Tình hình triển khai e-Banking tại Việt Nam

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐỀ TÀI TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI E-BANKING TẠI VIỆT NAM NGƯỜI VIẾT : NGUYỄN THU HƯƠNG LỚP : A3 CN7 GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN : GS. NGƯT ĐINH XUÂN TRÌNH HÀ NỘI - 2003 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG ***** KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐỀ TÀI TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI E-BANKING TẠI VIỆT NAM Người viết : Nguyễn Thu Hương Lớp : A3 CN7 Giáo viên hướng dẫn : GS. NGƯT Đinh Xuân Trình Hà Nội - 2003 MỤC LỤC LỜI N

doc107 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1499 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Tình hình triển khai e-Banking tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÓI ĐẦU…………………………………………………………………………... 3 CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ E-BANKING ……………………….. 4 I. Khái quát về e-banking …………………………………………………………. 4 II. Các loại sản phẩm dịch vụ e-banking ………………………………………….. 5 1. Các loại thẻ nhựa (Plastic Money) ……………………………………………….5 1.1 Thẻ ghi có (Credit Card) hay thẻ tín dụng ………………………………….6 1.2 Thẻ thanh toán (Charge Card) …………………………………………….. 9 1.3 Thẻ ghi nợ (Debit Card) …………………………………………………….9 1.4 Thẻ thông minh (Smart Card) ……………………………………………..11 1.5 Một số lưu ý để sử dụng thẻ an toàn ……………………………………….11 1.6 Vài nét về một số thương hiệu thẻ phổ biến trên thế giới…………………..14 a. Visa…………………………………………………………………... 14 b. Mastercard……………………………………………………………19 c. American Express…………………………………………………….21 d. JCB……………………………………………………………………22 2. Hệ thống thanh toán điện tử tại các điểm bán hàng (EFTPOS)…………………24 3. Máy rút tiền tự động (Automatic Teller Machines - ATM)…………………….25 4. Dịch vụ ngân hàng qua điện thoại (Telephone banking)………………………..25 4.1 Telephone banking là gì ? ………………………………………………….26 4.2 Những tiện ích của telephone banking……………………………………..26 4.3 Chi phí sử dụng……………………………………………………………..27 4.4 Cách thức sử dụng và tính an toàn…………………………………………28 5. Dịch vụ ngân hàng tại nhà (Home banking/PC banking) ………………………29 5.1 Giới thiệu chung về dịch vụ ngân hàng tại nhà…………………………… 29 5.2 Dịch vụ ngân hàng tại nhà hoạt động như thế nào? ………………………30 6. Dịch vụ ngân hàng qua mạng máy tính toàn cầu (Internet banking) ………….. 34 6.1 Giới thiệu chung về internet banking……………………………………….34 6.2 Cách thức sử dụng internet banking………………………………………..35 7. Dịch vụ ngân hàng qua vô tuyến truyền hình tương tác (Interactive TV)……….41 8. Dịch vụ ngân hàng qua mạng viễn thông không dây (Wireless communications network) hay M(mobile) banking……………………………………………….42 III. Những yếu tố quan trọng trong sự hình thành và phát triển e-banking …….. 43 1. Yếu tố pháp lý………………………………………………………………….. 43 2. Yếu tố khoa học công nghệ……………………………………………………..43 3. Yếu tố cạnh tranh………………………………………………………………..44 CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI E-BANKING TẠI VIỆT NAM………..45 I. Bối cảnh thúc đẩy sự phát triển e-banking tại Việt Nam …………………….. 45 II. Tình hình triển khai e-banking tại Việt Nam nói chung………………………48 III. Tình hình triển khai e-banking tại hệ thống ngân hàng trong nước………… 51 1. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam…………………………………………… 51 2. Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu….……………………………………..55 3. Ngân hàng Đông Á…………………………………………………………….. 57 4. Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ Thương……………………………………59 5. Ngân hàng thương mại cổ phần Xuất Nhập khẩu Việt Nam ………………….. 61 6. Ngân hàng Công thương Việt Nam …………………………………………….65 IV. Tình hình triển khai e-banking tại hệ thống ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài.. ……………………………………………………………………………….66 1. Chohung Vina Bank…………………………………………………………….66 2. Ngân hàng ANZ Việt Nam ………………………………………………….….67 3. Ngân hàng HSBC .……………………………………………………………...71 V. Những tồn tại trong quá trình phát triển e-banking tại Việt Nam hiện nay…..71 CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY SỰ PHÁT TRIỂN E- BANKING TẠI VIỆT NAM ……………………………………………………….. .75 I. Nhóm giải pháp pháp lý ………………………………………………….……. 75 II. Nhóm giải pháp cơ sở vật chất kỹ thuật ………………………………………..88 III. Nhóm giải pháp đào tạo nguồn nhân lực ……………………………………...90 IV. Nhóm giải pháp tăng cường hợp tác quốc tế………………………………….. 91 V. Nhóm giải pháp nâng cao nhận thức xã hội …………………………………..93 KẾT LUẬN ………………………………………………….……………………….... 94 TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………………………….……….... 95 LỜI NÓI ĐẦU Trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay, đâu đâu ta cũng bắt gặp những ứng dụng của công nghệ thông tin. Đặc biệt trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, với vai trò huyết mạch của nền kinh tế, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong sự phát triển các dịch vụ ngân hàng đã góp phần quan trọng tạo nên một nền kinh tế có tính cạnh tranh cao và đem lại nhiều tiện ích cho các khách hàng. Nhận thức được lợi ích to lớn mà công nghệ thông tin đem lại, nhiều ngân hàng trên thế giới đã và đang tiến hành áp dụng công nghệ thông tin để phát triển và hoàn thiện các dịch vụ ngân hàng nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng. Chỉ còn 7 năm nữa, lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam sẽ phải mở cửa hoàn toàn. Các tổ chức tín dụng nước ngoài với số vốn khổng lồ, công nghệ hiện đại, dịch vụ đa dạng và với bề dày nhiều năm kinh nghiệm sẽ được hoạt động không bị hạn chế ở Việt Nam. Để tồn tại và phát triển, các ngân hàng thương mại trong nước buộc phải đa dạng hoá dịch vụ, hiện đại hoá công nghệ và từng bước chiếm lĩnh thị phần ngay từ bây giờ. Chính vì vậy mà trong vài năm gần đây và đặc biệt là từ đầu năm 2003, các ngân hàng thương mại đua nhau tung ra các sản phẩm, dịch vụ mới mà phát triển nhanh và mạnh nhất phải kể đến dịch vụ e-banking. Để đi sâu tìm hiểu về vấn đề này, tôi đã lựa chọn đề tài "Tình hình triển khai e-banking tại Việt Nam" cho khoá luận tốt nghiệp. Thông qua khoá luận này, tôi mong muốn đem đến cho người đọc khái niệm cơ bản về e-banking cùng những thông tin cập nhật về tình hình triển khai dịch vụ e-banking tại Việt Nam. Mặc dù đã hết sức cố gắng song do đề tài còn khá mới mẻ không chỉ ở Việt Nam mà còn cả trên thế giới nên phạm vi nghiên cứu còn hạn hẹp và không tránh khỏi còn nhiều hạn chế. Tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của người đọc quan tâm đến lĩnh vực dịch vụ ngân hàng mới mẻ này. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới Giáo Sư, Nhà Giáo Ưu Tú Đinh Xuân Trình, Trường Đại học Ngoại Thương, người đã tận tình hướng dẫn và cho tôi những nhận xét hết sức quý báu. Tôi cũng xin cảm ơn anh Nguyễn Thanh Bình, Cán bộ Phòng Tin học Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam; Chị Phạm Thu Hà, Trưởng phòng Internet Banking và Chị Trương Cúc Hương, Trưởng phòng Dịch vụ Tài chính Cá nhân, Ngân hàng ANZ Việt Nam cùng gia đình và bạn bè, những người đã nhiệt tình giúp đỡ và động viên tôi rất nhiều trong quá trình thực hiện khoá luận này. Chương I: Giới thiệu khái quát về e-banking I. Khái quát về e-banking E-banking là tên viết tắt của electronic-banking, có nghĩa là "dịch vụ ngân hàng điện tử". Dịch vụ ngân hàng điện tử là việc cung cấp các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng bán lẻ bao gồm: tiến hành giao dịch ngân hàng kiểm tra tài khoản thanh toán hoá đơn điện tử cung cấp các sản phẩm và dịch vụ thanh toán điện tử khác như tiền điện tử thông qua các phương tiện điện tử.1 Công nghệ hiện đại ngày nay đã tạo ra nhiều sản phẩm, dịch vụ tuyệt vời, đáp ứng được các nhu cầu ngày càng khắt khe của khách hàng. Trước đây, nói đến giao dịch ngân hàng, ta thường tưởng tượng ra cảnh khách hàng phải mất nhiều thời gian điền vào các loại mẫu giấy tờ, sau đó đứng xếp hàng dài chờ đến lượt, rồi phải làm thủ tục qua nhiều cửa mất rất nhiều thời gian, công sức, chưa kể những rủi ro, nguy hiểm mà khách hàng có thể gặp khi phải thanh toán một số lượng lớn tiền mặt. Ngoài ra, khách hàng chỉ có thể đến giao dịch trong giờ mở cửa của ngân hàng. Nhưng giờ đây, các dịch vụ e-banking đa dạng với cách sử dụng tương đối đơn giản, tiện lợi đã giúp khách hàng hoàn toàn thoát khỏi những điều phiền toái đó. E-banking đã thực sự trở thành phương tiện hỗ trợ đắc lực giúp cho khách hàng có thể chủ động kiểm soát tình hình tài chính của mình một cách an toàn, hiệu quả, mọi lúc, mọi nơi mà không cần phải trực tiếp tới giao dịch tại ngân hàng. Với các doanh nhân thì 1 Trích trong tài liệu "ANZ Việt Nam - Dịch vụ Ngân hàng Điện tử" của Tập đoàn Ngân hàng Hữu hạn Úc và New Zealand, 2002. "thời gian là vàng", do đó có thể nói e-banking góp phần không nhỏ vào thành công trong hoạt động kinh doanh của họ. E-banking mang lại rất nhiều tiện ích không chỉ cho khách hàng mà còn cả cho các ngân hàng nữa. E-banking giúp cho ngân hàng tiết kiệm tối đa được nguồn nhân lực bởi nhiều khâu đã được tự động hoá nhưng vẫn đảm bảo cung cấp dịch vụ chất lượng cao tới một số lượng lớn khách hàng của mình. Và do đó, không những lợi nhuận thu được của các ngân hàng tăng lên mà quan trọng hơn là uy tín của họ cũng được nâng cao. Như đã nói ở trên, e-banking bao gồm nhiều loại sản phẩm, dịch vụ khác nhau được tạo ra nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng, phong phú của khách hàng. Hiện nay, những sản phẩm, dịch vụ e-banking được các ngân hàng cung cấp cho khách hàng bao gồm : các loại thẻ nhựa (thẻ thanh toán, thẻ tín dụng, thẻ thông minh…); hệ thống thanh toán tại các điểm bán hàng máy rút tiền tự động dịch vụ ngân hàng qua điện thoại dịch vụ ngân hàng tại nhà dịch vụ ngân hàng qua mạng máy tính toàn cầu dịch vụ ngân hàng qua vô tuyến truyền hình tương tác II. dịch vụ ngân hàng qua mạng viễn thông không dây Các loại sản phẩm, dịch vụ e-banking 1. Các loại thẻ nhựa (Plastic Money) "Plastic Money" là tên mà người ta đặt cho các loại thẻ nhựa dùng thay thế cho tiền mặt. Có rất nhiều tên gọi khác nhau cho những loại thẻ này nhưng nhìn chung chúng đều có hai chức năng chính: giúp người ta có thể rút được tiền mặt hoặc thực hiện thanh toán mà không cần dùng tiền mặt hoặc séc. Hiện nay, hầu hết các ngân hàng lớn trên thế giới đều có thể phát hành một thẻ mang ba chức năng cho khách hàng của họ: Chức năng bảo chi séc (có vai trò như một thẻ bảo đảm của ngân hàng hay một thẻ bảo chi séc). Theo đó, ngân hàng đảm bảo thanh toán cho khoản tiền ghi trên séc do khách hàng phát hành tới một hạn mức xác định. Dùng để rút tiền mặt từ các máy rút tiền tự động (automatic teller machines hay còn gọi là ATM) Dùng để thanh toán hàng hoá, dịch vụ bằng chuyển tiền điện tử tại điểm bán hàng (Electronic Funds Transfer at Point of Sale hay còn được viết tắt là EFTPOS) Ngày nay, sản phẩm về thẻ rất đa dạng. Ngoài các chức năng cơ bản trên, mỗi loại thẻ lại có những đặc điểm riêng nhằm đáp ứng các nhu cầu phong phú của khách hàng. Thông thường chủ thẻ sẽ phải trả phí hàng năm (annual fee) để sử dụng thẻ. Phí này để bù lại các chi phí mà ngân hàng phải bỏ ra để duy trì tài khoản và phát hành thẻ. Nhiều ngân hàng cũng tính phí cho những giao dịch tại máy ATM, thường từ 50 cent đến 3 USD tuỳ ngân hàng và tuỳ theo giao dịch đó tại ATM thuộc hay không thuộc hệ thống của ngân hàng phát hành. 1.1 Thẻ ghi có (Credit Card) hay thẻ tín dụng Các thẻ tín dụng (credit card) cung cấp các khoản vay cho khách hàng khi mua hàng hoá hoặc dịch