Tình hình vốn FDI ở các nước đang phát triển và trong điều kiện Việt Nam hiện nay

CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VỐN VÀ TĂNG TRƯỞNG. TÌNH HÌNH VỐN Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN I-KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TĂNG TRƯỞNG 1. Khái niệm Tăng trưởng là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm). Sự gia tăng của thu nhập được thể hiện ở quy mô và tốc độ. Quy mô tăng trưởng phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít, tốc độ tăng trưởng được sử dụng với ý nghĩa so sánh tương đối và phản ánh sự gia tăng nhanh hay chậm giữa các thời kỳ. Tăng trưởng ki

doc49 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1530 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tình hình vốn FDI ở các nước đang phát triển và trong điều kiện Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh tế là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp quan trọng hàng đầu, có liên quan mật thiết đến các biến số vĩ mô như việc làm, lạm phát, nghèo đói, … Tuy nhiên, nếu chỉ xem xét tăng trưởng trên giác độ số lượng thu nhập tăng thêm thì chưa đủ. Thực tế cho thấy, nhiều loại tăng trưởng không những không đem đến cho con người cuộc sống tốt đẹp hơn mà trái lại còn để lại những hậu quả khôn lường mà các thế hệ tương lai phải gánh chịu. Năm 1996, trong một báo cáo thường niên của mình, Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) đã chỉ ra 5 loại tăng trưởng xấu, đó là: Tăng trưởng không việc làm (Tăng trưởng không tạo ra việc làm mới) Tăng trưởng không lương tâm (Tăng trưởng chỉ đem lại lợi ích cho một bộ phận nhỏ những người giàu) Tăng trưởng không tiếng nói (Tăng trưởng không có dân chủ) Tăng trưởng không gốc rễ (Đời sống kinh tế khá giả hơn nhưng đạo đức xã hội bị suy thoái) Tăng trưởng không tương lai (Môi trường sống của con người bị hủy hoại) 2-Các yếu tố tác động đến tăng trưởng về phía cung Thông thường và cũng với ý nghĩa cổ điển, nói đến các yếu tố tổng cung tác động đến tăng trưởng kinh tế là nói đến 4 yếu tố nguồn lực chủ yếu là: vốn (K), lao động (L), tài nguyên, đất đai (R) và công nghệ kỹ thuật (T) theo một hàm sản xuất : Y = F(K, L, R, T) Vốn (K): là yếu tố vật chất đầu vào quan trọng có tác động trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế. Vốn sản xuất đứng trên góc độ vĩ mô có liên quan trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế được đặt ra ở khía cạnh vốn vật chất chứ không phải dưới dạng tiền (giá trị), nó là toàn bộ tư liệu vật chất được tích luỹ lại của nền kinh tế và bao gồm: nhà máy, thiết bị, máy móc, nhà xưởng và các trang bị được sử dụng như những yếu tố đầu vào trong sản xuất. Ở các nước đang phát triển sự đóng góp của vốn sản xuất vào tăng trưởng kinh tế thường chiếm tỷ trọng cao nhất. Đó là sự thể hiện của tính chất tăng trưởng kinh tế theo chiểu rộng. Tuy vậy, sự tác động của yếu tố này đang có xu hướng giảm dần và được thay thế bằng các yếu tố khác. Lao động (L): là một yếu tố đầu vào của sản xuất. Trước đây, chúng ta chỉ quan niệm lao động là yếu tố vật chất đầu vào giống như yếu tố vốn và được xác định bằng số lượng nguồn lao động của mỗi quốc gia (có thể tính bằng đầu người hay thời gian lao động). Những mô hình tăng trưởng kinh tế hiện đại gần đây đã nhấn mạnh đến khía cạnh phi vật chất của lao động gọi là vốn nhân lực - đó là các lao động có kỹ năng sản xuất, lao động có thể vận hành được máy móc thiết bị phức tạp, những lao động có sáng kiến và phương pháp mới trong hoạt động kinh tế. Việc hiểu yếu tố lao động theo hai nội dung có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc phân tích lợi thế và vai trò của yếu tố này trong tăng trưởng kinh tế của các nước phát triển và các nước đang phát triển. Hiện nay, tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển được đóng góp nhiều bởi quy mô, số lượng lao động, yếu tố vốn nhân lực còn có vị trí chưa cao do trình độ và chất lượng lao động ở các nước này còn thấp. Tài nguyên, đất đai (R) được coi là yếu tố đầu vào của sản xuất. Đất đai là yếu tố quan trọng trong sản xuất nông nghiệp và là yếu tố không thể thiếu được trong việc thực hiện bố trí các cơ sở kinh tế thuộc ngành công nghiệp, dịch vụ. Tài nguyên thiên nhiên từ trong lòng đất, không khí, từ rừng và biển được chia ra làm: tài nguyên vô hạn và không thể thay thế, tài nguyên có thể tái tạo và tài nguyên không thể tái tạo. Các nguồn tài nguyên dồi dào phong phú được khai thác tạo điều kiện tăng sản lượng đầu ra một cách nhanh chóng, nhất là các nước đang phát triển; một số tài nguyên quý hiếm là những đầu vào cần thiết cho sản xuất song lại có hạn không thay thế được và không thể tái tạo được hoặc nếu có tái tạo được thì phải có thời gian và có chi phí tương đương với quá trình tạo sản phẩm mới. Từ những tính chất đó, các tài nguyên được đánh giá về mặt kinh tế và được tính giá trị như các đầu vào khác trong quá trình sử dụng. Nguồn tài nguyên phong phú hay tiết kiệm nguồn tài nguyên trong sử dụng cũng có một ý nghĩa tương đương như việc tạo ra một giá trị gia tăng so với chi phí đầu vào khác để tạo ra nó. Trong nền kinh tế hiện đại người ta tìm cách thay thế để khắc phục mức độ khan hiếm của tài nguyên và đất đai trong quá trình tăng trưởng kinh tế, hơn nữa sản phẩm quốc dân và mức tăng của nó không phụ thuộc nhiều vào dung lượng tài nguyên thiên nhiên