Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm học sinh ở Công ty Bảo Việt Hà Tây giai đoạn 2002-2006

LỜI MỞ ĐẦU Hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang tạo ra cho các doanh nghiệp BH Việt Nam nhiều cơ hội, điều kiện kinh doanh an toàn và có hiệu quả hơn. Quan hệ hợp tác quốc tế phát triển, các quá trình chuyển giao công nghệ và đào tạo nhân lực, việc ứng dụng các quy trình quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế được khuyến khích. Cùng với đó là các hoạt động tái BH, đồng BH, hợp tác liên doanh trên phạm vi quốc tế không ngừng được mở rộng. Song song với những cơ hội thì thách thức cũng là rất lớn, trong

doc102 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1158 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm học sinh ở Công ty Bảo Việt Hà Tây giai đoạn 2002-2006, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đó là sự cạnh tranh ngày càng gay gắt của các công ty BH nước ngoài. Vì vậy các công ty BH trong nước trong đó có Công ty Bảo Việt Hà Tây cần phải tận dụng những cơ hội và phải có kế hoạch đương đầu với những thách thức. Để có thể cạnh tranh được với các Công ty BH trong nước đặc biệt là các công ty BH nước ngoài thì việc lựa chọn những nghiệp vụ BH thế mạnh là rất quan trọng. Đối với Công ty Bảo Việt Hà tây nghiệp vụ BH học sinh là một thế mạnh, do Công ty có nhiều uy tín cũng như nhiều kinh nghiệm trong việc triển khai nghiệp vụ này. Hơn nữa, học sinh, sinh viên là những người chủ tương lai của đất nước cho nên việc triển chăm lo sức khoẻ cho học sinh, sinh viên là chăm lo cho sự phát triển của đất nước trong tương lai. Sức khoẻ tốt là mục tiêu của giáo dục toàn diện học sinh trong các nhà trường ở các cấp học. Chăm sóc, bảo vệ thế hệ trẻ là mối quan tâm rất lớn của Đảng, Nhà nước, của mỗi gia đình và toàn xã hội. Ở lứa tuổi này các em luôn gặp phải những rủi ro không thể lường trước được, vì vậy công tác BH học sinh cho các em là rất cần thiết và có ý nghĩa cao cả. Thực hiện BH học sinh không chỉ phù hợp với nhu cầu tất yếu trong đời sống xã hội mà nó còn phù hợp với Luật bảo vệ và chăm sóc trẻ em, là một trong những chính sách an sinh xã hội quan trọng của Đảng và Nhà nước ta, ngoài ra nó còn thể hiện tinh thần nhân đạo của xã hội, giáo dục cho các em học sinh tinh thần tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Triển khai nghiệp vụ BH học sinh không những đem lại lợi ích thiết thực cho các em học sinh, gia đình các em, nhà trường và xã hội mà còn đem lại cho công ty BH nhiều doanh thu cũng như lợi nhuận. Tuy vậy, việc triển khai nghiệp vụ này bên cạnh những thuận lợi nhưng cũng gặp không ít những khó khăn. Do đó, qua việc học tập về nghiệp vụ BH học sinh cũng như thời gian tìm hiểu thực tế về nghiệp vụ BH học sinh ở, Bảo Việt Hà Tây, em đã lựa chọn đề tài: Tình hình triển khai nghiệp vụ BH học sinh ở Công ty Bảo Việt Hà Tây giai đoạn 2002-2006, nhằm bổ sung kiến thức cho mình và đóng góp một số đề xuất để đẩy mạnh hiệu quả triển khai nghiệp vụ BH học sinh của Công ty. Nội dung của đề tài ngoài phần mở đầu và phần kết luận bao gồm 3 chương: Chương I: Một số vấn đề lý luận cơ bản về BH và nghiệp vụ BH học sinh. Chương II: Tình hình triển khai nghiệp vụ BH học sinh ở Công ty Bảo Việt Hà Tây giai đoạn 2002-2006. Chương III: Một số kiến nghị, nhằm đẩy mạnh công tác BH học sinh ở Bảo Việt Hà Tây. Qua bài viết này, em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình, chu đáo của cô giáo hướng dẫn Th.s Nguyễn Ngọc Hương, và sự giúp đỡ tạo điều kiện của các anh chị cán bộ Phòng BH Hà Đông – Công ty Bảo Việt Hà Tây đã giúp em hoàn thành được chuyên đề này. Hà Nội, ngày 25 tháng 4 năm 2007. Sinh viên: Vũ Trọng Tuấn. CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM VÀ NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM HỌC SINH. I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM. 1. Sự cần thiết khách quan và tác dụng về BH. 1.1 Sự cần thiết khách quan. - Trong cuộc sống của mỗi con người cũng như trong hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp thường gặp những rủi ro bất ngờ có thể xảy ra mà không ai lường trước được, những rủi ro này có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau như: môi trường công nghệ, sự chủ quan bất cẩn, do thiên nhiên, thời tiết…khi gặp rủi ro thường dẫn đến hậu quả về mặt tài chính để khắc phục hậu quả thiệt hại từ trước đến nay loại người đã có nhiều biện pháp như: tích luỹ, đi vay, kinh doanh các hội tương hỗ. Ngoài những biện pháp nói trên các cá nhân và các doanh nghiệp còn xây dựng cho mình một, chương trình quản lý rủi ro. Chương trình này thường bảo gồm. + Tránh né rủi ro; + Chấp nhận rủi ro (tự BH); + BH (chuyển rủi ro cho nhà BH chịu); - Do sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ do quy mô sản xuất, ngày càng được mở rộng vì vậy gặp rủi ro hậu quả thiệt hại thường rất lớn. - Đặc biệt trong điều kiện của nền kinh tế thị trường muốn mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, muốn đổi mới dây chuyền công nghệ…hầu hết các cá nhân doanh nghiệp đều phải vay vốn nước ngoài nếu không có tài sản thế chấp và không mua BH thì ngân hàng không cho vay vốn. - Khi kinh tế xã hội ngày càng phát triển đời sống của người dân ngày càng nâng cao thì nhu cầu được bảo vệ được an toàn, ngày càng lớn. Từ những vấn đề nêu trên chường trình quản lý rủi ro ngày nay lại càng được nhiều người quan tâm, tuy nhiên trong chương trình này có nhiều vấn đề cần phải bàn luận. * Né tránh rủi ro Đây là một biện pháp cũng rất hữu hiệu bởi vì càng tránh né được rủi ro thì mức độ thiệt hại về tài chính ngày càng thấp (phòng bệnh hơn chữa bệnh, phòng cháy tốt hơn chữa cháy). Tuy nhiên biện pháp này cũng có một số những hạn chế như có nhiều rủi ro bất ngờ chúng ta không thể tránh né được chính vì vậy khi gặp phải rất bị động, tạo áp lực tâm lý không được thoải mái không tự tin trong cuộc sống và sản xuất… * Chấp nhận rủi ro: Điều này có nghĩa là các cá nhân và doanh nghiệp chấp nhận những rủi ro và hậu quả tự mình gánh chịu, để chủ động trong vấn đề này thông thường các cá nhân các doanh nghiệp luôn luôn giành những khoản tài chính nhất định dự trữ lại, cao hơn nữa là lập quỹ dự phòng để đến khi gặp rủi ro và hậu quả, xảy ra thì sẵn sàng có một nguồn quỹ đề bù đắp khắc phục. Tuy nhiên cũng có hạn chế: • Các cá nhân doanh nghiệp luôn phải trích ra một khoản tiền lớn để dự phòng ảnh hưởng đến nguồn vốn, đương nhiên việc sử dụng nguồn vốn này không có hiệu quả. • Do quy mô sản xuất kinh doanh luôn ngày càng được mở rộng giá trị tài sản ngày càng lớn thậm chí rất lớn cho nên nếu cứ lập quỹ dự phòng kiểu này thì chắc chắn nguồn quỹ đó không đủ để khắc phục rủi ro nhất là rủi ro gây nên những hậu quả thảm khốc. • Nếu chỉ thuần tuý áp dụng biện pháp này thì các cá nhân và doanh nghiệp trong điều kiện ngày nay thường dễ bị cô lập cho nên khi rủi ro mang tính chất thảm hoạ xảy ra họ rất dễ bị phá sản và trắng tay. * BH Người tham gia BH chuyển rủi ro cho nhà BH gánh chịu biện pháp này cho đến nay được coi là hữu hiệu lớn hơn tất cả bởi vì nếu tham gia BH người tham gia hoàn toàn yên tâm sản xuất kinh doanh và khi gặp rủi ro hậu quả có lớn đến mức nào đi chăng nữa nhà BH và các nhà tái BH vẫn có thể bồi thường chi trả và khắc phục. Từ những vấn đề nêu trên cho nên BH ra đời là điều kiện cần thiết khách quan và không thể thiếu được trong nền kinh tế thị trường và điều này đã được chứng minh trong khoảng 4 thế kỷ vừa qua. 1.2 Tác dụng của BH. - Góp phần ổn định cuộc sống khôi phục sản xuất làm cho sản xuất kinh doanh tiếp tục phát triển bình thường. - BH ra đời còn góp phần làm giảm nhẹ gánh nặng cho ngân sách nhà nước đồng thời còn làm tăng thu ngân sánh và ngoại tệ cho ngân sách, đây là một trong những lĩnh vực đóng góp rất đáng kể vào chỉ tiêu GDP mỗi quốc gia. - BH ra đời còn góp phần đề phòng hạn chế tổn thất từ đó góp phần đảm bảo an toàn cho xã hội. - Mỗi công ty BH thường là những nhà đầu tư cỡ lớn góp phần phát triển và tăng trưởng kinh tế cho đất nước đặc biệt đầu tư của BH là đầu tư dài hạn. - BH ra đời góp phần hình thành tiết kiệm chống lạm phát từ đó tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động(đại lý 138.000 người) - Góp phần tạo nên một tâm lý yên tâm ổn định trong cuộc sống và sản xuất. 2. Bản chất của BH. Khái niệm của BH: đứng trên góc độ tài chính, BH là hoạt động dịnh vụ tài chính nhằm phân phối lại những chi phí mất mát không mong đợi. Đứng trên góc độ pháp lý: BH là sự cam kết giữa hai bên mà trong đó một bên đồng ý bồi thường cho bên cho bên kia nếu bên kia đóng phí BH. BH là tổng thể những mối quan hệ kinh tế xã hội giữa người tham gia và người BH nhằm mục đích ổn định, cuộc sống và sản xuất cho người tham gia khi họ gặp những rủi ro bất ngờ gây hậu quả thiệt hại và đáp ứng một số nhu cầu khác của họ. Như vậy dù định nghĩa như thế nào đi chăng nữa bản chất của BH cũng phải thể hiện được những nội dung sau: - Mục đích chủ yếu của BH là góp phần ổn định cuộc sống và sản xuất cho những người tham gia BH và đáp ứng các nhu cầu khác của họ. - BH là hoạt động dịchvụ tài chính chứ không phải là dịch vụ sản xuất (dịch vụ tài chính phải được sự quản lý rất chặt chẽ của Nhà nước); -Rủi ro trong BH phải là những rủi ro bất ngờ không ai lường trước được. - BH hoạt động theo nguyên tắc số đông bù số ít; - Phân phối trong BH là phân phối lại (người tham gia BH nộp phí BH cho nhà BH để hình thành nên quỹ BH và dùng phí đó để phân phối lại cho những người không may gặp rủi ro). - BH thực chất là sự chuyển giao rủi ro từ người tham gia BH sang người BH, mối quan hệ này phải được thông qua một bản cam kết này và bản cam kết này thực chất là hợp đồng BH, nó ràng buộc trách nhiệm và quyền lợi giữa các bên theo luật định. II. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM CON NGƯỜI TRONG BẢO HIỂM THƯƠNG MẠI. 1. Sự cần thiết và tác dụng của BH con người trong BH thương mại. 1.1. Sự cần thiết khách quan của BH con người. Trong cuộc sống con người thường gặp rất nhiều loại rủi ro khác nhau như tai nạn, ốm đau, bệnh tật, tử vong... Khi gặp những rủi ro đó không những ảnh hưởng về mặt tinh thần mà còn gây lên những hậu quả về mặt tài chính, để khắc phục hậu quả, loài người cũng có rất nhiều biện pháp khác nhau như phòng bệnh, chữa bệnh, tiết kiệm tiền, đi vay... Đến những năm 60 của thế kỷ 20 thì hầu hết người ta cho rằng BH là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất. Đối với mỗi gia đình, khi không may một thành viên nào đó nhất là thành viên trụ cột trong gia đình bị chết, bị thương tật, cuộc sống của họ thường bị hẫng hụt cả về tài chính và lẫn tâm lý, họ phải chi phí thêm cho việc mại táng nếu thành viên đó chết hoặc chi phí chăm sóc nếu thành viên đó bị ốm đau hoặc thương tật, chi phí trả cho các khoản nợ, các khoản vay thế chấp trước kia của gia đình... để ổn định cuộc sống của cả gia đình trong khi tổng thu nhập của họ không tăng thậm chí còn giảm đi rất nhiều. Còn đối với mỗi doanh nghiệp sẽ khó tránh khỏi những đảo lộn lớn khi không may những người chủ chốt trong doanh nghiệp bị chết hoặc bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn, họ phảibỏ chi phí ra để trợ cấp một phần hoặc toàn bộ cho người lao động gặp rủi ro đó, chi phí để tìm người thay thế để tiếp tục ổn định kinh doanh... trong khi những chi phí này không nhỏ, thậm chí còn vượt quá khả năng tài chính của gia đình, của doanh nghiệp. Vì vậy, vấn đề mà bất kỳ xã hội nào cũng quan tâm là làm thế nào để khắc phục được hậu quả của rủi ro nhằm đảm bảo cuộc sống con người. Thực tế đã có nhiều biện