vụ. Thẻ tín dụng được các công ty thẻ tín dụng (credit card companies) phát hành. Các công ty thẻ tín dụng hàng đầu trên thế giới phải kể đến là Mastercard, Visa, American Express, Access, JCB … Đặc điểm cơ bản của thẻ tín dụng là nó cho phép chủ thẻ khi mua hàng có thể nhận hàng trước và thanh toán sau, được hưởng một khoản tín dụng tuần hoàn và hạn mức tín dụng do ngân hàng phát hành thẻ qui định. Khi khách hàng lần đầu tiên mua thẻ tín dụng, họ thường phải đặt cọc trước một khoản tiền và ngân hàng sẽ dựa vào đó để định ra hạn mức tín dụng cho thẻ (thường thì hạn mức này có giá trị bằng tổng số tiền đặt cọc của khách). Đối với các khách hàng đã có một quá trình sử dụng thẻ tín dụng, ngân hàng sẽ căn cứ vào cách khách hàng thường thanh toán (từng phần hay trả hết, thường xuyên thanh toán chậm hay đúng hạn…) để linh hoạt định ra hạn mức tín dụng cho từng khách hàng. Tuỳ theo qui định của từng ngân hàng phát hành mà hàng tháng chủ thẻ sẽ phải thanh toán một mức tối thiểu hay toàn bộ số tiền hàng mua chịu trong tháng. Thông thường, nếu chủ thẻ thanh toán toàn bộ hoá đơn thẻ đúng hạn thì sẽ không phải trả thêm lãi. Nếu không họ sẽ phải trả một khoản lãi vay khá cao, từ 12%/năm trở lên tuỳ từng ngân hàng qui định. Khi mua sắm thứ gì đó bằng thẻ tín dụng, khách hàng đưa thẻ cho người bán hàng. Người bán hàng lấy các thông tin của thẻ như: số thẻ, hạn mức tín dụng, ngày hết hạn. Sau đó, khách hàng ký tên trên biên lai của người bán mà sau đó người bán dùng để nhận thanh toán tiền bán hàng từ công ty thẻ tín dụng. Người bán hàng sẽ phải trả một khoản phí khoảng 4% giá trị tiền hàng cho công ty thẻ tín dụng. Hàng tháng ngân hàng phát hành thẻ sẽ gửi cho chủ thẻ một bản thanh toán trong đó liệt kê ra tất cả các giao dịch trong tháng và tiền lãi phải trả. Lợi điểm lớn nhất của thẻ tín dụng đối với khách hàng là sự tiện dụng và an toàn. Chúng tiện dụng bởi lẽ khi cần mua một chiếc vé máy bay chẳng hạn, khách hàng không cần phải tới đại lý bán vé máy bay mà chỉ cần nhấc điện thoại gọi cho đại lý đó và đọc cho họ số thẻ tín dụng của mình. Điều này cũng có nghĩa là họ không cần phải mang một số lượng lớn tiền mặt theo người và do đó sẽ tránh khỏi nguy cơ bị cướp. Còn nữa, họ không phải mất thời gian đi rút tiền mặt tại ngân hàng rồi lại mất công đếm lại lần nữa tại đại lý bán vé máy bay. Ngoài ra, trong trường hợp bị mất hoặc bị lấy cắp thẻ, tài khoản của khách hàng cũng không bị người khác sử dụng miễn là khách hàng phải thông báo mất thẻ ngay lập tức. Một lợi điểm nữa của thẻ tín dụng là nếu khách hàng thanh toán đầy đủ các khoản giao dịch trong tháng đúng hạn thì họ không phải trả khoản tiền lãi. Như vậy khách hàng được hưởng một khoản tín dụng tuần hoàn mà không phải trả lãi. Thẻ tín dụng cũng mang lại lợi ích cho người bán hàng. Do khách hàng có thể dùng hàng trước, trả tiền sau nên doanh số bán hàng sẽ tăng lên. Hơn nữa vì không giao dịch bằng tiền mặt nên người bán hàng sẽ an toàn hơn vì họ sẽ phải giữ ít tiền mặt hơn tại cửa hàng. Mặt khác, khoản phí 4% mà người bán hàng phải trả cho công ty thẻ tín dụng cùng với các chi phí hành chính khác họ phải bỏ ra để lập sổ sách theo dõi và hoàn tất các thủ tục thu tiền bán hàng sẽ được người bán cộng vào giá bán của hàng hoá. Như vậy, thực chất người bán hàng cũng không phải bỏ thêm chi phí mà doanh thu lại tăng. Chủ thẻ sẽ phải ký trên biên lai mua hàng bao gồm ba liên - một liên chủ thẻ giữ, một cho người bán hàng và liên còn lại cho ngân hàng. Ngân hàng ghi có tổng số tiền bán hàng vào tài khoản của người bán hàng, ghi nợ vào tài khoản của công ty thẻ tín dụng và gửi các biên lai bán hàng đến công ty thẻ tín dụng. Quy trình này khác nhau tuỳ thuộc vào từng ngân hàng. Một số ngân hàng trừ khoản tiền hoa hồng được hưởng vào tổng số tiền bán hàng trước khi ghi có vào tài khoản của người bán. Khi các công ty thẻ tín dụng nhận được các biên lai bán hàng, họ sẽ thanh toán cho các ngân hàng thông qua hệ thống bù trừ tổng số tiền bán hàng của mỗi cửa hàng trừ đi khoản hoa hồng. Đồng thời công ty thẻ tín dụng ghi nợ vào tài khoản của các chủ thẻ và gửi cho họ hoá đơn thanh toán hàng tháng. Số của các thẻ bị báo mất hoặc đánh cắp sẽ được cập nhật vào một hệ thống máy tính. Danh sách các thẻ này được cập nhật thường xuyên và các chủ cửa hàng hay các đại lý thanh toán thẻ đều có thể truy cập vào mạng này để nhanh chóng kiểm tra xem thẻ tín dụng mà khách hàng đưa ra thanh toán có nằm trong danh sách đó hay không. 1.2 Thẻ thanh toán (Charge Card) Thẻ thanh toán (charge card) có các chức năng tương tự thẻ tín dụng, tuy nhiên chủ thẻ phải thanh toán toàn bộ hoá đơn thẻ hàng tháng và ngoài ra còn phải trả phí hội viên. Các loại thẻ thanh toán phổ biến hiện nay là American Express, JCB, Diner's Club… 1.3 Thẻ ghi nợ (Debit Card) Thẻ ghi nợ (debit card) cũng có các chức năng tương tự thẻ tín dụng, tuy nhiên khi dùng thẻ ghi nợ để thanh toán, số tiền phải trả sẽ được trừ trực tiếp vào tài khoản của khách hàng và như vậy, số dư có của tài khoản khách hàng bị giảm xuống. Ngược lại, khi dùng thẻ tín dụng thì số dư nợ trong tài khoản khách hàng tăng lên. Khách hàng chắc chắn sẽ cảm thấy rất thuận tiện khi dùng loại thẻ này để thanh toán hay rút tiền mặt vì hiện nay có khoảng vài chục triệu máy điện tử (electronic terminal) tại hơn 100 nước trên thế giới chấp nhận thanh toán. Những ưu điểm của thẻ ghi nợ có thể kể ra là: Thanh toán bằng chính tiền của mình mà không cần mang theo tiền mặt hay séc Không phải đợi ngân hàng xác nhận thanh toán séc An toàn hơn thanh toán bằng tiền mặt Dễ dàng kiểm soát tình hình tài chính của mình Khi sử dụng thẻ ghi nợ để thanh toán cho hàng hoá, dịch vụ, khách hàng đưa thẻ cho người bán hàng. Người bán hàng sẽ cho thẻ trượt qua máy cấp phép và nhập số tiền phải thanh toán. Một số đại lý cho phép khách hàng rút tiền mặt tại đây bằng cách nhập số tiền vào máy cấp phép lớn hơn số tiền thực tế phải thanh toán. Khách hàng nhập mã số PIN vào bàn phím số. Trong vài giây, máy sẽ kiểm tra các thông tin, xác nhận tiền còn đủ trong tài khoản và thực hiện giao dịch. Sau đó, một hoá đơn sẽ được in ra từ máy và số tiền phải thanh toán được trừ trực tiếp vào tài khoản của khách hàng. Một dạng của thẻ ghi nợ là thẻ rút tiền (cash card). Thẻ rút tiền (cash card) là tên gọi của các loại thẻ mà chủ thẻ sử dụng chúng để rút tiền mặt từ tài khoản của họ tại các máy rút tiền tự động (ATM). Họ không những có thể rút tiền tại các máy ATM thuộc bất cứ chi nhánh nào của ngân hàng họ đang mở tài khoản mà còn có thể sử dụng được tại cả các máy ATM của các ngân hàng khác có nối mạng với ngân hàng của họ. Khách hàng có thể hoàn toàn yên tâm về sự an toàn khi sử dụng thẻ thanh toán vì mỗi khách hàng đều được ngân hàng cung cấp cho một số PIN (personal identification number). Đây là mã số cá nhân mà khách hàng nên học thuộc lòng. Mã số này được giữ bí mật tuyệt đối, ngay cả các nhân viên ngân hàng cũng không được biết chúng. Khi sử dụng máy rút tiền tự động, khách hàng đưa thẻ vào máy rồi nhập số PIN của mình. Sau đó khách hàng có thể lựa chọn các dịch vụ hiện trên màn hình của máy như khách hàng có thể rút được một số tiền mặt tới một hạn mức nhất định, kiểm tra số dư tài khoản, in báo cáo tài khoản, chuyển tiền giữa các tài khoản hay nộp tiền vào tài khoản… Không phải máy rút tiền tự động của mọi ngân hàng đều có chức năng giống nhau. Tuỳ thuộc vào quy định của nước sở tại hoặc theo nhu cầu cụ thể mà máy ATM của từng ngân hàng có những chức năng khác nhau. Thông thường các máy ATM đều có thể cho phép khách hàng kiểm tra số dư tài khoản, in báo cáo tài khoản, chuyển tiền giữa các tài khoản của họ với nhau. Ngoài ra có máy còn cho phép khách hàng yêu cầu sổ séc, nộp séc hoặc tiền mặt vào tài khoản của họ. 1.4 Thẻ thông minh (Smart Card) Thẻ Thông minh (Smart Card) là loại thẻ nhựa hiện đại nhất hiện nay. Loại thẻ này có chứa một mạch vi xử lý (microchip) trên đó có mang các thông tin về tài khoản của chủ thẻ. Nó còn có thể chứa cả các thông tin về các giao dịch tài khoản trước đó mà chủ thẻ có thể xem được tại các máy ATM. Rõ ràng rằng loại thẻ này còn có thể chứa các thông tin không liên quan tới giao dịch ngân hàng như các thông số y tế của chủ thẻ, dữ liệu về các loại bảo hiểm chủ thẻ đang tham gia và các thông tin cá nhân khác. 1.5 Một số lưu ý để sử dụng thẻ an toàn: Sau khi nhận thẻ phải ký tên ở ô chữ ký đằng sau thẻ ngay lập tức. Không được viết mã số nhận dạng cá nhân (PIN) lên thẻ hay bỏ trong ví mà phải học thuộc lòng nó. Một số ngân hàng cho phép khách hàng có thể đổi số PIN cho dễ nhớ hơn. Phần lớn các thẻ có số PIN là 4 chữ số, một số khác thì số PIN có thể nhiều chữ số hơn hay có bao gồm cả chữ. Nếu số PIN có bao gồm cả chữ thì chủ thẻ nên liên hệ với ngân hàng phát hành để đổi lại thành số hết trước khi đi ra nước ngoài để tránh các phiền phức có thể xảy ra. Nên ghi lại số thẻ và số điện thoại để báo mất thẻ và giữ ở nơi an toàn. Khi chọn số PIN không nên lấy những số mà người khác có thể dễ dàng đoán được như số điện thoại, ngày sinh, bí danh, tên của mình, tên con cái, bất cứ sự kết hợp nào của những thông tin này hay các từ dễ nhớ như password, none…Nên chọn mật khẩu một cách ngẫu nhiên để không một ai có thể dò ra bằng cách suy luận các quan hệ với chủ thẻ. Có thể mở một cuốn sách dày, lần ngón tay qua trang sách bất kỳ đến một từ ngâũ nhiên nào đó và lấy làm mật khẩu. Ghi vào đâu đó để khỏi quên. Có thể dùng một từ sai chính tả để làm mật khẩu, ví dụ đáng lẽ viết password thì viết pasword. Cũng có thể thường xuyên thay đổi mật khẩu bằng cách chen con số khác nhau vào giữa một từ chẳng hạn. Để tăng thêm tính an toàn, một số máy ATM có thể giữ thẻ nếu khách bấm sai số PIN quá 3 lần hay nếu trong vòng 30 giây khách không có thao tác trên máy. Không tiết lộ số PIN cho bất cứ ai, kể cả người thân. Không ai, kể cả nhân viên ngân hàng, cảnh sát hay đại lý thanh toán thẻ được quyền hỏi số PIN của chủ thẻ. Chỉ duy nhất chủ thẻ được biết điều đó. Sau khi thực hiện xong một giao dịch tại máy ATM, nhớ lấy lại thẻ và hoá đơn (nếu có). Giữ cẩn thận các hoá đơn để tiện đối chiếu với báo cáo tài khoản về sau. Khi thẻ bị giữ lại trong máy ATM, cần cảnh giác với tất cả những người đề nghị giúp đỡ, ngay cả khi họ là nhân viên bảo vệ của ngân hàng. Những kẻ tội phạm có thể lấy được số PIN bằng nhiều cách như nhìn qua vai hay hỏi trực tiếp… Cần báo cho ngân hàng phát hành ngay khi phát hiện mất thẻ để tránh kẻ gian lợi dụng rút tiền trên tài khoản. Giữ thẻ cẩn thận như nó là tiền mặt vậy. Tránh làm cong, gẫy, xước thẻ vì nó có thể làm hỏng dải từ mặt sau thẻ. Không nên để thẻ từ gần tivi, điện thoại di dộng… vì nó thể làm hỏng dải từ của thẻ. Luôn có thói quen kiểm tra hoá đơn bán hàng và so sánh với tổng số tiền thanh toán trước khi ký hoá đơn. Nhớ giữ lại một bản copy để tiện đối chiếu với báo cáo tài khoản. Không bao giờ được tiết lộ số thẻ cho người khác trên điện thoại trừ khi khách hàng biết chắc đó là người đáng tin cậy hoặc một công ty có uy tín. Luôn đối chiếu các hoá đơn mua hàng với báo cáo tài khoản, đặc biệt là sau khi vừa mới kết thúc một chuyến đi. Khi dùng máy ATM cần chú ý quan sát xung quanh, tránh rút tiền tại những nơi hẻo lánh hoặc thiếu ánh sáng. Nên rủ thêm người khác cùng đi với mình. Lấy thẻ ra sẵn sàng, tránh phải lục tung ví hoặc túi xách để tìm thẻ. Tránh để những người đứng xếp hàng đằng sau nhìn thấy mình nhập số PIN hay số tiền vào máy. Không nên đếm tiền ngay khi đang đứng cạnh máy ATM. Cất ngay thẻ, tiền và hoá đơn ngay khi làm xong giao dịch, đếm sau. Nếu phát hiện ra điều gì đáng ngờ, cần huỷ ngay giao dịch và đi chỗ khác. Nếu có thể, cần liên hệ lại với ngân hàng phát hành thẻ để xác nhận giao dịch đã bị huỷ. Nếu máy ATM được đặt trong cabin có cửa kín, không nên để người lạ vào cùng khi rút tiền. Ngay khi phát hiện ra có sai khác giữa hoá đơn với bản báo cáo tài khoản, cần báo ngay cho ngân hàng phát hành biết để được giải đáp. Trước khi bắt đầu chuyến đi xa, nên tìm hiểu vị trí có máy ATM chấp nhận loại thẻ mà mình đang có bằng cách liên hệ với ngân hàng phát hành thẻ hoặc tìm trên mạng Internet. 