hoàng, con cái được học hành, được vui chơi, giải trí... Tương lai của nông thôn nước ta là phát triển theo hướng công nghiệp cùng với phát triển các dịch vụ. Phó Thủ tướng nhấn mạnh: “Nông thôn không chỉ cần có điện, đường, trường, trạm xá mà còn cần có nơi vui chơi thể thao”. (“Cần có chính sách đào tạo nguồn nhân lực cho nông thôn, giúp qui hoạch xây dựng và phát triển nông thôn...” Ngô Giang. Số 84. 2001). Chú trọng đầu tư vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng, nâng cao đời sống ở nông thôn đang được từng địa phương triển khai và thu được hiệu quả. Thực tế những năm qua, vấn đề đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn đã được Đảng, Nhà nước cũng như các cấp, các ngành quan tâm toàn diện cả về cơ chế, chính sách và nguồn lực tài chính. Số vốn đầu tư từ ngân sách trung ương dành cho nông nghiệp, nông thôn không ngừng tăng lên và tập trung chủ yếu vào xây dựng, nâng cấp các công trình thuỷ lợi, hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn. Tại Khánh Hoà 70 tỷ đồng do Ngân hàng Phát triển châu á và Chính phủ Việt Nam đầu tư để phát triển y tế nông thôn, củng cố công tác dự phòng, giáo dục truyền thông y tế cộng đồng. (“Khánh Hoà; Xây dựng dự án phát triển y tế nông thôn”- Lai Thành. 18.1.2001). Còn ở An Giang, 400 căn nhà cho người nghèo được xây dựng, chuẩn bị cho Tết Nhâm Ngọ, với số tiền là 1,2 tỷ đồng (“An Giang: Cất mới hơn 400 căn nhà cho người nghèo”- Phan Trọng Ân. (14.2.2002). Năm 2002, có 2.300 lượt hộ gia đình ở Bà Rịa- Vũng Tàu được vay vốn làm ăn, giảm được 2.000 hộ nghèo. Công tác kiên cố kênh mương ở Hưng Yên cũng đã thực hiện được tại 37 xã. Những công trình này khi được đưa vào sử dụng sẽ phục vụ cấp nước cho một diện tích khá lớn ruộng đồng mà trước đây thường xuyên bị hạn hán. (“Hưng Yên: Kiên cố hoá kênh mương ở 37 xã”- Vũ Minh Việt. 8.2.2001). Nhưng hiện nay, kết cấu cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống dân cư ở một số vùng nông thôn còn thấp, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, cư dân sống ở vùng ven biển, vùng sông nước, nổi cộm là vấn đề nhà ở. Cả nước còn khoảng 2,6 triệu hộ, với 13 triệu nhân khẩu thuộc diện đói; 1.040.000 hộ còn ở nhà tạm làm bằng tranh tre, nứa, lá. “Nạn thiếu nhà ở, hoặc nhà ở quá chật, tạm bợ, sơ sài ở vùng ven biển là khá phổ biến”. “Cần lưu tâm đến nhà ở cho dân vùng ven biển”- Vũ Đăng Hiến (17.9.2002). Và tình trạng gia tăng bệnh tật do thiếu nước sạch, thiếu cơ sở y tế ở hầu hết các địa phương đang trở thành vấn đề nóng bỏng. “Thiếu nước sạch nên tình trạng bệnh tật của cư dân nông thôn vùng bán đảo Gò Công đang ở mức báo động. Theo thống kê chưa đầy đủ của ngành y tế các địa phương, hiện tại bệnh đau mắt, tiêu chảy, rối loạn tiêu hoá chiếm 40- 60% tổng số ca nhập viện...” (“ĐBSCL trước nguy cơ hạn hán”- Nhóm PV ĐBSCL. 25.2.2002). Còn tại Cà Mau, mặc dù “Hiện nay, tại Cà Mau, ngoài 19.000 giếng- bơm lắc tay do Nhà nước đầu tư, dân đã tự khoan 15.000 giếng. Kiên Giang đầu tư xây dựng 15.000 công trình nước sạch, nhưng hộ sử dụng nước sạch cũng chỉ khoảng 53%”. (“Nước sạch đắt hơn dầu?”- Hoà Nghị. 15.2.2001). Đã đến lúc cần phải có những biện pháp ngăn chặn hoặc hạn chế tối đa mức ô nhiễm nguồn nước sạch. ứng dụng công nghệ, xây dựng hệ thống kênh mương... là yêu cầu cấp thiết nhất để nâng cao đời sống người dân. Và cách làm ở Củ Chi, Mĩ Khánh chính là một tiến bộ mới, đảm bảo an toàn vệ sinh môi trường, tận dụng được nguồn chất thải phụ vụ sinh hoạt. Tại đây, “Đã từng bước xây dựng hầm Biôga xử lý nguồn chất thải từ động vật và con người. áp dụng phương pháp quản lý dịch hại tổng hợp IPM vào các hoạt động công tác, trồng trọt, hướng dẫn, thu gom rác”. Chính vì thế mà 100% người dân được sử dụng nước sạch. (“Một chương trình đang làm thay đổi tập quán người dân nông thôn”- Hữu Thống. 20.8.2002). Đây là việc làm hữu hiệu nhờ việc người dân đã biết nhận thức tầm quan trọng của việc giữ gìn môi trường bên cạnh việc khai thác và phát triển kinh tế. Qua cách làm hiệu quả ở Củ Chi, người dân vùng nông thôn học tập và ứng dụng công nghệ phục vụ và nâng cao đời sống. 1.3. Thực hiện quy chế dân chủ ở nông thôn. Quy chế dân chủ ở cơ sở của Đảng, Nhà nước là một chủ trương lớn, nhằm phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong công cuộc xây dựng đất nước. Vì vậy, có thể khẳng định rằng, một trong những nhiệm vụ chính trị trọng tâm hiện nay là phải củng cố, hoàn thiện chính quyền cơ sở, nâng cao dân trí và thực hành tốt dân chủ từ cơ sở, đảm bảo cho nhân dân phát huy quyền làm chủ, sáng tạo, giữ vững ổn định chính trị- xã hội, hăng hái sản xuất và đưa tiến bộ khoa học- công nghệ vào thực tiễn. Thực hiện dân chủ ở cơ sở không chỉ là nhiệm vụ cấp bách trước mặt, mà còn là nhiệm vụ lâu dài, mang tính chiến lược của cách mạng nước ta. Thực tế những năm qua, cùng với đổi mới kinh tế thì việc mở rộng quy chế dân chủ, phát huy nội lực từ trong dân đã đưa đất nước ta thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, đi tới ổn định và phát triển, tiền đề để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đến nay, 90% số xã, phường, thị trấn đã triển khai, xây dựng và thực hiện quy chế. Tìm hiểu vấn đề này, tác giả Đặng Vũ có bài viết “Phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Mục tiêu, động lực của sự nghiệp đổi mới” (26.3.2002). Tác giả khẳng định: “Dân chủ vừa là mục tiêu, động lực đảm bảo sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Nội dung cơ bản của dân chủ là quyền làm chủ của nhân dân, quyền lực thuộc về nhân dân, tự do, bình đẳng về quyền lợi, nghĩa vụ trong xã hội. Thước đo hay tiêu chí dân chủ của cộng đồng xã hội được thông qua quyền làm chủ của công dân”. Còn trong bài; “An Phú chuyển mình” (10.1.2002), tác giả Ngọc Thạch đã đánh giá tầm quan trọng của việc thực hiện quy chế dân chủ ở An Phú- Thủ Thừa- Long An: “Với việc đưa quy chế dân chủ vào đời sống nhân dân cũng như vấn đề vận dụng tốt quy chế dân chủ trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội, xã An Phú đã tìm được cho mình một con đường vững chắc để hoàn thành công cuộc xoá đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới trong thời kỳ CNH, HĐH”. Thực hiện quy chế dân chủ ở nông thôn trong thời kỳ mới gặp nhiều khó khăn, bởi trình độ hiểu biết của người dân chưa đồng đều và sâu rộng. Dân cư tập trung ở nhiều vùng miền nên việc đưa quy chế vào cuộc sống không phải là điều dễ dàng. Bên cạnh đó, có một số cán bộ lợi dụng chức vụ để tư lợi, tham ô lãng phí và cửa quyền, chiếm dụng đất đai, kinh phí của nhân dân... Báo Nông nghiệp tập trung phản ánh những vụ việc, vấn đề nhỏ lẻ tồn tại ở nhiều vùng nông thôn, nhưng đã góp phần giải quyết những khúc mắc và đem lại công bằng cho người dân. Đó là các bài viết như: “UBND xã Minh Khai lợi dụng cổ phần hoá, bán đường điện cho tư nhân gây thất thoát hàng trăm triệu đồng” (Trần Ninh Thuỵ 18.3.2002), “ Cán bộ Ban quản lý khu BTTN đập ngập nước Bến Tre có phá rừng” (Nguyễn Đức. 