và đất đai. Tuy vậy, tài nguyên thiên nhiên và đất đai vẫn là nhân tố không thể thiếu được của nhiều quá trình sản xuất, nhất là các nước đang phát triển. Công nghệ kỹ thuật (T) được quan niệm là nhân tố tác động ngày càng mạnh đến tăng trưởng trong điều kiện hiện đại. Yếu tố công nghệ kỹ thuật cần được hiểu đầy đủ theo hai dạng: Thứ nhất, đó là những thành tựu kiến thức, tức là nắm bắt kiến thức khoa học, nghiên cứu đưa ra những nguyên lý, thử nghiệm về cải tiến sản phẩm, quy trình công nghệ hay thiết bị kỹ thuật; Thứ hai, là sự áp dụng phổ biến các kết quả nghiên cứu, thử nghiệm vào thực tế nhằm nâng cao trình độ phát triển chung của sản xuất. Yếu tố công nghệ hiểu theo nghĩa toàn diện như thế đã được K.Marx xem như là “chiếc đũa thần tăng thêm sự giàu có của cải xã hội”. Còn Solow thì cho rằng “tất cả các tăng trưởng bình quân đầu người trong dài hạn đều thu được nhờ tiến bộ kỹ thuật”. Kuznets hay Samuelson đều khẳng định: công nghệ kỹ thuật là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình tăng trưởng kinh tế bền vững. Hiện nay, 3 yếu tố trực tiếp tác động tới tăng trưởng kinh tế được nhấn mạnh là vốn, lao động và năng suất yếu tố tổng hợp (TFP – Total factor productivity). Vốn và lao động được xem như là những yếu tố vật chất có thể lượng hóa được mức độ tác động của nó đến tăng trưởng kinh kế và được coi là những nhân tố tăng trưởng theo chiều rộng. Năng suất nhân tố tổng hợp là thể hiện hiệu quả của yếu tố công nghệ kỹ thuật hay cách đánh giá tác động của tiến bộ khoa học công nghệ đến tăng trưởng kinh tế được xác định bằng phần dư còn lại của tăng trưởng sau khi đã loại trừ tác động của các tố vốn và lao động. TFP được coi là yếu tố chất lượng của tăng trưởng hay tăng trưởng theo chiều sâu. Như vậy, trên giác độ các yếu tố đầu vào, một nền kinh tế đạt được tăng trưởng dựa chủ yếu vào 3 yếu tố chính: Vốn (K), lao động (L) và năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP - Total Factor Productivity). Hàm sản xuất có dạng: Y = F(K,L,TFP) Trong đó: Y là thu nhập của nền kinh tế (GDP) Tại mô hình này, tăng trưởng được phân thành 2 loại: Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng, phản ánh tăng thu nhập phụ thuộc vào tăng quy mô nguồn vốn, số lượng lao động và tài nguyên thiên nhiên được khai thác. Thứ hai, tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu, đó là sự gia tăng thu nhập do tác động của các yếu tố - TFP. Trên phương diện tính toán, TFP chỉ phần trăm (%) GDP sau khi trừ đi phần đóng góp của việc tăng số lượng lao động và vốn. Trên khía cạnh kinh tế, phần thặng dư này phản ánh việc tăng chất lượng lao động, chất lượng máy móc, vai trò của quản lý và tổ chức sản xuất. Nói một cách cụ thể thơn, TFP là chỉ số phụ thuộc vào hai yếu tố: Tiến bộ công nghệ. Hiệu quả sử dụng vốn và lao động. Đối với các nước đang phát triển, trong giai đoạn đầu do các yếu tố tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng như lao động, tài nguyên thiên nhiên tương đối dồi dào, trong khi trình độ của người lao động, của công nghệ còn hạn chế thì tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng thường được lựa chọn. Song, nếu nền kinh tế phát triển dựa quá nhiều vào vốn và lao động thì tốc độ tăng trưởng không cao, kém bền vững và dễ bị tổn thương khi có biến động kinh tế từ bên trong cũng như bên ngoài. Đặc biệt, nền kinh tế sẽ không có những bước tiến mang tính chất đột phá lớn. Chính vì lẽ đó, chiến lược tăng trưởng kinh tế cần được nghiên cứu theo chiều sâu, tức là dựa chủ yếu vào nhân tố TFP. II-VAI TRÒ CỦA VỐN TỚI TĂNG TRƯỞNG 1-Các lý thuyết kinh tế chứng minh vai trò của vốn với tăng trưởng Kinh tế học cổ điển cũng như kinh tế học hiện đại có rất nhiều lý thuyết nói đến vấn đề ảnh hưởng của vốn đầu tư tới tăng trưởng phát triển kinh tế tuý theo các lý thuyết mà xem mức độ quan trọng của vốn đầu tư nhưng chúnh có một điểm chung là đều coi vốn đầu tư có vai trò quan trọng đối với tăng trưởng phát triển kinh tế. vai trò của vốn tới tăng trưởng phát triển kinh tế được chứng minh qua các lý thuyết sau: 1.1-Lý thuyết của Keynes Mô hình J.Keynes tiếp cận tăng trưởng kinh tế trên cơ sỏ tổng cầu của nền kinh tế:Cầu tiêu dùng và cầu đầu tư.Trong đó ,tổng cầu đầu tư đóng vai trò quan trọng trong quá trình gia tăng sản lượng hay tăng trưởng kinh tế. Mô hình J.Keynes chú trọng nghiên cứu tổng cầu của xã hội,bao gồm :Cầu tiêu dùng và cầu đầu tư. Về cầu tiêu dùng:Cầu tiêu dùng tồn tại quy luật tiêu dùng cận biên giảm dần.Tức là khi tiêu dùng tăng lên nhưng tốc độ tăng của cầu tiêu dùng bao giờ cũng chậm hơn tốc độ của thu nhập,và đó chính là nguyên nhân cơ bản dẫn tới sự sụt giảm tuyệt đối tăng trưởng kinh tế. Về cầu đầu tư: Khối lượng đầu tư phụ thuộc vào lãi suất cho vay và hiệu suất cận biên của tư bản.Hiệu suất cận biên của vốn đầu tư,xét trong dài hạn có xu hướng giảm dần ,trong khi lãi suất cho vay trên thị trường tài chính luôn có xu hướng tăng do xu hướng tâm lý dân cư thích giữ tiền mặt trong gia đình hơn gửi tiết kiệm. Xét đến cùng,cầu tiêu dùng và cầu đầu tư đều có xu hướng giảm,làm cho nền kinh tế cân bằng dưới mức sản lượng tiềm năng,nhiều người sẽ mất việc làm dẫn tới suy giảm kinh tế.Muốn đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế cần phải tác động tới tổng cầu.Chính phủ phải điều chỉnh chính sách kinh tế,trực tiếp là chính sách tài chính nhằm tăng cường