1.6 Vài nét về một số thương hiệu thẻ phổ biến trên thế giới a. Visa Hệ thống máy ATM toàn cầu của Visa Hệ thống máy ATM toàn cầu của Visa bao gồm khoảng 810.000 máy trên hơn 150 nước. Hầu hết các máy ATM này cung cấp dịch vụ 24 giờ trong ngày, 7 ngày trong tuần. Hiện có khoảng hơn 1 tỷ người sử dụng thẻ này trên toàn thế giới. Các loại thẻ trong hệ thống Visa như Visa, Plus và Electron đều cho phép người sử dụng rút tiền một cách nhanh chóng, thuận tiện và an toàn. Rút tiền mặt bằng máy Visa/Plus ATM có sử dụng số PIN an toàn, khách hàng còn được hưởng tỷ giá chuyển đổi ngoại tệ hấp dẫn hơn. Ngoài ra, các máy ATM này cho phép khách rút loại tiền của nước đang cư trú và trừ vào tài khoản của khách hàng bằng tiền nội tệ. Như vậy khách sẽ không phải tìm chỗ đổi tiền và không phải trả thêm tiền hoa hồng như thường có tại các điểm đổi tiền bình thường. Các máy ATM này cũng thường được đặt ở những địa điểm thuận tiện nhất cho các khách du lịch như tại các sân bay quốc tế, nhà ga, các trung tâm thương mại sầm uất,... Thẻ ghi nợ của Visa có 3 loại chính mang các biểu tượng như sau: Thẻ Visa Electron Thẻ Visa Electron bắt đầu được phát hành vào những năm 80 với mục đích để sử dụng thanh toán tại các đại lý có máy thanh toán điện tử. Visa Electron có thể sử dụng để thanh toán tại hơn 12 triệu đại lý thanh toán điện tử trên toàn thế giới, thanh toán trên Internet và để rút tiền mặt tại hơn 800.000 máy ATM. Ngày nay thẻ Visa Electron được phát triển mang thêm nhiều chức năng hơn như thẻ ghi nợ, thẻ tín dụng, thẻ trả trước, có hoặc không có mạch vi xử lý (chip), tuy nhiên nó thường được sử dụng như thẻ ghi nợ. Thẻ Visa Electron được các tổ chức tài chính là thành viên của Visa phát hành tại nhiều khu vực trên thế giới như: châu Phi, châu Á, vùng Ca-ri-bê, khu vực Trung và Nam Mỹ, châu Âu, Mê-hi-cô và khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, không một tổ chức tài chính nào tại Mỹ và Canada phát hành loại thẻ này. Mặc dù vậy, thẻ Visa Electron vẫn được chấp nhận thanh toán tại các đại lý thanh toán thẻ và máy ATM của hai nước trên. Thẻ Visa Cash Thẻ Visa Cash mang biểu tượng như sau: Nó được xem như một phương thức thanh toán mới cho các khoản chi tiêu thiết yếu hàng ngày mà không phải mang hàng nắm tiền lẻ trong túi. Phương thức thanh toán dễ dàng, nhanh chóng và thuận tiện này có thể được sử dụng để trả các khoản mua sắm nhỏ như một cốc cà-phê, tờ báo, trả tiền điện thoại công cộng, vé xem phim, phí gửi xe, tiền truy cập Internet công cộng, hoặc tiền vé xe buýt,…Đây là loại thẻ có chứa mạch vi xử lý và có thể được sử dụng để thanh toán ngay tại điểm bán hàng hoặc trên mạng Internet. Có hai loại thẻ Visa Cash chính là loại dùng một lần và loại có thể nạp thêm tiền. Loại thẻ dùng một lần được nạp sẵn một giá trị định trước như thẻ điện thoại. Khi sử dụng hết giá trị của thẻ thì người ta vứt nó đi và lại mua thẻ mới. Loại còn lại không mang một giá trị định trước. Khi sử dụng hết giá trị của thẻ, ta có thể nạp thêm tiền vào thẻ tại các máy chuyên dụng và máy ATM. Dù thuộc loại thẻ nào thì việc sử dụng thẻ Visa Cash để thanh toán cũng rất nhanh và tiện lợi. Người sử dụng nó sẽ luôn có số tiền lẻ mình cần mà không còn phải lục tung các loại túi lên để tìm tiền lẻ hoặc phải dài cổ chờ người bán đi đổi tiền. Thẻ Visa Cash được sử dụng như một loại "tiền điện tử". Mỗi thẻ được gắn một mạch vi xử lý có thể mang được giá trị bằng tiền. Mỗi lần dùng thẻ này để thanh toán cho một thứ gì đó, số tiền phải trả sẽ được tự động trừ từ số dư hiện có của thẻ. Điều đó thực sự nhanh chóng, tiện lợi và dễ dàng! Thẻ Visa Cash được chấp nhận thanh toán tại tất cả các đại lý thanh toán thẻ, cửa hàng hoặc máy ATM… có trưng biểu tượng Visa Cash như trên. Thẻ tín dụng Visa Đồng sở hữu bởi 21.000 tổ chức tài chính thành viên trên toàn thế giới, Visa là một tổ chức tư nhân vì lợi nhuận được thành lập nhằm phục vụ lợi ích của các thành viên, chủ thẻ và các đại lý thanh toán. Thông qua các tổ chức tài chính thành viên, Visa đã cung cấp một giải pháp thanh toán có uy tín và được chấp nhận rộng rãi nhất trên thế giới cho cả người tiêu dùng lẫn các doanh nghiệp. Đến nay, Visa đã phát hành khoảng trên 1 tỷ thẻ các loại được chấp nhận thanh toán trên 150 quốc gia. Trong năm 2002, 2,4 nghìn tỷ USD hàng hoá và dịch vụ đã được thanh toán bằng các sản phẩm của Visa. Sự ra đời của Visa bắt nguồn từ năm 1958, khi ngân hàng Bank of America lần đầu tiên phát hành thẻ BankAmericard xanh, trắng và vàng cho các khách hàng ở California. Tuy nhiên ý tưởng về loại thẻ này đã có từ trước đó rất lâu. Ngay từ những năm đầu thế kỷ trước, ông A.P. Ginnini, người sáng lập ra Bank of America đã tin tưởng rằng các khoản tín dụng cá nhân linh hoạt sẽ giúp khách hàng kiểm soát được cuộc sống của họ. Thẻ BankAmericard ra đời nhằm hướng tới sự thay đổi tích cực của xã hội. Thẻ BankAmericard trở nên phổ biến trên khắp nước Mỹ vào những năm 60 và 70 của thế kỷ trước. Để hỗ trợ cho nó, một tổ chức mới sở hữu và điều hành bởi nhiều tổ chức thành viên đã ra đời. Cái tên "Visa" của tổ chức mới này được xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1976. Chẳng bao lâu sau thẻ tín dụng Visa đã phát triển trên toàn cầu. Trong suốt những năm 80 và 90 của thế kỷ qua, Visa tiếp tục đạt được những bước tiến quan trọng: cho ra đời thẻ tín dụng cao cấp đầu tiên, thiết lập hệ thống ATM toàn cầu đầu tiên, phát triển thêm thẻ thông minh, thẻ trả trước… và từng bước chiếm lĩnh thị phần trên toàn thế giới. Có cả một "gia đình" thẻ Visa để đáp ứng mọi loại nhu cầu thanh toán: Thẻ Visa Classic mang mọi tiện ích cơ bản của một thẻ thanh toán như thuận tiện, an toàn và đáng tin cậy. Thẻ Visa Gold mang đến cho chủ thẻ hạn mức thanh toán cao hơn và nhiều dịch vụ cũng như tiện ích đi kèm hơn, bao gồm cả dịch vụ phát hành thẻ thay thế khẩn cấp và dịch vụ ứng tiền trước (cash advance) khẩn cấp. Thẻ Visa Platinum là loại thẻ cao cấp nhất. Chủ những thẻ này được hưởng những dịch vụ chất lượng cao nhất như có hạn mức tín dụng lớn, bảo hiểm tai nạn khi đi du lịch và nhiều loại dịch vụ trợ giúp khác. Thẻ Visa Electron/Visa Plus cho phép chủ thẻ có thể thanh toán các khoản mua sắm trực tiếp từ tài khoản ngân hàng của mình mà không cần phải mang theo tiền mặt, không chỉ ở trong nước mà còn thanh toán được tại hàng triệu đại lý/cửa hàng trên toàn thế giới. Thẻ Visa Smart là một loại thẻ thanh toán đa năng. Loại thẻ này có chứa một mạch vi xử lý có thể trữ được lượng thông tin gấp 100 lần một thẻ từ bình thường. Mạch vi xử lý này giúp cho thẻ Visa Smart có thêm những chức năng không có ở bất cứ một thẻ ghi nợ hay thẻ tín dụng nào của Visa. Rồi đây, chủ thẻ có thể gộp tất cả các loại thẻ giảm giá, thẻ ưu đãi của cửa hàng, thẻ ghi nợ, thẻ tín dụng, thẻ y tế, thẻ bảo hiểm …làm một. Như vậy thẻ Visa Smart mang đến nhiều tiện ích nhất cho chủ thẻ. Họ không còn phải giữ hàng nắm thẻ các loại trong ví mà thay vào đó là một thẻ duy nhất và chỉ có họ mới sử dụng được. Thanh toán bằng thẻ Visa Smart cũng an toàn hơn các loại thẻ khác, nhất là khi thanh toán qua mạng Internet vì mật khẩu thẻ được bảo vệ và phải qua máy đọc xác nhận lại trước khi thực hiện các giao dịch. Ngày càng nhiều thẻ Visa Smart được phát hành ở khu vực châu Á Thái Bình Dương. Đến cuối năm 2002, có khoảng 11 triệu thẻ Visa Smart được phát hành tại khu vực này. Để đảm bảo Visa Smart phù hợp với mọi mong muốn của khách hàng, tổ chức Visa đã tiến hành những cuộc khảo sát để lấy số liệu thống kê các mong muốn và sở thích của khách hàng. Mục tiêu của Visa là sẽ hoàn thiện thẻ Visa Smart để nó trở thành một "ngân hàng bỏ túi", phù hợp nhu cầu của từng chủ thẻ. Các tổ chức tài chính thành viên (ngân hàng) phát hành thẻ Visa và quản ._.lý mọi mặt liên quan đến tài khoản thẻ. Visa chỉ đóng vai trò nhà cung cấp các giải pháp thanh toán. Giữa Visa và các tổ chức tài chính thành viên hay giữa Visa và các đại lý chấp nhận thanh toán thẻ Visa có những qui định phải tuân theo. Ví dụ như: mỗi ngân hàng được phép đặt ra các tiêu chí riêng để phát hành thẻ, được tự quyết định lãi suất cũng như các điều khoản điều kiện đối với khách hàng; các đại lý/cửa hàng chấp nhận thanh toán thẻ Visa không được đặt ra hạn mức tối thiểu cho những giao dịch thanh toán bằng thẻ, thậm chí đối với cả sản phẩm bán hạ giá… b. MasterCard MasterCard International là một trong những công ty thẻ nổi tiếng với nhiều nhãn hiệu thẻ được chấp nhận thanh toán rộng rãi như MasterCard, Cirrus và Maetro và khoảng 25.000 tổ chức thành viên thanh toán thẻ trên toàn thế giới. Đối tượng khách hàng của MasterCard bao gồm cả cá nhân lẫn các doanh nghiệp lớn nhỏ trên 210 quốc gia và vùng lãnh thổ. MasterCard là người đi đầu trong cải tiến và chất lượng, cung cấp nhiều sự lựa chọn về giải pháp thanh toán cả trên thị trường thực lẫn ảo (internet). Với hơn 30 triệu điểm chấp nhận thanh toán thẻ trong đó bao gồm hơn 820.000 máy ATM trên toàn thế giới, không có một thẻ thanh toán nào được chấp nhận rộng rãi như MasterCard. Tính đến 31 tháng 12 năm 2002, tổng doanh thu mua bán bằng thẻ đã vượt quá 1,14 nghìn tỷ USD. Thẻ thuộc hệ thống MasterCard bao gồm 3 loại chính: - Thẻ Maetro - Thẻ Cirrus - Thẻ MasterCard Thẻ Maetro thuộc loại thẻ ghi nợ. Có thể dùng thẻ Maetro để mua sắm, rút tiền mặt tại hơn 5 triệu máy điện tử trên toàn thế giới hoặc sắp tới đây có thể thanh toán được trên mạng Internet nữa. Thẻ Cirrus cũng thuộc loại thẻ ghi nợ nhưng chỉ được dùng để rút tiền mặt tại các máy ATM. Tất cả các máy ATM thuộc hệ thống Cirrus đều có đặc điểm là các hướng dẫn trên máy rất dễ hiểu và bằng cả tiếng Anh lẫn tiếng bản địa. Thẻ MasterCard là một trong những loại thẻ tín dụng phổ biến nhất trên toàn thế giới. Các chủ thẻ MasterCard được hưởng khá nhiều tiện ích như: - Dịch vụ Bảo hiểm mua sắm (Purchase Assurance): Khi một thứ hàng hoá nào đó được khách hàng mua bằng thẻ MasterCard mà bị hư hại hoặc mất trong vòng 90 ngày kể từ ngày mua thì khách sẽ được hoàn tiền hoặc đổi. - Kéo dài thời hạn bảo hành (Extended Warranty): hàng hoá mua bằng thẻ MasterCard có thể có thời hạn bảo hành dài hơn mà không phải mất thêm phí. - MasterRental: đây là một sự lựa chọn thông minh để tiết kiệm tiền khi khách cần thuê xe ôtô trong vòng 15 ngày liên tục hoặc ít hơn. Thực tế, đây là dịch vụ bảo hiểm giúp chủ thẻ tránh được các khoản phạt của người cho thuê xe trong trường hợp khách làm mất hoặc hỏng xe. Nếu khách hàng đã thanh toán toàn bộ tiền thuê xe thì họ có thể được bảo hiểm tới 50.000 USD cho một vụ. - Master RoadAssist: là dịch vụ hỗ trợ khách hàng khi chẳng may bị hỏng xe giữa đường. Chỉ cần gọi điện đến số máy hỗ trợ và thông báo địa điểm hỏng xe, trong thời gian ngắn nhất khách sẽ được đội sửa chữa đến trợ giúp với chi phí hợp lý được trừ thẳng vào tài khoản thẻ. - Dịch vụ hỗ trợ du lịch (Travel Assistance Services): dịch vụ này sẽ cung cấp cho khách hàng