19.9.2002), “Mượn danh nông dân thành lập HTX với mưi đồ chiếm đoạt tài sản”- Thái Sinh (21.8.2002)... Qua những bài phản ánh trên người nông dân đã ý thức được vai trò, trách nhiệm của mình trong việc xây dựng một chính quyền trong sạch, vững mạnh, đấu tranh chống lại những âm mưu thủ đoạn của kẻ xấu. Chú trọng phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn đi đôi với nâng cấp cơ sở hạ tầng, từng bước nâng cao đời sống người nông dân. Thực hiện quy chế dân chủ, chính sách chủ trương của Đảng, Nhà nước, Bộ Nông nghiệp được cụ thể hoá trong từng hành động, hướng đi của địa phương và thu được hiệu quả khả quan. Thông tin thời sự, kinh tế tập trung trên báo Nông nghiệp Việt Nam đã đăng tải những tin, bài ứng với chương trình trọng tâm. Với những thông tin thời sự- kinh tế đa dạng và phong phú, báo Nông nghiệp Việt Nam đã cung cấp cập nhật thông tin cho người dân hiểu và nắm bắt kịp thời, giúp cho chương trình phát triển kinh tế nông thôn sớm đi vào hoàn thiện, góp phần xây dựng nền nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH. 2. Văn hoá, xã hội nông thôn và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng. 2.1. Văn hoá- xã hội Công cuộc đổi mới đất nước đang làm thay đổi toàn diện đời sống kinh tế- xã hội đất nước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, đời sống vật chất của con người được đảm bảo. Cùng với quá trình đó, bộ mặt xã hội nông thôn ngày càng biến đổi rõ nét dưới tác động của nền kinh tế thị trường. Đời sống xã hội vùng nông thôn có những nét mới, tích cực, bên cạnh đó còn có những vấn đề còn tồn tại cần được giải quyết. Vấn đề đặt ra là phải chọn lọc, giữ gìn và phát huy được những giá trị truyền thống tốt đẹp lâu đời còn phù hợp ở nông thôn, đồng thời phải chủ động tiếp nhận có chọn lọc nếp sống, tác phong công nghiệp và giá trị văn hoá tiến bộ, để tạo ra một bộ mặt nông thôn mới tiên tiến, toàn diện và hiện đại. Nội dung đăng tải mang tính đinh hướng và giáo dục sâu sắc, dù có khi đó chỉ là những câu chuyện đôi khi hết sức nhỏ lẻ, vụn vặt, tồn tại trong đời sống nông thôn, nhưng có sức lan toả rất lớn, khái quát được sự biến đổi của đời sống xã hội đang diễn ra ngày càng phức tạp trong tầng lớp nông dân. 2.1.1 Góp phần xây dựng nông thôn mới, con người mới. Hưởng ứng chủ trương của Đảng, Nhà nước và chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2001-2010 mà Đại hội IX đề ra là: Mở rộng và nâng cao hiệu quả cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”, “Xây dựng nếp sống văn minh và gia đình văn hoá”... Đến nay, ở hầu hết các làng, xã trong cả nước đang bước vào công cuộc cải cách, xây dựng một nông thôn mới, hiện đại và giàu đẹp hơn. Tất thảy người dân tự nguyện tham gia phong trào xây dựng nông thôn mới, con người mới và hưởng ứng phong trào văn hoá- xã hội ở địa phương một cách hào hứng và tự nguyện. “Tính đến năm 2000, cả nước ta đã có 5.000 làng, bản, ấp văn hoá (với hơn 4 triệu hộ) đạt tiêu chuẩn làng văn hoá” [2,36]. Bộ mặt đời sống người dân địa phương đã có những nét biến đổi tích cực. Tại một số tỉnh phía bắc, trước kia là địa điểm tụ hợp nhiều tệ nạn xã hội và nơi trồng nhiều cây thuốc phiện nhất thì đến nay, sau khi được tuyên truyền, giác ngộ tác hại của việc trồng cây thuốc phiện, một số tỉnh, địa phương đã tự nguyện phá bỏ cây thuốc phiện và tham gia tích cực vào phong trào chuyển đổi cơ cấu cây trồng. Đời sống người dân đã dần thay đối, nhiều gia đình có cuộc sống khấm khá, không còn chịu cảnh đói nghèo thường xuyên như trước. Ghi nhận kết quả bước đầu của công tác xoá bỏ cây thuốc phiện ở Hoà Bình, tác giả Thái Sinh có bài “Làm gì để xóa bỏ hoàn toàn cây thuốc phiện” (7.10.2002). Bài báo đã đưa ra các giải pháp xoá bỏ tập tục trồng cây thuốc phiện của đồng bào các dân tộc ít người. Từ năm 1992- 2001, thực hiện chủ trương xóa bỏ cây thuốc phiện hai xã PàCò, Hang Kia của tỉnh Hoà Bình đã là tỉnh đi đầu trong việc triệt bỏ cây thuốc phiện, chuyển đổi sang trồng cây lương thực và các cây trồng khác. Báo Nông nghiệp cũng liên tục có những bài viết ghi nhận vai trò của các đoàn thể xã hội trong việc xây dựng đời sống văn hoá nông thôn. Điển hình là bài “Làng Thanh Niên ở Tây Nguyên, mang no ấm về cho buôn làng” (18.1.2002), tác giả Văn Chiến đã phản ánh vai trò của Đoàn Thanh niên Tây Nguyên: Tại Tây Nguyên, đoàn Thanh niên ở các buôn làng luôn thể hiện vai trò tiên phong trong việc gia nhập lực lượng, dân quân tự vệ bảo vệ buôn làng, tuổi trẻ ở các làng Thanh niên đã xoá bỏ những tập tục xưa cũ, trân trọng, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc. “Nhiều làng Thanh niên đã bật dậy từ những vùng quê nghèo khó để hôm nay trở thành những mô hình tiêu biểu trong công tác đoàn kết”. Bài viết thể hiện tính truyên truyền rộng rãi về một “mô hình” hoạt động có hiệu quả của đoàn thể địa phương, là kinh nghiệm để các địa phương trong cả nước học tập. Phát huy sức mạnh tổng hợp của các cấp, các ngành, địa phương, do đó, nhiều vùng quê trước kia vốn nghèo nàn, lạc hậu và tồn tại nhiều hủ tục mê tín dị đoan, tệ nạn xã hội, nay biết dựa vào dân, để dân tự phát huy vai trò của mình mà trở thành vùng điểm của cả nước, đời sống của người dân đã thay da đổi thịt. Phản ánh kịp thời vai trò của người dân trong công cuộc đổi mới ở các vùng nông thôn, tác giả Vữ Hữu Sự có bài; “Quỳnh Phụ ngày ấy, bây giờ” (10.9.2002). Trước đây, Quỳnh Phụ luôn là điểm nóng về khiếu kiện, làng xóm căng thẳng, nặng nề, sản xuất đình đốn thì nay đã khác. Năm 1998, xã đã đầu tư 800 triệu đồng để xây dựng mới 12 phòng học (2 tầng), nhân dân đóng góp hơn 32 triệu nữa để hoàn thiện thêm một số công trình. Cả 3 làng của Quỳnh Phụ đều xây dựng hương ước, phấn đấu trở thành làng văn hoá... Không những tập trung xây dựng một nông thôn mới với cơ sở hạ tầng tốt phục vụ người dân địa phương, người dân ở nông thôn còn chú trọng chăm lo đến công tác khuyến học, giáo dục cho con em mình. Ngay cả những nơi vùng sâu, vùng xa trước kia vốn không coi trọng cái chữ thì nay cũng hăng hái tham gia phong trào giáo dục, nâng cao trình độ hiểu biết. Làng Chăm, Chung Mĩ, Ninh Phước, Ninh Thuận là một trong những làng như vậy: “Từ mùa hè năm 1999, cán bộ và nhân dân Chung Mĩ đã tự nguyện thành lập Hội Khuyến học để động viên phong trào học tập của con em. Cán bộ và nhân dân đã tự nguyện đóng góp quỹ khuyến học được 3,8 triệu đồng”. “Làng Chăm Chung Mĩ chăm lo khuyến học”- Thái Sơn Ngọc. 23.9.2002. 2.1. 