pháp được áp dụng nhưphòng tránh, cứu trợ, tiết kiệm,...nhưng BH luôn được đánh giá là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất. BH xã hội( BHXH) và BH y tế (BHYT) thực chất cũng là BH con người và đã xuất hiện từ lâu, tuy nhiên những loại hình BH này có đối tượng và phạm vi rất hẹp và tuyệt đại đa số các nước triển khai những loại hình BH này đều gắn với những chính sách kinh tế xã hội trong từng thời kỳ cho nên nó không đáp ứng được nhu cầu một cách toàn diện của các tầng lớp dân cư trong xã hội. Con người vẫn còn quan tâm đến những vấn đề khác nảy sinh trong cuộc sống, chẳng hạn như: - Việc mất hoặc giảms thu nhập của người trụ cột trong gia đình ảnh hưởng đến cuộc sống của con cái và người thân trong gia đình. Vấn đề lại càng tồi tệ hơn khi vẫn phải trang trải, chi tiêu hàng ngày trong lúc các nguồn thu nhập khác không còn. Do đó, không một người trụ cột nào trong gia đình nào lại muốn những người đang sống nhờ vào thu nhập của họ phải chịu những khó khăn về tài chính hoặc bị thiệt thòi khi họ gặp phải rủi ro( tử vong, mất khả năng lao động, ốm đau, tai nạn...), nhất là khi con cái chưa đến tuổi trưởng thành, nợ nần còn chồng chất. Vì vậy đối với mỗi cá nhân và gia đình, việc tiết kiệm chi tiêu hiện tại để chuẩn bị cho tương lai, cho việc giáo dụccon cái, chuẩn bị hành trang cho con cái vào đời là một biện pháp hết sức cần thiết và có ý nghĩa cao cả. - Ngoài ra, việc lo cho tuổi già hoặc khi về hưu đang là vấn đề được xã hội quan tâm, lo lắng và coi trọng. Một số người khi hết tuổi lao động có thu nhập từ lương hưu nhưng thực tế khó có thể đáp ứng đủ các nhu cầu chi tiêu trong cuộc sống. Bên cạnh đó, phần lớn người già không có lương hưu phải sống nhờ vào con cái hay vẫn phải lao động vất vả để kiếm sống đang là vấn đề xã hội bức xúc. Chẳng ai muốn sống một tuổi già đau yếu, bệnh tật, phụ thuộc hay là gánh nặng cho con cái và xã hội. Đặc biệt, tuổi thọ càng cao thì nguồn dự trữ tài chính lại dần bị cạn kiệt. Vấn đề là phải tạo ra công cụ để mọi người có thể đều đặn dành ra từ thu nhập và tiết kiệm chi tiêu hiện tại của mình những khoản tiền nhỏ mà vẫn đủ để đảm bảo cuộc sống khi về già. - Xã hội ngày càng phát triển, đời sống của con người ngày càng được nâng cao thì người ta càng có điều kiện để chăm lo cho bản thân và gia đình. Khi nền kinh tế còn chưa phát triển, thu nhập người dân còn thấp, khi họ gặp rủi ro ốm đau, bệnh tật, họ chỉ có khả năng trang trải các chi phí y tế tối thiểu để làm cho người bệnh phục hồi sức khoẻ, còn khi kinh tế phát triển, thu nhập người dân tăng lên, khi không may gặp rủi ro tai nạn, bệnh tật, họ có điều kiện tốt hơn nhờ sử dụng những biện pháp điều trị, những loại thuốc tốt nhất nhằm hồi phục sức khoẻ và khả năng lao động một cách nhanhnhất, hiệu quả nhất. Ngoài BHXH và BHYT, các dịch vụ BH con ngườih trong BH thương mại ra đời là hết sức cần thiết nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của mọi tầng lớp dân cư trong xã hội. BH con người là một trong ba loại hình của BH thương mại, là hình thức bổ sung cho BHXH và BHYT, nhằm đảm bảo ổn định cuộc sống cho mọi thành viên trong xã hội trước những rủi ro, tai nạn bất ngờ đối với thân thể, tính mạng, sự giảm sút hoặc mất thu nhập và, đáp ứng một số nhu cầu khác của người tham gia. BH con người phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa các bên tham gia hợp đồng BH. So với BHXH, BH con người trong BH thương mại có đối tượng tham gia rộng hơn vì đối tượng của BHXH là thu nhập của người lao động và đối tượng tham gia BHXH thường chỉ là người lao động và người sử dụng lao động, còn đối tượng của BH con người là tuổi thọ, tính mạng, tình trạng sức khoẻ con người hoặc các sự kiện liên quan đến cuộc sống con người và có ảnh hưởng tới cuộc sống con người, đối tượng tham gia BH con người trong BH thương mại bao gồm các cá nhân và các tổ chức trong xã hội; quỹ BH con người được hình thành chủ yếu từ phí BH mà người tham gia đóng góp, số tiền chi trả căn cứ vào sự thoả thuận và cam kết trong hợp đồng, hình thức BH chủ yếu ở đây là tự nguyện. Điểm khác nhau rõ nhất là phí BH con người trong BHXH được xác định căn cứ vào tiền lương của người lao động do Nhà nước quy định, còn trong BH thương mại, phí BH phục thuộc vào nhiều yếu tố và việc tính toán mức phí rất phức tạp. Ngoài ra, sự khác nhau còn được thể hiện ở cơ sở pháp lý của sự cam kết, cơ quan tổ chức thực hiện... Tuy nhiên, sự khác nhau giữa hai hệ thống BH này không tạo ra sự đối lập, mâu thuẫn mà trái lại chúng bổ sung cho nhau, hỗ trợ nhau. Các nghiệp vụ BH con người trong BH thương mại có thể thay thế BHXH trong những trường hợp, những khu vực của nền kinh tế, những nơi mà BHXH chưa được thực hiện hoặc có nhưng không đủ bù đắp phần thu nhập bị giảm sút của người lao động. Mặc dù người lao động làm công ăn lương được hưởng trợ cấp BHXH nhưng đôi khi có những rủi ro, những nhu cầu nằm ngoài phạm vi BHXH, hoặc các khoản trợ cấp BHXH không đáp ứng được những yêu cầu khắc phục hậu quả rủi ro. Phần chênh lệch và thiếu hụt về mặt tài chính sẽ được BH thương mại bù đắp. Như vậy, các nghiệp vụ BH con người trong BH thương mại sẽ có vai trò hết sức quan trọng giúp mọi người chống lại những bấp bênh của cuộc sống trong sự đa dạng và phức tạp của rủi ro. Tất cả các lý do trên đã làm cho loại hình BH con người trong BH thương mại phát triển nhanh chóng, bắt đầu xuất hiện ở Châu Âu và Bắc Mỹ, cho đến nay loại hình này đã có mặt trên, khắp thế giới. 1.2 Tác dụng của BH con người. Cũng như các loại hình BH tài sản và BH trách nhiệm dân sự, BH con người trong BH thương mại ra đời có những tác dụng chủ yếu sau đây: Thứ nhất: góp phần ổn định cuộc sống cho các cá nhân và gia đình, là chỗ dựa tinh thần cho người được BH. Mặc dù trong thời đại hiện nay, khoa học kỹ thuật đã phát triển cao nhưng rủi ro bất ngờ vẫn có thể xảy ra, và thực tế đã chứng minh rằng nhiều cá nhân và gia đình trở nên khó khăn, túng quẫn khi có một thành viên trong gia đình, đặc biệt thành viên đó lại là người trụ cột bị chết hoặc bị thương tật vĩnh viễn. Khi đó, gia đình phải mất thêm chi phí mai táng, chôn cất, chi phí nằm viện, thuốc men, chi phí phẫu thuật và bù đắp những khoản thu thường xuyên bị mất đi. Khó khăn hơn là một loạt các nghĩa vụ và trách nhiệm mà người chết chưa kịp hoàn thành như trả nợ, phụng dưỡng bố mẹ già, nuôi dạy con cái ăn học... Dù rằng hệ thống bảo trợxã hội và các tổ chức xã hội có thể trợ cấp khó khăn nhưng cũng chỉ mang tính tạm thời, trước mắt, chưa đảm bảo được lâu dài về mặt tài chính. Tham gia BH con người sẽ phần nào giải quyết được những khó khăn đó. Thứ hai: BH con người, trong BH thương mại còn góp phần ổn định tài chính và sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp, tạo lập mối quan hệ gần gũi, gắn bó giữa người lao động và người sử dụng lao động. Thực tế cho thấy, trong 6 tháng đầu năm 2002, tổng số tiền chi trả BH gốc của nghiệp vụ BH con người ở tất cả các công ty BH phi nhân thọ ở Việt Nam là 132.300.070.000 đồng, trong khi số tiền này 6 tháng đầu năm 2001 là 112.480.880.000 đồng, nếu không có BH thì chắc chắn các cá nhân, các tổ chức sẽ rất khó khăn trong việc đảm bảo ổn định tài chính cho bản thân, cho doanh nghiệp mình. Tuỳ theo đặc điểm ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh, các chủ doanh nghiệp thường mua BH sinh mạng, BH tai nạn, BH kết hợp... cho người làm công và những người chủ chốt trong doanh nghiệp nhằm đảm bảo ổn định cuộc sống và tạo ra sự lôi cuốn, gắn bó ngay cả trong lúc doanh nghiệp gặp khó khăn, tránh cho doanh nghiệp sự bất ổn về Tài chính khi mất người làm công chủ chốt. Những người làm công chủ chốt thường là những kỹ sư trưởng, những tay thợ lành nghề, những chuyên viên điều hành mạng Internet... Nếu doanh nghiệp bị mất họ khả năng thu lợi sẽ bị giảm và công việc điều hành gặp nhiều khó khăn. Do vậy, mua BH cho họ có thể đảm bảo cho doanh nghiệp khỏi sự thua thiệt tài chính vì những tai nạn, rủi ro gây nên mà vẫn có được những chi phí bù đắp thay thế. Thứ ba: thông qua dịch vụ BH con người, một dịch vụ có đối tượng tham gia đông đảo, các nhà BH thu được phí để hình thành quỹ BH, quỹ này được sử dụng chủ yếu vào mục đích chi trả. Khi nhàn rỗi, nó sẽ là nguồn vốn đầu tư hữu ích góp phần phát triển và tăng trưởng, kinh tế. Vốn đầu tư của các công ty BH nhân thọ rất lớn vì hoạt động BH nhân thọ mang tính dài hạn, do đó nguồn vốn BH nhân thọ cung cấp cho thị trường cũng là vốn dài hạn. Nếu được đầu tư phát triển các vùng kinh tế chiến lược, xây dựng cơ sở hạ tầng sẽ rất phù hợp và có hiệu quả. Theo số liệu thống kê, trong lĩnh vực tài chính, Bảo Việt là một nhà đầu tư tài chính lớn và có uy tín tại Việt Nam. Với tổng nguồn vốn đầu tư năm 2002 khoảng 6000 tỷ đồng, trong đó doanh thu từ nghiệp vụ BH con người là khoảng 98 tỷ đồng, ngoài việc đầu tư vào tiền gửi ngân hàngm, trái phiếu Chính phủ, cổ phiếu, Bảo Việt đã đầu tư trực tiếp vào gần 30 dự án thuộc các lĩnh vực kinh tế khác nhau như: sản xuất Xi măng Bỉm Sơn , ngân hàng( ACB, Hàng Hải, BH (VIA, Bảo Long), dịch vụ du lịch khách sạn( khách sạn Sài Gòn Hạ Long, Sài Gòn Phú Quốc), vui chơi giải trí ( công viên nước Hồ Tây, Non nước, Núi Bà), vận tải, bất động sản ... Doanh thu, đầu tư( lãi từ hoạt động đầu tư tài chính) năm 2002 là khoảng 387 tỷ đồng, tăng trưởng 84% so với năm 2001. Thứ tư: BH con người còn là một công cụ hữu hiệu để huy động những nguồn tiền mặt nhàn rỗi nằm ở các tầng lớp dân cư trong xã hội để thực hiện tiết kiệm, góp phần chống lạm phát. Ví dụ, trong 6 tháng đầu năm 2002, doanh thu phí BH nhân thọ ở Việt Nam là 2.017.076.450.000 đ, doanh thu phí BH phi nhân thọ là 1.558.073.910.000 đ, nếu không có BH, số tiền này sẽ nằm trôi nổi trên thị trường, nếu nền kinh tế biến động sẽ rất dễ gây ra lạm phát. Khi nền kinh tế phát triển, đời sống nhân dân ngày càng cao sẽ xuất hiện nhu cầu tiết kiệm hoặc đầu tư số tiền mặt tạm thời nhàn rỗi. Ở các nước đang phát triển và chậm chạp phát triển thường thiếu các công cụ để đáp ứng nhu cầu này, vì vậy BH con người mà đặc biệt là BH nhân thọ ra đời đã giúp các tổ chức và cá nhân thực hiện nhu cầu một cách có hiệu quả. Do đối tượng rộng lại vừa mang tính tiết kiệm, vừa mang tính rủi ro, hơn nữa, do cơ chế và cách thức đóng phí thuận lợi cho nên BH nhân thọ có nhiều ưu điểm hơn hẳn gửi tiền tiết kiệm. Vì thế, việc thực hành tiết kiệm từ chi tiêu Ngân sách gia đình để mua BH nhân thọ sẽ dễ dàng hơn, điều này không chỉ có ý nghĩa thiết thực đối với từng gia đình mà còn có ý nghĩa rất lớn đối với nền kinh tế xã hội. Thứ năm: BH con người còn góp phần giải quyết một số vấn đề về mặt xã hội như: tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, tăng vốn đầu tư cho việc giáo dục con cái, tạo ra một số nếp sống đẹp, tiết kiệm có kế hoạch... Khi tổ chức các dịch vụ BH con người luôn cần một mạng lưới đại lý khai thác, nhân viên sử dụng máy vi tính, thống kê, kế toán rất lớn. Vì đối tượng và phạm vi rộng, thời gian dài cho nên phát triển dịch vụ này sẽ tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. 