nhiều thông tin, hướng dẫn bổ ích về các dịch vụ quan trọng khách có thể cần khi đi du lịch như thủ tục cấp visa, passport, đổi ngoại tệ, tiêm chủng... - Dịch vụ trợ giúp toàn cầu (MasterCard Global Service): dịch vụ này tạo cho chủ thẻ sự yên tâm khi đi du lịch hoặc công tác xa nhà. Đây là dịch vụ hoạt động 24/24 giờ trong ngày, 365 ngày trong năm cung cấp các trợ giúp liên quan đến thẻ dù khách hàng đang ở bất cứ đâu. Khách hàng sẽ không phải trả phí điện thoại cho dịch vụ này trên 75 quốc gia trên toàn thế giới. Khi cần, chủ thẻ chỉ cần gọi đến số điện thoại Dịch vụ khẩn cấp (thường có ở mặt sau thẻ), tổng đài sẽ nối máy cho khách tới nhân viên có thể nói được thứ tiếng của khách để trợ giúp trong các tình huống sau: o Mất thẻ o Phát hành thẻ khẩn cấp o Ứng tiền mặt khẩn cấp o Cung cấp địa chỉ các máy ATM có chấp nhận thanh toán thẻ này tại địa điểm khách đang lưu trú o Kiểm tra các thông tin có liên quan tới tài khoản thẻ o Sử dụng các tiện ích khác của thẻ Tuy nhiên, phần lớn các tiện ích nêu trên chỉ có ở thẻ MasterCard Gold hoặc Platinium và khách hàng chỉ được hưởng khi đáp ứng các điều khoản, điều kiện nhất định. Ngoài ra, thẻ còn có thể được dùng để thanh toán tự động các hoá đơn định kỳ như tiền điện, điện thoại, thuê nhà, phí bảo hiểm, thuế… c. American Express (hay còn gọi là thẻ AMEX) Có khoảng 30 loại thẻ AMEX khác nhau đáp ứng nhu cầu của nhiều đối tượng hoặc mục đích sử dụng. Các tiện ích chính: Kiểm soát tình hình hoạt động của tài khoản thẻ Kiểm tra báo cáo tài khoản, xem các giao dịch, thanh toán tiền mua hàng đã thực hiện trong tháng bất cứ lúc nào trong ngày. Xem thông tin cập nhật về các giao dịch gần nhất bao gồm cả các loại phí, các khoản phải thanh toán và tín dụng. Hưởng điểm thưởng cho các lần thanh toán với số tiền lớn bằng thẻ cho các dịch vụ như giải trí, du lịch, mua sắm … Tải các dữ liệu về hoạt động thẻ vào các phần mềm chuyên dụng để dễ dàng quản lý tình hình tài chính như Microsoft Money hay Quicken Phương thức thanh toán cho hoá đơn mua hàng trong tháng linh hoạt: có thể trả một lần đầy đủ hoặc trả chậm Rất thuận tiện vì khách hàng có thể mua hàng nhiều lần trong tháng nhưng chỉ phải thanh toán cho một hoá đơn tổng hợp mỗi tháng. Đi mua sắm với thẻ American Express Được bảo đảm chống gian lận Được chấp nhận rộng rãi lại nhiều điểm thanh toán Thời hạn bảo hành của nhà sản xuất đối với rất nhiều sản phẩm sẽ được kéo dài hơn, có thể tới một năm Đi du lịch với thẻ American Express Có thể đi du lịch trước rồi thanh toán sau. Có thể thanh toán đầy đủ một lần hoặc trả chậm Mỗi lần đi bằng máy bay sẽ được bảo hiểm tới 1 triệu USD Bảo vệ khách hàng khỏi những sự cố xảy ra trong chuyến đi như hành lý bị mất, thất lạc hoặc hư hỏng,.. Có thể rút tiền mặt vào bất cứ lúc nào thuận tiện tại hơn 500 ngàn máy ATM trên toàn thế giới Hưởng dịch vụ trợ giúp 24 giờ trong ngày khi đi du lịch xa d. JCB Từ khi thành lập vào năm 1961, JCB đã luôn giữ vị trí hàng đầu trong ngành công nghệ thẻ của Nhật Bản bởi việc cung cấp dịch vụ chất lượng cao. Năm 1981, JCB bắt đầu chương trình mở rộng hoạt động ra quốc tế nhằm cung cấp dịch vụ với chất lượng và sự thuận tiện tương tự tới tất cả các chủ thẻ JCB ở nước ngoài. Đến đầu những năm 90, ngày càng nhiều các tổ chức tài chính có uy tín hợp tác với JCB. Sau đó, JCB đã nhanh chóng trở thành nhãn hiệu thẻ quốc tế lớn, có uy tín. Hiện nay, có khoảng 42 triệu khách hàng sử dụng thẻ JCB, khoảng 9,78 triệu đại lý chấp nhận thanh toán loại thẻ này và khoảng 3.000 tổ chức tín dụng quốc tế có quan hệ hợp tác với JCB. JCB theo đuổi một phương châm hoạt động duy nhất là "dịch vụ xuất phát từ trái tim"(Service from the Heart) trong mọi mối quan hệ với khách hàng, đại lý thanh toán thẻ và các đối tác khác. Bằng chứng cho điều này là JCB đã xây dựng một hệ thống trợ giúp khách hàng duy nhất là JCB Plaza. Khi chủ thẻ JCB đi ra nước ngoài, họ sẽ được các nhân viên của JCB Plaza chào đón nồng nhiệt và giúp đỡ bằng mọi cách. Các nhân viên ở đây được đào tạo đặc biệt về phục vụ khách hàng, đáng tin cậy và hiểu biết rộng như một người thư ký riêng, tận tụy như một người quản lý trong một khách sạn sang trọng. Các JCB Plaza thường được đặt tại các đường phố chính của 31 thành phố trên toàn thế giới. Tại đây, khách hàng sẽ được trợ giúp với nhiều dịch vụ đa dạng như phát hành gấp thẻ thay thế, tư vấn về y tế và rất nhiều dịch vụ chất lượng cao khác. Các đối tác và đại lý thanh toán cũng tìm thấy nhiều lợi ích trong sự hợp tác với JCB. Không chỉ doanh thu bán hàng của họ tăng mà họ còn có nhiều cơ hội để quảng bá thương hiệu của mình trên thị trường quốc tế. Sản phẩm của họ sẽ trở nên hấp dẫn khách hàng hơn nếu như họ kết hợp các tiện ích của thẻ JCB với các loại sản phẩm và dịch vụ thẻ của chính mình. 2. Hệ thống thanh toán điện tử tại các điểm bán hàng (EFTPOS) EFTPOS hay còn gọi là dịch vụ chuyển tiền điện tử tại điểm bán hàng. Số tiền phải trả cho hàng hoá sẽ được chuyển bằng công nghệ điện tử tại điểm bán hàng từ ngân hàng của người mua sang ngân hàng của người bán. Điểm bán hàng có thể là tại siêu thị hay trạm bán xăng, nơi mà khách hàng sử dụng thẻ để thanh toán cho hàng hoá. Người bán hàng kéo trượt thẻ qua máy cà thẻ. Đây thực chất là một thiết bị đọc có thể đọc được các thông tin được mã hoá trên dải từ nằm ở mặt sau thẻ. Thiết bị đọc thẻ này cho phép các thông tin của chủ thẻ được chuyển qua đường điện thoại tới một Tổng đài Trung tâm. Các thông tin trên thẻ được mã hoá để đảm bảo an toàn. Tổng đài Trung tâm lựa chọn đúng ngân hàng và gửi các thông tin trên thẻ đến bộ xử lý tại ngân hàng của chủ thẻ để kiểm tra các thông tin sau: Số thẻ Thẻ đã được báo mất bao giờ chưa ? Ngày hết hạn của thẻ Tổng số tiền phải thanh toán Có đủ tiền trên tài khoản của khách hàng không ? Mã số nhận diện người bán Số thiết bị thanh toán của người bán Nếu kết quả kiểm tra các thông tin cho thấy thẻ có giá trị thanh toán, bộ xử lý của ngân hàng người mua sẽ gửi số cấp phép đã được mã hoá tới Tổng đài Trung tâm và từ đây sẽ gửi thông báo tới cửa hàng. Máy cà thẻ tại cửa hàng sẽ in ra một giấy biên nhận trên đó có số cấp phép. Khách hàng ký tên lên trên giấy biên nhận và sau đó có thể mang hàng đi. Đồng thời Tổng đài Trung tâm sẽ chuyển tổng số tiền hàng tới ngân hàng của người bán. Nếu không lấy được số cấp phép thì người mua sẽ phải thanh toán hàng hoá bằng một phương thức khác. Sau ba ngày, ngân hàng của người mua sẽ trừ tổng số tiền hàng vào tài khoản của người mua. Trong khi đó, cũng sau ba ngày, ngân hàng của người bán ghi có vào tài khoản của người bán tổng số tiền bán hàng. 3. Máy rút tiền tự động (Automatic Teller Machines - ATM) Đúng như tên gọi, các máy rút tiền tự động (ATM) cho phép khách hàng tự mình rút tiền mà không cần sự trợ giúp nào của nhân viên ngân hàng. Khách hàng dùng các loại thẻ nhựa như đã nói ở phần trên đưa vào máy ATM, các máy này sẽ nhận dạng khách hàng thông qua mã số nhận dạng cá nhân (PIN) mà khách hàng nhập trên bàn phím của máy. Ngoài chức năng chủ yếu là cho phép khách hàng rút tiền mặt, các máy ATM còn cung cấp một loạt các tiện ích khác như cho phép khách hàng vấn tin tài khoản, chuyển tiền giữa các tài khoản, yêu cầu báo cáo tài khoản chi tiết hoặc in các báo cáo tài khoản mini… 4. Dịch vụ ngân hàng qua điện thoại (Telephone banking) Trong phương thức giao dịch ngân hàng truyền thống, khách hàng khi cần thông tin về tài khoản của mình cũng như các thông tin khác về dịch vụ ngân hàng đều phải trực tiếp tới ngân hàng vào giờ giao dịch. Điều này thực sự tốn rất nhiều thời gian của khách hàng, nhất là những khách hàng ở xa hoặc không có điều kiện đến giao dịch trực tiếp. Thậm chí chỉ vì thiếu thông tin cập nhật về tỷ giá hối đoái hay lãi suất vay, nhiều doanh nghiệp bị tuột mất những cơ hội kinh doanh tốt hay dẫn đến các quyết định kinh doanh sai lầm. Sự ra đời của dịch vụ telephone banking đã thực sự giải thoát cho các khách hàng nói chung và các doanh nghiệp nói riêng khỏi các vướng mắc trên. 4.1 Telephone banking là gì ? Telephone banking là một tiện ích ngân hàng mà khi sử dụng nó khách hàng chỉ cần dùng hệ thống điện thoại thông thường. Với dịch vụ này, khách hàng có thể mọi lúc mọi nơi, dùng điện thoại cố định hay di động đều có thể nghe được các thông tin về sản phẩm dịch vụ ngân hàng, thông tin tài khoản của mình và thậm chí có thể thực hiện được một số loại giao dịch. Đây là hệ thống trả lời tự động, hoạt động 24/24 giờ trong ngày, 7 ngày trong một tuần, 365 ngày trong một năm nên khách hàng hoàn toàn chủ động sử dụng khi cần thiết. 4.2 Những tiện ích của telephone banking Khi sử dụng telephone banking, khách hàng có thể: Kiểm tra các thông tin về tài khoản của mình như số dư tài khoản, các giao dịch trên tài khoản trong một khoảng thời gian nhất định (được quy định tùy theo từng ngân hàng - có ngân hàng cho phép khách hàng kiểm tra được các giao dịch trong vòng ba tháng gần nhất) Chuyển tiền giữa các tài khoản khác nhau của cùng khách hàng trong cùng ngân hàng (một số ngân hàng còn cho phép khách hàng chuyển tiền từ tài khoản của mình sang tài khoản của các thành viên khác trong gia đình nếu như họ cũng có tài khoản trong ngân hàng đó) Thanh toán các hoá đơn định kỳ như tiền điện, tiền điện thoại, phí truy cập internet, thanh toán hoá đơn thẻ tín dụng, … Yêu cầu, sửa đổi hoặc hủy Lệnh Thanh toán định kỳ (Standing Orders) và Lệnh Thanh toán trực tiếp (Direct Debits). Với tiện ích này của telephone banking, khách hàng sẽ không phải nhớ các khoản thanh toán định kỳ với số tiền cố định như phí bảo hiểm, phí hội viên, tiền mua trả góp,… mà vẫn đảm bảo thanh toán đúng hạn. Yêu cầu phát hành lại thẻ hoặc PIN (mã số nhận dạng cá nhân) Yêu cầu một khoản vay cá nhân (personal loan) - tới một hạn mức xác định của ngân hàng Yêu cầu rút thấu chi (overdraft) - tới một hạn mức xác định của ngân hàng Thoả thuận các yêu cầu mới hoặc bổ sung về thế chấp Đặt mua ngoại tệ hoặc séc du lịch (travellers cheques) Yêu cầu chuyển tiền ra nước ngoài - tới một hạn mức xác định của ngân hàng Đặt mua hối phiếu (bank drafts) - tới một hạn mức xác định của ngân hàng Thông tin về số dư lưu ký chứng khoán Thông tin kết quả khớp lệnh của các phiên giao dịch gần nhất Thông tin về các lệnh đặt mua, đặt bán chứng khoán gần nhất Thay đổi địa chỉ liên lạc Yêu cầu báo cáo tài khoản, sổ séc… Yêu cầu ngân hàng fax bản tỷ giá, giá chứng khoán, bản lãi suất tiền gửi…Khi dùng dịch vụ này, khách hàng cần liên hệ trước với ngân hàng để đăng ký số fax của mình. Ngoài ra, các khách hàng chưa có tài khoản hoặc chưa sử dụng dịch vụ của ngân hàng cũng có thể sử dụng telephone banking để nghe giới thiệu về các dịch vụ ngân hàng, thông tin về tỷ giá hối đoái, lãi suất tiết kiệm, lãi suất vay, giá chứng khoán, … 4.3 Chi phí sử dụng Telephone banking là một trong những dịch vụ ngân hàng đem lại nhiều tiện ích cho người sử dụng với chi phí thấp nhất. Để sử dụng dịch vụ này, khách hàng không cần mua thêm một thiết bị đặc biệt nào mà chỉ cần dùng hệ thống điện thoại thông thường. Hầu hết các ngân hàng cung cấp dịch vụ này miễn phí, khách hàng chỉ phải trả cước phí điện thoại cho bưu điện. Tuy nhiên nếu khách hàng sử dụng dịch vụ fax của telephone banking sẽ phải tính theo biểu phí cụ thể của ngân hàng. Với hệ thống telephone banking, khách hàng sẽ tiết kiệm được rất nhiều thời gian, không cần đến ngân hàng vẫn giám sát được các giao dịch phát sinh trên tài khoản của mình mọi lúc kể cả ngoài giờ hành chính, mọi nơi trong phạm vi cả nước và quốc