2. Giữ gìn nét đẹp trong văn hoá- xã hội truyền thống ở nông thôn. Văn hoá gia đình là một tế bào của văn hoá làng truyền thống ở nông thôn. ở đó nhiều giá trị và chuẩn mực được lưu giữ, chọn lọc và biểu hiện sinh động trong đời sống hàng ngày. Nhiều chuẩn mực văn hóa được cụ thể trong gia đình, từ các mối quan hệ trong và ngoài gia đình. Xây dựng gia đình văn hoá trong giai đoạn hiện nay là yêu cầu cấp thiết để phát huy những giá trị tốt đẹp của truyền thống văn hoá gia đình, làm cho nhân tố đó phát huy hiệu quả trong thời đại mới, ngăn chặn, đẩy lùi những tiêu cực phát sinh do chính quá trình đô thị hoá nông thôn gây ra. Gia đình Việt Nam sống theo lối gia đình truyền thống, nhiều thế hệ có thể sống chung một mái nhà, và điều này thể hiện nét đẹp văn hoá của người Việt Nam. Mô hình gia đình truyền thống đã có từ lâu đời và ngày nay vẫn còn nguyên giá trị, nhất là ở các vùng nông thôn. Cho dù gia đình trở nên giàu có, sống theo lối sống hiện đại nhưng vẫn giữ được nét đẹp truyền thống, có tôn ty trật tự, sống có trách nhiệm và tôn trọng lẫn nhau. Gia đình cụ Nguyễn Ngọc Ban và Nguyễn Ngọc Lan là một ví dụ điển hình về nét gia đình văn hoá, cha mẹ gương mẫu, con cháu hiếu thảo. Gia đình cụ luôn duy trì thuận khí hiếu, hoà, nhẫn, tình, chính vì thế gia đình cụ đã được dân làng công nhận và tặng hai câu thơ: “Nhà ta coi chữ hơn vàng, Trọng tình hơn cả giàu sang trên đời”. (Câu thơ làng tặng- Nguyễn Tùng Lân. 26.9.2002). Qua sự phản ánh đa dạng nét đẹp của gia đình nông thôn Việt Nam chủ yếu được đăng tải trên trang gia đình của báo Nông nghiệp Việt Nam, đã có tác động trực tiếp đến cảm xúc người đọc, là những bài học đạo đức còn nguyên giá trị. Trên nền tảng coi trọng tổ tiên, coi trọng sự hoà thuận là những chuẩn mực văn hoá của gia đình truyền thống được giữ gìn. Các bài: “Nhà mình có ba thứ quân”- Nguyễn Trường (24.1.2002), “11 đứa con của cụ Sáng”- Thanh Nguyễn, Nguyễn Hoà (20.8.2002).... đều là những bài viết tiêu biểu về vấn đề này. Phản ánh khía cạnh khác của nét đẹp văn hoá- xã hội ở nông thôn hiện nay, qua nhiều bài viết trên báo NNVN chúng ta nhận thấy: Bên cạnh nét đẹp truyền thống của nền tảng gia đình thì tình làng nghĩa xóm, tối lửa tắt đèn có nhau cũng chính là nét đẹp còn nguyên giá trị còn tồn tại ở các vùng quê. Thứ tình cảm chân thành và tự nhiên giờ đây chỉ có ở nông thôn, còn thành phố thì; “Ra phố thấy nhà nọ sát nhà kia không sao có một kẽ hở, tường vô cùng gần gũi mà hoá ra vô cùng xa lạ”. (“Ta về làng xóm ta thôi”- Thanh Vũ. 22.8.2002). Vì thế mà khi các cụ trong thôn có con cái đi thoát ly, được họ đón ra ở cùng, chẳng bao lâu sau đều đòi con đưa về quê, vì lý do chính là họ không thể quên được làng quê, thôn xóm. Tác giả Thanh Vũ nhận xét: “Đang từ một môi trường sống này, đột ngột chuyển sang môi trường sống khác, các cụ không sao chịu nổi. Nhà quê không gian bát ngát, không khí trong lành. Có một sợi dây vô hình nhưng vô cùng bền chặt neo chặt cuộc đời các cụ vào với bờ tre, gốc lúa, giếng nước, mái chùa... và bền chặt hơn rất nhiều là tình làng nghĩa xóm”. “Nước ta hiện có hơn 1000 làng nghề thủ công truyền thống, mỗi làng nghề mang một bản sắc văn hoá riêng, giữ gìn được một làng nghề truyền thống là giữ được 1 địa chỉ văn hoá, việc đó mang giá trị bảo tồn văn hoá không những cho riêng địa phương mà cho cả nền văn hoá lâu đời gắn liền với nông nghiệp của dân tộc”. Đó là nhận xét của tác giả Thành Phong trong bài; “Làng làm ấm ủ Sơn Vi” (21.1.2002). Chính vì thế, hơn lúc nào hết bảo vệ và phát triển làng nghề truyền thống đang được các cấp, ngành địa phương quan tâm, tạo điều kiện để phát triển. Người dân nhờ có làng nghề cũng có thêm thu nhập, đời sống ổn định, các hoạt động văn hoá- xã hội cũng đi vào ổn định. Hay là “làng nghề Cầu Giẽ” của tác giả Ninh Bình (25.1.2002), đã và đang góp phần bảo tồn giá trị văn hoá vật thể có từ lâu đời ở nước ta. Đó cũng chính là nét độc đáo, hấp dẫn của làng quê Việt Nam. Báo Nông nghiệp Việt Nam đã làm tốt công tác thông tin thực trạng phát triển, nguy cơ tan vỡ các làng nghề trong khắp vùng trong địa phương, từ đó giúp cho Đảng, Nhà nước, chính quyền địa phương đề ra kế hoạch phát triển làng nghề cho phù hợp, tạo công ăn việc làm ổn định cho người dân trong vùng và tìm nguồn tiêu thụ sản phẩm. Đồng thời, đây cũng là hình thức bảo tồn, duy trì làng nghề truyền thống- giá trị văn hoá vật thể của dân tộc. Cũng chính từ các làng quê, lễ hội truyền thống văn hoá được bảo tồn và tiếp tục phát triển, trở thành di sản văn hoá, nét đẹp của văn hoá truyền thống. Thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước trong việc “giữ gìn và phát huy nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Các hoạt động văn hoá ở địa phương có sự đóng góp của mọi tầng lớp nhân dân làm cho các lễ hội truyền thống được sống lại, các phong trào trùng tu, xây dựng mới các đình, chùa... được triển khai có hiệu quả. Bài viết: “Lễ mừng thọ, nét đẹp văn hoá Mỹ Trung” (8.3.2002), của tác giả Vũ Hữu Sự đã đánh giá đúng đắn về nét đẹp trong lễ mừng thọ của văn hoá Việt Nam nhằm ghi nhận công lao to lớn của người cao tuổi, không những trong gia đình mà còn là sự đóng góp của họ đối với sự phát triển của xã hội. “Lễ mừng thọ với các cụ như là 1 sự tổng kết. Từ đây, thong dong hưởng nốt tuổi trời trong sự bình yên, phúc đầy thêm phúc. Còn đối với con cháu thì tổ chức xong lễ mừng thọ cho các cụ, các anh coi như đã làm xong một phần chữ hiếu”. Bên cạnh đó, đây là biểu hiện của lòng hiếu thảo của những người con với người đã sinh thành và nuôi dưỡng mình. Đây không chỉ là nét đẹp cần lưu giữ ở làng Mỹ Trung, Mĩ Lộc, Nam Định mà cần được nhân rộng thành phong trào, nhưng phải đảm bảo thực hiện nếp sống mới, tránh xa hoa lãng phí và lợi dụng nó làm những điều xấu. Bên cạnh tuyên truyền việc giữ gìn, phát triển văn hoá làng nghề ở địa phương, báo NNVN đã tích cực tham gia công tác phát triển các truyền thống văn hoá, cung cấp những kiến thức về văn hoá cho người nông dân. Việc nâng cao dân trí cho nhân dân đòi hỏi phải tiến hành đồng bộ, thông tin đa dạng, nhiều chiều và trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Người nông dân không chỉ quan tâm đến kiến thức về kinh tế, khoa học, xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của mình, mà họ còn đặc biệt quan tâm đến những vấn đề trong nước, thế giới, những cái hay, cái dở trong đời sống xã hội. Quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn đã làm thay đổi căn bản mọi mặt đời sống người nông dân. Và cũng chính qúa trình này đã diễn ra sự giao thoa giữa cái cũ, cái mới, cái tốt, cái xấu luôn đan xen lẫn nhau. Với công tác tuyên truyền toàn diện, báo NNVN đã góp tiếng nói chung trong việc xây dựng văn hoá, xã hội nông thôn ngày càng tốt đẹp và phong phú hơn. 2.1.3. Phê phán sự xuống cấp của văn hoá- xã hội ở nông thôn. Sự đổi mới Văn hoá- xã hội nông thôn là những nỗ lực, cố gắng của mọi cấp, mọi ngành địa phương. Nhưng hiện trạng ở nông thôn vẫn còn tồn tại đói nghèo, bệnh tật, phát sinh những vấn đề xã hội nhức nhối, trở thành một trong những vấn nạn đang bám sâu trong lòng nông thôn. Đó là những phong tục, tập quán lạc hậu, trì trệ và bảo thủ. Là sự xuống cấp về phẩm chất đạo đức của con người trước cám dỗ của đồng tiền, sự gia tăng của tệ nạn xã hội, sản phẩm văn hóa độc hại du nhập từ nước ngoài. Hiện trạng tệ nạn xã hội do đói nghèo, nhận thức và ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường gây ra. Sự xuống cấp của nền tảng gia đình, đó là mặt trái phát sinh trong