2. Nguyên tắc khoán trong BH con người. Khi nói đến trách nhiệm chính của các công ty BH, người ta thường nghĩ ngay đến việc bồi thường, chi trả cho người tham gia BH, đổi lại, công ty BH sẽ nhận được phí BH. Đây là mối quan hệ tất yếu, nhưng bất luận trong mọi trường hợp, số tiền bồi thường của người được BH không vượt quá thiệt hại thực tế của người được BH. Thực chất đây là nguyên tắc bồi thường trong hoạt động kinh doanh BH. Tuy nhiên, nguyên tắc này chỉ được áp dụng trong BHTS là chủ yếu. Hệ quả của nguyên tắc bồi thường là cho phép công ty BH của người bị thiệt hại có quyền được khiếu nại đối với người thứ 3 gây thiệt hại và công ty BH của anh ta. Ví dụ: Xe ô tô của công ty A tham gia BH tại Bảo Việt, trong thời gian tham gia BH xảy ra tai nạn đâm va với xe ô tô của công ty B tham gia BH tại Pijico. Theo kết luận giám định, xe ôtô của công ty B có lỗi 60%. Trong vụ tai nạn này, Bảo Việt giải quyết bồi thường 100% thiệt hại cho công ty A. Nhưng sau khi bồi thường, Bảo Việt có quyền khiếu nại đòi 40% số tiền bồi thường đó từ phía công ty B và Pijico. Khác với BH thiệt hại, trong BHCN không áp dụng nguyên tắc bồi thường như ở trên, vì tính mạng và tình trạng sức khoẻ của con người là vô giá. Điều đó có nghĩa là trong các hợp đồng BH ( HĐBH) con người không tồn tại điều khoản giá trị BH (GTBH). Vậy trách nhiệm chính của công ty BH ở đây là gì, đó là trợ cấp hoặc (hoàn lạ) một phần hay toàn bộ số tiền BH (STBH) cho người được BH hay người thân thích của anh ta khi xảy ra các sự kiện BH./ Mục đích của nguyên tắc bồi thường là không cho phép việc kiếm lời không hợp lý từ quan hệ BH giữa các bên, từ đó mà ngăn chặn các hành vi trục lợi BH có thể phát sinh. Nguyên tắc này được quán triệt trong một số trường hợp phức tạp như: BH trên giá trị, BH trùng và trường hợp phải chịu trách nhiệm liên quan đến người thứ ba. Do vậy cần phải áp dụng nguyên tắc thế quyền để đảm bảo nguyên tắc bồi thường, nguyên tắc thế quyền có nghĩa là khi bồi thường theo hợp đồng BH được phép thế quyền người được BH để đòi người thứ ba phần thiệt hại thuộc trách nhiệm của người đó. Như vậy, STBH trong các HĐBH con ngườikhông phải là sự biểu hiện giá trị của bản thân người BH. Số tiền này do các bên tham gia hợp đồng thoả thuận, tuỳ theo mức thu nhập, khả năng tài chính, điều kiện kinh tế và nhu cầu của người tham gia BH. Khi có các sự kiện BH xảy ra, người BH sẽ thanh toán trên cơ sở số tiền này chứ không nhằm mục đích bồi thường thiệt hại vì không có bản chất thiệt hại. Thực chất ở đây áp dụng nguyên tắc khoán, mà STBH được ấn định trước trong hợp đồng, số tiền BH này là giới hạn trách nhiệm để nhà BH xem xét hoàn trả một phần hay toàn bộ cho người tham gia BH khi có sự kiện BH xảy ra thuộc phạm vi BH. Nghiệp vụ BH con người rất phát triển ở một số nước tư bản phát triển trên thế giới như: Anh, Mỹ, Đức, và Nhật Bản. Khi người dân tham gia các dịch vụ BH con người này, họ thường xây dựng nên một kế hoạch tài chính trong gia đình mình để xác lập số tiền BH cần lựa chọn. Bằng việc sử dụng một hệ thống máy tính cá nhân và các thiết bị điện tử họ có thể đánh giá một cách chính xác nhu cầu về lượng tiền trong tương lai bao gồm cả việc đánh giá trạng thái biến động của tỉ lệ lạm phát, tình hình tăng trưởng của nền kinh tế... vì thế STBH trong BHCN, nhất là trong BHNT được họ lựa chọn rất phù hợp, phần lớn số tiền BH khi lựa chọn đều dựa trên những nhu cầu về tài chính như: - Nhu cầu chi dùng hàng ngày, nếu không may người trụ cột trong gia đình không may gặp rủi ro bị chết, thương tật;. - Nhu cầu tạo lập quỹ cho con cái học đại học; - Nhu cầu chi trả các khoản nợ nần; - Nhu cầu để bù đắp các chi phí khi chết... Tuỳ vào nhu cầu của mình mà người tham gia BH có thể lựa chọn STBH là bao nhiêu để mua. Đó chính là mức chênh lệch giữaf tổng giá trị các nhu cầu trong tương lai để hoàn thiện kế hoạch tài chính so với tổng giá trị tài sản hiện có để đáp ứng nhu cầu của mình Số tiền BH lựa chọn để mua = Tổng giá trị của các nhu cầu trong tương lai-Tổng giá trị tài sản hiện có Kế hoạch trên được lập với giả định rằng người tham gia BH bị chết, sau khi họ chết tổng giá trị các nhu cầu trong tương lai cần phải được đáp ứng bằng lựa chọn một STBH thích hợp với, nhu cầu và khả năng tài chính để tham gia. Nhưng đó mới là một nửa của kế hoạch tài chính được lập ra, còn nửa kia họ phải tính đến mức phí BH phải nộp và phương thức nộp phí( nộp một lần hay là nộp định kỳ ...). nếu mức thu nhập thấp, khả năng nộp phí BH bị hạn chế thì STBH sẽ phải được điều chỉnh giảm đi cho phù hợp nhất và ngược lại. Lý do này đã làm sáng rõ thêm số tiền. mà nhà BH chi trả thực chất là một số tiền đã được “khoán” tương ứng với mức phí phải nộp và, phương thức nộp phí thoả thuận giữa các bên/. Việc áp dụng nguyên tắc khoán kéo theo hai hệ quả quan trọng: thứ nhất, đối vói cùng một người được BH đồng thời có thể được ký kết nhiều hợp đồng BH con người khác nhau cho mình với STBH bằng hoặc khác nhau, tùy theo nhu cầu của mỗi ngườ và khả năng tài chính của họ. thứ hai, không có sự thế quyền hợp pháp của người BH khi thanh toán STBH, thanh toán các khoản trợ cấp, không được phép thế vào quyền của người ký kết hợp đồng hoặc người được BH đòi những người gây ra thiệt hại có trách nhiệm bồi thường cho người được BH. hệ quả này hoàn toàn logic với nguyên tắc khoán. 3. Phân loại BH con người. BH con người là một bộ phận trong BH thương mại do đó nó có thể chia theo những tiêu thức sau đây: a. Phân theo hình thức BH: Dựa vàotiêu thức này thì BH con người trong BH thương mại được chia ra thànhc hai loại BH sau: Loại 1: BH con người bắt buộc: đây là hình thức BH bao gồm những nghiệp vụ BH. mà theo pháp luật bắt buộc các đối tượng phải tham gia. Ví dụ: BH tai nạn hành khách thì nhà nước quy định tham gia bắt buộc. Sự quy định này của nhà nước không chỉ góp phần bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của hành khách va gia đình họ, mà còn góp phần nhanh chóng khắc phục hậu quả mỗi vụ tai nạn. Hiện nay, rất nhiều nước trên thế giới quy định BH bắt buộc đối một số nghiệp vụ BH con người. Như vậy. sự bắt buộc trước hết là nói về nghĩa vụ của người được BH, những người trong một diện nhất định(có những mối quan hệ nhất định với loại đối tượng BH bắt buộc phải được BH) bắt buộc phải tham gia loại nghiệp vụ BH tương ứng, với mức độ tối thiểu nào đó. Bên cạnh đó, quy định bắt buộc có ý nghĩa cả đối với các nhà bả hiểm. Trong quá trình triển khai nghiệp vụ BH con người bắt buộc phải tuân theo những quy định của pháp luật về phạm vi BH, về biểu phí BH,... và việc cung cấp, loại BH cho người mua. Loại 2: BH con người tự nguyện. Bao gồm những nghiệp vụ BH con người mà hợp đồng BH ký kết theo thoả thuận của bên được BH và nhà BH. Người được BH hoặc người tham gia BH có thể đưa ra rất nhiều nhu cầu BH, còn người BH có thể chấp nhận hay không chấp nhận là tuỳ theo sự thoả thuận và cam kết. Tính tự nguyện đòi hỏi người BH phải phục vụ tốt hơn không ngừng đa dạng và cải tiến sản phẩm cho. ngày càng đáp ứng những nhu cầu của khách hàng. Phân loại theo tiêu thức này giúp người tham gia BH ý thức được trách nhiệm của mình đối với những nghiệp vụ BH bắt buộc/ đồng thời còn là cơ sở để các co quan quản lý có thể kiểm tra, giám sát quá trình triển khai BH. Ngoài ra việc quy định bắt buộc đối với một số nghiệp vụ BH con người cũng tạo điều kiện cho các công ty BH trong quá trình khai thác, Tổ chức hoạt động kinh doanh. b. Phân theo thời hạn BH: Dựa theo tiêu thức này, BH con người trong BH thường mại được chia ra làm hai loại sau: Loại 1: BH con người ngắn hạn Là loại hình BH có thời hạn ngắn thường là một năm trở xuống, người tham gia BH, phải nộp phí trong thời hạn đó đồng thời công ty BH cam kết thanh toán trợ cấp khi có rủi ro thuộc, phạm vi BH xảy ra đối với người được BH. ví dụ: BH sinh mạng cá nhân, BH tai nạn hành khách... Loại 2: BH con người dài hạn Đây là loại hình BH có thới hạn tham gia dài thường là trên một năm cho đến hết cuộc đời. Tiêu biểu nhất của loại hình BH này là BH nhân thọ 5 năm, 10 năm, 30 năm hoặc trọn đời... Theo cách phân loại này giúp cho người tham gia BH nhận biết từng loại hợp đồng để từ đó xác định rõ mục đích tham gia và cân đối được khả năng tài chính. đối với các nhà BH giúp họ quản lý nguồn quỹ BH và cân đối quỹ được chính xác khoa học đồng thời còn giúp họ dễ dàng soạn thảo các quy tắc và hợp đồng BH. c. Phân theo kỹ thuật quản lý: Căn cứ vào tiêu thức này người ta chia BH con người ra làm hai loại sau Loại 1: BH con người quản lý theo kỹ thuật phân chia Đây là cách quản lý nhằm cân bằng các khoản thu và chi của một hợp đồng BH trong một thời gian ngắn thường là một năm trở xuống. Phí BH thu được hình thành quỹ , nguồn quỹ này được phân chia ra các loại quỹ khác nhau để quản lý( quỹ dự phòng, quỹ đề ._.phòng và hạn chế tổn thất ...) các loại quỹ này được cân đối ngay trong năm BH. Sở dĩ phả quản lý theo kỹ thuật phân chia là vì các rủi ro được. BH trong, những nghiệp vụ này có tính chất tương đối ổn định và độc lập với tuổi thọ con người. Loại 2: BH con người quản lý theo kỹ thuật tồn tích Có nghĩa là phí BH thu được đem tồn tích qua nhiều năm nhà BH không được phép chi dùng hết mà phải có kế hoạch trong nhiều năm. đây là cách quản lý không nhằm cân bằng hợp đồng trong một năm mà cân bằng nhiều năm. kỹ thuật tồn tích nói lên tính chất dài hạn của hợp đồng và phí BH được tồn tích lại trong nhiều năm chi trả cho người thụ hưởng quyền lợi bh vào thời điểm có sự kiện BH xảy ra. Quản lý theo cách này giúp các công ty BH quản lý chặt chẽ các loại quỹ của mình theo đúng pháp luật. ngoài ra còn giúp cơ quan quản lý Nhà nước liên quan đến BH kiểm tra, theo dõi các loại quỹ khác nhau của các công ty BH nhằm đảm, bảo lợi ích cho khách hàng đảm bảo khả năng thanh toán cho các nhà BH góp phần đảm bảo nền tài chính quốc gia được bền vững./ d. Phân theo tính chất của rủi ro: Dựa theo tiêu thức này người ta chia BH con người ra làm hai loại Loại 1: BHnhân thọ Là loại hình BH đảm bảo cho các rủi ro có liên quan đến tuổi thọ của người được BH. BH nhân thọ được chia ra thành các loại sau: - BH trong trường hợp sống: loại này nhằm chi trả cho người tham gia BH một số tiền trợ cấp hay số tiền BH, nếu đến một thời điểm nào đó được ấn định trong hợp đồng BH mà, người được BH vẫn còn sống, Ví dụ như BH hưu trí. - BH trong trường hợp tử vong, nhằm chi trả cho người thụ hưởng quyền lợi BH STBH, nếu người được BH bị chết trước tại một thời điểm đã được ấn định hoặc chết vào. bất kỳ thời điểm nào tuỳ thuộc vào sự cam kết trong hợp đồng. Ví dụ, BH tử kỳ, BH nhân thọ trọn đời. - BH NT hỗn hợp, nhằm chi trả cho người thụ hưởng số tiền trợ cấp hay STBH, nếu người được BH hay người tham gia BH sống đến một thời điểm quy định hay chết trước tại một thời điểm ấn định trong hợp đồng. Ví dụ, công ty BH nhân thọ triển khai 2 loại hợp đồng BH nhân thọ hỗn hợp 5 năm và 10 năm. Thực chất đây là những hợp đồng cùng một lúc BH cho cả 2 sự kiện sống và chết của người được BH. Loại 2: BH con người phi nhân thọ Khác với BH nhân thọ là loại hình BH thường có thời hạn BH dài(> 1 năm), BH con người phi nhân thọ là loại hình BH có thời hạn từ 1 năm tro xuống, đối tượng của loại hình BH này là các rủi ro như: bệnh tật, mất khả năng lao động, tai nạn, tử vong. Đặc điểm của loại này là không liên quan đến tuổi thọ của con người. Ví dụ như BH 24/24, BH tai nạn hành khách, BH trợ cấp nằm viện phẫu thuật... Cách phân loại này là chủ yếu nhất nó có ý nghĩa không chỉ đối với các nhà BH mà còn cả đối với xã hội và cơ quan quản lý nhà nước cụ thể giúp cho các công ty BH xác định. chính xác mục tiêu và phương hướng kinh doanh của mình, hoạch định chiến lược kinh doanh và xây dựng những cơ chế quản lý cho phù hợp. Đối với xã hội, giúp người dân phân biệt rõ từng loại hình bao hiểm con người khác nhau để họ dễ dàng tham gia và đap ứng được nhu cầu của họ. Đối với cơ quan quản lý nhà nước, dễ dàng kiểmd tra các hoạt động kinh doanh BH của các doanh nghiệp, đặc biệt xây dựng những văn bản pháp quy cho phù hợp. III. Nội dung cơ bản về nghiệp vụ BH học sinh. 1. Những