tế. Dù khách hàng đang ở nhà, ở cơ quan hay đang đi công tác nước ngoài cũng có thể kiểm soát được các giao dịch trên tài khoản của mình, cập nhật thông tin về sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng vào bất cứ thời điểm nào thích hợp nhất với họ. 4.4 Cách thức sử dụng và tính an toàn: Cách thức sử dụng dịch vụ này hoàn toàn đơn giản. Sau khi đăng ký sử dụng dịch vụ với ngân hàng, khách hàng sẽ được cấp mã số truy cập và mật khẩu. Mã số truy cập là cố định và thường có thể sử dụng cho cả internet banking. Độ dài của mật khẩu do từng ngân hàng quy định, thường nó là một số có độ dài tối thiểu 5 ký tự và tối đa 20 ký tự. Khách hàng có thể thay đổi mật khẩu bất cứ lúc nào để đảm bảo an toàn, bí mật cho các thông tin tài khoản. Khi cần dùng telephone banking khách hàng chỉ cần gọi tới ngân hàng theo một số điện thoại đã được ngân hàng định trước cho từng khu vực. Sau khi kết nối vào hệ thống, khách hàng có thể nghe máy hướng dẫn cách thức bấm mã dịch vụ hoặc bấm trực tiếp mã dịch vụ để yêu cầu hệ thống trả lời các thông tin cần thiết. Mã dịch vụ là các phím trên bàn phím điện thoại tương ứng với một dịch vụ do ngân hàng quy định. Ví dụ như: bấm phím 101 - mã dịch vụ nghe số dư; bấm phím 123 - mã dịch vụ liệt kê các giao dịch nợ gần nhất, … Khách hàng cần chú ý, khi nhập mã số truy cập và mật khẩu khách hàng phải bấm liên tiếp, không bị ngắt quãng (giữa hai số liền nhau không được dừng quá 2 giây). Khi nhập xong mã số truy cập hoặc mật khẩu khách hàng cần báo cho hệ thống biết bằng cách bấm một phím kết thúc đã được quy định trước, như phím # chẳng hạn. Ngoài ra để tiết kiệm thời gian cho khách hàng, ngân hàng còn có thể quy định thêm một số phím chức năng có tác dụng ngưng giải đáp giao dịch hiện thơì và chuyển sang giao dịch khác, nghe lại một giao dịch hoặc dừng ngay câu thoại đang đọc khi khách hàng không muốn nghe tiếp. Dù đơn giản, nhưng tính bảo mật cho các thông tin tài khoản vẫn được đảm bảo vì mỗi khách hàng sẽ được ngân hàng cấp mã số truy cập, mật khẩu riêng. Khách hàng có thể tự động đổi mật khẩu bất cứ lúc nào muốn hoặc khi cho rằng có người đã biết mật khẩu của mình. Ngoài ra ngân hàng còn có hệ thống ngăn chặn các truy cập không hợp pháp. Bất cứ khi nào gặp khó khăn trong sử dụng telephone banking, khách hàng cũng có thể gọi điện đến số điện thoại hỗ trợ khách hàng của ngân hàng để được giải đáp, giúp đỡ. 5. Dịch vụ ngân hàng tại nhà (Home banking/PC banking) 5.1 Giới thiệu chung về dịch vụ ngân hàng tại nhà Dịch vụ ngân hàng tại nhà là một loại dịch vụ ngân hàng điện tử cho phép khách hàng có thể chủ động kiểm soát hoạt động giao dịch ngân hàng từ văn phòng của họ. Hệ thống này giúp khách hàng tiết kiệm được rất nhiều thời gian và tiền bạc vì họ không cần phải đến giao dịch trực tiếp tại ngân hàng, khách hàng sẽ có nhiều thời gian hơn để tập trung vào các hoạt động kinh doanh của mình. Khách hàng cũng không còn phải lo lắng về nạn kẹt xe cũng như các loại giấy tờ sổ sách phức tạp. Với sự trợ giúp của dịch vụ này, việc giao dịch ngân hàng đối với khách hàng giờ đây chỉ còn là việc bấm vài phím máy tính, vào thời điểm thuận tiện nhất với mình. Thông thường, dịch vụ ngân hàng tại nhà có thể cho phép thực hiện 3 chức năng chính sau: Chuyển tiền: Chức năng này cho phép khách hàng có thể lập lệnh chuyển tiền thanh toán cho bên thứ ba có tài khoản tại bất cứ một ngân hàng nào trên thế giới hoặc làm lệnh chuyển tiền giữa các tài khoản của chính mình. Xem số dư và các giao dịch trên tài khoản: Chức năng này cung cấp cho khách hàng các thông tin cập nhật về số dư tài khoản cũng như các giao dịch trên tài khoản của mình. Với chức năng này khách hàng còn có thể tự in báo cáo tài khoản bất cứ lúc nào và thậm chí còn có thể chuyển thông tin, dữ liệu sang các phần mềm ứng dụng khác như Excel, Word,… Thư tín dụng: chức năng này cho phép khách hàng có thể điền vào mẫu thư tín dụng và chuyển tới ngân hàng. 5.2 Dịch vụ ngân hàng tại nhà hoạt động như thế nào ? Để sử dụng dịch vụ này, khách hàng cần có máy tính với cấu hình phù hợp, modem, đường điện thoại truy cập và một chương trình phần mềm đặc biệt do ngân hàng cung cấp. Khi sử dụng dịch vụ, khách hàng sẽ quay số trực tiếp để kết nối với ngân hàng qua đường điện thoại thông thường. Sau khi nhập mã số sử dụng (username) và mật khẩu (password), khách hàng sẽ có quyền thực hiện các giao dịch ngân hàng từ máy tính cá nhân đặt tại văn phòng mình. Thông thường các phần mềm của Dịch vụ ngân hàng tại nhà có thể hoạt động được trong môi trường Window nên sử dụng nó khá đơn giản và thuận tiện. Khách hàng chỉ cần nhập các dữ liệu lên mẫu Lệnh chuyển tiền hay Thư tín dụng trên máy tính đã được cài đặt sẵn phần mềm Dịch vụ ngân hàng tại nhà tại văn phòng của họ. Sau đó, các lệnh yêu cầu này sẽ được chuyển một cách an toàn tới ngân hàng thông qua đường dây điện thoaị có nối với modem tại văn phòng khách hàng. Ngân hàng sẽ thực hiện các lệnh yêu cầu của khách hàng ngay khi nhận được thông qua hệ thống thanh toán nối mạng toàn cầu như SWIFT (The Social for Worldwide Interbank Financial Telecommunications) hay Telex. Phần mềm của Dịch vụ ngân hàng tại nhà có thể được cài đặt trên mạng nội bộ (Local Area Network hay còn gọi là LAN) hoặc trên một máy tính độc lập. Chúng ta cùng tìm hiểu cụ thể hơn về các chức năng chính của Dịch vụ ngân hàng tại nhà để thấy được rõ hơn những tiện ích mà nó mang lại cho khách hàng. Chức năng chuyển tiền: Chức năng chuyển tiền cho phép khách hàng có thể làm lệnh chuyển tiền thanh toán cho bên thứ ba, chuyển tiền giữa các tài khoản nội bộ hoặc yêu cầu phát hành hối phiếu từ văn phòng của mình. Khi sử dụng chức năng này của phần mềm Dịch vụ ngân hàng tại nhà chắc chắn khách hàng sẽ thấy việc làm lệnh yêu cầu chuyển tiền quả là một công việc dễ dàng. Phần mềm này tự động hoá rất nhiều công đoạn mà khách hàng sẽ phải làm lặp lại nhiều lần trong phương thức chuyển tiền truyền thống. Chi tiết của các khoản thanh toán xảy ra thường xuyên có thể được lưu lại trong hệ thống để tái sử dụng với nhiều cấp độ khác nhau như: - Lưu trữ như một mẫu sẵn (Save as Models): áp dụng khi muốn lưu lại những lệnh thanh toán thường xuyên với số tiền không cố định như tiền điện, điện thoại … - Lưu trữ như một mẫu cố định (Save as Pre-Defined Transactions): áp dụng khi muốn lưu lại những lệnh thanh toán thường xuyên với số tiền không thay đổi như tiền phí bảo hiểm, phí hội viên câu lạc bộ,… - Lưu trữ như một mẫu định kỳ (Save as Scheduled Transactions): áp dụng khi cần thanh toán với số tiền cố định và trong một chu kỳ cố định như tiền lương cho nhân viên, tiền thuê văn phòng, … Thậm chí đối với những thanh toán không thường xuyên khác, khách hàng cũng sẽ tiết kiệm được rất nhiều thời gian khi điền mẫu lệnh có sẵn vì phần lớn thông tin như số tài khoản, ngân hàng thụ hưởng, người thụ hưởng đã được nhập sẵn thành một danh sách, họ chỉ cần nhắp chuột để lựa chọn cái mình đang cần mà thôi. Chức năng chuyển tiền trong Dịch vụ ngân hàng tại nhà có các đặc điểm sau: - Khách hàng có thể linh hoạt lập và sửa đổi các lệnh chuyển tiền trên máy tính của mình. - Rất nhiều dữ liệu như người thụ hưởng, số tài khoản thụ hưởng, ngân hàng thụ hưởng, nội dung thanh toán… có thể được lưu lại để dễ dàng nhập vào lệnh chuyển tiền. - Có thể linh hoạt định ra quyền hạn sử dụng các chức năng của Dịch vụ ngân hàng tại nhà và hạn mức duyệt các lệnh chuyển tiền cho từng nhân viên. Ví dụ: có người chỉ được xem thông tin mà không được nhập lệnh hoặc chỉ sử dụng những lệnh có sẵn như Pre-Defined hay Scheduled transactions; có người chỉ được duyệt các lệnh chuyển tiền với số tiền dưới 5.000 USD chẳng hạn… - Có thể gửi và nhận các thông báo đến và từ ngân hàng. - Các thông tin được truyền đến và từ ngân hàng một các an toàn và bí mật vì có hệ thống bảo vệ đặc biệt. Chức năng xem số dư và các giao dịch trên tài khoản: Chức năng này cho phép khách hàng được nhanh chóng cập nhật các thông tin về các tài khoản của mình tại ngân hàng, không cần phải đợi bản sao kê tài khoản hoặc các giấy báo có, báo nợ…Không chỉ xem các thông tin, khách hàng còn có thể in ra hoặc chuyển các thông tin đó sang các phần mềm ứng dụng khác như Excel, Word… để lập các báo cáo cho các mục đích riêng của mình. Ngoài ra chức năng này còn cung cấp cho khách hàng các thông tin bổ ích khác như tỷ giá chuyển đổi ngoại tệ … Chức năng lập Thư Tín dụng (Letters of Credit) Chức năng này cho phép khách hàng lập thư tín dụng một cách dễ dàng và hiệu quả. Nó tự động hoá nhiều công đoạn lặp lại khi phải lập một thư tín dụng. Tương tự như lệnh chuyển tiền, các thư tín dụng này có thể được lưu lại để sử dụng về sau, chỉ phải sửa một số chi tiết mà thôi. Chức năng này của dịch vụ ngân hàng tại nhà cung cấp cho khách hàng các khả năng sau: - Lập Thư tín dụng một cách đơn giản - Lưu trữ các mẫu thư thường dùng. - Lưu trữ hệ thống dữ liệu để lập thư tín dụng như: danh sách các ngân hàng, danh sách người thụ hưởng, các loại tiền tệ, danh sách các nước trên thế giới,… - Khi cần các thông tin này chỉ cần lựa chọn từ danh sách có sẵn nên tiết kiệm được rất nhiều thời gian và độ chính xác cao. - Các dữ liệu được lưu trữ và chuyển đến và từ ngân hàng một cách an toàn, bí mật tuyệt đối. 6. Dịch vụ ngân hàng qua mạng máy tính toàn cầu (Internet Banking) 6.1 Giới thiệu chung về internet banking Internet banking là một loại hình dịch vụ ngân hàng hiện đại và còn khá mới mẻ. Nó cho phép khách hàng có thể giao dịch ngân hàng thông qua mạng Internet vào bất cứ lúc nào, ở bất cứ đâu mà khách hàng cho là phù hợp nhất. Do đó, khách hàng có thể làm giao dịch 24 giờ trong ngày, 7 ngày trong tuần tại nhà riêng hoặc ở văn phòng, khi đang trong nước hay đi nước ngoài. Sự ra đời của internet banking thực sự là một cuộc cách mạng, nó thúc đẩy các giao dịch xảy ra nhanh hơn, tiết kiệm được rất nhiều thời gian và tiền của cho cả khách hàng lẫn ngân hàng và cho xã hội nói chung. Tương tự như dịch vụ ngân hàng tại nhà, để sử dụng dịch vụ này khách hàng cũng cần có máy tính, modem, đường điện thoại truy cập. Tuy nhiên, khi sử dụng dịch vụ này, khách hàng không cần cài đặt thêm một phần mềm đặc biệt nào mà chỉ cần truy cập trực tiếp vào trang web của ngân hàng. Với internet banking khách hàng có thể: Kiểm tra số dư Xem thông tin về tài khoản như số dư hiện tại (current balances) và số dư có thể sử dụng (available balances); lãi suất … Xem thông tin về các giao dịch đã thực hiện trên tài khoản Tìm kiếm thông tin về một giao dịch cụ thể nào đó, ví dụ: số séc, số tiền và ngày séc đó được thanh toán… Chuyển tiền giữa các tài khoản trong cùng hệ thống ngân hàng Làm lệnh thanh toán Thanh toán hoá đơn Xem chi tiết và sửa đổi các lệnh thanh toán định kỳ (standing orders) và lệnh ghi nợ trực tiếp (Direct Debit) Xem số dư và các giao dịch trên thẻ tín dụng Yêu cầu ngừng thanh toán séc Chuyển các thông tin dữ liệu từ internet banking xuống phần mềm kế toán riêng của mình như Quicken hay Microsoft Money … Thông báo thay đổi địa chỉ liên lạc… Thông báo định kỳ bằng e-mail khi số dư tài khoản đạt đến mức tối đa hay tối thiểu mà khách hàng đặt ra từ trước. 