nền tảng gia đình do mâu thuẫn, bất đồng quan điểm giữa cha mẹ- con cái, vợ- chồng, và sự thiếu quan tâm lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình. Chính sự chênh lệch về trình độ hiểu biết và cách sống hiện đại giữa các thế hệ sống trong gia đình là nguyên nhân dẫn đến sự dạn nứt các mối quan hệ trong gia đình. Còn có nhiều gia đình trẻ hiện nay bắt chước lối sống thực dụng du nhập từ nước ngoài, không chú trọng xây đắp hạnh phúc gia đình và quan tâm lẫn nhau. Điều này đang bào mòn truyền thống tốt đẹp của gia đình truyền thống, và có nguy cơ phát triển ngày càng cao ở nông thôn. Tìm hiểu vấn đề này, tác giả Vũ Hữu Sự có bài; Xích chồng (5.1.2002). Nạn nhân của câu chuyện “Xích chồng” là ông Triệu, ông đã bị vợ và hai người con trai cột chân vào giường, đánh ông thâm tím mặt mày. Khi ông tháo được xích chạy sang nhà hàng xóm nhờ cầu cứu, chính quyền địa phương và nhân dân lên án thì bà Hảo- vợ ông đưa ra một tờ giấy của cơ quan y tế có ghi là: suy giảm trí tuệ. Tệ hại hơn nữa là sự tàn bạo đến vô đạo đức của những đứa con, giám dùng thuốc chuột và chính tay mình giết cha mẹ chỉ vì nghĩ rằng cha mẹ khinh thường mình, không cho đất đai để làm nhà. (“Con trai dùng bả chuột giết hại cả bố lẫn mẹ”- Vũ Đình Thư. 14.1.2002). Đó là câu chuyện đau lòng ở Thượng Liệt, Đông Tân, Đông Hưng, Thái Bình và là hồi chuông cảnh tỉnh sự giảm sút truyền thống gia đình, là bài học cho các gia đình hiện nay vốn chỉ quan tâm đến phát triển kinh tế mà không giành nhiều thời gian quan tâm và gần gũi con cái đúng mức. Ngoài ra còn hàng loạt những câu chuyện đau lòng khác: “Con nuôi ném mẹ ra đường”- Nguyễn Đức Thắng (4.1.2002), “Cậu ấm vàng”- Kim Châu (7.1.2002), “Thằng con “quý tử””- Kim Châu (26.8.2002).... Bên cạnh đó là nạn bạo hành trong gia đình do người chồng vẫn còn mang nặng tính gia trưởng, trọng nam khinh nữ và không tôn trọng người bạn đời. Tình trạng này xảy ra ở hầu hết các địa phương trong cả nước, và đang được hầu hết phụ nữ chấp nhận như một thói quen. Theo nghiên cứu của Trung tâm nghiên cứu giới, gia đình và môi trường trong phát triển (CGFED) thì “Có tới 87% số người được hỏi cho biết, ở thôn, xóm nơi họ sinh sống có những hiện tượng bạo lực gia đình, cả bạo lực thể chất và bạo lực tinh thần” [3, 66]. Trong bài “Báo động về nạn bạo hành trong gia đình” (14.3.2002), Tác giả Giang Sơn đưa ra con số thống kê; “Tại An Giang, theo báo cáo của Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh này hiện có khoảng 50% phụ nữ có gia đình thường xuyên bị bạo hành. Chỉ riêng 1 ấp ở Thị trấn An Phú- huyện An Phú với vài chục nóc nhà thì đã có tới 17 vụ bạo hành khác nhau”. Những phản ánh trên đây là thực tế, đòi hỏi phải có sự can thiệp của các cấp chính quyền sở tại, sự đổi mới trong nhận thức, tư duy của chính các cặp vợ chồng, hiểu được trách nhiệm và nghĩa vụ của mình trong giữ gìn hạnh phúc gia đình. Tìm hiểu nguyên nhân của nạn bạo lực gia đình, tác giả Hữu Tạo trong bài: “Vũ phu đời mới”, Số 24. 9.2.2001, chúng ta nhận thấy rằng: Do những hủ tục nặng nề còn sót lại, người đàn bà ở các vùng nông thôn còn chịu nhiều thiệt thòi lép vế. Ngược lại, người đàn ông có quyền “tối thượng”, họ quan niệm “một nước không có hai vua”, người vợ nhất nhất phục tùng. Trong khi đó “Luật pháp đã quy định quyền bình đẳng giữa vợ và chồng, thì còn nhiều chị em bị những ông chồng “vũ phu” hành hạ, nhưng vẫn coi như “cái số”.... . Còn theo các nhà nghiên cứu ở Trung tâm Sức khoẻ và sinh sản gia đình (RAFH) thì Việt Nam có ba cơ sở lịch sử làm cho vị trí của người đàn ông cao hơn hẳn người phụ nữ đó là; Tư tưởng trọng nam khinh nữ- “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”; tổn thất về người trong các cuộc chiến tranh kéo dài đã làm cho tỷ lệ nam nữ thay đổi và người đàn ông càng trở nên đáng trân trọng hơn”. (“Nhức nhối bạo lực gia đình đối với phụ nữ”- Phạm Việt Thư. Số 206. 25.12.2001). Đó là thực trạng đau lòng tồn tại ở các vùng nông thôn, nó đang là vấn đề bị lên án gay gắt và báo NNVN đang góp tiếng nói của mình trong việc nâng cao nhận thức, trách nhiệm của từng thành viên trong gia đình, để bảo vệ mái ấm gia đình, bảo vệ nền tảng của văn hoá Việt Nam. Đã đến lúc cần phải nhìn nhận và có biện pháp cụ thể để ngăn chặn sự xuống cấp của nền tảng gia đình truyền thống ở các vùng nông thôn. Song song với việc tiếp thu nếp sống mới thì một._. có cơ chế chính sách cụ thể về vốn, giống, KHKT, xây dựng các mô hình trình diễn về nuôi thả cá để giới thiệu cho mọi người tham quan, học tập... Bài “Văn hoá nông thôn: Bài toán chưa có lời giải” của Tiến Đạt đã nêu lên thực trạng về đói kinh phí hoạt động văn hoá ở cơ sở, tất cả kinh phí đều kêu gọi dân đóng góp. Đây là vấn đề chung đã tồn tại ở nông thôn hiện nay. Với dạng bài phản ánh thông tin là dạng bài rất gần với thể loại tin nhưng nó lại bao hàm lượng thông tin lớn hơn, phân tích tỷ mỉ về một vấn đề nhất định, cung cấp cho công chúng những thông tin đầy đủ, từ đó rút ra được những kinh nghiệm cần thiết sau khi tiếp nhận thông tin. Bút pháp phân tích trong dạng bài này sử dụng ít, chủ yếu là sử dụng kết quả và cách thức về kết quả đó. Trong bài “Phong Điền: Hình thành CLB nông dân sản xuất kinh doanh” (1.5.2001), tác giả Nguyễn Vũ Anh đã cung cấp cho độc giả những thông tin về hoạt động khuyến nông ở Phong Điền: “Qua gần hai năm hoạt động, CLB mở được 3 lớp tập huấn chuyển giao KHKT. Từ khi thành lập đến nay, năng suất lúa của nhiều thành viên đạt trên 45 tạ/ ha...”. Hay bài “Con trai dùng bả chuột giết hại cả bố lẫn mẹ” số 8.2002, tác giả Vũ Đình Thư đã cung cấp cho người đọc thông tin về chuyện không thể tin, xảy ra ở Thái Bình, thôn Thượng Liệt xã Đông Tân, Đông Hưng. Đó là vụ anh Ngô Văn Thao dùng thuốc chuột giết chết bố mẹ ruột, gây chấn động dư luận. Bài báo là tiếng chuông cảnh tỉnh những con người mất hết nhân tính, làm suy đồi giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đồng thời cũng phản ánh thực trạng của nền văn hóa truyền thống đang dần mai một ở nông thôn, sự xâm nhập của lỗi sống thực dụng, chủ nghĩa cá nhân, coi trọng đồng tiền và mất hết nhân tính. Phản ánh kịp thời của bài báo đã có tác dụng tích cực trong việc giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình và các mối quan hệ khác trong xã hội hiện nay. Các bài: “ứng dụng KHCN phục vụ nông thôn và miền núi- một mô hình bước đầu có hiệu quả ở miền Trung”- Minh Trung (5.3.2002), “Diễn biến hàng nông sản 4 tháng qua”- Thu Hường. (1.5.2001), “Con gái làng tôi...”- Vũ Phong. Số 8. 