rủi ro thường gặp ở học sinh và tác dụng của BH học sinh. 1.1 Những rủi ro thường gặp ở học sinh. Ở mỗi cấp học cũng như từng lứa tuổi khác nhau thì những rủi ro mà các em học sinh gặp phải có sự biến độngs khác nhau nên việc xác định nhóm rủi ro thường gặp ở mỗi lứa tuổi học sinh có ý nghĩa rất quan trọng đối vớif việc triển khai BH của công ty BH. Các loại rủi ro thường gặp có thể phân theo lứa tuổi, theo giới tính, theo khu vực địa lý. a. Theo độ tuổi( cấp học ). Theo tiêu thức này thì ở mỗi độ tuổi khác nhau có sự tập trung một loại rủi ro khác nhau. Ở độ tuổi mầm nòn, do các em tuổi còn nhỏ, sức đề kháng của cơ thể các em chưa cao. hơn nữa các em chưa đủ khả năng nhận thức các mối nguy hiểm, chưa có khả năng tự bảo vệb mình trong hoạt động hàng ngày các em có thể ăn uống không hợp vệ sinh nếu không có sự kiểm soát của người lớn, các em có thể dùng các vật nhọn hay dao, kéo để chơi nên khả năng các em gặp phải những rủi ro tai nạn cũng khá nhiều. độ tuổi học sinh phổ thông do sức đề kháng của cơ thể đã tăng lên và các em đã có khả năng nhận thức được hành vi của mình, cũng như xác định được các mối nguy hại cho con người trong hoạt động hàng ngày, tuy nhiên các em lại tiếp xúc với những phương tiện đi lại mới như xe đạp, xe máy, đặc biệt do tính hiếu động của các em luôn muốn khám phá tìm tòi cái mới, những trò chơi mới, một số mang tính Mạo hiểm nên nguy cơ gặp phải các rủi ro ở độ tuổi này là rất lớn. Còn đối với độ tuổi là sinh viên của các trường ĐH- CĐ- THCN và dạy nghề, các bạn đã đủ lớn để nhận thức được những mối nguy hiểm cho cuộc sống của mình, tuy nhiên do phần lớn các Sinh viên là học ở xa nhà, xa gia đình, được tự do, trong khi kinh nghiệm sống còn thiếu nên không có ý thức trong việc giữ gìn sức khoẻ, chủs quan trong việc ăn uống. hơn nữa ở độ tuổi này các sinh viên chủ yếu học ở các thành phố lớn, mọi hoạt động diễn ra sôi động và phức tạp nên các mối quan hệ cũng tăng lên, tiếp xúc với nhiềuc người do vậy cũng dễ xảy ra nhiều những mối nguy hiểm khis không blàm chủ được bản thân, dễ bị lôi kéo rủ rê của kẻ xấu, ngoài ra nhu cầu đi lại cũng gia tăng nên nguy cơ gặp rủi ro về tai nạn cũng không phải là nhỏ. b. Theo khu vực địa lý: Học sinh ở nông thôn và học sinh ở thành thị thường gặp phải những rủi ro khác nhau do môi trường sống khác nhau. Ở khu vực thành thị do mức sống cao hơn nông thôn nên việc chăm sức khoẻ Y tế được quan tâm hơn, do đó, rủi ro ốm đau bện tật ít xảy ra hơn so với học sinh ở nông thôn. tuy nhiên, ở khu vực thành thị do mật độ giao thông lớn nên các em học sinh rất dễ bị tai nạn giao thông, hơn nữa ở thành thị có nhiềus tiếng ồn, không khí bị ô nhiễm, có nhiều các tệ nạn xã hội, nên khả năng xảy ra rủi ro đối với các em học sinh là không nhỏ. Còn đối với khu vực nông thôn mức sống chưa cao vấn đề chăm sóc sức khoẻ chưa đầy đủ công tác khám chữa bệnh có nhiều hạn chế đặc biệt là ở các vùng đặc biệt khó khăn, vùng sâu vùng xa, do đó các em học sinh chưa được chăm sóc sức khoẻ một cách đầy đủ và tốt nhất mặt khác ở nông thôn có nhiều ao hồ, sông, suối đây là nơi các em học sinh thường vui chơi tắm mát, nếu không có sự quản. lý chặt chẽ của nhà trường và gia đình thì rất dễ xảy ra những tai nạn đáng tiếc. Tuy vậy, do ở nông thôn có, môi trường sống trong lành, mát mẻ nên các em cũng là nguyên nhân rất quan trọng giúp cho các em học sinh hạn chế ốm đau, cũng như các bệnh do khói bụi, tiếng ồn như ở thành thị. Học sinh nông thôn ngoài việc đến trường học còn phải tranh thủ giúp đỡ bố mẹ những công việc nhà, thậm chí có những trường hợp các em vẫn phải lao động vất vả để kiếm thêm thu nhập cho gia đình vì vậy khả năng lao xảy ra tai nạn rủi ro là không nhỏ. hơn nữa ở nông thôn công tác tuyên truyền, giáo dục về chăm sóc sức khoẻ cũng như đề phòng tai nạn cũng còn hạn chế, các em ít được tiếp cận với các thông tin, những kiến thức về giáo dục giới tính, cũng như điều kiện về vui chơi giải trí cũng hạn hẹp, thiếu các khu vui chơi tập trung do đó cũng là nguyên nhân tăng tỉ lệ tai nạn rủi ro xảy ra. c. Theo giới tính: Do cấu trúc cơ thể của nam và nữ giới là khác nhau nên trong quá trình phát triển các em có sự biến đổi về tâm sinh lý hoàn toàn khác nhau, điều này cũng là yếu tố dẫn đến các em học sinh nam va nữ gặp phải nhưng rủi ro về sức khoẻ là khác nhau. Hơn nữa các em học sinh nam do tính hiếu động hơn các bạn nữ, dễ tham gia vào các hoạt động nguy hiểm, nên khả năng các em học sinh nam gặp phải những rủi ro tai nạn là lớn hơn. theo số liệu thống kê năm học 2005-2006 có 48.676 vụ tai nạn xảy ra đối với học sinh sinh viên thì trong đó có tới gần 70% là các em học sinh nam, điều này chứng tỏ các em học sinh nam dễ gặp phải những rủi ro nhiều hơn các em học sinh nữ. Vì vậy cần có nhiều biện pháp để ngăn ngừa, đề phòng tập trung vào các em, học sinh nam nhiều hơn. Đối với các em học sinh nữ do đặc điểm cấu trúc của cơ thể nữ giới cho nên vấn đề chăm sóc sức khoẻ cũng có nhiều vấn đề cần quan tâm, như các em đến tuổi dậy, thì dễ mắc phải các bệnh phụ khoa cho nên cũng ảnh hưởng phần nào đến các hoạt động cũng như sức khoẻ của nữ giới, vì vậy cũng rất cần có các thông tin tư vấn chăm sóc sức khoẻ cho các bạn để ngăn ngừa những rủi ro xảy ra. Việc phân chia ra những nhóm rủi ro khác nhau là rất cần thiết, đây là yếu tố giúp cho các công ty BH căn cứ để xác định đối tượng nào gặp nhiều rủi ro, qua đó có các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất, giúp cho công tác BH học sinh đạt được hiệu quả cao nhất, cũng như chăm lo cho thế hệ tương lai của đất nước một cách tốt nhất. 1.2 Tác dụng của nghiệp vụ BH học sinh. BH học sinh là loại hình BH con người theo đó các Công ty BH cam kết chi trả tiền BH cho học sinh, sinh viên và gia đình các em nếu không may các em học sinh, sinh viên gặp phải những tai nạn, ốm đau, bệnh tật thuộc phạm vi BH. Đồng thời các em học sinh, sinh viên hoặc gia đình phải nộp một khoản phí cho Công ty BH khi các bên, tham gia ký kết hợp đồng BH học sinh. BH học sinh là công cụ quan trọng để bảo vệ cho các em học sinh trước những rủi ro bất ngờ, để tạo điều kiện, cho các em yên tâm học tập và rèn luyện. Những tác dụng của BH học sinh được thể hiện ở những mặt sau đây: a. Đối với các em học sinh và gia đình các em học sinh. Mục đích của BH là bù đắp, chi trả kịp cho gia đình các em những thiệt hại do rủi ro bất ngờ xảy ra cho các em, nhằm giúp cho gia đình các em ổn định cuộc sống, khắc phục những khó khăn khi có rủi ro xảy ra đối với con em mình, giúp các em nhanh chóng phục hồi sức khoẻ và tâm lý để tiếp tục đến trường học tập. Khi các em không may gặpphải những rủi ro như tai nạn, ốm đau, bệnh tật, gia đình các em phải lo liệu, các khoản chi phí phát sinh như: chi phí nằm viện, chi phí thuốc men, phẫu thuật, bồi dưỡng phục, hồi sức khoẻ cho các em, trong khi nguồn thu của gia đình vẫn không tăng, thậm chí còn giảm đi do cha mẹ các em phải nghỉ làm việc để chăm sóc cho con cái mình khi gặp rủi ro, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống kinh tế của gia đình trong thời điểm hiện tại và tương lai nhất là đối với những gia đình có hoàn cảnh khó khăn thiếu thốn. Vì vậy việc các em học sinh tham gia BH có tác dụng rất Quan trọng để các em và gia đình khắc phục được những chi phí phát sinh khi tai nạn rủi ro xảy ra, điều này có ý nghĩa rất lớn đối với việc giải quyết những khó khăn về kinh tế cho gia đình học sinh, đồng thời còn có tác dụng động viên về mặt tinh thần cho các em và gia đình các em. BH là người bạn đồng hành với các em trong suốt thời gian các em ngồi trên ghế nhà trường, cùng chia sẻ, và gánh vác những khó khăn. Việc tham gia BH giúp học sinh nâng cao ý thức cộng đồng, trách nhiệm xã hội và giáo dục cho các em tinh thần tương thân tương ái, lá lành đùm là rách của dân tộc Việt Nam, đồng thời BH còn giúp các em có ý thức để phòng tránh rủi ro, tai nạn, hướng các em vào những hành động lành mạnh, an toàn và tránh những hoạt động nguy hiểm và vi phạm pháp luật. BH tạo tâm lý yêntâm cho các em học tập, và gia đình các em yên tâm lao động sản xuất. b. Đối với nhà trường. Nhà trường là nơi đào tạo và bồi dưỡng kiến thức cho các em học sinh, đây là nơi các em học sinh gắn bó trong một khoảng thời gian tương đối dài. Ngoài việc giảng dạy các em học sinh về kiến thức về nhân cách sống, nhà trường còn phải quản lý cá em trong quá trình sinh hoạt và học tập ở nhà trường. Nếu không may các em học sinh chơi đùa hiếu động mà gây tai nạn thì ngoài việc bản thân các em và gia đình các em chịu trách nhiệm khắc phục rủi ro xảy ra, nhà trường cũng phải có trách nhiệm đối với các em. Vì vậy, công tác BH học sinh có ý nghĩa rất quan trọng đối với không chỉ các em học sinh và gia đình mà còn có ý nghĩa đối với nhà trường, để các thầy Cô giáo yên tâm trong công tác giảng dạy, khi các em không may xảy ra tai nạn, ốm đau thì đã được công ty BH chi trả, trợ cấp, do đó sẽ nhanh chóng khắc phục được khó khăn, giúp cho việc học tập của các em nhanh chóng được tiếp tục, không bị gián đoạn trong thời gian dài đảm bảo kế hoạch của nhà trường. Nhờ có BH mà nhà trường cũng có được sự cộng tác của các công ty BH trong việc quản lý, đề phòng tai nạn cho các em học, nhà trường được trang bị thêm những kiến thức về phòng tránh, giảm thiểu rủi ro cho học sinh, đồng thời sự kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường, công ty BH và gia đình các em càng giúp cho việc tuyên truyền Giáo dục ý thức cho các em trong việc phòng chống rủi ro học đường, cũng như ý thức chấp hành tốt các quy định của pháp luật. Ngoài ra sau khi thu phí BH học sinh xong, Công ty BH cũng trích một phần phí thu được để cho nhà trường, phần phí này được sử dụng để mua sắm các trang thiết bị ytế, tủ thuốc trường học, mua các tài liệu về chăm sóc sơ cứu ban đầu cho học sinh khi không may gặp tai nạn trước khi chuyển đến cơ sở y tế... c. Đối với công ty BH. BH học sinh vừa mang tính nhân đạo, vừa mang tính kinh tế. Đây là nghiệp vụ cũng đem lại hiệu quả cho công ty BH nguồn phí thu được từ BH học sinh hình thành nên quỹ BH học sinh, trong đó có một phần lớn quỹ nhàn rỗi chưa sử dụng được đem đầu tư trở lại nền kinh tế mang lại lợi nhuận không nhỏ cho công ty BH. Hơn nữa, nghiệp vụ BH này có đối tượng tham gia là các em học sinh với số lượng rất lớn, được sự phối hợp của nhà trường cho nên việc triển khai nghiệp vụ này cũng rất thuận lợi, đây còn là cơ hội để các công ty BH quảng bá hình ảnh của mìnhs cho gia đình các em, giúp nâng cao uy tín của công ty, cũng như sự tin tưởng của khách hàng. Việc BH cho các em là trách nhiệm cao cả của các công ty, nhằm đảm bảo cho thế hệ tương lai của đất nước có đượcf sự an toàn tuyệt đối, vì vậy các công ty BH cũng nhận được sự ủng hộ, tạo điều kiện thuận lợi của cơ quan nhà nước, chính quyền địa phương và nhà trường. d. Đối với xã hội. Xã hội là tổng thể các cá nhân, các gia đình và các tổ chức. BH học sinh mang lại lợi ích cho các thành viên trong xã hội thì cũng đem lại lợi ích cho xã hội. BH học sinh Giáo dục cho các em học sinh ý thức chấp hành pháp luật, ý thức trước những hành động của mình, không gây nguy hại cho người khác, đồng thời còn giáo dục lòng nhân ái, góp phầnxây dựng một xã hội lành mạnh, văn minh. Giảm được gánh nặng cho nhà nước, tiết kiệm được ngân sách của nhà nước trong việc chi trợ cấp xã hội, từ đó đầu tư vào các chương trình đầu tư khác cho giáo dục và đào tạo hoặc mang lại lợi ích Kinh tế xã hội cao hơn. BH học sinh góp phần quan trọng vào công tác xã hội giáo dục với mục đích tạo cho thế hệ trẻ một nền tảng sức khoẻ, thể chất vững chắc để