vốn dầu tư,hay “kích cầu” đầu tư tạo ra việc làm,tăng thu nhập thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.Như vậy,cầu đầu tư đóng vai trò quan trọng trong quá trình đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, Đầu tư giữ vai trò chính: I tăng -> quy mô việc làm tăng -> tăng trưởng kinh tế 1.2. Mô hình tăng trưởng dựa vào vốn (Harrod -Domar) Harrod-Domar cho rằng nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế chính là do lượng vốn sản xuất tăng thêm. Lượng vốn này lại có nguồn gốc từ phần tiết kiệm(S) từ tổng sản lượng quốc gia(Y) đưa vào các hoạt động đầu tư (I). Ngoài ra, khi mở rộng hơn mô hình Harrod-Domar, ta có thể thấy vốn đầu tư có thể là từ trong nước(tiết kiệm từ ngân sách chính phủ, doanh nghiệp và dân cư) hoặc từ nước ngoài (thông qua vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp). k = ICOR = ΔK/ΔY = I/ΔY -> g = s/k trong đó: g: tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Y: thu nhập (GDP) K: vốn đầu tư s: tỉ lệ tiết kiệm trong GDP k=ICOR: hệ số sử dụng vốn -> Tốc độ tăng trưởng kinh tế tỉ lệ thuận với tỉ lệ tiết kiệm, tổng đầu tư và tỉ lệ nghịch với ICOR. Xét về mặt lý thuyết, hệ số -> ICOR càng thấp thì nền kinh tế hoạt động càng có hiệu quả, vốn đầu tư bỏ ra ít nhưng tăng trưởng kinh tế cao. Tuy nhiên, trên thực tế, hệ số ICOR còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác như nền kinh tế nước đó đang trong giai đoạn nào? Thường thì, đối với những nước thâm dụng vốn có hệ số ICOR cao, còn đối với những nước thâm dụng lao động thì hệ số ICOR thấp 1. 3. Mô hình tổng cung – tổng cầu Tác động đến tổng cầu: Để tạo ra sản phẩm cho xã hội, trước hết cần đầu tư. Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm 24 - 28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. C: Chi tiêu G tiêu dùng của chính phủ G:tiêu dùng của chính phủ AD = C + I + G + X – M I: Đầu tư X: xuất khẩu M: Nhập khẩu Vì vậy, khi quy mô đầu tư thay đổi sẽ tác động trực tiếp đến quy mô tổng cầu, đó là tác động ngắn hạn. Khi tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng kéo theo sự gia tăng của sản lượng và giá của các yếu tố đầu vào. Tác động đến tổng cung Tổng cung của nền kinh tế gồm 2 nguồn chính là cung trong nước và cung từ nước ngoài. Bộ phận chủ yếu, cung trong nước là một hàm của các yếu tố sản xuất: vốn, lao động, tài nguyên, công nghệ ..., thể hiện qua phương trình sau: K: Vốn đầu tư Q = F (K, L, T, R ...) L: Lao động T: Công nghệ R: Nguồn tài nguyên Như vậy, tăng qui mô vốn đầu tư là nguyên nhân trực tiếp làm tăng tổng cung của nền kinh tế, nếu các yếu tố khác không đổi. Mặt khác, tác động của vốn đầu tư còn được thực hiện thông qua hoạt động đầu tư nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới công nghệ... Do đó, đầu tư lại gián tiếp làm tăng tổng cung của nền kinh tế. Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động làm cho tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng. Nó kéo theo sản lượng tăng và giá giảm -> cho phép tăng tiêu dung -> kích thích sản xuất phát triển, tăng qui mô đầu tư. Sản xuất phát triển là nguồn gốc tăng tích lũy, phát triển KT-XH, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. P P1 E1 P0 E0 E2 S’ P2 D D’ Q0 Q1 Q2 → Mối quan hệ giữa đầu tư với tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế là mối quan hệ biện chứng, nhân quả, có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Đây là cơ sở lý luận để giải thích chính sách kích cầu đầu tư và tiêu dùng ở nhiều nước trong thời kỳ nền kinh tế tăng trưởng chậm. Tóm lại: Đầu tư thay đổi -> AD thay đổi -> Tăng trưởng nóng: PL, Y đồng thời tăng Vốn đầu tư thay đổi -> AS thay đổi -> PL và Y thay đổi nghịch biến Qua việc chứng minh bằng các lý thuyết ở trên ta thấy được vai trò của vốn tới tăng trưởng, phát triển kinh tế . Để biết được vốn có Vai trò cụ thể như thế nào ta tìm hiểu vai tro của vốn tới tăng trưởng kinh tế 2- vai trò của vốn tới tăng trưởng kinh tế 2.1Vốn trong nước giữ vai trò quyết định. Vốn trong nước là nguồn vốn chủ động: Vốn trong nước chiếm một tỉ trọng ưu thế ( > 50%) trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội; là nội lực của mỗi quốc gia vì vậy nó mang tính ổn định bền vững, giảm được những ảnh hưởng xấu đối với nền kinh tế do tác động của thị trường tài chính tiền tệ và kinh tế của các nước trên thế giới. Với nguồn vốn này chúng ta hoàn toàn có thể chủ động trong việc huy động và sử dụng mà không bị phụ thuộc vào bất kì tổ chức, quốc gia nào. Có vốn trong nước mới có vốn nước ngoài Nguồn vốn trong nước đóng vai trò then chốt trong việc định hướng các hoạt động đầu tư. Mỗi nền kinh tế phát triển đều phải trải qua những giai đoạn khác nhau và không thể áp dụng dập khuôn 1 chính sách cho cả quá trình phát triển. Với mỗi giai đoạn phát triển sẽ đặt ra những mục tiêu trọng tâm, ưu tiên cho việc phát triển những ngành kinh tế phù hợp. Muốn xây dựng một đất nước phát triển về mọi mặt thì các ngành, các vùng của chúng ta đều phải có một sự phát triển nhất định với một cơ cấu hợp lí. Việc đầu tư vốn trong nước để xây dựng cơ sở hạ tầng, mạng lưới thông tin liên lạc, giao thông…vào ngành, địa phương nào sẽ tạo môi trường đầu tư thuận lợi, từ đó có thể thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Vì vậy việc sử dụng vốn trong nước cho ngành nào, vùng nào cần phải được cân nhắc kĩ theo sự định