2001 là những bài phản ánh thông tin được giới thiệu trên báo NNVN trong hai năm qua. Dạng bài phản ánh phân tích tác giả lại tập trung vào phân tích, chỉ ra các nguyên nhân của sự kiện. Và từ đó tác giả đưa ra chính kiến của mình trước vấn đề phân tích. Trong bài “Không cải cách hành chính sẽ không cải cách được tiền lương” tác giả NTH, (Số 59.2001) phân tích: “ Muốn cải cách tiền lương phải dựa trên tiềm lực của ngân sách Nhà nước. Trong lúc nguồn lực Nhà nước còn khó khăn muốn cải cách tiền lương chỉ còn cách phải cải cách hành chính Nhà nước ngay. Thực tế những năm qua Ban tổ chức cán bộ Chính phủ cũng đã có chương trình cải cách hành chính, nhưng các Bộ, ngành và các địa phương thực hiện còn khó khăn bởi vấn đề lao động dôi dư sẽ bố trí ra sao, họ được hưởng những quyền lợi gì để ổn định cuộc sống không trở thành gánh nặng cho xã hội”. Hay bài “Cà phê xuống giá- cơ hội để phá bỏ diện tích cà phê kém hiệu quả”, số 34.2002 của tác giả Mạnh Hùng là một trong những bài phản ánh phân tích được đăng tải trên NNVN. Tác giả phân tích những cơ hội mở ra khi Đăklắk xoá bỏ cây cà phê, chuyển sang trồng cây lương thực khác. Đây là hướng phát triển hợp với quy luật, nhất là trong giai đoạn hiện nay khi Đảng, Nhà nước đang khuyến khích chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vât nuôi cho phù hợp với nhu cầu cung cầu của thị trường, xoá bỏ những diện tích cây trồng không đem lại năng suất cao: “Trong bối cảnh hiện nay, khi hạt cà phê đang ngày càng mất giá và lợi nhuận từ cây cà phê mang lại không còn được như trước sẽ là cơ hội để tỉnh Đăklắk có thể thực hiện chủ trương phá bỏ những vườn cây kém hiệu quả, chuyển sang trồng cây khác phù hợp hơn”. 2.3. Thể loại phóng sự. Là thể loại nằm trong nhóm Chính luận nghệ thuật, nội dung thể hiện là các sự kiện, vấn đề khách quan tồn tại trong thực tiến, mang tính chất thời sự, có ý nghĩa giáo dục, định hướng hành vi của con người. “Phóng sự là một thể loại hình ký. Phóng sự ghi chép kịp thời các sự việc, sự kiện làm sáng tỏ trước công luận một sự kiện, một vấn đề nào đó có liên quan đến số phận một số những người và có ý nghĩa thời sự đối với một địa phương hay toàn xã hội” [6, 22]. Ngoài ra, phóng sự là thể loại đứng giữa văn học và báo chí, vừa có khả năng trình bày, diễn tả những con người, sự kiện điển hình trong quá trình phát sinh, phát triển, đồng thời thẩm định lại hiện thực, qua đó “cái tôi” trần thuật vừa lý trí, vừa cảm xúc với bút pháp giàu chất văn học. Giọng điệu phóng sự phong phú, linh hoạt nhằm phản ánh hiện thực vừa sinh động vừa thể hiện được quan điểm, thái độ trước hiện thực đó. Qua đó tác giả có thể đề xuất, trình bày ý kiến chủ quan của mình Có nhiều dạng phóng sự như: Phóng sự điều tra, phóng sự vấn đề, phóng sự ảnh, phóng sự chân dung... Nhưng trên báo NNVN phóng sự thường xuất hiện là phóng sự xã hội (tập trung trên trang Văn hóa), phóng sự vấn đề và phóng sự chân dung. Trong phóng sự “Kỳ Anh sau cơn đại họa” (22.5.2001), tác giả Võ Thanh Mai đã mô tả hết sức chân thực diễn biến, thiệt hại của Kỳ Anh, Hà Tĩnh trong cơn đại hoạ dịch bệnh đốm trắng, đầu vàng ở tôm. Bài báo cũng phản ánh sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và chính quyền địa phương trong chiến dịch chống lại bệnh trên tôm cũng như sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp các ngành trong chiến dịch nuôi trồng và phát triển nghề nuôi trồng thuỷ sản. “Thứ trưởng Bộ thuỷ sản, Nguyễn Việt Thắng đã cùng với các chuyên gia các Viện nghiên cứu đã về địa phương khảo sát, giúp dân tìm ra biện pháp tốt nhất để tiêu diệt sạch mầm bệnh”. Hay trong bài “Làng Liều Ngọc Tước” tác giả Bùi Hoàng Anh (28.6.2002) miêu tả: “Nhìn sang bức vách chứa đầy các bao phế thải được chủ nhà kê làm giường ngủ, thấy lũ trẻ con chị Kiều tranh giành nhau từng củ khoai lang luộc nguội ngắt đầy nhặng ruồi bâu bám, tôi bỗng chạnh lòng với bao nỗi xót xa...”. Nhờ bút pháp miêu tả, cái tôi nhân chứng hiện diện trong tác phẩm phóng sự tạo cho tác phẩm có sức thuyết phục, chân thực. Hình ảnh làng Liều Ngọc Tước được cụ thể hoá thông qua hình ảnh gia đình chị Kiểu hiện lên rõ nét. Đó cũng là những nét chung vẫn còn tồn tại ở một số vùng miền, khi mà đời sống xã hội có nhiều thay đổi nhưng vẫn còn đó những làng quê chìm đắm trong đói nghèo. Các bài: “Những số phận bấp bênh”- Trần Lộc, “Lo âu mùa lũ 2001”- Phương Hà và Hoàng Đương (26.7.2001), “Thê thảm cuộc đời nghiên hút”- Thái Sinh (15.3.2002), “Con thuyền chài”- Thái Hồng Thinh (29.1.2002), “Những ngả đường tệ nạn”- Văn Triệu Sơn (1.10.2002) đều là những bài phóng sự miêu tả rõ nét diễn biến của sự kiện, những vấn đề kinh tế, xã hội, từ đó cung cấp cho người đọc phương diện nhìn nhận vấn đề khái quát hơn. 2.4. Ghi chép. Là một trong những thể loại báo chí, ghi chép những vấn đề, sự kiện sự việc của đời sống xã hội. Có sự xuất hiện của nhân vật trần thuật, của kết cấu, bút pháp linh hoạt có kết hợp với những cuộc phỏng vấn. Đây là thể loại báo NNVN sử dụng trong việc phản ánh nông nghiệp, nông thôn và nông dân có hiệu quả, tuy tần suất xuất hiện không lớn nhưng nó đã góp phần quan trọng trong truyền tải thông tin đến độc giả. Các bài: “Những nghịch lý trên thị trường nông sản”- Ngô Giang (25.6.2001), “Ghi nhận từ một làng nghề trồng cây cảnh”- Doãn Kiên, Đại Chính (9.1.2001), “Khi phạm nhân say sưa làm… nông nghiệp”- Ngọc Thạch (4.2.2002) là những bài ghi chép điển hình. Thông qua các bài ghi chép này các tác giả đã cung cấp cho người đọc những sự kiện, sự việc, hiện tượng tồn đọng đang xảy ra và có sự góp mặt của cái tôi: “Chúng tôi về Tân Long đúng ngày cả làng đang làm lễ cúng thần (một năm tổ chức một lần vào ngày 16.11 âm lịch) để cầu khấn thần linh ban cho an lành cũng như gặp nhiều may nắm khi xuôi thuyền dong lưới ra khơi” (Tân Long mùa con nước lạ!- Ngọc Thạch, Minh Sáng. (4.1.2002). Và qua lời kể của nhân chứng chúng ta cảm nhận được tâm trạng của người nói chuyện: “Trại viên Nguyễn Văn T, 42 tuổi, quê ở huyện Đức Hoà, Long An kể: Em hồi ở nhà, ruộng vườn có nhưng không biết sản xuất, mọi việc đồng áng để hết cho vợ con. Bản thân em muốn chóng giàu nên mở quán bia ôm. Đến khi bị bắt và xử án 4 năm tù em mới ân hận”. (Khi phạm nhân say sưa làm... nông nghiệp- Ngọc Thạch, Số 20.2002) Về phương diện kết cấu, ghi chép thường tuân thủ theo kết cấu gồm 3 phần: Nêu sự kiện trung tâm, minh hoạ, soi sáng sự kiện từ những góc độ khác nhau, Tóm lược nét chính, khẳng định, nhấn mạnh ý nghĩa hoặc những vấn đề của sự kiện. Bài “Ghi nhận ở xã Anh hùng ĐắkPhơi”- Đào Đình Phương (4.1.2002) là một ví dụ điển hình. Sau khi đưa ra sự kiện trung tâm: “Tính đến thời điểm này, ở các huyện Tân Trụ, Châu Thành- nơi có diện tích dưa hấu lớn nhất tỉnh Long An và cũng là một trong những địa phương có diện tích dưa hấu lớn của khu vực Nam bộ tự nhiên mắc thứ bệnh lạ và chết đồng loạt. Hiện tại, 50% diện tích ở các huyện này đã bị chết, số còn lại người dân đang cố gắng cứu chữa nhưng dường như ít kết quả”, tác giả minh hoạ bằng các chi tiết: Anh Nguyễn Văn Tân nhà ở ấp 5 xã Lạc Tân cho biết: Hai vụ trước, anh chỉ trồng hơn nửa hécta, cuối vụ cho thu 26 triệu đồng. Vụ này do chuẩn bị tết, anh mạnh dạn đầu tư gần 28 triệu để trồng 1,6 ha dưa Hắc Mỹ Nhân. Vậy nhưng khi cây trồng bắt đầu cho trái thì bị cháy làm héo rũ ra rồi chết. Sau đó tác giả nhấn mạnh vấn đề của sự kiện, như một lời cảnh báo đối với người trồng dưa : “Việc dưa hấu chết hàng loạt ở Long An cũng như hàng trăm hộ gia đình trồng dưa đang ở trong tình cảnh trắng tay không chỉ là tiếng chuông cảnh báo cho nội tỉnh Long An mà còn là sự cảnh báo cho tất cả các địa phương khác đang trong thời kỳ phát triển cây dưa một cách tự phát”. 