các em học tập được tốt nhất. Làm tốt công tác BH học sinh là một trong những biện pháps quan trọng nhất để phát triển nguồn nhân lực của Đảng và Nhà nước. Bên cạnh đó, BH học sinh còn tào điều kiện cho việc thu hút rất hiệu quả để đầu tư chos nền kinh tế. Chi phí lớn nhất trong BH học sinh là chi trả tiền BH cho học sinh khi có sự kiện BH xảy ra, tuy nhiên chỉ khi nào có sự kiện BH xảy ra mới sử dụng nguồn quỹ BH học sinh, mà rủi ro xảy ra rải rác qua các năm, vì thế việc chi trả BH cũng rải rác qua nhiều năm, do đó có một số lượng tiền nhàn rỗi không sử dụng ngay. Đây là điều kiện rất tốt để đầu tư trở lại nền kinh tế, chủ yếu là đầu tư vào các dự án mang tính chiến lược của quốcd gia như xây dựng trường học, bệnh viện, đường xá, đầu tư cho chăm sóc ytế góp phần quan trọng để chăm lo cho sức khoẻ của thế hệ tương lai của đất nước. 2. Đối tượng và phạm vi BH 2.1. Đối tượng BH. BH học sinh thực chất là BH con người trong BH thương mại, do vậy đối tượng BH của nó là tính mạng, sức khoẻ của học sinh, sinh viên từ nhà trẻ, mẫu giáo đến các cấp học cao hơn, người ta chia ra làm các cấp sau: - Mầm non; - Tiểu học; - Trung học cơ sở; - Phổ thông trung học; - Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Để xác định được trách nhiệm của người BH, người ta dựa trên STBH. Đó là mức trách nhiệm cao nhất trong hợpa đồng hợp đồng khi xảy ra sự kiện BH nhưng đây không phải là sự BH giá trị của người được BH. Thông thường khi giao kết hợp đồng BH học sinh, các bên trong hợp đồng sẽ có sự thoả thuận ấn định STBH hoặc cũng có thể do người BH đơn phương đặt ra tuỳ theo loại hình BH và hình thức của hợp đồng. Nói cách khác đây là sự thể hiện nguyên tắc khoán trong BH con người. Việc xác định đối tượng BH là rất quan trọng, nó là cơ sở để tính phí và giải quyết chi trả tiền BH. Hơn nữa, trong BH học sinh, các em là người được BH còn cha mẹ các em là người tham gia BH tức là có trách nhiệm đóng phí BH cho các em, nhà trường là người quản lý, do đó đối tượng BH học sinh là những em học sinh đang theo học ở các trường từ nhà trẻ, mẫu giáo đến ddại học, Cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, và dạy nghề, vì thế các em không đi học cũng không được tham gia BH học sinh. Việc phân biệt người được BH và người tham gia BH trong BH học sinh là rất quan trọng. Đối với học sinh đang theo học ở các trường mầm non, phổ thông, người được BH là các em, còn người tham gia BH là những người chịu trách nhiệm nộp phí BH đó là cha mẹ, ông bà anh chị,... của các em và họ cũng là người trực tiếp ký kết hợp đồng BH đối với công ty BH. Đối với sinh viên đang theo học ở các trường Đại học, Cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề thì người được BH chính là các em, nhưng người tham gia BH có thể là gia đình bố mẹ, ông(bà), hoặc cũng có thể do chính các em là người tham gia BH và trực tiếp đóng phí BH cho công ty hoặc nhà trường, tuy người tham gia BH và người được BH có thể là khác nhau nhưng họ đều là nhữngngười có mối quan hệ gắn bó với nhau, vì thế việc xác định rõ đối tượng của BH học sinh là rất quan trọng, giúp cho công tác khai thác. Tuyên truyền quảng cáo được thuận tiện, nếu trong quá trình khai thác các đại lý và cộng tác viên biết thuyết phục tạo tâm lý yên tâm cho gia đình học sinh thì chắc chắn việc tham gia BH cho các em học sinh có nhiều thuận lợi. 2.2. Phạm vi BH. Trong BH con người nói chung và BH học sinh nói riêng, việc xác định được phạm vi BH là rất quan trọng. Nguyên tắc của BH con người là chỉ BH cho những rủi ro có tính chất bất ngờ, không chắc chắn, vì thế phải quy định rõ ràng những rủi ro nào thì được BH, và nhữngh rủi ro nào là không được BH tức là rủi ro bị loại trừ. a. Những rủi ro được BH. Loại rủi ro thứ nhất: Chết do ốm đau, tai nạn, bệnh tật: Khi người được BH bị chết do các nguyên nhân trên, công ty BH sẽ chi trả toàn bộ số tiền BH ghi trên hợp đồng. Đối với mỗi rủi ro công ty BH có những quy định khác nhau trong quy tắc BH, đối với rủi ro tai nạn, tai nạn thuộc phạm vi BH là những tai nạn do một lực bất ngờ, ngoài ý muốn của người được BH, lực này từ bên ngoài tác động lên thân thể người được BH và là nguyên nhân trực tiếp làm cho người được BH bị tử vong. Tai nạn thuộc phạm vi BH bao gồm các yếu tố sau: - Là một lực bất ngờ: đây là những lực không lường trước được, không mong đợi, xảy ra ở một thời điểm chứ không phải là một quá trình. - Ngoài ý muốn: đây là tai nạn mà người được BH không mong muốn xảy ra và không cố ý để xảy ra tai nạn, những tai nạn do vô tình hay sơ ý của người được BH cũng được coi là ngoài ý muốn. - Do một lực bên ngoài tác động: được hiểu là tác động cơ học, lý học, hoá học hay điện năng lên cơ thể người được BH. Trường hợp đặc biệt nếu người được BH tham gia các hành động cứu người bị nạn, cứu tài sản của Nhà nước và nhân dân, tham gia chống các hoạt động phạm pháp như cướp giật, trộm cắp... mà bị chết thì các công ty BH cũng xem xét vào phạm vi được BH. Loại rủi ro thứ hai: Thương tật thân thể do tại nạn: khi người được BH bị thương tật thân thể do tai nạn thì công ty BH sẽ chi trả cho họ một tỷ lệ nhất định dựa trên số tiền BH, tỷ lệ này được quy định trong bảng “tỷ lệ thương tật” do bộ Tài chính ban hành. Ví dụ: Học sinh A tham gia BH ở công ty Bảo Việt Hà nội, trong thời hạn BH học sinh A do không may bị tai nạn thuộc phạm vi BH dẫn đến thương tật bộ phận thì học sinh đó sẽ được Bảoh Việt Hà nội chi trả số tiền bồi thường = tỷ lệ thương tật * số tiền BH. - Loại rủi ro thứ ba: Trợ cấp nằm viện do ốm đau, tai nạn, bệnh tật: Khi người được BH phải năm viện điều trị do các nguyên nhân trên sẽ được công ty BH chi trả trợ cấp cho số ngày nằm viện với một tỷ lệ nhất định dựa trên số tiền BH trong hợp đồng trên một ngày nằm viện, tuy nhiên với số ngày giới hạn theo quy định trong hợp đồng. Những rủi ro ốm đau, bệnh tật phát sinh trong thời gian được BH mới thuộc phạm vi BH, trong trường hợp người được BH nằm viện do những bệnh tật đã có từ trước khi tham gia BH thì cũng không được chi trả tiền BH. Ví dụ: Học sinh B tham gia BH ở Bảo Việt Hà Tây trong thời hạn BH học sinh đó bị ốm phải nằm viện thì học sinh đó sẽ được trả trợ cấp nằm viện như sau: - Nếu học sinh đó nằm viện đông y, khoa đông y bệnh viện đa khoa thì học sinh đó sẽ được chi trả 0,3% số tiền BH/ ngày nằm viện. - Nếu học sinh đó nằm viện tây y thì học sinh đó sẽ được chi trả là 0,5% số tiền BH/ ngày nằm viện. Cả hai trường hợp trên số ngày nằm viện đều giới hạn số ngày trợ cấp nằm viện là không quá 60 ngày/ năm Loại thứ rủi ro thứ tư: trợ cấp phẫu thuật do ốm đau, bệnh tật. Trường hợp người được BH phải phẫu thuật do ốm đau, bệnh tật sẽ được công ty BH trợ cấp với số tiền dựa theo bảng tỷ lệ trả tiền phẫu thuật. Trường hợp người được BH phải phẫu thuật do tai nạn thì không được chi trả tiền BH vì đã được chi trả trong BH tai nạn. b. Những rủi ro loại trừ: Khi người được BH bịnhững rủi ro sau đây thì sẽ không được công ty BH chi trả tiền BH. Thứ nhất: Hành động cố ý của người được BH hoặc người thừa kế hợp pháp. Trong trường hợp người được BH cố ý gây thương tích cho mình để nhận tiền BH hoặc người thừa hưởng quyền lợi BH của người được BH gây thiệt mạng cho người được BH để nhận tiền chi trả BH của công ty BH thì công ty BH hoàn toàn có thể từ chối trả tiền BH. Với những quy định loại trừ này để tránh hiện tượng trục lợi BH và những hành vi phạm pháp. Thứ hai: người được BH bị ảnh hưởng của rượu, bia, ma tuý dẫn đến thiệt mạng, thương tật một cách trực tiếp hay gián tiếp đều không được công ty BH chi trả tiền BH. Thứ ba: Người được BH là học sinh cấp từ cấp II trở lên vi phạm nghiêm trọng pháp luật, các quy định khác của chính quyền địa phương hoặc nội quy của nhà trường và luật lệ an toàn giao thông. Những thiệt hại xảy ra do những rủi ro của hành động trên gây ra thì không được công ty BH chi trả tiền BH vì những học sinh này đã đủ nhận thức được hành vi của mình là sai trái, không đúng pháp luật hay quy định của nhà trường. Thứ tư: Người được BH bị ngộ độc thức ăn, thức uống, hay ngửi phải khí độc hại... Thứ năm: Người được BH điều trị hoặc phẫu thuật theo yêu cầu riêng của mình. Thứ sáu: Người được BH điều trị hoặc phẫu thuật những bệnh bẩm sinh sẵn có hoặc những thương tật hay chỉ định phẫu thuật trước ngày tham gia BH. Thứ bảy: Người được BH đi tạo hình thẩm mỹ, chỉnh hình, phục hồi chức năng, làm chân tay giả, mắt giả, răng giả... Thứ tám: rủi ro do động đất, chiến tranh, nhiễm phóng xạ, núi lửa, đình công. 3. Số tiền BH, phí BH. 3.1. Số tiền BH. Trong BH học sinh, số tiền BH là mức trách nhiệm cao nhất mà bảo công ty BH cam kết chi trả cho người được BH khi xảy ra sự kiện BH thuộc phạm vi BH, nhưng đây không phải là sự biểu hiện giá trị của người được BH. Nhà BH chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi số tiền BH mà hai bên cam kết. Thông thường, khi giao kết hợp đồng BH học sinh, các bên trong hợp đồng sẽ có sự thoả thuận để ấn định số tiền BH, hoặc có thể do người BH đưa ra mức cố định tuỳ theo từng loại hình BH và hình thức của hợp đồng. Khi người được BH không may gặp phải những rủi ro như tai nạn, ốm đau, bệnh tật thuộc phạm vi BH thì nhà BH sẽ chi trả dựa trên cơ sở mức độ thiệt hại và số tiền BH nhưng số tiền BH không vượt quá mức trách nhiệm giới hạn của công ty BH. Nếu tổn thất xảy ra đối với người được BH mà vượt quá giới hạn trách nhiệm đó thì người được BH phải chịu phần đó. Loại hình BH học sinh là loại hinh BH tự nguyện, do vậy tùy theo nhu cầu và khả năng tài chính của gia đình các em học sinh mà nhân viên đại lý hay cộng tác viên tư vấn cho họ nên tham gia mức tiền là bao nhiêu là hợp lý nhất, phù hợp với họ nhất. Vì thế, việc nhà BH chia ra thành nhiều mức trách nhiệm khác nhau là rất cần thiết để đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, phù hợp với từng đối tượng. Số tiền BH lớn thì trách nhiệm của công ty là lớn đồng nghĩa với việc người tham gia BH phải thanh toán với mức phí BH cao hơn. Nếu mức trách nhiệm quá thấp thì sẽ không hấp dẫn đối với những đối tượng có nhu cầu lớn, thu nhập cao, hoặc đưa ra mức trách nhiệm quá cáo thì sẽ không đáp ứng được đối với những gia đình khó khăn do phải đóng mức phí quá cao, và cũng dễ dẫn đến tình trạng trục lợi BH. Tuỳ thuộc vào sự phát triển kinh tế, thu nhập của dân cư ở khu vực nào mà công ty BH thiết kế những sản phẩm BH cho phù hợp nhất, thông thường ở các thành phố lớn, nơi người dân có thu nhập cao, sự quan tâm đến con cái của họ là lớn hơn vì vậy công ty BH nên thiết kế những sản phẩm BH có số tiền BH lớn hơn đáp ứng được khả năng thanh toán phí BH., còn đối với khu vực nông thôn thì nên thiết kế sản phẩm có số tiền BH thấp hơn, phù hợp với khả năng tài chính của người tham gia. Hiện nay, trong nghiệp vụ BH học sinh, Công ty BH Hà tây chủ yếu triển khai những sản phẩm BH kết hợp học sinh với số tiền BH từ 1.