6.2 Cách thức sử dụng internet banking Để có thể sử dụng internet banking, trước hết khách hàng cần phải mở một tài khoản giao dịch (tài khoản vãng lai hoặc tiền gửi không kỳ hạn) tại ngân hàng. Nếu là tài khoản chung từ hai người trở lên thì phương thức điều hành tài khoản phải là mỗi đồng chủ tài khoản có thể độc lập thực hiện giao dịch thì mới có thể sử dụng được internet banking. Sau đó, khách hàng sẽ đăng ký sử dụng dịch vụ internet banking với ngân hàng. Trong đơn đăng ký sử dụng internet banking, khách hàng cần cung cấp các thông tin cá nhân như họ và tên, giới tính, ngày tháng năm sinh, địa chỉ và số điện thoại liên hệ, các số tài khoản mà khách hàng muốn sử dụng internet banking và quan trọng nhất là mật khẩu an toàn (security password). Mật khẩu an toàn này (có thể bao gồm chữ và/hoặc số) do khách hàng tự đặt ra và được lưu lại trong hệ thống máy tính của ngân hàng. Bước tiếp theo, ngân hàng sẽ liên lạc lại với khách hàng (bằng thư hoặc email…) để báo cho họ biết mã số đăng ký khách hàng (còn gọi là số CRN hay Customer Registration Number) và số điện thoại của Trung tâm hỗ trợ khách hàng về internet banking. Sau đó, khách hàng sẽ gọi điện tới ngân hàng theo số điện thoại này để lấy mật khẩu tạm thời để sử dụng internet banking. Trước khi cung cấp mật khẩu tạm thời, nhân viên ngân hàng phải xác nhận được người đang liên hệ chính là chủ tài khoản bằng cách hỏi mật khẩu an toàn và một số thông tin cá nhân khác mà khách hàng đã cung cấp khi đăng ký. Lúc này khách hàng có thể bắt đầu sử dụng dịch vụ internet banking. Khi cần sử dụng internet banking, khách hàng sẽ kết nối vào địa chỉ trang web của ngân hàng và lựa chọn dịch vụ internet banking. Sau đó hệ thống sẽ yêu cầu khách hàng nhập số CRN và mật khẩu tạm thời. Nếu đây là lần đầu tiên khách hàng sử dụng dịch vụ này, họ sẽ phải chấp nhận các Điều khoản và điều kiện sử dụng bằng cách nhắp chuột vào nút "đồng ý" trên màn hình. Các Điều khoản và điều kiện này qui định các quyền lợi và nghĩa vụ có liên quan đến việc sử dụng internet banking. Khách hàng nên đọc và hiểu rõ các điều khoản và điều kiện sử dụng này để sử dụng internet banking tốt hơn. Nếu không đồng ý, dịch vụ internet banking sẽ không được cung cấp. Sau đó, hệ thống sẽ yêu cầu khách hàng phải đổi mật khẩu tạm thời do ngân hàng cung cấp sang mật khẩu riêng của mình. Số ký tự của mật khẩu khác nhau tuỳ qui định của từng ngân hàng nhưng thông thường là 8 ký tự. Để tăng thêm tính an toàn, mật khẩu này thường thuộc loại có phân biệt dạng chữ (case-sensitive). Điều này có nghĩa là nếu trong mật khẩu có chữ hoa và chữ thường, ví dụ như "10To56Kt", thì khi nhập mật khẩu vào máy khách hàng phải đánh đúng như vậy. Khi chọn mật khẩu, khách hàng cần tránh lấy những mật khẩu mà người khác dễ đoán ra như tên mình hoặc tên vợ (chồng), con cái hoặc ngày sinh của họ, số điện thoại, … Nên chọn mật khẩu kết hợp nhiều loại ký tự như chữ hoa, chữ thường, số… và nên thay đổi thường xuyên để đảm bảo an toàn. Cũng như số PIN của thẻ rút tiền, mật khẩu này cũng phải giữ tuyệt đối bí mật vì nếu không người xấu khi biết mật khẩu có thể rút tiền khỏi tài khoản của khách hàng. Cũng để đảm bảo cho tính an toàn khi sử dụng internet banking, hệ thống này sẽ không cho phép truy cập thông tin nếu mật khẩu bị nhập sai ba lần. Để sử dụng trở lại, khách hàng cần liên lạc với Trung tâm trợ giúp khách hàng. Trong trường hợp khách hàng quên mật khâủ, họ sẽ cần phải liên hệ với Trung tâm hỗ trợ khách hàng để yêu cầu được cấp lại mật khẩu khác. Và khi nhập mật khẩu mới này vào máy, hệ thống sẽ yêu cầu khách đổi lại mật khẩu khác của riêng mình. Ngoài các biện pháp đảm bảo an toàn bằng mật khẩu nói trên, các ngân hàng còn sử dụng một loạt các biện pháp bổ trợ khác như hệ thông tường lửa (fire walls) và mã hoá dữ liệu (data encryption). Sau khi đã kết nối thành công vào dịch vụ internet banking của ngân hàng, khách hàng có thể tuỳ ý lựa chọn các dịch vụ theo yêu cầu như: Xem số dư tài khoản: Dịch vụ này cho phép khách hàng xem chi tiết số dư các tài khoản có kết nối vào internet banking. Khách hàng chỉ cần đơn giản nhắp đúp chuột vào số tài khoản cần xem. Khách hàng không chỉ biết số dư hiện thời trên tài khoản mà còn cả số dư được phép sử dụng nữa. Số dư được phép sử dụng là số tiền thực có trong tài khoả._.thì các tổ chức tín dụng có nghĩa vụ giữ bí mật tiền gửi, tài sản gửi của khách hàng tại tổ chức tín dụng, bao gồm tiền gửi đồng Việt Nam, ngoại tệ dưới các hình thức (tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiết kiệm,…), tài sản gửi của khách hàng như các giấy tờ có giá, quyền sở hữu tài sản theo qui định của pháp luật…cũng như các thông tin có liên quan đến tiền gửi của khách hàng bao gồm số hiệu tài khoản, mẫu chữ ký của chủ tài khoản hoặc người được chủ tài khoản uỷ quyền, các thông tin về doanh số hoạt động và số dư tài khoản, các thông tin liên quan đến giao dịch gửi, rút tiền, chuyển tiền và tài sản của khách hàng; nội dung các văn bản, giấy tờ, tài liệu; tên và mẫu chữ ký của người gửi tiền và tài sản. Trên cơ sở xác định các thông tin về tiền gửi, tài sản gửi của khách hàng mà các tổ chức tín dụng có trách nhiệm phải giữ bí mật, pháp luật còn có qui định trình tự, thủ tục chặt chẽ trong việc cung cấp các thông tin về tiền gửi, tài sản gửi của khách hàng. Theo đó, tổ chức tín dụng chỉ được cung cấp thông tin tiền gửi, tài sản gửi của khách hàng trong những trường hợp: Theo yêu cầu của khách hàng hoặc người được khách hàng uỷ quyền theo qui định của pháp luật, phục vụ hoạt động nội bộ của tổ chức nhận tiền gửi và tài sản gửi của khách hàng, theo yêu cầu bằng văn bản của Tổng Giám đốc tổ chức bảo hiểm tiền gửi, theo yêu cầu bằng văn bản của các cơ quan Nhà nước trong quá trình thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án thuộc thẩm quyền theo qui định của pháp luật. Trong trường hợp cung cấp thông tin cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, việc cung cấp thông tin chỉ được thực hiện khi có văn bản yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền cùng các tài liệu liên quan trong đó xác định rõ: Lý do cần cung cấp thông tin, các thông tin cần cung cấp (nêu cụ thể loại thông tin và tên khách hàng); thời hạn cung cấp thông tin; địa điểm cung cấp thông tin. Việc cung cấp thông tin tiền gửi, tài sản gửi của khách hàng trong trường hợp này phải được lập thành biên bản, trong đó xác định rõ: Thời gian cung cấp thông tin; địa điểm cung cấp thông tin; nội dung chi tiết các thông tin cung cấp; phạm vi sử dụng các thông tin được cung cấp; người đại diện cho bên cung cấp và bên được cung cấp thông tin; những người tham gia vào việc cung cấp và được cung cấp thông tin, người làm chứng (nếu có). Liên quan đến việc cung cấp thông tin tiền gửi, tài sản gửi theo yêu cầu của khách hàng, Quyết định số 1004/2001/QĐ-NHNN ngày 8/8/2001 của Ngân hàng Nhà nước cho phép tổ chức tín dụng qui định qui trình cung cấp hoặc thỏa thuận với khách hàng phương thức cung cấp cụ thể. Thông thường, việc cung cấp thông tin tiền gửi, tài sản gửi cho khách hàng được thực hiện theo phương thức giao dịch trực tiếp. Để nhận thông tin tiền gửi, tài sản gửi, khách hàng đến ngân hàng để yêu cầu và nhận thông tin trực tiếp. Phương thức giao dịch này có ưu điểm là thông qua các bằng chứng về chữ ký, chứng minh thư,… được xuất trình khi giao dịch, ngân hàng thương mại có thể xác định được chính xác người yêu cầu cung cấp thông tin tiền gửi và tài sản gửi chính là khách hàng có liên quan của mình hoặc người được người này uỷ quyền (nếu đề nghị cung cấp thông tin theo uỷ quyền), từ đó thực hiện chuyển giao thông tin một cách chính xác. Trên cơ sở qui định pháp luật hiện hành và qui trình cung cấp thông tin tiền gửi, tài sản gửi của khách hàng hiện đang được áp dụng có thể thấy rằng: Việc cung cấp thông tin tiền gửi, tài sản gửi phải bảo đảm tuân theo qui trình chặt chẽ, bảo đảm nguyên tắc: Cung cấp, tiếp cận, chuyển giao thông tin chính xác đối tượng, đúng thẩm quyền của bên yêu cầu cung cấp thông tin. Với việc Ngân hàng Nhà nước mở rộng, cho phép tổ chức tín dụng được qui định qui trình hoặc thoả thuận với khách hàng về qui trình, phương thức cung cấp thông tin tiền gửi, tài sản gửi, việc cung cấp thông tin tiền gửi, tài sản gửi của khách hàng thông qua mạng Internet đã có tiền đề pháp lý để thực hiện. Vấn đề đặt ra là, trong điều kiện hiện nay, khi số lượng các vụ xâm nhập trái phép vào hệ thống mạng Internet ngày càng nhiều, độ bảo mật của hệ thống thông tin luôn là vấn đề được tất cả các nước trên thế giới quan tâm thì việc đưa, cung cấp thông tin thuộc danh mục bí mật của khách hàng thông qua mạng Internet có thực sự bảo đảm an toàn ? Liệu ngân hàng thương mại có quyền đơn phương tự mình qui định theo đó cho phép kết nối, cung cấp thông tin tiền gửi, tài sản gửi của khách hàng qua mạng Internet mà không cần sự chấp thuận nào từ phía khách hàng ? Các ngân hàng có phải tuân thủ theo các nguyên tắc, điều kiện, tiêu chuẩn nào khi thực hiện cung cấp dịch vụ ngân hàng điện tử, cung cấp dịch vụ ngân hàng thông qua mạng Internet ? Để làm rõ các vấn đề này đòi hỏi phải xác định được sự an toàn của việc cung cấp thông tin thông qua mạng Internet, các tiêu chuẩn an toàn khi giao dịch qua mạng Internet, các yêu cầu đối với qui trình, cách thức giao dịch, cung cấp thông tin qua mạng Internet theo đó bảo đảm đúng đối tượng, đúng yêu cầu tương tự cách thức giao dịch trực tiếp, truyền thông và yêu cầu của pháp luật. Trong hoạt động giao dịch ngân hàng điện tử, vấn đề đảm bảo an toàn, bí mật thông tin nói chung, thông tin tiền gửi nói riêng là một trong những vấn đề mang tính then chốt. Thực tế cho thấy, không ít trường hợp hệ thống mạng thông tin của hệ thống ngân hàng đã bị xâm nhập và tài sản, thông tin của khách hàng tại ngân hàng đã bị lạm dụng gây thiệt hại không nhỏ cho ngân hàng và khách hàng của ngân hàng. Một ví dụ cụ thể là ngày 18/2, hai công ty thẻ lớn nhất thế giới là Visa và Mastercard cho biết, một tay hacker đã truy cập được vào hơn 5 triệu tài khoản tín dụng của khách hàng sử dụng thẻ Visa và Mastercard tại Mỹ, trong đó hơn 2 triệu tài khoản khách hàng bị xâm nhập là của Mastercard và hơn 3 triệu là của Visa. Nếu số thẻ tín dụng và mã số của khách hàng đã bị hacker biết được thì tài khoản của họ có thể sẽ bị chúng sử dụng một cách bất hợp pháp. Tuy nhiên cả Visa và Mastercard đều không có điều khoản bảo vệ quyền lợi của khách hàng trong trường hợp như thế này, do đó những khách hàng này đang phải đối phó với nguy cơ mất tiền rất cao. Phát ngôn viên của Mastercard cho biết công ty này sẽ tiến hành đổi thẻ cho khách hàng mặc dù điều này có nghĩa là Mastercard sẽ phải bỏ ra chi phí khá lớn. Một ví dụ nữa là mới đây nhất tại Việt Nam, Website của Vietcombank bị tấn công và tạm dừng cung cấp dịch vụ trong 1 ngày. Điều này cho thấy sự cấp thiết về bảo đảm an toàn, bảo mật hệ thống thông tin. Với thực trạng này, các ngân hàng khi thực hiện kết nối, giao dịch ngân hàng qua mạng Internet phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, có biện pháp, chính sách rõ ràng về chiến lược bảo đảm an toàn, bí mật thông tin, bảo đảm an toàn mạng thông tin. Một hệ thống thông tin bảo đảm an toàn, bảo mật thông tin phải đáp ứng được nguyên tắc căn bản là: Đảm bảo tính tin cậy - Thông tin không bị truy cập trái phép bởi những người không có thẩm quyền; Đảm bảo tính nguyên vẹn - Thông tin không thể bị sửa đổi, làm giả bởi những người không có thẩm quyền; Đảm bảo tính sẵn sàng - Thông tin luôn sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của người có thẩm quyền; Đảm bảo không thể từ chối - Thông tin phải bảo đảm được cam kết về mặt pháp luật bởi người cung cấp. Theo những nghiên cứu gần đây về bảo mật thông tin thì có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến không an toàn mạng thông tin. Các nguyên nhân bao gồm: Thông