2.5. Điều tra. Là một thể loại báo chí nằm trong nhóm các thể chính luận, mục đích của thể loại này là đem lại câu trả lời trước những sự kiện, vấn đề nổi bật trong đời sống. Bằng số liệu, sự kiện, miêu tả... bài điều tra nêu lên vấn đề, phân tích những khả năng và nhân tố mới, phân tích mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả để rút ra những kêt luận cần thiết. Bài điều tra được sử dụng trên NNVN chủ yếu trên trang bạn đọc, trang thời sự, nhằm giải thích, tìm ra nguyên nhân về các vấn đề bạn đọc đề cập ở nông thôn, nêu bài học kinh nghiệm và giải pháp. Thông qua thể loại này, với những luận cứ, luận chứng tiêu biểu, sát thực nội dung được thông tin đến người tiếp nhận kịp thời và làm thoả mãn nhu cầu mà độc giả quan tâm. Bài “Xã làm sai, huyện giải quyết quanh co, chỉ người dân là chịu thiệt”- Tổ PVĐT (4.1.2002) đã đưa ra những thông tin mà bạn đọc quan tâm về vụ việc lạm dụng chức quyền tại địa phương, các cán bộ UBND xã Phú Cát, Quốc Oai, Hà Tây làm sai quy định của pháp luật, tự ý phá dỡ ngôi nhà của anh Nguyễn Văn Thường khi chưa có quyết định thông báo tới gia đình anh. Các chứng cứ trong bài báo cho thấy: Năm 1993, hộ gia đình anh Nguyễn Văn Thường có đơn đi xây dựng kinh tế mới vùng gò đồi cùng với 20 hộ khác, được UBND xã chấp nhận và được giao cho 1 mảnh đất hoang có rất nhiều hố bom Mỹ. Việc giao đất này do ông Phạm Quang Huy, cán bộ kế hoạch của HTX kiêm cán bộ ban dự án kinh tế mới thực hiện. Nhưng khi giao, ông Huy chỉ ra chỉ đất, giao bằng mồm, không lập sơ đồ ô thửa, không xác định mốc giới, cũng không lập biên bản giao đất theo quy định của Luật Đất đai. Ngày 15.6.2000 khi anh Thường làm nhà trên đất được giao thì bị UBND xã huy động một số người đến tháo gỡ. Chị loan, anh Thường cho biết, trước đó xã chưa hề đưa một thông báo nào đến cho gia đình chị về việc đình chỉ xây dựng hay tháo gỡ, cũng không nói bất kỳ lý do nào... Hay bài điều tra “Trở lại bài báo “Vụ việc ở xã Thuỵ Duyên” cuộc đối thoại dân chủ bất thành”- Vũ Hữu Sự (2.8.2001), “Một đòi hỏi chính đáng bị trả giá bằng... 18 tháng tù giam”- Vũ Hữu Sự (4.3.2002) là những bài điều tra của phóng viên báo NNVN về các vấn đề liên quan đến đất đai, dân chủ và quyền lợi của người dân, những sai phạm của các cấp, ngành ở địa phương. Qua đây các vụ việc đã được đưa ra ánh sang làm rõ, trả lại công bằng cho người dân và góp phần thực hiện quy chế dân chủ ở nông thôn có hiệu quả. Người dân được trả lời đầy đủ các thông tin có liên quan đến lợi ích và trách nhiệm của mình, từ đó các vụ việc, sự kiện khác có liên quan được mau chóng giải quyết. Ngoài ra còn có các bài: “Xung quanh cái chết bí ẩn của đàn bò Bà Rịa- Vũng Tàu” Giang San (14.1.2002), “Trở lại vấn đề: Nhà máy Giấy Bãi Bằng không chịu mua gỗ cho nông dân”- Trần Cao (28.6.2002... là những bài điều tra tiêu biểu xuất hiện trên NNVN trong năm (2001-2002). 3. Hình thức trình bày báo Nông nghiệp Việt Nam. Hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về makét và được sử dụng trong nhiều chuyên ngành, lĩnh vực. Trong chuyên ngành báo chí- xuất bản makét được hiểu là “bản mẫu chỉ dẫn cho một ấn phẩm dự kiến về phương diện hình thức của nó (bố cục, chất liệu, màu sắc, kích cỡ...)” [9, 314]. Đối với bất kỳ tờ báo nào, cách trình bày, tổ chức, sắp xếp một số báo, trang báo, bài báo có ý nghĩa quan trọng, là một trong những yếu tố tạo nên phong cách riêng của mỗi tờ báo và để lại ấn tượng cho độc giả. Báo “Nông nghiệp Việt Nam” đã rất chú trọng tới hình thức trình bày của tờ báo, bởi với một tờ báo có nội dung thông tin tốt nhưng hình thức trình bày kém chất lượng, sắp xếp lộn xộn, câu chữ không theo khuôn mẫu, tranh ảnh mờ nhạt... gây tâm lý khó chịu cho người tiếp nhận và hiệu quả thông tin thu được không cao. Do tiến bộ khoa học- công nghệ nên chất lượng in ấn của báo NNVN ngày càng được cải tiến, đẹp hơn, hấp dẫn người đọc hơn và sử dụng nhiều yếu tố mang tính thẩm mĩ. Cách trình bày của báo đã tạo được phong cách riêng, độc đáo và thu hút người đọc. Thời gian qua, báo NNVN đã cung cấp cho độc giả khá đầy đủ thông tin diễn biến không chỉ là công tác tuyên truyền nông nghiệp, nông thôn và nâng cao dân trí nông thôn, mà còn cập nhật thông tin thời sự, những sự kiện có ý nghĩa chính trị, văn hoá- xã hội trong và ngoài nước. Cùng với việc truyền tải thông tin thông qua các thể loại báo chí, báo NNVN cũng chú trọng đến các hình thức khác như: Makét báo (vi nhét, khung, màu sắc), ảnh minh họa, bố trí các chuyên mục, chuyên trang để sao cho truyền tải thông tin một cách hiệu quả nhất, người đọc dễ nhớ, dễ tiếp nhận thông tin. Chuyên trang, chuyên mục. Là tên gọi của các trang, mục trong tờ báo để khu biệt trang, mục này với trang, mục khác, giúp độc giả có thói quen tiếp nhận thông tin, hình dung được nội dung của tờ báo. Trong chuyên trang chứa các chuyên mục để phục vụ cho mục đích tuyên truyền mà chuyên trang trong tờ báo đặt ra. Mỗi một tờ báo có chuyên trang, chuyên mục khác nhau, hầu hết các báo đều dựa vào đối tượng tiếp nhận để đặt tên chuyên trang, chuyên mục cho phù hợp và dễ nhận biết đặc thù của tờ báo. Báo NNVN có các chuyên trang ổn định và tiêu đề sát với mục địch, nhiệm vụ tuyên truyền của báo, đó là các chuyên trang xếp theo thứ tự: Tin tức- Sự kiện, Thời sự, Kinh tế- Thị trường, Bạn đọc với toà soạn, Văn hoá- thể thao, Khuyến nông, Sức khoẻ và đời sống, Gia đình, Thời sự quốc tế. Trong từng trang có các chuyên mục khác nhau nhằm khu biệt thông tin và phản ánh thường xuyên những thông tin có liên quan đến chuyên mục, tạo cho độc giả có thói quen tiếp nhận thông tin nhanh nhất, dễ hiểu và hiệu quả nhất. Như trong trang Khuyến nông có các chuyên mục: Thời vụ và dịch hạn, Nông dân học nông dân, Địa chỉ xoá đói làm giàu, Trao đổi kinh nghiệm, hoạt động Khuyến Nông- Lâm- Ngư. Đặc biệt là mục Nông nghiệp trả lời đã thu hút sự quan tâm của nhiều độc giả trong cả nước với việc trả lời đầy đủ các thông tin cần thiết về những thắc mắc của người dân. Hay chuyên trang Bạn đọc với toà soạn cũng được phân chia thành nhiều chuyên mục khác nhau: ý kiến bạn đọc, Điều tra theo thư bạn đọc, Tiếng nói người dân, Luật sư của bạn, Bạn đọc viết... Các chuyên trang, chuyên mục trong hai năm (2001-2002) ổn định, đảm bảo yêu cầu thông tin chất lượng, thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển nông nghiệp và nâng cao dân trí nông thôn. 3.2 Khổ báo. Là kích thước tờ giấy thể hiện nội dung tin, bài gồm phần lề và phần bát chữ. Để đảm bảo phong cách trình bày và tạo sự quen thuộc cho người tiếp nhận, tờ báo NNVN đã đổi mới khổ báo, từ khổ 13x19cm (năm 1962) sang khổ 42x29cm (năm 1968 đến nay). Chúng ta có thể tìm hiểu khổ hiện nay của báo NNVN qua bảng số liệu sau. Thông số Cỡ chữ (cm) Cỡ bát