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng /người/vụ. Tuỳ theo nhu cầu của người tham gia và tình hình kinh tế của từng địa phương hay khả năng tài chính của từng gia đình mà các Công ty chi nhánh triển khai các mức trách nhiệm phù hợp nhất. Số tiền BH ngoài căn cứ vào nhu cầu của người tham gia còn dựa trên mức độ xảy ra tổn thất của các rủi ro hay xác suất xảy ra rủi ro. 3.2. Phí BH. Phí BH trong nghiệp vụ BH học sinh là số tiền mà người tham gia BH phải thanh toán cho công ty BH để đổi lại những quyền lợi BH khi không may người được BH xảy ra rủi ro tai nạn, ốm đau, bệnh tật... Mức phí BH phụ thuộc chủ yếu vào số tiền BH. Với số tiền tham gia BH lớn thì mức phí sẽ cao và ngược lại số tiền BH thấp thì mức phí sẽ thấp hơn. Ngoài ra phí BH học sinh còn thiết kế sao cho phù hợp với từng đối tượng tham gia, ở khu vực dân cư khác nhau có thu nhập khác nhau để tạo điều kiện cho đông đảo mọi người đều có thể tham gia cho con em mình, vừa tạo ra sự công bằng trong xã hội cũng như tuân theo nguyên tắc trong BH con người đó là “số đông bù số ít”. Công tác định phí BH có ý nghĩa quan trọng đối với việc triển khai nghiệp vụ BH học sinh, công ty BH phải định phí sao cho phù hợp với khả năng đóng phí của các gia đình có hoàn cảnh khó khăn, đồng thời cũng phải đảm bảo đủ số tiền chi trả cho các khiếu nại phát sinh, chi cho các hoạt động khác như : chi đề phòng hạn chế tổn thất, chi hoa hồng cho đại lý, chi cho hoạt động quản lý...Do vậy để định phí có hiệu quả cần có đội ngũ cán bộ giỏi, có kinh nghiệm làm công tác này, cần phải tăng cường công tác thống kê, tính toán hợp lý để đưa ra các mức phí phù hợp vừa hấp dẫn với khách hàng vừa nâng cao được khả năng cạnh tranh của công ty. Về kết cấu, phí BH học sinh bao gồm hai phần đó là phí thuần và phụ phí. - Phí thuần (f): là phần phí dùng vào mục đích chi trả tiền BH cho người được BH khi xảy ra tổn thất thuộc phạm vi BH. Phí thuần phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhìn chung các công ty BH dựa vào hai yếu tố sau để xác định phí thuần: đó là xác suất rủi ro và mức độ chi trả trung bình trên một vụ. Trong đó, xác suất rủi ro được xác định bằng tỷ lệ giữa số học sinh tham gia BH bị tai nạn, bệnh tật, ốm đau trong năm trên tổng số học sinh tham gia BH trong năm đó. Nếu xác suất này là lớn thì mức phí BH sẽ phải cao và ngược lại, thông qua xác suất rủi ro này mà công ty có các biện pháp thích hợp để đề phòng hạn chế tổn thất được hiệu quả. Chi phí trung bình trong một vụ được xác định bằng tổng chi phí chi trả cho các vụ tổn thất trong một số năm nghiên cứu chia cho tổng số vụ tổn thất của các năm đó. Để tính chính xác được mức chi trả trung bình của một vụ tổn thất thì phải có số liệu thống kế thất chính xác, và sử dụng số liệu của nhiều năm để thấy được xu hướng biến động của rủi ro cũng như mức độ thiệt hại thực tế của mỗi vụ tai nạn. Từ hai chỉ tiêu này mà công ty BH có thể tính được mức phí thuần của nghiệp vụ BH học sinh. Phí thuần= Xác suất rủi ro * Chi phí trung bình cho một vụ. - Phụ phí BH học sinh (d): Là khoản phụ phí cần thiết để người BH đảm bảo cho các khoản chỉ hoạt động nghiệp vụ. Phụ phí được xác định dựa trên các khoản sau: + Chi đề phòng và hạn chế tổn thất. + Chi hoạt động quản lý. + Chi hoa hồng đại lý. + Chi lập quỹ dự trữ, dự phòng. + Các khoản chi khác. Thông thường phụ phí BH được xác định theo tỷ lệ phần trăm của phí toàn phần. Từ phí thuần và phụ phí ta tính được phí toàn phần. Phí toàn phần = Phí thuần + Phụ phí P= f+ d. Một thực tế là việc định phí BH đòi hỏi nhiều số liệu và kỹ thuật tính toán phức tạp. Vì vậy khi triển khai thì công ty BH thường tính sẵn biểu phí và STBH cho mỗi loại rủi ro để khi khai thác, các đại lý và các cộng tác viên có thể xác định phí một cách dễ dàng dựa trên STBH và tỷ lệ phí BH. Phí BH= STBH*tỷ lệ phí Ví dụ: Công ty BH Hà Tây triển khai loại hình BH tai nạn học sinh. STBH=2000.000 đồng, tỉ lệ phí=0,2%. Phí BH= 2000.000 * 0,2% = 4.000 đồng. 4. Hợp đồng BH học sinh. a. Khái niệm, đặc điểm và nội dung của hợp đồng BH học sinh. * Khái niệm: Hợp đồng BH học sinh là sự thoả thuận giữa bên mua BH ( cha mẹ của học sinh) và bên BH( các công ty BH ), theo đó bên BH phải chi trả tiền BH cho bên mua BH nếu trong thời hạn của hợp đồng người được BH không may xảy ra rủi ro thuộc phạm vi của BH, đổi lại công ty BH có quyền thu phí BH của bên tham gia BH. * Đặc điểm của hợp đồng BH - Trong hợp đồng BH học sinh có thể chỉ có sự thoả thuận của hai bên công ty BH( bên BH) và gia đình của học sinh( bên mua BH) còn có thể có sự liên quan của nhà trường, hội cha mẹ học sinh. - Hợp đồng BH học sinh BH cho những đối tượng BH là t._.ọc sinh vào danh sách để đến lúc học sinh bị tai nạn nhà trường mới phát hiện ra, gây khó khăn cho công tác bồi thường chi trả tiền BH ảnh hưởng đến quyền lợi của người bị nạn. Việc chuyển hồ sơ của học sinh bị rủi ro từ nhà trường đến các phòng BH còn kéo dài dẫn đến công tác thanh toán và trả tiền BH cho học sinh còn chậm ảnh hưởng đến uy tín của Công ty và công tác khai thác BH. - Tình hình lợi dụng sơ hở của cơ quan ytế, trường học, chính quyền địa phương…để khi xác nhận thương tích và chứng nhận ốm đau vẫn còn. Còn nhiều trường hợp xin đơn thuốc khống để làm hồ sơ giả nhằm trục lợi BH. Việc xác nhận nguyên nhân gây ra tai nạn của chính quyền ở một số địa phương còn chưa được chặt chẽ dẫn đến nhiều trường hợp rủi ro không thuộc phạm vi BH nhưng do xác nhận đó thì lại thuộc phạm vi trả tiền BH. Việc nộp hồ sơ, lĩnh tiền và chi trả tiền BH cho các cộng tác viên ở một số trường lĩnh tiền bồi thường không chi trả kịp thời làm ảnh hưởng đến uy tín của hai ngành Giáo dục và BH. - Tại một số huyện, thị, xã và nhà trường chưa thực sự quan tâm đên công tác BH cũng như quyền lợi BH sinh nhất là cấp học Mầm non. Ở một số huyện thì giữa chính quyền địa phương và nhà trường chưa có sự phối hợp chặt chẽ với các Phòng BH của huyện trong việc triển khai công tác BH hoặc khi giải quyết quyền lợi BH cho học sinh thì coi đó như là trách nhiệm của riêng Công ty Bảo Việt Hà Tây. - Vào dịp hè, các em học sinh được nghỉ học, vui chơi ngoài sự quản lý của Nhà trường nên số vụ tai nạn tăng lên nhất là các trường hợp chết đuối. Nguyên nhân cơ bản là do các em chưa được hướng dẫn tổ chức sinh hoạt hè, tự vui chơi nên xảy ra tai nạn đáng tiếc. - Sự hiểu biết của người tham gia BH đôi khi còn hạn chế nên việc giải quyết khiếu nại gặp nhiều khó khăn. Có những trường hợp không thuộc phạm vi BH nhưng khách hàng vẫn làm hồ sơ gửi tới phòng, khi bị từ chối đã thất vọng và hiểu nhầm môt cách đáng tiếc cho răng BH là không có tác dụng nhất là trường hợp xảy ra rủi ro thuộc phạm vi nghiêm trọng luật giao thông, do có sẵn bệnh lý, bệnh đặc biệt trong năm đầu tiên tham gia BH hoặc bị rủi ro trước khi tham gia BH. - Số cán bộ của một số Phòng thiếu nên một cán bộ phải kiêm nhiều công việc. Điều đó đã ảnh hưởng đến chất lượng và năng suất công việc của cán bộ trong Phòng và chất lượng phục vụ khách hàng. Do vậy cũng ảnh hưởng đến công tác triển khai nghiệp vụ BH học sinh tại Công ty nhất là khâu giám định. Phương hướng của công ty trong thời gian tới. 1. Dự báo tình hình kinh tế địa phương Năm 2007, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO, đây là cơ hội, là điều kiện để Việt Nam hội nhập rộng rãi với nền kinh tế thế giới, dự báo tình hình phát triển kinh tế của nước ta sẽ có tốc độ tăng trưởng nhanh, cùng với cả nước, Hà Tây đang trên đà phát triển nhanh, sau nhiều năm trăn trở, tự đổi mới mình trong tiến trình hội nhập. Những tín hiệu đáng mừng trong những tháng cuối năm 2006. Đó là: Hà Tây đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, các chỉ tiêu kinh tế xã hội đều đạt kế hoạch, thu hút đầu tư đạt trên 1 tỷ USD, bằng tổng số vốn đầu tư cộng cả các năm 2005 về trước, tình hình an ninh chính trị và trật tự xã hội giữ vững, là cơ sở, tiền đề để Đảng bộ, Nhân đân Hà Tây thực hiện thắng lợi nghị quyết đại hội XIV Đảng bộ tỉnh Hà Tây và cũng chính là những yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh doanh của Công ty BH Hà Tây. 2. Dự báo tình hình cạnh tranh và doanh thu BH. Năm 2007, trên địa bàn có thêm một Công ty BH Toàn cầu tham gia kinh doanh, cùng với sự mở cửa trong tiến trình hội nhập, tình hình cạnh tranh trên địa bàn chắc chắn sẽ sôi động và càng gay gắt hơn. Về nhóm các nghiệp vụ BH hoả hoạn và rủi ro kỹ thuật, mức độ phát triển trên địa bàn thấp, các khách hàng có vốn đầu tư nước ngoài thường lựa chọn các nhà BH lớn có uy tín trên thị trường quốc tế. Các dự án xây lắp, giao thông chưa chú trọng trong việc tham gia BH, khi tham gia thường đưa ra nhiều yêu cầu khó khăn trong việc chấp nhận BH. Trong nhóm nghiệp vụ này, Công ty chú trọng tập trung phát triển khai thác BH cháy nổ bắt buộc, đây là nghiệp vụ phức tạp, khách hàng chưa hiểu biết nhiều, mức độ cạnh tranh cao, nhưng tiềm năng rất lớn. Mặt khác, cần mở rộng kinh doanh ngoài địa bàn để đảm bảo mục tiêu tăng trưởng doanh thu từ nhóm nghiệp vụ này là 10% Nhóm BH xe cơ giới, với sự phát triển kinh tế chắc chắn số lượng và chất lượng xe tăng cao. Mặt khác, đây là những nghiệp vụ truyền thống có tỷ trọng doanh thu lớn, Công ty có mối quan hệ rộng, mạng lưới phục vụ đông đảo, phủ kín địa bàn, có uy tín phục vụ và kinh nghiệm nhiều năm. Những nghiệp vụ này, các doanh nghiệp BH cạnh tranh bằng chính sách giảm phí và nâng cao chi phí khai thác. Công ty cần tập trung các nguồn lực để phát triển các nghiệp vụ này, đảm bảo bù đắp sự thiếu hụt trong BH xe môtô và có tăng trưởng trên 5%. Nhóm nghiệp vụ BH con người, đây là những nghiệp vụ có tiểm năng lớn, ngoại trừ BH học sinh các nghiệp vụ còn lại ít có sự cạnh tranh. Công ty tập trung nghiên cứu, đề xuất Bảo Việt Việt Nam cải tiến sản phẩm, đảm bảo vừa tăng sức thu hút khách hàng vừa đảm bảo hiệu quả kinh doanh. BH học sinh chắc chắn phải chia sẻ một phần, nhiệm vụ đặt ra của Công ty là phải đẩy mạnh khai thác BH học sức khoẻ người lao động cải tiến sản phẩm BH học sinh, nhằm bù đắp và đảm bảo có tăng trưởng từ các nghiệp vụ này trên 10% 3. Dự kiến tình hình bồi thường và chi phí quản lý Năm 2007, với quyết tâm đẩy mạnh cải tiến sản phẩm, tăng cường công tác quản lý rủi ro, tăng cường công tác giám định. Công tác dự kiến và đưa vào chỉ tiêu phấn đấu giảm 5% tỉ lệ Thu/ Chi. Do tình hình cạnh tranh ngày càng quyết liệt, việc đầu tư cho công tác, tuyên truyền, quảng cáo và chi phí khai thác cần tăng cường nhiều hơn, dự báo chi phí quản lý của Công ty năm 2007 sẽ tương đương năm 2006. 4. Dự kiến hiệu quả tổng thể. Với kế hoạch phấn đấu tăng trưởng doanh thu 8%, giảm tỷ lệ bồi thường 5%, triệt để tiết kiệm chi phí. Dự kiến hiệu quả tổng thể( theo quy ước) của Công ty năm 2007 sẽ đạt trên 6 tỷ đồng. 5. Những mục tiêu, định hướng. - Là doanh nghiệp BH có doanh thu và chiếm thị phần lơn nhất, có chất lượng phục vụ cao và khác biệt so với các công ty BH khác trên địa bàn. - Đảm bảo phát triển bển vững, tăng trưởng ổn định và có hiệu quả ( theo quy ước) cao hơn mức trung bình trong toàn hệ thống Bảo Việt - Tăng cường nghiên cứu, phát triển và áp dụng đa dạng các sản phẩm, cung cấp các sản phẩm, dịch vụ mới. Thực hiện phương châm “ Bất cứ sản phẩm BH phi nhân thọ nào được cung cấp tại Việt Nam, sản phẩm đó được cung cấp ở Bảo Việt”. - Tạo môi trường làm việc tốt nhất, mức thu nhập cao nhất cho cán bộ CNV, khuyến khích sự sáng tạo và phát triển của mọi nhân viên. - Đẩy mạnh công tác quản lý chất lượng, mọi hoạt động được thực hiện theo tiêu chuẩn thống nhất trên toàn hệ thống Bảo Việt Việt Nam.