tin, dữ liệu bị tiếp cận, xâm nhập trên đường truyền Internet; sự thiếu cẩn trọng của các nhân viên ngân hàng trong việc thực thi chính sách bảo mật; sự thiếu cẩn trọng của khách hàng giao dịch; hệ thống thiết bị thiếu an toàn; lỗi phần mềm…Như vậy, để bảo đảm những nguyên tắc, yêu cầu về bảo mật, đảm bảo an toàn thông tin, mạng thông tin đòi hỏi các ngân hàng phải có chính sách bảo mật khoa học, thống nhất và phải được thực hiện đồng bộ và trên tất cả các khía cạnh: bảo mật trong mạng cục bộ của ngân hàng, quản trị mạng Internet, nâng cao công nghệ, thiết bị bảo mật (thông qua sử dụng tường lửa (firewall) bằng phần mềm, phần cứng), nâng cao hiểu biết, trách nhiệm của nhân viên trong việc thực hiện chính sách bảo mật, kiểm tra, khắc phục các lỗi phần mềm, mã hoá thông tin… Bên cạnh đó, qui trình thiết lập giao dịch ngân hàng điện tử: Cấp tên giao dịch và mã số, sửa đổi tên giao dịch và mã số, phương thức truyền, chuyển giao, gửi thông tin, liên quan đến tên giao dịch và mã số đóng vai trò rất quan trọng trong bảo mật thông tin, giao dịch ngân hàng điện tử. Trên thực tế hiện nay, dịch vụ ngân hàng trên mạng Internet được thực hiện theo phương thức tương tự như phương thức giao dịch trên mạng Internet thông thường. Đó là, việc bảo mật và xác thực giao dịch trên mạng Internet Khi khách hàng được thiết lập giao dịch ngân hàng điện tử với ngân hàng thì sẽ được ngân hàng cấp cho tên giao dịch và mã số để thực hiện giao dịch và được tự mình thay đổi mã số để đảm bảo an toàn. Việc kiểm tra, xác thực khách hàng khi giao dịch ngân hàng điện tử được thực hiện thông qua việc kiểm tra, xác thực tên giao dịch và mã số của khách hàng tương tự như giao dịch với các nhà cung cấp dịch vụ Internet. Phương thức giao dịch này có lợi thế là tận dụng được cơ sở công nghệ hiện hành, không đòi hỏi khách hàng phải nâng cấp, bổ sung thêm thiết bị bảo mật và hơn nữa tạo được sự quen thuộc đối với những người đang sử dụng dịch vụ Internet hiện nay. Điểm bất lợi lớn nhất của phương thức giao dịch này là khả năng bị giả mạo về tên giao dịch và mã số tương đối cao. Tên giao dịch và mã số khi được truyền đi trên mạng Internet có thể bị tiếp cận, xâm nhập và kẻ giả mạo có thể sử dụng thông tin này để tiếp cận các dịch vụ ngân hàng điện tử, thông tin tiền gửi, tài sản gửi tại ngân hàng. Hiện tại, các Website của ngân hàng đều sử dụng việc mã hoá thông tin theo chuẩn SSL (Secure Socket Layer) để khắc phục khả năng xâm nhập thông tin trên đường truyền. Tên giao dịch và mã số còn có thể bị tiết lộ do sự thiếu an toàn trong quá trình cấp, sửa đổi, chuyển giao tên giao dịch và mã số, đặc biệt trong các giao dịch từ xa. Việc thiết lập giao dịch ngân hàng qua mạng Internet - yêu cầu cấp tên giao dịch và mã số (ban đầu) có thể thực hiện theo hai phương thức: giao dịch trực tiếp và giao dịch từ xa (giao dịch qua mạng Internet hoặc giao dịch qua điện thoại). a) Phương thức giao dịch trực tiếp Với phương thức giao dịch trực tiếp, thông qua việc khách hàng trực tiếp đến ngân hàng, ngân hàng có thể kiểm tra chứng minh thư, chữ ký, giấy uỷ quyền (trong trường hợp giao dịch được uỷ quyền), từ đó ngân hàng có thể xác định được thẩm quyền của người đang giao dịch, từ đó bảo đảm chắc chắn việc giao dịch, chuyển giao thông tin, dữ liệu - trong trường hợp đề nghị thiết lập giao dịch ngân hàng điện tử là tên giao dịch và mã số (ban đầu) - được chính xác, đúng đối tượng, đúng thẩm quyền. b) Phương thức giao dịch từ xa qua mạng Internet Trong trường hợp khách hàng thực hiện đề nghị thiết lập giao dịch ngân hàng điện tử thông qua mạng Internet, ngân hàng sẽ có một số khó khăn trong việc kiểm tra, xác thực khách hàng do thiếu các phương tiện truyền thống như chữ ký, chứng minh thư,…(đặc biệt trong điều kiện hiện nay, ở Việt Nam chưa áp dụng chữ ký điện tử). Trong trường hợp này, thông thường các ngân hàng xác định khách hàng thông qua việc yêu cầu khách hàng điền đầy đủ vào mẫu (form) đề nghị giao dịch ngân hàng điện tử và gửi đến ngân hàng, trong mẫu này có những thông tin mà chỉ khách hàng và ngân hàng mới có thể biết (thông thường là mã số bí mật). Tham chiếu trường hợp cụ thể Các thông tin Vietcombank yêu cầu khách hàng điền vào mẫu (form) để đề nghị thiết lập giao dịch ngân hàng điện tử gồm: Tên người mở tài khoản, số, ngày… chứng minh thư, địa chỉ, số điện thoại, số tài khoản, loại tài khoản, địa chỉ email, số Zip. Điểm đáng lưu ý là: Trong số các thông tin này thì các thông tin như tên người mở tài khoản, số, ngày … chứng minh thư, địa chỉ, số điện thoại, số tài khoản, loại tài khoản, địa chỉ email đều là các thông tin công khai và hầu như đối tác của khách hàng đều có thể biết thông qua các lần giao dịch với khách hàng. Chỉ có thông tin về mã số Zip thì dường như chỉ có ngân hàng và khách hàng biết nên không có qui định buộc ngân hàng và khách hàng có trách nhiệm giữ bí mật mã số Zip này. Mặt khác, mã số này không chỉ sử dụng cho khách hàng trong giao dịch mở tài khoản tiền gửi, giao dịch mà còn sử dụng trong cả các mẫu giao dịch liên quan đến tiền gửi tiết kiệm. Như vậy, khả năng bị lộ mã số Zip này khá cao (chưa kể đến khả năng thông tin bị tiếp cận trên đường truyền). Như vậy, khả năng bị giả mạo trong việc đề nghị thiết lập giao dịch ngân hàng điện tử trong trường hợp giao dịch qua mạng Internet là khá cao nêú các thông tin các ngân hàng sử dụng để xác định khách hàng không đảm bảo tính riêng biệt, không được bảo mật một cách đầy đủ. Sau khi được ngân hàng chấp nhận đề nghị thiết lập giao dịch ngân hàng điện tử, ngân hàng sẽ gửi thông báo cho khách hàng trong đó cung cấp cho khách hàng tên giao dịch và mã số (ban đầu) để giao dịch và khách hàng được khuyến nghị thay đổi mã số để đảm bảo an toàn. Việc cấp tên giao dịch và mã số (ban đầu) có thể thực thiện thông qua phương pháp gửi thư giấy, song hiện nay để thuận tiện một số ngân hàng thường cung cấp thông tin này bằng chuyển thư điện tử (email). Trong trường hợp của Vietcombank, việc cấp tên giao dịch và mã số (ban đầu) được thực hiện bằng việc gửi email tới địa chỉ thư điện tử đã được điền trong mẫu đề nghị gửi tới ngân hàng. Việc chuyển thông tin tên giao dịch và mã số giao dịch bằng email là không bảo đảm an toàn do khả năng bị xâm nhập, đọc trộm email là khá cao. Theo các chuyên gia về mạng Internet thì thông tin gửi thông qua email thường không bảo đảm an toàn về mặt bảo mật vì dễ dàng bị thâm nhập, tiếp cận thông tin trên đường truyền hoặc bởi nhà quản trị mạng Internet. Liên quan đến việc sửa chữa, thay đổi, cung cấp lại tên giao dịch và mã số (trong trường hợp quên mã số), để tạo thuận lợi cho khách hàng, các ngân hàng cũng cho phép thực hiện yêu cầu thông qua mạng Internet. Qui trình yêu cầu, kiểm tra, xác thực yêu cầu từ khách hàng và cung cấp các sửa đổi cũng tương tự như qui trình thiết lập giao dịch qua mạng Internet đã trình bày trên đây. Sau khi có tên giao dịch và mã số, khách hàng có thể thiết lập giao dịch và tiếp cận các thông tin liên quan đến tiền gửi, tài sản gửi tại ngân hàng. Qua việc xem xét qui trình thiết lập, giao dịch ngân hàng điện tử trên đây có thể thấy rằng việc kiểm tra, xác thực khách hàng là một khâu rất quan trọng để đảm bảo thiết lập giao dịch đúng đối tượng. Bên cạnh đó, việc thiết lập phương thức cung cấp, chuyển giao thông tin giao dịch (tên giao dịch, mã số) một cách thận trọng là rất cần thiết để bảo đảm sự an toàn, tuân thủ theo yêu cầu bảo mật thông tin tiền gửi của khách hàng theo luật định. Để đảm bảo thiết lập giao dịch đúng đối tượng, tránh sự giả mạo trong đề nghị thiết lập giao dịch ngân hàng điện tử, tránh việc cấp tên giao dịch, mã số giao dịch sai đối tượng, tránh việc tiếp cận, xâm nhập, tiết lộ tên giao dịch, mã số giao dịch trong quá trình truyền tin, các ngân hàng cần phải: 1. Xác định chính xác thông tin, dữ liệu mà khách hàng phải điền vào mẫu (form) gửi cho ngân hàng, bảo đảm thông qua các thông tin đó có thể xác định chính xác được khách hàng của mình. Trong trường hợp sử dụng mã số bí mật (như mã Zip mà Vietcombank áp dụng) để nhận biết khách hàng thì cần xác định rõ trách nhiệm giữ bí mật thông tin về mã số bí mật này của cả khách hàng và nhân viên ngân hàng. 2. Lựa chọn hình thức chuyển giao thông tin về tên giao dịch và mã số giao dịch sao cho thích hợp, bảo đảm an toàn (như bằng đường thư thường hoặc chỉ gửi thư thông báo tên giao dịch và khách hàng sẽ liên hệ lại với ngân hàng bằng điện thoại để được cung cấp mã số giao dịch). Việc sử dụng thư điện tử chỉ được thực hiện khi thư điện tử đã được mã hoá, bảo mật, bảo đảm an toàn, không bị tiếp cận, đọc trộm trong quá trình chuyển tin. 3. Bên cạnh đó, giao dịch ngân hàng điện tử là loại hình hoạt động tương đối mới, có tiềm ẩn nhiều rủi ro. Việc kết nối, giao dịch, cung cấp thông tin khách hàng thông qua mạng Internet cũng đặt khách hàng vào rủi ro về việc thông tin cá nhân có thể bị tiết lộ do sự xâm nhập trái phép. Do vậy, cần có thông báo trước cho khách hàng để bảo đảm: Khách hàng hiểu rõ các rủi ro có thể phát sinh và thực hiện các biện pháp bảo mật thích hợp. Khách hàng phối hợp cùng ngân hàng bảo đảm thực hiện chính sách an toàn thông tin trên mạng. Chấp thuận, cho phép kết nối, giao dịch, chuyển giao thông tin qua mạng Internet, bảo đảm sự an toàn, bí mật thông tin cá nhân của khách hàng. Hoạt động ngân hàng điện tử có nhiều ưu thế, việc thiết lập và cung cấp dịch vụ ngân hàng thông qua mạng Internet sẽ là tất yếu trong thời gian tới. Thông qua đó, các ngân hàng có thể đa dạng hoá hoạt động của mình, nâng cao cạnh tranh, giảm giá thành trong hoạt động ngân hàng và các khách hàng của ngân hàng mình cũng được hưởng những lợi ích từ sự hiện đại hoá trong giao dịch ngân hàng mang lại. Tuy nhiên, các vấn đề mang tính kỹ thuật, pháp lý, các rủi ro trong hoạt động này cần phải được các ngân hàng nghiên cứu kỹ lưỡng bảo đảm an toàn không chỉ cho ngân hàng mà còn cho cả khách hàng của ngân hàng. Để bảo đảm an toàn thông tin trong hoạt động ngân hàng điện tử, bảo đảm giữ bí mật thông tin tiền gửi ngân hàng khi thực hiện giao dịch qua mạng Internet, các ngân hàng cần có chiến lược, chính sách thống nhất về việc bảo mật thông tin. Biện pháp bảo mật phải được áp dụng một cách đồng bộ, kết hợp cả về kỹ thuật, công nghệ bảo mật đến việc đào tạo nâng cao hiểu biết, trách nhiệm của nhân viên trong việc bảo đảm bí mật, an toàn hệ thống. Đồng thời, cần kiểm tra, xây dựng qui trình chặt chẽ trong việc thiết lập, cung cấp giao dịch ngân hàng điện tử giữa ngân hàng và khách hàng, bảo đảm tuân thủ đúng đắn các qui định, yêu cầu pháp lý đối với giao dịch ngân hàng điện tử. Hiện tại, hoạt động ngân hàng điện tử ở Việt Nam mới chỉ được giới thiệu bằng các giao dịch liên quan đến cung cấp số liệu, vấn tin tài khoản, nhưng trong tương lai có thể các ngân hàng sẽ thiết lập các giao dịch tài khoản như chuyển tiền, thanh toán…Do vậy, để tránh rủi ro, bảo đảm sự thống nhất, bình đẳng giữa các chủ thể cần có khung pháp lý thống nhất để điều chỉnh hoạt động này. Về nguyên tắc, có thể trao quyền để các ngân hàng chủ động qui định, thoả thuận với khách hàng về các phương thức, cách thức giao dịch ngân hàng điện tử, song luật pháp cũng cần có qui định khung mang tính nguyên tắc theo đó đưa ra các chuẩn mực về xác thực giao dịch, khách hàng, chuẩn mực an toàn hệ thống … Ứng dụng công nghệ để thực hiện giao dịch điện tử hiện vẫn có thể làm được, nhưng khó khăn là thiếu những biện pháp để xử lý rủi ro nếu có. Ví dụ như giả sử do mạng bị virus xoá dữ liệu giao dịch thì tranh chấp giữa khách hàng, ngân hàng được xử lý thế nào ? Một lý do khác là việc ứng dụng này cũng đòi hỏi cơ sở hạ tầng viễn thông, công nghệ thông tin cũng cần có những phát triển song song. Bằng không, việc ứng dụng công nghệ tiên tiến trong lĩnh vực ngân hàng sẽ còn nhiều trở ngại. II. Nhóm giải pháp cơ sở vật chất kỹ thuật Khó khăn đầu tiên và hầu như ngân hàng trong nước nào cũng gặp phải trong chiến lược thúc đẩy sự phát triển của e-banking ở Việt Nam là sự hạn chế về vốn. Chỉ so với các ngân hàng trong khu vực, số vốn mà các ngân hàng vào loại lớn trong nước có còn rất nhỏ bé, điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển e-banking ở Việt Nam vì e-banking là dịch vụ hiện đại, nó gắn liền với công nghệ và phải có một cơ sở hạ tầng phù hợp thì mới có thể triển khai được. Để khắc phục hạn chế này, một số ngân hàng thương mại Việt Nam như Ngân hàng TMCP Phương Đông, Ngân hàng TMCP Phương Nam, Ngân hàng TMCP Đông Á, Ngân hàng TMCP Sài gòn Công Thương đã đề nghị lên Ngân hàng Nhà nước được thành lập Công ty cổ phần thẻ. Mới đây, Ngân hàng Nhà nước đã chấp thuận cho các ngân hàng thương mại Việt Nam được phép góp vốn thành lập Công ty cổ phần thẻ. Các ngân hàng này phải có tình hình tài chính lành mạnh, có đủ điều kiện theo quy định hiện hành về việc phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ. Các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, liên doanh tại Việt Nam cũng được tham gia góp vốn vào Công ty cổ phần thẻ với tư cách thành viên. Tuy nhiên, loại hình này chưa được quy định trong Luật các tổ chức tín dụng. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước sẽ phải xem xét trình Chính phủ cho phép thực hiện thí điểm. Hiện nay, Ban trù bị thành lập "Công ty cổ phần Thẻ tín dụng và Dịch vụ ngân hàng" (Công ty CPTTD-DVNH) đã chính thức trình Ngân hàng Nhà nước dự án thành lập công ty. Theo dự án này, sẽ có 8 ngân hàng thương mại cổ phần và 1 công ty tài chính góp vốn thành lập Công ty CPTTD- DVNH. Các lĩnh vực kinh doanh chính của công ty là phát hành thẻ tín dụng nội địa, thẻ tín dụng quốc tế, trang thiết bị các máy rút tiền tự động… và các dịch vụ khác để phục vụ cho các thành viên cũng như các ngân hàng không phải là thành viên của công ty. Vốn điều lệ dự kiến của công ty sẽ là 2 triệu USD, số vốn góp của mỗi thành viên là ngang nhau. Việc thành lập Công ty CPTTD-DVNH sẽ cho phép các tổ chức tín dụng thành viên khắc phục được hạn chế về vốn. Theo đó, các ngân hàng sẽ sử dụng chung một giải pháp công nghệ, xây dựng giải pháp tin học ngân hàng bán lẻ triển khai tại các ngân hàng. Trên cở sở đó xây dựng chung hệ thống thẻ, thanh toán liên ngân hàng, thương mại điện tử sử dụng cho các ngân hàng thành viên trong công ty. Mặt khác, hệ thống này cũng cho phép mỗi ngân hàng có các chương trình phát triển thẻ và marketing riêng. Các ngân hàng hệ thống liên ngân hàng nội bộ tự động, tăng cường dịch vụ thanh toán, chuyển tiền nhanh, giảm phí thanh toán, tối ưu về thanh toán cho mỗi ngân hàng, mỗi chi nhánh, bán chéo các sản phẩm của nhau thông qua các hình thức đại lý khuyến mãi riêng để thu hút khách hàng, nâng cao hoạt động thẻ của mình. III. Nhóm giải pháp đào tạo nguồn nhân lực Một trong những rào cản tương đối lớn trong tiến trình hội nhập của các ngân hàng thương mại về lĩnh vực dịch vụ đó là ngôn ngữ (tiếng Anh). Tiếng Anh là ngôn ngữ chính của công nghệ thông tin và thương mại điện tử. Tất cả các phần mềm và giao dịch thương mại điện tử đã có và sẽ phát triển sau này đều dùng tiếng Anh và nó sẽ gắn liền với mọi dịch vụ mà các ngân hàng thương mại cung cấp cho khách hàng trong tiến trình hội nhập. Trong khi đó, số lượng cán bộ biết tiếng Anh và một số ngôn ngữ chủ yếu khác (ở mức đủ để nghiên cứu và tự làm việc) trong các ngân hàng thương mại và kể cả ngân hàng nhà nước chỉ tập trung chủ yếu vào một bộ phận rất nhỏ chuyên công tác đối ngoại, còn lại hầu như phải nhờ đến "phiên dịch". Rõ ràng đây là một rào cản không phải nhỏ nếu các ngân hàng thương mại muốn mở rộng lĩnh vực nghiên cứu, mở rộng thị trường, hay thử nghiệm và ứng dụng các sản phẩm mới của các nước có nền kinh tế thị trường phát triển vaò hoạt động của ngân hàng mình thì chắc chắn sẽ gặp không ít khó khăn, nhất là trong điều kiện các sản phẩm dịch vụ kết tinh ngày một nhiều hơn yếu tố của nền kinh tế trí thức. Công nghệ thông tin tuy đã được các Ngân hàng chú trọng đầu tư nhưng so với nhu cầu hội nhập thì vẵn chưa đáp ứng được. Mặt khác, nhiều ngân hàng mong muốn mở rộng đầu tư nhưng lại bị hạn chế về nguồn vốn hoặc chưa đào tạo kịp thời những chuyên viên có trình độ sử dụng thành thạo công nghệ này. Điều này đòi hỏi các ngân hàng thương mại trong nước cần phải nỗ lực hơn nữa và phải có chiến lược đào tạo nhân lực cụ thể, phù hợp. Các ngân hàng nên tiến hành đào tạo đội ngũ nhân viên dưới nhiều hình thức để đạt hiệu quả. Có thể cử các nhân viên ưu tú ra nước ngoài dự các khoá đào tạo chuyên môn, học hỏi công nghệ mới để những nhân viên này trở thành những "hạt giống" về truyền lại kiến thức và kinh nghiệm có được cho các nhân viên trong nước. Đối với những kiến thức cơ bản hỗ trợ cho công việc như tiếng Anh hay kiến thức về Internet, các ngân hàng có thể mời các giáo viên nước ngoài hoặc các chuyên gia giỏi trong nước về đào tạo tại chỗ...Ngoài ra, ngân hàng cũng nên khuyến khích hình thức tự học qua tài liệu, phần mềm đào tạo vì hình thức này không đòi hỏi chi phí tốn kém mà lại hiệu quả. IV. Nhóm giải pháp tăng cường hợp tác quốc tế Chúng ta có lợi thế là người đi sau nên cần phải biết tận dụng cơ hội để "đi tắt, đón đầu" nhằm bắt kịp với sự phát triển chung của các nước trong khu vực và trên thế giới. Để làm được điều này, chúng ta cần tăng cường hợp tác với các tổ chức ngân hàng, tín dụng nước ngoài để học hỏi kinh nghiệm. Chính phủ ta luôn chú ý tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho các tổ chức tài chính ngân hàng nước ngoài vào đầu tư tại Việt Nam. Chính điều này sẽ tạo nên môi trường cạnh tranh tích cực nhằm đưa ra các sản phẩm, dịch vụ mới hiện đại để thu hút khách hàng. Không những thế, các tổ chức ngân hàng nước ngoài còn thường xuyên hợp tác với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam mở các khoá đào tạo ngắn hạn cho đội ngũ cán bộ chủ chốt của các ngân hàng trong nước để trao đổi kinh nghiệm và chuyển giao công nghệ. Ngoài ra, các cuộc hội thảo quốc tế được tổ chức định kỳ như hội thảo Banking Vietnam với sự góp mặt của các ngân hàng và các công ty lớn trên thế giới về lĩnh vực công nghệ thông tin, tài chính, bảo hiểm… cũng tạo cơ hội tốt để các ngân hàng trong nước tiếp cận với những công nghệ hiện đại và tìm ra đối tác thích hợp để phát triển các loại dịch vụ ngân hàng. Vào hai ngày mùng 8 và 9/5/2003 sắp tới, cuộc hội thảo Banking Vietnam 2003 lần thứ 2 do IDG World Expo tổ chức sẽ diễn ra tại khách sạn Melia với hơn 1.000 đại biểu tham gia. Đây là cuộc hội thảo lớn nhất về ngân hàng diễn ra hàng năm, chủ đề năm nay là "Hệ thống thanh toán và mở rộng các dịch vụ tài chính ngân hàng cho nền kinh tế đang phát triển ở Việt Nam" Hội thảo lần này sẽ có sự tham gia của Bộ Tài chính, các ngân hàng thương mại (Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam…), các Công ty Bảo hiểm và các công ty Công nghệ Thông tin. Hội thảo sẽ tập trung vào các vấn đề liên quan đến hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, phát triển hệ thống thanh toán điện tử, sử dụng e-signature (phần mềm ký tên điện tử) như một công cụ pháp lý cơ sở trong việc phát triển hệ thống thanh toán bằng điện tử, tối ưu hoá hệ thống phần mềm quản lý quan hệ khách hàng (CRM) và xây dựng hạ tầng cho hoạt động ngân hàng điện tử, những yếu tố quan trọng trong việc phát triển dịch vụ thẻ/hệ thống ATM. Ngoài ra, 25 gian hàng sẽ trưng bày những công nghệ và dịch vụ mới của một số hãng Công nghệ thông tin lớn như Intel, HP, IBM, Getronics… Tại hội thảo lần này, nhiều diễn giả nổi tiếng trong nước cũng như nước ngoài sẽ trình bày mọi khía cạnh của ngành ngân hàng thế giới nhằm đưa đến các đại biểu thông tin cập nhật về tình hình phát triển ngân hàng điện tử trên thế giới và những viễn cảnh cũng như những lựa chọn hé mở cho ngành ngân hàng tại Việt Nam. V. Nhóm giải pháp nâng cao nhận thức xã hội Để phát triển thương mại điện tử nói chung và e-banking nói riêng, chúng ta còn cần quan tâm đến việc nâng cao trình độ nhận thức của quần chúng nhân dân và đặc biệt là các doanh nghiệp về vấn đề này. Quả thật, thương mại điện tử ở Việt Nam còn vấp phải nhiều khó khăn khác nằm ngoài phạm vi kinh tế và kỹ thuật. Với một nước mà 80% dân số là nông dân, mức sống, điều kiện tiếp cận thông tin và công nghệ mới chưa cao thì phổ cập công nghệ thông tin cũng còn là bài toán nan giải chứ chưa nói đến thương mại điện tử. Thu nhập bình quân đầu người thấp dẫn đến sức mua yếu là lẽ đương nhiên. Trong một thập kỷ qua, số lượng máy tính sử dụng cũng như số lượng người truy cập Internet tăng lên đáng kể, nhưng hiện cũng mới chỉ có vài trăm doanh nghiệp có website riêng để quảng bá cho đơn vị, sản phẩm, dịch vụ của mình. Kết quả của một cuộc thống kê mới đây cho thấy, chỉ 3% trong số khoảng 90.000 doanh nghiệp Việt Nam đã triển khai thương mại điện tử, 7% bắt đầu tiếp cận, còn lại chưa quan tâm, không hiểu thương mại điện tử là gì. Đây đang là thực trạng của Thương mại điện tử Việt Nam. Do đó, ngoài việc xây dựng khuôn khổ pháp lý, việc tuyên truyền về các lợi ích mà thương mại điện tử mang lại, đặc biệt khi hội nhập quốc tế, cũng rất quan trọng. Tuy nhiên cần tránh phát triển thương mại điện tử theo kiểu phong trào, "đầu voi đuôi chuột" để tránh lãng phí. Cần có môi trường thuận lợi để khi khung khổ pháp lý được ban hành, có đủ điều kiện kỹ thuật cần thiết là doanh nghiệp có thể khai thác thương mại điện tử được ngay, không mất thời gian tiếp cận nữa. KẾT LUẬN Dịch vụ ngân hàng điện tử ở Việt Nam mới đang trong giai đoạn đầu của sự phát triển. Trước mắt còn rất nhiều khó khăn, thách thức cần phải vượt qua, song việc phát triển dịch vụ ngân hàng mới mẻ này là hướng đi đúng đắn của các ngân hàng Việt Nam. Không những nó góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngành ngân hàng mà còn giúp Việt Nam từng bước vững chắc chuẩn bị cho tiến trình hội nhập vào nền kinh tế của khu vực và thế giới. Ngay từ bây giờ chúng ta cần phải xem xét đề ra chiến lược và lộ trình phù hợp để triển khai thành công dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam. Có như thế, các ngân hàng Việt Nam mới không để mất thị phần trên chính thị trường nội địa. Mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng do đề tài còn khá mới, chưa có nhiều tài liệu tham khảo và thời gian hạn chế nên chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được ý kiến nhận xét, đóng góp của các thầy cô giáo và bạn đọc để những bài viết sau về đề tài này hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tạp chí Ngân hàng số 1+2 và 3 năm 2003 Tạp chí Ngân hàng số Chuyên đề 2003 về Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Báo Thời Báo Ngân hàng số 26 ra ngày 28/3/2003 Báo Thời Báo Kinh tế số ra ngày 13/11/2002 Tài liệu "ANZ Việt Nam - Dịch vụ Ngân hàng điện tử"- 2002 Tài liệu "ANZLink - Control of your banking from your office"- 2000 Thông tin từ trang web của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam : Thông tin từ trang web của Cơ quan Kiểm soát Tiền tệ Hoa kỳ : ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8143.doc
Tài liệu liên quan