chữ(cm) Số cột/trang Cỡcột (cm) Cỡ vừa A3 (42x29) 38x24 5 4,8 3.3. Măng-séc. Là phần in co chữ lớn nhất tờ báo, nằm đầu trang nhất, là tên gọi của tờ báo. Hiện nay măngséc báo NNVN có nhiều cải tiến và mang tính ổn định, vẫn giữ nguyên dạng chữ chính, chỉ thay đổi yếu tố phụ cho phù hợp với xu thế tiếp nhận thông tin của độc giả và đảm bảo nội dung thông tin chất lượng. Phần chữ (tên báo) màu trắng, nền măngséc có 5 màu và mỗi thứ trong tuần đều đặc trưng bởi một màu, màu đỏ, xanh, đỏ tím. Bên phải của báo là số thứ tự của báo (theo năm), trên măngséc báo có trình bày tranh ảnh của bài viết trọng tâm, tính thời sự của số báo. Măngséc của báo được ngăn cách với phần chính văn của bát chữ trang nhất bằng một fi-lê đậm (>0,5mm), chạy hết khổ ngang của tờ báo. Trên phần măngséc có thêm một phần fi-lê nhạt ngăn cách giữa phần măngséc với tên của cơ quan chủ quản và tên khẩu hiệu hoạt động của tờ báo: Cơ quan của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Diễn đàn vì sự phát triển nông nghiệp và nâng cao dân trí. 3.4. Chữ (text) Đối với báo in, cái độc giả tiếp nhận đầu tiên là chữ, thế mạnh của báo in so với các loại hình báo chí khác chính là con chữ. Ngày nay công nghệ in la-ze cho phép thể hiện nhiều kiểu chữ khác nhau do đó các báo ngày càng có cơ hội tạo ra sự đặc sắc của mình nhờ công nghệ in ấn. Chữ thể hiện trên báo gồm chữ tít và chữ chính văn. *. Chữ tít. Là một trong những yếu tố có sức lôi cuốn thị giác người tiếp nhận nhất. Bên cạnh đó nó cũng có vai trò quan trọng trong việc thể hiện nội dung bài viết. Các tít chữ thể hiện trên báo in thường được thể hiện rõ ràng, sáng tạo nhằm thu hút đối tượng. Các tít trên báo NNVN thường đặt phía trên bài viết để thu hút người đọc. Một số tin, bài có cỡ chữ khác nhau, thường trong một số báo sử dụng 9-10 kiểu tít khác nhau (khảo sát năm 2002). Do đối tượng tiếp nhận của báo NNVN là đại bộ phận người dân địa phương, trình độ hiểu biết chưa cao nên chữ tít mà báo sử dụng đều đảm bảo dễ đọc, dễ nhớ và dễ hiểu. Trong một số trường hợp, tờ báo cũng sử dụng cả hai họ chữ chính trong tít báo, đó là họ chữ Ro-manh (Romain) có chân, nét thanh, nét đậm và họ chữ Ba- tông (Baton) không chân, nét đều. tuy nhiên loại chữ Ba-tông vẫn là kiểu được sử dụng thường xuyên nhất, chữ Ro- manh chỉ dùng trong trường hợp nội dung bài viết mang tính chất nghệ thuật (trang văn hoá, phần tạp văn, phiếm luận, mỗi cây mỗi hoa, trang gia đình), có ý nghĩa giáo dục, nhận thức, thẩm mĩ. *. Chữ chính văn. Lựa chọn chữ chính văn cũng là khâu quan trọng của tờ báo. Những năm trước kia báo NNVN có sử dụng một số kiểu chữ, gồm cả chữ không chân và có chân cho phần chính văn, cách lựa chọn này không thống nhất, gây khó khăn cho người tiếp nhận, gây nhiều lỗi do điều kiện in ty-pô lạc hậu. Hiện nay chữ chính văn được thống nhất sử dụng một ở số dạng: thẳng, nghiêng, đậm, nghiêm đậm... 3.5 Màu sắc. Màu sắc của báo NNVN sử dụng đảm bảo thường là hai màu đen trắng, điều này hợp với tính chất của báo chí là phương tiện thông tin thời sự, ít mang tính thẩm mĩ. Tuy nhiên trong một số trường hợp báo chí có sử dụng màu sắc để nhấn mạnh nội dung quan trọng, khu biệt với các thông tin khác có trên báo. Đây là yếu tố tác động đến thị giác độc giả, tạo ra màu sắc riêng, đặc trưng của mỗi tờ báo. Trước kia, báo NNVN chỉ có hai màu đen, trắng. Hiện nay, tờ báo đã đổi mới, tạo ấn tượng riêng, tượng trưng cho ngành nông nghiệp nên màu xanh lá lúa là màu chủ đạo của báo. Trong mỗi kỳ của báo đều có màu sắc chủ đạo riêng, đặc trưng cho từng ngày trong tuần: xanh lá lúa, đỏ- tím, đỏ... Ngoài ra, trong mỗi trang, chuyên mục có sử dụng màu sắc riêng, như trang sức khoẻ- đời sống, mục hỏi gì, đáp nấy có màu tím than là màu chủ đạo. Màu sắc của tít cũng được sử dụng trùng với màu của măngséc, nhưng ở một số trang trong tờ báo có sử dụng màu khác, điều này đôi lúc gây rối cho người tiếp nhận. 3.6. Fi- lê (Filet). Là đường kẻ hoặc hoạ tiết tạo thành dãy có chức năng của một đường kẻ, dùng để khu biệt mảng khối trong makét một trang báo (khu biệt giữa măngséc và chính văn, giữa tin, bài, chuyên mục, cột báo). Có 5 kiểu fi- lê: fi- lê mảnh, fi- lê đậm, fi- lê đúp, fi- lê đúp K, fi- lê hoa. Trong 5 loại fi- lê này, báo NNVN thường sử dụng 2 loại chính là fi- lê đậm và mảnh. Fi- lê mảnh có đường kính 0,1- 0,3mm, là kiểu dùng để ngăn cột báo, các bài với nhau. Fi- lê đậm, đường kính > 0,5mm, thường là dùng để ngăn cách các chuyên trang với phần chính văn. Ngoài ra, ở phần măngséc của báo có sử dụng một fi- lê đậm ở dưới khẩu hiệu hoạt động của tờ báo. Ngăn cách giữa khẩu hiệu và măngséc là một dòng fi- lê mảnh, điều này khiến độc giả dễ nhìn, dễ tiếp nhận. Cả hai dạng fi- lê sử dụng trên báo NNVN đều sử dụng màu đen, màu sắc cơ bản của tờ báo. 3.7. Nền (Trame). Là mảng màu đậm nhạt khác nhau trên trang báo. Mảng màu có độ đậm nhạt được tính bằng độ hạt màu nổi trên trang báo, thường nằm trong một khung, cùng làm nền để in thông tin đăng tải trên báo. Thường có 3 loại nền chính xuất hiện trên báo, đó là nền phẳng (độ đậm nhạt bằng nhau), nền đuổi (độ đậm nhạt chuyển dần từ đậm đến nhạt hoặc ngược lại), nền hoa (in chìm hoa văn, hoạ tiết, hình ảnh...). Nền có tác động hiệu quả đến thị giác người đọc, thông thường trên báo NNVN có sử dụng nền cho một số tít chính, trọng tâm cần nhấn mạnh của kỳ báo, hay nền cho một số chương trình giải trí ở trang văn hoá, trang sức khoẻ- đời sống. Việc sử dụng nền trên báo NNVN chưa có tính ổn định cao, chỉ đang trong xu hướng ổn định. 3.8. Biểu tượng mục (vi nhét- Vignette). Là một loại biểu tượng cho một loại thông tin nào đó, có vị trí ổn định trên trang báo. Vi nhét cũng giống như nhạc hiệu của chương trình phát thanh, truyền hình. Thường có hai loại vi nhét chính là vi nhét hình và vi nhét chữ. Vi nhét chữ in tên chuyên mục, chuyên trang, đòi hỏi thiết kế đồng bộ một co chữ, kiểu chữ, màu chữ và màu nền, khung. Vi nhét hình là cách thức hình vẽ thay thế cho chữ viết, là biểu tượng tượng trưng cho chuyên mục, chuyên trang. Hình vẽ đòi hỏi tính biểu tượng cao, phải gây được ấn tượng đối với người tiếp nhận. Báo NNVN hầu như không sử dụng vi nhét hình vẽ cho chuyên trang của mình. Chỉ tập trung ở các chuyên mục “Hỏi gì đáp nấy”, “tư vấn gia đình”, “giải trí”... và loại vi nhét này đang đi vào hoạt động ổn định trên báo NNVN. 3.9. ảnh. ảnh sử dụng trên báo chí gồm hai loại: ảnh minh hoạ và ảnh báo chí. Hai loại này có tác động trực tiếp đến đối tượng tiếp nhận thông tin. Khi tiếp xúc với một tác phẩm báo chí, cái đầu tiên thu hút người đọc là ảnh, sau đó người ta mới quan tâm đến nội dung phản ánh..Dó đó, ảnh có vị trí đặc biệt quan trọng và được quan tâm trên báo chí hiện nay. ảnh báo chí gồm có ảnh tin, ảnh phóng sự... Mỗi bức ảnh dù đứng độc lập hay, ảnh chùm hay ảnh kèm bài đều mang giá trị thông tin nhât định. Bản thân mỗi bức ảnh đều là một tác phẩm báo chí hoàn chỉnh. Nhiều khi giá trị của bức ảnh chụp được có giá trị hơn nghìn lời nói. ảnh