( ISO 9001:2000). - Doanh thu tăng trưởng 8% giảm tỷ lệ chi bồi thường 5%, hiệu quả kinh doanh đạt trên 6 tỷ đồng. 6. Một số đề xuất hỗ trợ từ Bảo Việt Việt Nam. - Tăng cường công tác tuyên truyền quảng cáo, cho phép và hỗ trợ kinh phí để Bảo Việt Hà Tây đạt 5 biển quảng cáo tấm lớn tại cac điểm đô thị, khu công nghiệp tẩp trung đông người. - Hỗ trợ Công ty trong việc cải tiến các sản phẩm BH con người, trước hết là hoàn thiện sản phẩm “BH sức khoẻ cho người lao động”, cải tiến sản phẩm BH học sinh để tiến tới đại lý chuyên nghiệp khai thác sản phẩm này, giảm sức ép từ các đơn vị liên quan. - Xây dựng các chương trình ứng dụng quản lý nghiệp vụ, đảm bảo đồng bộ phục vụ cho công tác quản lý thống kê và giảm thiểu thời gian lao động, tăng cường độ chính xác. CHƯƠNG III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC BHHS Ở CÔNG TY BẢO VIỆT HÀ TÂY. I. Kiến nghị với nhà nước: Để có môi trường kinh doanh BH lành mạnh và sự công bằng cho các công ty BH, Nhà nước cần phải: - Hoàn thiện quy định của pháp luật về hoa hồng BH trong hoạt động đại lý BH. Quy định về hoa hồng BH cần dựa trên sự xem xét nội dung hoạt động đại lý BH. Quy định của pháp luật về hoạt động đại lý BH đã tạo điều kiện cho hoạt động đại lý BH trên thực tế phát triển theo hướng chuyên môn hoá. Do đó, hoa hồng BH cũng cần phải được xem xét trên cơ sở từng nội dung công việc của hoạt động đại lý BH. - Nâng cao trình độ cán bộ quản lý nhà nước về lĩnh vực BH: nâng cao trình độ cho cán bộ quản lý là điều mấu chốt bởi cán bộ quản lý có trình độ thì mới có thể có những quyết sách đúng đắn. Có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng quản lý chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học và kiến thức phù hợp với từng loại, từng cấp cán bộ quản lý nhà nước về kinh doanh BH. Xây dựng quy hoạch cán bộ đủ về số lượng, cơ cấu hợp lý được trang bị đủ kiến thức chuyên môn nghiệp vụ. - Phát triển thương mại điện tử: thương mại điện tử hiện đang là một kênh phân phối sản phẩm BH vừa thuần lợi, nhanh chóng dễ dàng, chính xác, tiết kiệm. Vì vậy trong thời gian tới nhà nước cần có thêm những trợ giúp các doanh nghiệp BH trong việc nghiên cứu ứng dụng phân phối này để các doanh nghiệp có thể thông tin về công ty và về nghiệp vụ một cách rộng rãi cho người tham gia BH và cơ quan quản lý nhà nước về kinh doanh BH không chỉ trong thị trường trong nước mà còn ra thị trường quốc tế. - Nâng cao vai trò của hiệp hội BH Việt Nam: khi thị trường BH trong nước đang bắt đầu phát triển thì sẽ khó tránh khỏi những hiện tượng phá rào của các công ty BH. Để giảm thiểu những thiệt hại không đáng có thì cần phải có một tổ chức của các công ty BH. Tổ chức này sẽ phối hợp cùng với các cơ quan quản lý nhà nước trong việc định hướng sự phát triển của toàn thị trường. Hiện tại thì thị trường BH Việt Nam, Hiệp Hội BH Việt Nam đã và đang đảm nhận tốt vai trò đó.Trong thời gian tới cần nâng cao vai trò của Hiệp Hội BH Việt Nam, tăng cường sự hợp tác của các doanh nghiệp trong Hiệp Hội, duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh Trong thời gian tới các doanh nghiệp BH cần phải mở rộng phạm vị hợp tác trên nhiều lĩnh như việc thành lập một hệ thống thông tin toàn thị trường làm cơ sở để đánh giá rủi ro, tính phí BH, hệ thống phân tích và kiểm soát tổn thất, hợp tác trong việc phối hợp cùng giải quyết tai nạn, hợp tác trong việc đồng BH, tái BH, trợ giúp kỹ thuật, đào tạo để có thể nâng cao năng lực thực hiện BH cho các thành viên. Xây dựng cơ chế phối hợp và cơ chế kiểm soát trong việc thực hiện các thoả thuận giữa các hội viên và có báo cáo cơ quan nhà nước về kinh doanh BH kịp thời xử lý các hành vi phạm pháp về kinh doanh BH cũng như việc không tuân thủ các quy chế hợp tác. - Nhà nước tạo điều kiện và khuyến khích các doanh nghiệp BH trong nước hợp tác với các doanh nghiệp BH nước ngoài để học hỏi kinh nghiệm. - Những công ty BH còn non yếu Nhà nước có những chính sách hỗ trợ, giúp đỡ về thuế, lãi suất. Xây dựng thêm khu vui chơi giải trí cho học sinh, có chính sách ưu đãi đối với những gia đình có hoàn cảnh khó khăn như ưu đãi về học phí, cấp thẻ BH học sinh. II. Kiến nghị với Tổng công ty BH Việt Nam. Công ty Bảo Việt Hà Tây là một trong những Công ty trực thuộc của Tổng công ty BH Việt Nam, vì vậy Bảo Việt Hà Tây hoạt động theo định hướng, kế hoạch phát triển chung của Tổng công ty BH Việt Nam, hơn nữa uy tín và hình ảnh của Tổng công ty cũng ảnh hưởng rất lớn đối với các công ty trực thuộc trong quá trình triển khai các nghiệp vụ BH, tuy nhiên công ty BH Hà Tây ngoài việc phải phát triển theo định hướng chung của tổng công ty thì vẫn phải có kế hoạch, đường lối phát triển chủ động phù hợp với đặc điểm tình hình thị trường BH trên địa bàn tỉnh Hà Tây. Để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh BH của Bảo Việt Hà tây trong thời gian tới thì sự phối hợp chặt chẽ của Tổng công ty BH Việt là rất quan trọng, cần có những giải pháp sau: - Tổng công ty BH Việt Nam phải có chiến lược đầu tư hiệu quả hơn nữa, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh từ đó sẽ ảnh hưởng tới sự phát triển của các công ty trực thuộc trong đó có Bảo Việt Hà tây. - Tổng công ty BH Việt Nam đã trở thành Tập đoàn tài chính BH. Vì vậy Tổng công ty cần phải nâng cao hơn nữa việc quảng bá hình ảnh, nâng cao uy tín của mình, từ đó góp phần tạo điều kiện cho Bảo Việt Hà Tây dễ dàng trong công tác khai thác BH. - Tổng công ty có chính sách hỗ trợ, thường xuyên tổ chức những lớp tập huấn để nâng cao trình độ chuyên môn của nhân viên Bảo Việt Hà Tây. - Ban lãnh đạo Tổng công ty phải phối hợp chặt chẽ với ban lãnh đạo Bảo Việt Hà tây để đưa ra những chiến lược phát triển, có kế hoạch khai thác cũng như công tác đề phòng hạn chế rủi ro được hiệu quả. - Hỗ trợ Công ty trong việc cải tiến các sản phẩm BH con người, trước hết là hoàn thiện sản phẩm “BH sức khoẻ cho người lao động”, cải tiến sản phẩm BH học sinh để tiến tới đại lý chuyên nghiệp khai thác sản phẩm này, giảm sức ép từ các đơn vị liên quan. - Xây dựng các chương trình ứng dụng quản lý nghiệp vụ, đảm bảo đồng bộ phục vụ cho công tác quản lý thống kê và giảm thiểu thời gian lao động, tăng cường độ chính xác. III. Kiến nghị với Bảo Việt Hà tây. Với những kiến thức về BH học sinh và qua thời gian tìm hiểu tình hình thực tế của nghiệp vụ BH học sinh ở Bảo Việt Hà tây, em xin có một vài ý kiến để có thể góp phần đẩy mạnh công tác BH học sinh. 1. Đối với công tác khai thác. - Công ty cần tranh thủ sự ủng hộ của các cấp Uỷ Đảng, chính quyền địa phương, phối hợp chặt chẽ với ngành Giáo dục làm tốt công tác tuyên truyền, thúc đẩy công tác khai thác. Hàng năm khi bắt đầu năm học mới thì bằng các biện pháp và các mối quan hệ, Công ty nên có một chỉ thị hoặc công văn của Đảng uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh chỉ đạo riêng về việc triển khai công tác BH học sinh. Từ đó, Công ty nên bố trí hoặc tổ chức cán bộ có năng lực đi từng huyện từng xã để làm việc vớib từng lãnh đạo chủ chốt như bí thư, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, xã, thị trấn để tranh thủ sự ủng hộ của họ. - Tài trợ cho các chương trình của nhà trường, thường xuyên tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về BH để nâng cao nhận thức của người dân trong tỉnh về BH cho học sinh, có các phần thưởng xứng đáng cho những em có hành động dũng cảm cứu người, cứu tài sản. - Xây dựng mối quan hệ chặt chẽ với các cộng tác viên nhằm nâng cao sự ủng hộ nhiệt tình từ phía họ. Trong thực tế, đội ngũ cộng tác viên BH ở các nhà trường có vai trò rấbt quan trọng trong việc triển khai BH học sinh ở các trường học. Họ là những người tham mưu đắc lực cho Ban giám hiệu nhà trường định hướng tham gia BH ở công ty nào, ngoài ra họ là những người nắm thông tin ở các trường tốt nhất. - Nâng cao hiểu biết của đại lý, cộng tác viên về BH học sinh: đầu năm học công ty nên mở lớp tập huấn cho Đại lý giúp họ nắm chắc hơn về nội dung của BH học sinh, thông qua đó họ có thể tuyên truyền tới Phụ huynh học sinh. Đồng thời, thông qua đó Công ty lắng nghe sự đóng góp ý kiến của đại lý, phản ánh những ý kiến của cha mẹ học sinh về BH học sinh, từ đó rút kinh nghiệm, ngày càng nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng để phát triển. - Nâng cao lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần cho các đại lý: đây là một phần trong chiến lược nâng cao chất lượng, phục vụ của Bảo Việt Hà tây. Để làm được điều này, Bảo Việt Hà tây cần nâng cao lợi ích cho các đại lý. Tỷ lệ hoa hồng đại lý có sự khống chế của Bộ tài chính, những Công ty có cơ chế khuyến khích đại lý hăng hái, nhiệt tình sẽ thu được kết quả cao, thông qua hình thức khen thưởng dựa trên số lượng, học sinh tham gia BH. - Công ty có thể xây dựng quỹ khen thưởng cho các em học sinh tham gia BH đạt thành tích cao trong học tập: như đạt thành tích học sinh giỏi toàn diện, học sinh giỏi cấp tỉnh, học sinh giỏi cấp quốc gia, những học sinh nghèo vượt khó… - Tăng cường mối quan hệ với khách hàng: Nếu trường nào có số học sinh tham gia BH lớn với tỷ lệ tham gia cao, cũng như mức độ rủi ro thấp thì Công ty cần phải có chính sách giảm phí BH học sinh cho trường đó, ngoài ra trích phần trăm phí BH thu được để Nhà trường xây dựng thêm khu vui chơi giải trí cho các em hoặc trang bị thêm, một số thiết bị giảng dạy và học tập cho giáo viên và học sinh. Từ đó có thể giúp các bậc phụ huynh nhận thấy ý nghĩa nhân đạo và sự đóng góp của Công ty BH đối với trường học. - Mở rộng thời gian khai thác, công ty có thể triển khai làm hai đợt vào đầu năm học và đầu học kỳ hai của năm học đó, vìvào đầu năm học do các gia đình phải trang trải nhiều chi phí cho các em để bước vào năm học mới nên gặp khó khăn để mua BH cho các em, đặc biệt là gnhững gia đình có hoàn cảnh khó khăn. Vì vậy công ty cần mở thêm đợt khai thác vào đầu học kỳ II để những gia đình nào chưa mua BH cho con em mình thì có thể mua, đồng thời có biện pháp hỗ trợ về phí BH cho những gia đình có nhu cầu mua BH những không đủ khả năng đóng phí BH. 2. Công tác đề phòng hạn chế tổn thất. Công tác này rất quan trọng ảnh hưởng lớn đến hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ và uy tín của Công ty. Để làm tốt hơn công tác này Công ty cần: Phối hợp chặt chẽ hơnm nữa với ngành ytế hướng dẫn cho các em học sinh tự biết chăm lo cho bản thân mình, khuyến khích các trường lập ra hội chữ thập đỏ, hướng dẫn công tác phòng bệnh đến từng lớp học từng em học sinh. Đầu tư thêm tài chính để thực hiện tốt hơn công tác đề phòng hạn chế tổn thất như xây dựng các biển báo ở những nơi nguy hiểm, xây dựng thêm khu vui chơi giải trí cho các em học sinh… Phối hợp với ngành Giáo dục và ngành công an có những giờ giảng dạy về luật an toàn giao thông cho các em học sinh để các em nâng cao ý thức chấp hành luật lệ giao thông khi đi trên đường. Vào những dịp nghỉ hè, thời điểm mà các em không được sự quản lý của Nhà trường, vì vậy có nhiều rủi ro xảy ra. Nên Bảo Việt Hà Tây phải phối hợp chặt chẽ hơn với các nhà trường, các gia đình, chính quyền địa phương, các tổ chức đoàn thể Tuyên truyền cho các em sinh hoạt hè lành manh an toàn tránh những hoạt động nguy hiểm. Khen thưởng cho những cá nhân và tập thể có những cố gắng trong việc đề phòng hạn chế tổn thất đạt hiệu qủa. Khen thưởng cho những học, sinh dũng cảm cứu người bị nạn, cứu tài sản. 3. Công tác giám định. - Tăng cường nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ giám định như mở các đợt tập huấn về nghiệp vụ, thường xuyên trao đổi rút kinh nghiệm. - Công ty nên tăng chi phí hỗ trợ cho, các giám định viên để họ có kinh phí cho hoạt động chuyên môn của mình. - Cũng phải vốn kiến thức về yhọc cho các giám định viên để họ có thể xem xét những trường hợp khiếu nại có đúngthực tế hay không. - Công ty cũng cần phải tuyển dụng thêm những cán bộ giám định có trình độ chuyên môn thực sự, chuyên nghiệp, nhiệt tình để đảm bảo chất lượng của khâu giám định. - Có chính sách khen thưởng cho những giám định viên có sự nỗ lực cao, làm tốt nghiệp vụ. 4. Công tác chi trả tiền BH. - Phối hợp chặt chẽ với các đại lý thực hiện việc xác minh hồ sơ ngay từ dưới cơ sở và hướng dẫn gia đình các em học sinh bị rủi ro làm thủ tục thanh toán tiền BH một cách đầy đủ và chính xác. Tránh tình trạng hồ sơ phải làm lại nhiều lần do nhầm lẫn gây cảm