hướng đúng đắn của Nhà nước sẽ giúp nền kinh tế phát triển nhanh chóng. Mặt khác, nguồn vốn trong nước chính là cơ sở để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Trước tiên, xét về nguồn vốn FDI: Thực tế những năm qua, dòng vốn FDI trên thế giới chủ yếu di chuyển trong nội bộ các nước phát triển, chỉ có khoảng 25% - 30% di chuyển đến các nước đang và chậm phát triển. Điều đó chứng tỏ tài nguyên thiên nhiên dồi dào, lao động rẻ không phải là nhân tố quan trọng hàng đầu trong thu hút FDI. Khoảng 90% dòng vốn chảy vào một số ít quốc gia có môi trường đầu tư hấp dẫn. Vì vậy cần quan tâm tới vấn đề sử dụng nguồn vốn trong nước để tạo một môi trường đầu tư hấp dẫn. Do đó, tự bản thân chúng ta phải xây dựng cho mình một nền tảng kinh tế - chính trị - xã hội vững chắc và ổn định, có cơ sở hạ tầng, giao thông liên lạc tốt, đội ngũ nhân công có tay nghề, cán bộ quản lí có chuyên môn... Đó mới là yếu tố quyết định tới việc thu hút vồn nước ngoài để phát triển kinh tế. Và đảm nhiệm vai trò này chính là nguồn vốn trong nước. Đối với nguồn vốn ODA, tuy có rất nhiều ưu đãi nhưng về bản chất đây vẫn là 1 khoản vay nên chúng ta vẫn phải trả nợ. Nếu khi đó nguồn vốn trong nước không đủ để chi trả thì sẽ dẫn tới tình trạng nợ cho nền kinh tế và như vậy thì mục đích tăng trưởng và phát triển kinh tế đã không đạt được. Do đó nguồn vốn trong nước thực sự đóng vai trò quyết định tới việc thu hút vốn nước ngoài và tới tăng trưởng của nền kinh tế. Mặt khác vốn trong nước còn tạo ra nguồn vốn đối ứng.Hay nói cách khác vốn đối ứng là phần vốn trong nước tham gia trong từng chương trình, dự án ODA được cam kết giữa phía Việt Nam và phía nước ngoài trên cơ sở hiệp định, văn kiện dự án, quyết định đầu tư của cấp có thẩm quyền. Giải quyết vấn đề KT-XH Nhờ huy động tốt các nguồn lực, khối lượng vốn đầu tư đã tăng nhanh cho phép dành được một lượng vốn lớn để tập trung đầu tư vào một số công trình chủ yếu quan trọng trong các ngành, lĩnh vực và địa phương, đầu tư chuyển đổi mạnh cơ cấu sản xuất theo hướng hiệu quả và phát huy được lợi thế từng vùng, từng ngành, từng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, chuyển đổi sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn; đã và đang đầu tư nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp, kết cấu hạ tầng kỹ thuật (giao thông vận tải, viễn thông, thuỷ lợi, công nghiệp điện), hạ tầng cơ sở nông thôn, du lịch, bảo vệ môi trường, giảm nhẹ thiên tai. Bên cạnh đó, nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước đã được tập trung đầu tư cho phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học công nghệ và môi trường, y tế xã hội, các chương trình quốc gia, xoá đói giảm nghèo và ưu tiên đầu tư thực hiện phát triển kinh tế, xã hội các tỉnh thành còn khó khăn, các vùng thường bị thiên tai bão lũ. 2.2Vốn nước ngoài có vai trò quan trọng Bổ xung sự thiếu hụt của vốn Các nước đang phát triển luôn có nguồn nhân lực dồi dào, nguồn tài nguyên phong phú.Vậy tại sao họ vẫn mãi chỉ là “đang phát triển”? Thực ra vấn đề lớn nhất hiện nay của những nước này là thiếu vốn đầu tư nên không thể phát huy được hết những tiềm lực của bản thân. Trong hoàn cảnh như vậy, nguồn vốn từ bên ngoài sẽ có ý nghĩa quan trọng đối với bước phát triển ban đầu của các nước này. Đặc biệt trong xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới như hiện nay các nước đang phát triển bị đặt trong tình huống phải tạo ra tốc độ phát triển nhanh để đuổi kịp và từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới.Có thêm sự hỗ trợ từ bên ngoài sẽ rất có ích cho các nước nghèo trên con đường phát triển. Nguồn vốn nước ngoài hỗ trợ nguồn vốn trong nước trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế: Góp phần cải thiện cơ sở hạ tầng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện cán cân xuất nhập khẩu… Nguồn vốn nước ngoài hỗ trợ nguồn vốn trong nước trong việc thực hiện các mục tiêu xã hội: Giải quyết việc làm nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống, là công cụ quan trọng hỗ trợ các nước đang và chậm phát triển thực hiện chiến lược xoá đói giảm nghèo… Có vai trò trong chuyển giao công nghệ: Đối với các nước đang phát triển, công nghệ giúp những nước này theo kịp tốc độ tăng trưởng kinh tế ở những nước công nghiệp phát triển dựa trên lợi thế của những nước đi sau. Nguồn vốn nước ngoài có vai trò đặc biệt quan trọng đối với quá trình phát triển khoa học - công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất và năng suất lao động tại nước tiếp nhận đầu tư thông qua hiệu ứng tích cực. Nó có tác động đến phát triển công nghệ của một quốc gia thông qua: chuyển giao công nghệ; phổ biến công nghệ và phát minh công nghệ.Cũng qua đầu tư nước ngoài, nhiều công nghệ mới được nhập, nhất là trong các lĩnh vực viễn thông, dầu khí, điện tử, tin học, sản xuất ôtô, sợi vải cao cấp... Các doanh nghiệp này cũng đã đem lại những mô hình quản lý tiến tiến cùng phương thức kinh doanh hiện đại, điều này đã thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. III- VỐN Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN Dòng vốn góp vào sự tăng trưởng (gồm vay nợ, vốn cổ phần) đổ vào các nước ĐPT đã tăng thêm 51 tỷ USD và đạt đến 301,3 tỷ USD. Trong đó, tổng số vốn đầu tư nước ngoài (FDI) là 165,4 tỷ USD, tăng 13,7 tỷ USD. Các khoản viện trợ của  các tổ chức phi chính phủ, tăng 5 tỷ đô la chỉ trong 3 năm  từ 1990 đến 2003, chiếm từ 10% đến 17% vốn hỗ trợ phát triển chính thức. Tiền chuyển về nước của nguồn lao động XK cũng tăng, từ 116 tỷ đô la năm 2003 lên 125,8 tỷ đô la năm 2004.  