được sử dụng trên tất cả các loại hình báo chí. Trong báo in ảnh được coi là bộ phận quan trọng của bài báo. ảnh tin và ảnh phóng sự ít xuất hiện trên báo NNVN, chủ yếu vẫn là ảnh bổ trợ cho bài viết (gọi là ảnh minh hoạ). Hiện nay ảnh được sử dụng nhằm bổ trợ thêm thông tin cho bài viết, thẩm định bài viết là người thật, việc thật và cái tôi tác giả chứng kiến. ở mỗi bài viết đã hay, có chiều sâu, nếu thiếu đi bức ảnh sẽ thiếu tính chân thực và sức thuyết phục. Hiểu vấn đề này, báo NNVN đã trang bị cho các phóng viên thiết bị kỹ thuật hiện đại để nâng cao chất lượng của bài viết. Tuy vậy việc đăng tải ảnh trên báo NNVN thời gian qua còn nhiều bất cập, không đồng nhất và thiếu trích dẫn đầy đủ, nội dung thông tin của ảnh không ăn khớp với nội dung bài viết, do đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả tiếp nhận thông tin của người đọc. Các bài viết đôi khi còn thiếu ảnh trong khi có thể có ảnh thì hiệu quả tiếp nhận thông tin sẽ cao hơn. Điển hình là các bài: “Ký sự vùng dâu”, “Cà phê xuống giá- cơ hội để phá bỏ diện tích cà phê kém hiệu quả” đăng trong số 34.2001. T3. Cả hai bài đều sử dụng ảnh nhưng không có chú thích rõ ràng, cụ thể và địa chỉ bức ảnh. Hay bài “Làm thế nào để đầu tư cho nuôi trồng thuỷ sản đạt hiệu quả cao” của tác giả Duy Chiến, số 9.2002, có sử dụng và chú thích ảnh nhưng chú thích một cách mơ hồ, chung chung. Nội dung bức ảnh khớp với nội dung bài viết nhưng lại không ghi chú bức ảnh chụp tại địa phương nào, mà chỉ ghi chú “Nghề nuôi tôm sú phát triển mạnh ở ven biển miền Trung”, người đọc chỉ biết nghề nuôi tôm sú phát triển ở miền Trung nhưng có rất nhiều các vùng nuôi tôm sú phát triển ở nơi đây, cho nên người đọc không biết hình ảnh trong bức ảnh là ở đâu. Kết luận Công cuộc CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn do Đảng và Nhà nước ta tiến hành đã đem lại cho nông thôn nước ta những thay đổi, biến chuyển cơ bản. Những thay đổi ấy đang dần làm cho nông thôn Việt Nam dần bắt nhịp với sự phát triển chung của đất nước. Những tờ báo viết về nông nghiệp, nông thôn trở thành một phần rất quan trọng trong đời sống của người nông dân Việt Nam. Trong số những tờ báo ấy, người ta không thể không nhắc tới tờ Nông nghiệp Việt Nam, một tờ được đánh giá là hàng đầu viết về nông thôn Việt Nam. Qua quá trình khảo sát và nghiên cứu nghiêm túc về nội dung và hình thức thể hiện của tờ báo, tác giả rút ra những kết luận sau: - Tờ báo đã khách quan trong việc phản ánh những thay đổi của nông thôn nước ta trong thời kỳ vừa qua. Nội dung các bài viết trên báo luôn phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và Bộ NN-PTNT. - Tờ báo đã rất kịp thời trong việc chỉ ra những khuyết điểm, tồn tại của nông nghiệp, nông thôn và đời sống của người nông dân, phản ánh chân thực đời sống nông thôn trên nhiều miền đất nước. - Báo có vai trò rất quan trọng và tiên phong trong việc phổ biến những tri thức khoa học, kỹ thuật chuyên môn đến người nông dân, góp phần quan trọng làm thay đổi nhận thức của người dân và áp dụng tiến bộ khoa học vào cuộc sống. - Làm tốt chức năng là diễn đàn xã hội của người nông dân, phản ánh kịp thời tâm tư, nguyên vọng của người dân. Các phương diện về văn hoá, xã hội nông thôn được phản ánh rõ nét và mang tính giáo dục cộng đồng cao. Ngoài ra, tờ báo đã thực hiện tốt chức chăm sóc và giáo dục sức khoẻ cộng đồng. - Ngôn ngữ của tờ báo là ngôn ngữ bình dân. Nhiều bài viết được đăng tải là của cộng tác viên nên người đọc dễ dàng tiếp nhận. Bên cạnh những hiệu quả, thành tích mà báo NNVN đã đạt được trong năm 2001-2002 thì còn đó một số những hạn chế cần được nhìn nhận và khắc phục: - Nội dung phản ánh đôi khi chưa thoả mãn nhu cầu thông tin của người dân. Nhiều bài viết chưa thực sự được người dân chấp nhận. - Các chuyên mục xã luận, chuyên luận mang tính định hướng cho người nông dân hầu như không xuất hiện trên báo NNVN. - Chưa chú trọng đến việc trình bày ảnh trên báo, thông tin chú thích ảnh trích dẫn chưa hợp lý. Các thuật ngữ khoa học xuất hiện nhiều, làm giảm hiệu quả tiếp nhận thông tin của đối tượng tiếp nhận đa phần là người nông dân. Sử dụng nhiều cách viết tắt trong một bài viết. Ngoài ra, việc sử dụng tít trên báo chưa làm nổi bật nội dung, có những tít không bao quát được nội dung phản ánh trong bài, lại có tít khái quát nhưng nội dung chỉ đề cập đến một phần nhỏ mà tít nêu lên. - Bài viết chưa chú trọng khai thác đề tài về vùng sâu, vùng xa và các vùng nông thôn phía nam. Với những đánh giá và nhận xét trên, bản thân người nghiên cứu cho rằng: tờ báo nên tập trung phản ánh những vấn đề ở các vùng sâu, vùng xa; tăng thêm các chuyên mục xã luận, chuyên luận và đa dạng hoá các chuyên mục. Chú trọng đến việc đăng và chú thích ảnh trên báo cho hợp lý. Nên ít dùng các thuật ngữ khoa học, nếu đăng tải thì cần phải có sự chú thích rõ ràng để độc giả nông dân có thể đọc và hiểu được. Chú ý dùng câu chữ rõ ràng, dễ hiểu và tránh tối đa cách viết tắt. Tài liệu tham khảo Trần Văn Chử- Kinh tế học phát triển. Nxb Chính trị Quốc gia. H. 1998. T193 Tạp chí Thông tin công tác tư tưởng. Số 9.2001. T36, S6.2002, S6.2003 Tạp chí Lý luận Chính trị. Số 3. 2003, Số 7.2002 Văn kiện Hội nghị lần 2. Ban chấp hành TW khoá VII. Nxb Chính trị Quốc gia. H. 1975. T55 Đảng Cộng Sản Việt Nam. Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ IX của Đảng. Nxb Chính trị Quốc gia. H. 2001. T40 Dương Xuân Sơn- Giáo trình các thể loại báo chí Chính luận- nghệ thuật. Nxb ĐHQG. H. 2003. T2, T3 Hà Minh Đức (Chủ biên)- Báo chí những vấn đề lý luận và thực tiễn. Nxb ĐHQG. H. 1997. T402 Đức Dũng- Viết báo như thế nào. Nxb Văn hoá Thông tin. H. 2001. T73 Vũ Quang Hào- Ngôn ngữ báo chí. Nxb ĐHQG. H. 2001. T 314 Hồ Chí Minh bàn về báo chí. Nxb Chính trị Quốc gia. H. 1995 Nông nghiệp Việt Nam trên con đường hiện đại hoá. Ban vật giá Chính Phủ. Hà Nội. 1998 Đường Hồng Dật. Lịch sử nông nghiệp Việt Nam/ bc. H. NN. 1994. Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ IX. Nxb Chính trị QG. H. 2001 Đưc Dũng- Các thể ký báo chí. Nxb Văn hoá Thông tin. H. 1996 Hữu Thọ- Nghĩ về nghề báo. Nxb Giáo dục. H. 1997 Hữu Thọ- Công việc của người viết báo. Nxb Giáo dục. H. 1998 Trần Quang- Báo chí những vấn đề lý luận và thực tiễn. Nxb ĐHQG. H. 2001 Những vấn lý luận đặt ra từ các văn kiện Đại hội IX của Đảng. Nxb Chính trị Quốc gia. H. 2002 Đức Dũng- Sáng tạo tác phẩm báo chí. Nxb Văn hoá- Thông tin. H.2002 Luận văn “Báo chí với sự nghiệp HĐH nông nghiệp, nông thôn”. KL- VDKT. 254. Khoa báo chí. ĐHKHXH&NV Luận văn “Những vấn đề then chốt của việc phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH” KL. 842. Khoa báo chí. ĐHKHXH&NV Tạp chí Người làm báo. S6.1999 Tạp chí Sinh hoạt lý luận. S6.2001, Số 1.2002 Tạp chí Nông nghiệp và phát triển nông thôn. T8,9,12. 2003, T2.2004 Tạp chí Cộng sản. S2, 15, 20. 1999, S12, 13, 28, 32. 2002, S9, 12, 21, 27, 29, 36.2003. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28701.doc
Tài liệu liên quan