giác phiền hà cho người tham gia BH. - Đơn giản thủ tục giấy tờ để giúp cho việc chi trả tiền BH được nhanh chóng thuận tiện. - Đối với những trường hợp gây khó khăn cho công tác chi trả tiền BH của cán bộ công ty, Công ty cần phải có những biện pháp xử lý nghiêm khắc. - Phối hợp chặt chẽ hơn nữa với ngành công an, ngành ytế, và các nhà trường để làm tốt công tác xác minh hồ sơ, tránh chi trả sai, góp phần đảm bảo sự công bằng và quyền lợi cho người tham gia BH. - Khi trả tiền BH cán bộ Chuyên môn phải giải thích cho các đại lý về quyền lợi của các em học sinh trong từng trường hợp cụ thể, giúp cho đại lý giải thích cho gia đình các em được chính xác và rõ ràng, tránh những Khiếu nại thắc mắc sau nay, làm giảm uy tín của công ty. - Công ty tổ chức những buổi tập huấn cho cán bộ làm công tác này, thường xuyên có những trao đổi, rút kinh nghiệm để nâng cao hiệu quả của nghiệp vụ. 5. Đào tạo và nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ: cùng với sự phát triển của đơn vị thì công tác đào tạo ở Bảo Việt Hà Tây cũng cần phải được duy trì thường xuyên dù là dưới hình thức nào, đội ngũ cán bộ nghiệp vụ cần phải có những hiểu biết về nghiệp vụ BH để khi khai thác thì mới đạt được hiệu quả cao. Công ty nên có một trung tâm đào tạo hoặc phối hợp với các đơn vị khác hoặc cũng có thể là đào tạo tại chỗ cho cán bộ thường xuyên bởi thị trường BH luôn biến động không ngừng. Để có thể phục vụ khách hàng tốt hơn thì nên Tổ chức các khoá đào tạo nghiệp vụ, hội thảo mời chuyên gia, cử cán bộ đi Học tập nghiên cứu, tổ chức các cuộc họp để cán bộ trong công ty có thể trao đổi giúp đỡ lẫn nhau. Cần tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ để tiến tới từng bước chuẩn hoá đội ngũ cán bộ, đại lý, tổng đại lý và kiện toàn bộ máy hoạt động của công ty. Vấn đề này cần đặc biệt chú trọng bởi Công ty Bảo Việt Hà Tây tuy chỉ là một chi nhánhcủa tổng công ty BH Việt Nam nhưng hoạt động của công ty lại bao phủ một địa bàn khá rộng không chỉ ở Hà Tây mà còn nhiều tỉnh miền bắc, đội ngũ cán bộ trẻ nhiệt tình có khả năng tiếp thu nhiềukinh nghiệm và phát huy được sáng kiến mới. 6. Xây dựng một chiến lược cạnh tranh. Do tình sự xuất hiện của một số công ty BH cùng triển khai nghiệp vụ BH học sinh trên địa bàn tỉnh Hà Tây vì vậy sự cạnh tranh trở lên, ngày càng gay gắt, đòi hỏi Công ty cần phải có chiếnlược cạnh tranh hiệu quả. Một trong các chiến lược cạnh tranh là nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng. Hoạt động kinh doanh BH thực chất là một hoạt động dịch vụ trong lĩnh vực tài chính. Vì vậy khi có khách hàng thì phải phục vụ tốt khách hàng qua đó có thể nâng cao uy tín cho Công ty và tạo sự tín nhiệm trong khách hàng. Trong tình hình cạnh tranh hiện nay, muốn phục vụ tốt khách hàng thì công ty cần phải quan tâm đúng mức tới chính sách khách hàng thể hiện trên các mặt. - Có khoản hoa hồng hợp lý, hấp dẫn trả cho khách hàng, cho Nhà trường. - Đối với những khách hàng tham gia, th ường xuyên, mức độ rủi ro thấp cần phải có chính sách giảm phí BH. - Khi chẳng may xẩy ra sự kiện BH thì phải nhanh chóng có mặt tại hiện trường để khắc phục hậu quả, giám định chính xác, thực hiện thủ tục giải quyết bồi thường nhanh chóng, đây thực sự là sự chia sẻ, an ủi động viên khách hàng khi gặp rủi ro, thái độ phục vụ tận tình chu đáo, tránh thái độ ban ơn thì hiệu quả mới cao. Bởi vì, trên một thị trường có nhiều người phục vụ cho cùng một nhu cầu thì đương nhiên Khách hàng sẽ tìm đến những nơi mà họ được phục vụ tốt hơn khi bỏ ra cùng lượng chi phí như nhau. - Công ty nên duy trì và củng cố các Mối quan hệ cũ và mở rộng các mối quan hệ mới với các đơn vị chưa tham gia BH. - Thường xuyên tổ chức các hội nghị khách hàng, có chính sách ưu đãi đối với những gia đình có hoàn cảnh khó khăn, cấp thẻ BH học sinh cho những gia đình diện chính sách. 7. Xây dựng một hệ thống thông tin hiện đại. Để điều hành doanh nghiệp và hoạt động kinh doanh, bất kỳ doanh nghiệp nào trong đó có DNBH đều phải Tổ chức được hệ thống thông tin của mình, bởi vì chỉ có tổ chức được hệ thống Thông tin thì các DNBH mới có thể: - Thu thập thông tin một cách kịp thời và đầy đủ; - Cung cấp Thông tin một cách nhanh chóng, chính xác; - Bảo đảm được bí mật và an toàn về thông tin cho doanh nghiệp mình. Nhờ vậy các DNBH mới có thể tạo được vị thế cạnh tranh trên thị trường và đạt được hiệu quả kinh doanh. 8. Nâng cao công tác thống kê BH. Công tác thống kê có vai trò cực kỳ quan trọng đối với doanh nghiệp BH. - Tài liệu Thống kê là cơ sở để các DNBH xây dựng được những mục tiêu chiến lược của mình trong hoạt động kinh doanh. - Giúp lãnh đạo ra Quyết định đúng đắn kịp thời. - Số liệu thống kê cùng với số liệu kế toán là cơ sở để phân tích hoạt động kinh doanh. - Số liệu thống kê giúp cho DNBH trong công tác định phí BH. Những ý kiến đóng góp của em trên đây về nghiệp vụ BH học sinh của Công ty Bảo Việt Hà Tây tuy còn nhiều han hẹp nhưng em hy vọng nó sẽ góp phần nhỏ bé vào hiệu quả hoạt động kinh doanh của nghiệp vụ này trong thời gian tới. KẾT LUẬN BH con người nói chung và BH học sinh nói riêng có một vai trò hết sức quan trọng trong việc chăm sóc và bảo vệ cho các em học sinh, sinh viên, thế hệ tương lai của đất nước. BH học sinh đem lại nhiều lợi ích cho các em học sinh, gia đình các em, nhà trường, cho Công ty BH và toàn xã hội. Thực tế cho thấy BH học sinh đã phát huy được vai trò của mình, chỉ có BH học sinh mới thực sự bảo đảm, cho các em học sinh có được sự an toàn nhất để cho các em học tập, và tạo cho gia đình các em ự yên tâm để công tác, lao động sản xuất. Nhận thức được ý nghĩa và vai trò quan trọng của BH học sinh, trong những năm vừa qua, Công ty Bảo Việt Hà Tây đã không, ngừng phát huy những thành tựu đã đạt được, thường xuyên nỗ lực, sáng tạo để nghiệp vụ này thực sự là thế mạnh của Công ty, và đặc biệt là chăm lo cho thế hệ trẻ của Tỉnh được an toàn. Qua thời gian thực tập ở Công ty Bảo Việt Hà Tây, em nhận thấy nghiệp vụ này đã được triển khai rất có hiệu quả trên địa bàn tỉnh Hà Tây, thị phần của nghiệp vụ này của Công ty luôn chiếm trên 80%, là một trong những nghiệp vụ BH đem lại cho, Công ty nhiều doanh thu cũng như lợi nhuận nhất, đặc biệt đã đóng góp to lớn vào sự nghiệp Giáo dục và đào tạo của Tỉnh Hà Tây. Qua thời gian này, em đã học hỏi được rất nhiều kiến thức thực tế phong phú, để bổ sung hỗ trợ cho những kiến thức đã tiếp thu được ở Trường, tạo cho em nền tảng kiến thức vững chắc và một số những kinh nghiệm về BH học sinh để sau này ứng dụng vào làm việc. Qua việc tìm hiểu về nghiệp vụ BH học sinh ở Bảo Việt Hà Tây, em thấy Công ty đã có nhiều nỗ lực cố gắng, đạt được những thành tựu đáng tự hào, tuy nhiên bên cạnh đó vẫn gặp phải những khó khăn và những hạn chế cần được khắc phục. Để nghiệp vụ BH học sinh thực sự phát huy được vai trò của nó, thực sự là nghiệp vụ có nhiều hiệu quả nhất cho Công ty Bảo Việt Hà Tây, em xin mạnh dạn đưa ra một số những giảipháp kiến nghị để Công ty có thể tham khảo và ứng dụng vào thực tế để nghiệp vụ này triển khai tốt hơn. Trong quá trình làm chuyên đề này, em đã nhận được sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của cô giáo hướng dẫn Nguyễn Ngọc Hương, cùng với sự động viên giúp đỡ của các anh chị Phòng BH Hà Đông - Bảo Việt Hà Tây. Qua đây em xin chân thành cảm ơn Cô giáo hướng dẫn, các anh chị trong Phòng BH Hà Đông, đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. Với những kiến thức còn hạn hẹp, kinh nghiệm thực tế còn non yếu nên đề tài này không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế nhất định. Vậy em rất mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo của các Thầy cô giáo, các cán bộ công ty Bảo Việt Hà Tây, cùng tất cả những ai quan tâm đến đề tài này, để chuyên đề được hoàn chỉnh hơn và nâng cao sự hiểu biết của mình về lý luận cũng như thực tiễn của nghiệp vụ BH học sinh. Em xin chân thành cảm ơn! Sinh viên: Vũ Trọng Tuấn. XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN THỰC TẬP …. ………………………………………………………………. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Điều khoản BH toàn diện học sinh của Tổng công ty BH Việt Nam. 2. Các tài liệu hướng dẫn triễn khai nghiệp vụ BH học sinh của Công ty BH Hà Tây. 3. Báo cáo tổng kết công tác triển khai nghiệp vụ BH học sinh các năm từ 2002 đến 2006. 4. Giáo trình BH - Trường Đại học kinh tế quốc dân. NXB Thống kê 2005. 5. Giáo trình BH - Học viện tài chính. NXB Tài chính 2002 6. Giáo trình quản trị kinh doanh BH - Trường đại học kinh tế quốc dân.NXB thống kê 2004. 7. Giáo trình thống kê BH – Trường ĐHKTQD. NXB Thống kê 1996. 8. Báo cáo tình thị trường BH của Bảo Việt năm 2005 9. Một số vấn đề cần biết về pháp lý trong hoạt động kinh doanh BH. NXB Tài chính 1998. 10. Các Nghị định của chính phủ về BH học sinh, sinh viên. 11. Luật kinh doanh BH. NXB Chính trị Quốc gia 2001. 12. Các tạp chí BH. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU .1 CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỂ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM VÀ NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM HỌC SINH. .3 I. Những vấn đề cơ bản về BH. .3 1. Sự cần thiết khách quan và tác dụng về BH. .3 2. Bản chất của BH. .5 II. Khái quát chung về BH con người trong BH thương mại. .6 1. Sự cần thiết và tác dụng của BH con người trong BH thương mại. .6 2. Nguyên tắc khoán trong BH con người 12 3. Phân loại BH con người. 14 III. Nội dung cơ bản về nghiệp vụ BH học sinh. 18 1. Những rủi ro thường gặp ở học sinh và tác dụng của BHHS 18 2. Đối tượng và phạm vi BH. 23 3. Số tiền BH, phí BH 28 4. Hợp đồng BH học sinh. 31 IV. BH học sinh và BH y tế học sinh. 35 1. Đối tượng BH Ytế học sinh. 35 2. Phạm vi BH: 36 3. Việc hình thành và sử dụng quỹ. 36 4. Phương thức chi trả tiền BH. 37 5. So sánh giữa BH học sinh và BH y tế học sinh. 37 V. Quy trình triển khai nghiệp vụ BHHS 39 1. Công tác khai thác. 39 2. Công tác đề phòng và hạn chế rủi ro. 40 3. Công tác giám định. 41 4. Công tác chi trả tiền BH. 42 CHƯƠNG II:TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BHHS TẠI BẢO VIỆT HÀ TÂY (2002-2006) 44 I. Giới thiệu chung về công ty BH Hà Tây. 44 1. Sự ra đời và phát triển. 44 2. Cơ cấu tổ chức hoạt động của công ty. 49 3. Chức năng, nhiệm vụ của các phòng ban: 50 II. Đặc điểm tình hình tỉnh Hà Tây và những thuận lợi, khó khăn trong việc triển khai nghiệp vụ BHHS tại Bảo Việt Hà Tây. 52 1. Đặc điểm tình hình tỉnh Hà Tây. 52 2. Những thuận lợi và khó khăn trong việc triển khai nghiệp vụ BHHS tại Bảo Việt Hà Tây. 53 III. Đánh giá kết quả triển khai nghiệp vụ BH học sinh tại Bảo Việt Hà Tây. 56 1. Các nghiệp vụ BH học sinh mà công ty đang triển khai. 56 2. Thực trạng triển khai nghiệp vụ BHHS ở Bảo Việt Hà Tây. 59 3. Phân tích kết quả và hiệu quả kinh doanh. 76 IV. Những vấn đề còn tồn đọng trong quá trình triển khai nghiệp vụ BHHS. 84 V. Phương hướng của công ty trong thời gian tới. 86 CHƯƠNG III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC BHHS Ở BẢO VIỆT HÀ TÂY. 90 I. Kiến nghị với nhà nước: 90 II. Kiến nghị với Tổng công ty BH Việt Nam. 91 III. Kiến nghị với Bảo Việt Hà tây. 92 1. Đối với công tác khai thác. 92 2. Công tác đề phòng hạn chế tổn thất. 94 3. Công tác giám định. 95 4. Công tác chi trả tiền BH. 95 5. Đào tạo và nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ 96 6. Xây dựng một chiến lược cạnh tranh. 96 7. Xây dựng một hệ thống thông tin hiện đại. 97 8. Nâng cao công tác thống kê BH. 97 KẾT LUẬN 99 TÀI LIỆU THAM KHẢO ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31832.doc
Tài liệu liên quan