Các nước ĐPT cũng thu lợi nhuận từ việc tiếp tục tăng xuất khẩu vốn. Vốn đầu tư ra nước ngoài của các nước ĐPT đạt tới khoảng 40 tỷ USD, so với 16 tỷ đôla trong năm 2002; phần lớn nguồn vốn này xuất phát từ các nước Brazil, Trung Quốc, Mêhicô, và Nga. Báo cáo Tài chính Phát triển toàn cầu 2006 cho rằng, dòng vốn tư nhân ròng vào các nước đang phát triển đạt được mức cao kỷ lục là 491 tỉ USD năm 2005. Nguồn vốn vay nợ tư nhân cho các nước đang phát triển ước tính đã tăng từ 85 tỉ USD (năm 2003) lên 192 tỉ USD, nhờ khả năng thanh khoản toàn cầu tốt, chất lượng tín dụng của các nước đang phát triển được cải thiện đều đặn, lợi tức thu nhập ở các nước giàu giảm đi, và các nhà đầu tư ngày càng quan tâm đến tài sản thị trường mới nổi. Nhiều nước đang phát triển đã được đánh giá mức độ tín nhiệm tăng lên cùng với độ chênh lệch lãi xuất của trái phiếu của họ ở mức thấp kỷ lục, đã giúp các nước này tăng nguồn vốn từ việc phát hành trái phiếu từ mức 102 tỉ USD (năm 2004) lên tới 131 tỉ USD (năm 2005). những thành tựu đạt được này đã phản ánh một mức tăng trưởng GDP ước tính khoảng 6.4% ở các nước có thu nhập thấp và trung bình năm 2005, mức tăng trưởng này được nâng lên nhờ Trung Quốc và Ấn Độ, hai nước có tỉ lệ tăng trưởng lần lượt là 9.9% và 8%. Báo cáo này chỉ ra rằng, làn sóng các dòng vốn tăng lên cũng phản ánh chu chuyển thương mại và sự hội nhập về tài chính trong các nước đang phát triển đang gia tăng. Thương mại Nam-Nam đã tăng từ 222 tỉ USD (năm 1995) lên đến 562 tỉ  USD (năm 2004), và trong năm 2004 thương mại Nam-Nam đã chiếm 26% tổng thương mại của các nước đang phát triển. CHƯƠNGII:NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA FDI VÀ TÌNH HÌNH VỐN FDI Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN -VỐN FDI TRONG ĐIỀU KIỆN VIỆT NAM I-NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA FDI VÀ TÌNH HÌNH VỐN FDI Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CỦA VỐN FDI 1.1Khái niệm Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI) là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh và dịch vụ nhằm thu lợi nhuận. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này 1. 2.Cơ cấu nguồn vốn FDI Gồm ba loại: 1.2.1. Phân theo bản chất đầu tư Đầu tư phương tiện hoạt động là hình thức FDI trong đó công ty mẹ đầu tư mua sắm và thiết lập các phương tiện kinh doanh mới ở nước nhận đầu tư. Hình thức này làm tăng khối lượng đầu tư vào. Mua lại và sáp nhập là hình thức FDI trong đó hai hay nhiều doanh nghiệp có vốn FDI đang hoạt động sáp nhập vào nhau hoặc một doanh nghiệp này (có thể đang hoạt động ở nước nhận đầu tư hay ở nước ngoài) mua lại một doanh nghiệp có vốn FDI ở nước nhận đầu tư. Hình thức này không nhất thiết dẫn tới tăng khối lượng đầu tư vào. 1.2.2. Phân theo tính chất dòng vốn Vốn chứng khoán : Nhà đầu tư nước ngoài có thể mua cổ phần hoặc trái phiếu doanh nghiệp do một công ty trong nước phát hành ở một mức đủ lớn để có quyền tham gia vào các quyết định quản lý của công ty. Vốn tái đầu tư : Doanh nghiệp có vốn FDI có thể dùng lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh trong quá khứ để đầu tư thêm. Vốn vay nội bộ hay giao dịch nợ nội bộ : Giữa các chi nhánh hay công ty con trong cùng một công ty đa quốc gia có thể cho nhau vay để đầu tư hay mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp của nhau. 1.2.3. Phân theo động cơ của nhà đầu tư Vốn tìm kiếm tài nguyên Đây là các dòng vốn nhằm khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên rẻ và rồi rào ở nước tiếp nhận, khai thác nguồn lao động có thể kém về kỹ năng nhưng giá thấp hoặc khai thác nguồn lao động kỹ năng dồi dào. Nguồn vốn loại này còn nhằm mục đích khai thác các tài sản sẵn có thương hiệu ở nước tiếp nhận (như các điểm du lịch nổi tiếng). Nó cũng còn nhằm khai thác các tài sản trí tuệ của nước tiếp nhận. Ngoài ra, hình thức vốn này còn nhằm tranh giành các nguồn tài nguyên chiến lược để khỏi lọt vào tay đối thủ cạnh tranh. Vốn tìm kiếm hiệu quả: Đây là nguồn vốn nhằm tận dụng giá thành đầu vào kinh doanh thấp ở nước tiếp nhận như giá nguyên liệu rẻ, giá nhân công rẻ, giá các yếu tố sản xuất như điện nước, chi phí thông tin liên lạc, giao thông vận tải, mặt bằng sản xuất kinh doanh rẻ, thuế suất ưu đãi, v.v... Vốn tìm kiếm thị trường Đây là hình thức đầu tư nhằm mở rộng thị trường hoặc giữ thị trường khỏi bị đối thủ cạnh tranh giành mất. Ngoài ra, hình thức đầu tư này còn nhằm tận dụng các hiệp định hợp tác kinh tế giữa nước tiếp nhận với các nước và khu vực khác, lấy nước tiếp nhận làm bàn đạp để thâm nhập vào các thị trường khu vực và toàn cầu. 1.3- vai trò của vốn FDI tới tăng trưởng 1.3.1. Đối với các nước đi đầu tư: - Thông qua đầu tư FDI, các nước đi đầu tư tận dụng được những lợi thế về chi phí sản xuất thấp của các nước nhận đầu tư (giá nhân công rẻ, chi phí khai thác nguyên, vật liệu tại chỗ thấp) để hạ giá thành sản phẩm, giảm chi phí vận chuyển đối với việc sản xuất hàng thay thế nhập khẩu ở các nước tiếp nhận đầu tư. Nhờ đó, mà nâng cao hiểu quả của vốn đầu tư. - Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài cho phép các công ty có thể kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm đã được sản xuất và tiêu thụ ở thị trường trong nước. Thông qua FDI, các công ty của các nước phát triển chuyển được một phần các sản phẩm công nghiệp ở giai đoạn cuối của chu kỳ sống sản phẩm sang các nước nhận đầu tư để tiếp tục sử dụng chúng như những sản phẩm mới ở các nước này, tạo thêm lợi nhuận cho nhà đầu tư. - Giúp các công ty chính quốc tạo dựng được thị trường cung cấp nguyên, vật liệu dồi dào, ổn định với giá rẻ. - Cho phép chủ đầu tư bành trướng sức mạnh về kinh té, tăng cường khả năng ảnh hưởng của mình trên thị trường quốc tế, nhờ mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm, lại tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của nước nhận đầu tư, giảm giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh với các hàng hóa nhập từ các nước khác. 1.3.2. Đối với các nước tiếp nhận đầu tư: - FDI giải quyết tình trạng thiếu vốn cho phát triển kinh tế xã hội do tích lũy nội bộ thấp, cản trở đầu tư và đổi mới kỹ thuật trong điều kiện khoa học, kỹ thuật thế giới phát triển mạnh. Các nước NICs trong gần 30 năm qua, nhờ nhận được trên 50 tỷ USD đầu tư nước ngoài cùng với chính sách kinh tế năng động, hiệu quả đã trở thành những con rồng châu Á. - Cùng với việc cung cấp vốn, thông qua FDI các công ty nước ngoài đã chuyển giao công nghệ từ nước mình hoặc nước khác sang cho nước tiếp nhận đầu tư, do đó các nước tiếp nhận đầu tư có thể nhận được những công nghệ, kỹ thuật tiên tiến hiện đại (thực tế, có những công nghệ không thể mua được bằng quan hệ thương mại đơn thuần), những kinh nghiệm quản lý, năng lực marketing, đội ngũ lao động được đào tạo, rèn luyện về mọi mặt (trình độ kỹ thuật, phương pháp làm việc, kỷ luật lao động…). - Đầu tư FDI làm cho các hoạt động đầu tư trong nước phát triển, thúc đẩy tính năng động và khả năng cạnh tranh trong nước, tạo điều kiện khai thác có hiệu quả các tiềm năng của đất nước. Điều đó có tác động mạnh mẽ đến chuyển dịch cơ cầu kinh tế theo hướng tích cực. - Với việc tiếp nhận FDI, không đẩy các nước vào cảnh nợ nần, không chịu những ràng buộc về chính trị, xã hội. FDI góp phần tăng thu cho ngân sách nhà nước thông qua việc đánh thuế vào các công ty nước ngoài. Thông qua hợp tác với nước ngoài, nước tiếp nhận đầu tư có điều kiện thâm nhập vào thị trường thế giới. Như vậy các nước có khả năng tốt hơn trong việc huy động tài chính cho các dự án phát triển. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của các nước tiếp nhận đầu tư, bên cạnh những ưu điểm thì FDI cũng có những hạn chế nhất định. Đó là, nếu đầu tư vào nơi có môi trường bất ổn định về kinh tế và chính trị, thì nhà đầu tư nước ngoài dễ bị mất vốn. Còn đối với nước sở tại, nếu không có quy hoạch cho đầu tư cụ thể và khoa học thì sẽ dễ dẫn tới chỗ đầu tư tràn lan, kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức và nạn ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. 1.4. Các hình thức đầu tư FDI. Đầu tư FDI tồn tại dưới nhiều hình thức, song những hình thức chủ yếu là hợp đồng hợp tác kinh doanh; doanh nghiệp liên doanh; doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. 1. Hợp đồng hợp tác kinh doanh Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa hai hoặc nhiều bên (gọi là bên hợp doanh) quy định rõ trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư sản xuất kinh doanh ở nước tiếp nhận đầu tư mà không thành lập một pháp nhân. 2. Doanh nghiệp liên doanh. Doanh nghiệp liên doanh là loại hình doanh nghiệp do hai bên hoặc các bên nước ngoài hợp tác với nước tiếp nhận đầu tư cùng góp vốn, cùng kinh doanh, cùng hưởng lợi nhuận và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ vốn góp. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư. 3. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài (tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài) do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại nước tiếp nhận đầu tư, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất, kinh doanh. 2. Tình hình vốn FDI ở các nước đang phát triển Báo cáo Tài chính Phát triển toàn cầu 2006 cho rằng Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Nam-Nam cũng tăng từ 14 tỉ USD năm 1995 lên 47 tỉ USD (năm 2003), và trong năm 2003, nguồn vốn này chiếm 37% tổng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của các nước đang phát triển. Dòng FDI đổ vào các nước phát triển lại giảm 14%, chỉ còn 380 tỷ USD. Tuy nhiên, Mỹ vẫn là nước nhận được FDI nhiều nhất, sau đó là Anh. Theo báo cáo này, thu hút FDI ở châu Á và châu Đại Dương đã đạt được 148 tỷ USD trong năm 2004, cao hơn 46 tỷ USD so với năm 2003 và trở thành nơi ti._.ếp nhận nhiều FDI nhất trong các khu vực đang phát triển. Trung Quốc một lần nữa là nước tiếp nhận nhiều FDI nhất so với các quốc gia trong khu vực châu Á. Lượng FDI vào nước này trong năm ngoái đã đạt con số kỷ lục mới là 60,6 tỷ USD. FDI vào Hong Kong cũng lên tới 34 tỷ USD, tăng 150%. Trong số các tiểu vùng ở châu Á, thu hút FDI ở khu vực Tây Á giữ vị trí dẫn đầu với mức tăng trưởng 51% lên tới 9,8 tỷ USD. Theo các chuyên gia của UNCTAD, đây là kết quả của giá dầu cao, nỗ lực đa dạng hóa và một loạt các biện pháp tự do hóa nhằm cải thiện môi trường đầu tư. Lượng FDI đổ vào khu vực Đông Nam Á (bao gồm 10 nước ASEAN và Đông Timo) cũng tiếp tục tăng, từ 17 tỷ USD năm 2003 lên 26 tỷ USD năm 2004. Đây cũng là mức tăng cao nhất kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997-1998. Năm 2004, 5 quốc gia và lãnh thổ nhận được nhiều FDI nhất trong số các nước đang phát triển là Trung Quốc, Hong Kong, Brazil, Mexico và Singapore. II- VỐN FDI Ở ĐIỀU KIỆN VIỆT NAM 1-Vai trò của vốn FDI đối với nền kinh tế Việt Nam Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Trước hết, FDI là nguồn vốn bổ sung quan trọng vào tổng đầu tư xã hội và góp phần cải thiện cán cân thanh toán trong giai đoạn vừa qua. Các nghiên cứu gần đây đều rút ra nhận định chung rằng khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã đóng góp quan trọng vào GDP với tỷ trọng ngày càng tăng. Khu vực này góp phần tăng cường năng lực sản xuất và đổi mới công nghệ của nhiều ngành kinh tế, khai thông thị trường sản phẩm (đặc biệt là trong gia tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá), đóng góp cho ngân sách nhà nước và tạo việc làm cho một bộ phận lao động. Bên cạnh đó, FDI có vai trò trong chuyển giao công nghệ và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo sức ép buộc các doanh nghiệp trong nước phải tự đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả sản xuất. Các dự án FDI cũng có tác động tích cực tới việc nâng cao năng lực quản lý và trình độ của người lao động làm việc trong các dự án FDI, tạo ra kênh truyền tác động tràn tích cực hữu hiệu. Phần dưới đây sẽ khái quát vai trò của FDI tổng thể nền kinh tế. Tính đến nay, cả nước có khoảng 9.500 dự án ĐTNN được cấp phép đầu tư với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt khoảng 98 tỷ USD. Trong đó, vốn thực hiện của khu vực đầu tư nước ngoài đạt khoảng 40 tỷ USD, chiếm trên 20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 1996-2000 và duy trì ở mức 17-18% tổng vốn đầu tư toàn xã hội từ năm 2001 đến nay. Riêng năm 2007, thu hút ĐTNN đạt 20,3 tỷ USD, tăng gần 70% so với năm 2006, chiếm gần 20% tổng vốn ĐTNN trong 20 năm qua. ĐTNN đã thực sự góp phần chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế Việt Nam từ tập trung sang nền kinh tế thị trường, đồng thời nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp. Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN tăng bền vững ở tất cả các địa phương trong cả nước, góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ tiên tiến vào Việt Nam trong một số ngành kinh tế quan trọng của đất nước như viẽn thông, khí hoá dầu, tin học, ô tô... Trong 20 năm qua, ĐTNN cũng đã đem lại cho Việt Nam những cơ hội được tiếp cận và mở rộng thị trường thông qua hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới. Nhờ đó năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam cũng được nâng lên. 1.1. FDI đối với vốn dầu tư xã hội và tăng trưởng kinh tế Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới với xuất phát điểm rất thấp. Do vậy, xét về nhu cầu vốn, FDI được coi là một nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư trong nước, nhằm đáp nhu cầu đầu tư cho phát triển. Đóng góp của FDI trong đầu tư xã hội biến động lớn, một phần phản ánh diễn biến thất thường của nguồn vốn này như đã phân tích ở trên, một phần thể hiện những thay đổi về đầu tư của các thành phần kinh tế trong nước. Giai đoạn 1994-1995, tỷ trọng của FDI trong tổng đầu tư xã hội lên tới 30-31 %, là mức cao nhất cho đến nay. Tỷ lệ này đã giảm dần và năm 2004, FDI thực hiện ước còn chiếm 15,5 % trong tổng đầu tư toàn xã hội. Trong suốt một thập kỷ qua, khu vực có vốn FDI chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong GDP. Năm 2004, khu vực FDI đóng góp 15,2 % vào GDP so với tỷ lệ đóng góp 6,4% của khu vực này năm 1994. Bên cạnh đó, khu vực có vốn FDI luôn dẫn đầu về tốc độ tăng giá trị gia tăng so với các khu vực kinh tế khác và là khu vực phát triển năng động nhất. Tốc độ tăng giá trị gia tăng của khu vực này luôn cao hơn mức trung bình của cả nước. 1.2. FDI với việc nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp và xuất khẩu Như trên đã đề cập, FDI vào Việt Nam chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp.Nhờ đó, trong hơn một thập kỷ qua Việt Nam đã cải thiện được nhiều ngành kinh tế quan trọng như thăm dò, khai thác dầu khí, bưu chính viễn thông, điện tử, xây dựng hạ tầng v.v. Cùng với việc cung cấp vốn,thong qua FDI các công ty nước ngoài đã chuyển giao công nghệ từ nước mình hoặc nước khác sang cho nước tiếp nhận đầu tư,do đó các nước tiếp nhận đầu tư có thể nhận được những công nghệ,kỹ thuật tiên tiến hiện đại(thực tế,có những công nghệ không thể mua được bằng quan hệ thương mại đơn thuần),những kinh nghiệm quản lý,năng lực marketing, đội ngũ lao động được đào tạo,rèn luyện về mọi mặt Năm 2004, khu vực có vốn FDI đóng góp tới 35,68% (giá so sánh năm 1994) tổng giá trị sản xuất công nghiệp cả nước, trong khi tỷ lệ này chỉ là 25,1% năm 1995. Đến nay, khu vực có vốn FDI đóng góp 100% sản lượng của một số sản phẩm công nghiệp như dầu khí,ô tô, máy giặt, điều hoà, tủ lạnh, thiết bị máy tính; 60% cán thép; 28% xi măng; 33% máy móc thiết bị điện, điện tử; 76% dụng cụ y tế chính xác; 55% sản lượng sợi; 49% sản lượng da giày; 25% thực phẩm đồ uống... Nhìn chung, tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực có vốn FDI luôn duy trì ở mức cao, cao hơn tốc độ tăng trưởng chung toàn ngành trong suốt giai đoạn 1995-2003, trừ năm 2001. Năm 2004, giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực này tuy cao, đạt 15,7% nhưng thấp hơn mức chung của toàn ngành,chủ yếu do tốc độ tăng rất cao của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong nước (22,8%). Trong một thập kỷ trở lại đây, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI luôn cao hơn so với tốc độ tăng trung bình của cả nước. Năm 1991, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 2 tỷ USD, trong khi đó năm 2004 con số này đã là 26,5 tỷ đô la, tăng gấp 13,5 lần so với năm 1991. Khu vực FDI chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong tổng giá trị xuất khẩu, từ 4% năm 1991 lên 54,6 %13 năm 2004. Cần lưu ý rằng, mặc dù FDI có tỷ trọng xuất khẩu cao song giá trị xuất khẩu ròng của khu vực có vốn FDI không cao. Sở dĩ như vậy vì các dự án FDI trong công nghiệp vẫn chủ yếu sử dụng các dây chuyền lắp ráp có qui mô nhỏ và sử dụng nguồn đầu vào từ nhập khẩu là chính. 1.3. FDI đối với việc làm và cải thiện nguồn nhân lực Hiện tại, các dự án có vốn FDI tại Việt Nam đang sử dụng khoảng 730 ngàn lao động, chỉ chiếm 1,5% tổng lao động có việc làm tại Việt Nam so với tỷ trọng này năm1996 là 0,7%. Điều đó cho thấy FDI vẫn xuất hiện chủ yếu trong các ngành tập trung vốn và sử dụng lao động có trình độ kỹ năng cao. Đó cũng là một cách lý giải cho mức thu nhập trung bình của lao động trong khu vực này cao gấp 2 lần so với các doanh nghiệp khác cùng ngành. Hơn nữa, số lao động này được tiếp cận với công nghệ hiện đại, có kỷ luật lao động tốt, học hỏi được các phương thức lao động tiên tiến. Đặc biệt, một số chuyên gia Việt Nam làm việc tại các doanh nghiệp FDI đã có thể thay thế dần các chuyên gia nước ngoài trong việc đảm nhiệm những chức vụ quản lý doanh nghiệp và điều khiển các qui trình công nghệ hiện đại. Bên cạnh số việc làm trực tiếp do FDI tạo ra nói trên, khu vực FDI còn gián tiếp tạo thêm việc làm trong lĩnh vực dịch vụ và có thể tạo thêm lao động trong các ngành công nghiệp phụ trợ trong nước với điều kiện tồn tại mối quan hệ mua bán nguyên vật liệu hoặc hàng hóa trung gian giữa các doanh nghiệp này. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có số liệu thống kê chính thức về số lao động gián tiếp được tạo ra bởi khu vực FDI tại Việt Nam. 1.4. FDI với nguồn thu ngân sách Nhà nước và các cân đối vĩ mô Cùng với sự phát triển, khu vực có vốn FDI đóng góp ngày càng tăng vào nguồn thu ngân sách của Nhà nước. Theo tính toán của Tổng cục Thuế, năm 2002, khu vực FDI đóng góp khoảng 480 triệu USD vào ngân sách Nhà nước, tăng 4,2 lần so với năm 1994. Tính riêng giai đoạn 1996-2002, khu vực này đóng góp (trực tiếp) vào ngân sách trung bình ở mức khoảng 6%16. Tỷ trọng đóng góp nhỏ là do các doanh nghiệp FDI được hưởng chính sách khuyến khích của Chính phủ thông qua giảm thuế thu nhập trong những năm đầu hoạt động. Tuy nhiên, nếu tính cả thu từ dầu thô thì tỷ trọng này ước khoảng 20%. Bên cạnh đó, FDI đã góp phần quan trọng vào việc tăng thặng dư của tài khoản vốn, góp phần cải thiện cán cân thanh toán nói chung. Động thái của cán cân vốn trong thời kỳ 1994-2002 cho thấy có mối quan hệ khá rõ giữa số dư tài khoản vốn và dòng 2. Thực trạng nguồn vốn FDI ở Việt Nam hiện nay 2.1. Nhìn tổng thể nền kinh tế Có thể nói, sau 20 năm ban hành Luật đầu tư nước ngoài, Việt Nam đã có một bước tiến lớn trong thu hút đầu tư nước ngoài, với sự ra đời của 154 khu công nghiệp, khu chế xuất, 10 khu kinh tế và 2 khu công nghệ cao đã thổi một luồng sinh khí mới vào bức tranh phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam. Từ chỗ bị bao vây cấm vận nước ta phát triển quan hệ kinh tế với hầu khắp các nước, gia nhập và vai trò ngày càng tích cực trong nhiều tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực, đặc biệt sau khi trở thành thành viên chính thức của tổ chức Thương mại thế giới-WTO, Việt Nam ngày càng nổi bật trên bản đồ thu hút đầu tư quốc tế, được các nhà đầu tư coi như một điểm đến an toàn và hiệu quả. Về công tác xúc tiến đầu tư Công tác xúc tiến đầu tư đã chuyển biến tích cực, có sự phối hợp giữa các bộ, ngành với các địa phương theo hương bám sát các tập đoàn đa quốc gia, các nhà đầu tư tại Việt Nam nhằm thúc đẩy quá trình xúc tiến đầu tư nhanh chóng, biến ý đồ thành hiện thực dự án. Các bộ ngành liên quan đã bám sát các địa phương trong hỗ trợ các dự án quy mô lớn từ khâu ban đầu thành lập dự án cho tới khâu cuối triển khai sản xuất - kinh doanh. Nhiều hoạt động xúc tiến đầu tư kết hợp công tác của ban lãnh đạo Đảng, Nhà nước tại một số nước thuộc các châu Âu, Á, Mỹ và Mỹ La tinh… đã tạo cơ hội cho doanh nghiệp hai bên gặp gỡ, trao đổi và kí kết các thoả thuận hợp tác đầu tư lên tới hàng chục tỷ đô la Mỹ. Về môi trường đầu tư – kinh doanh Môi trường đầu tư - kinh doanh của Việt Nam tiếp tục được cải thiện, phù hợp với cam kết quốc tế của Việt Nam.Việt Nam đang trở thành điểm hấp đẫn đầu tư ở châu Á. Công đồng doanh nghiệp quốc tế đánh giá cao hơn về môi trường kinh doanh của Việt Nam (đứng sau Trung Quốc và Thái Lan). Việc áp dụng thống nhất Luật Đầu tư đối với cả đầu trong nước và đầu tư nước ngoài đã tạo sự cạnh tranh bình đẳng cho các doanh nghiệp, loại hình doanh nghiệp được mở rộng, đa dạng, dễ dàng cho nhà đầu tư lựa chọn phù hợp với ý định kinh doanh của mình.Tình hình thu hút đầu tư nước ngoài ở các địa phương có nhiều chuyển biến tích cực. Việc tăng cường phân cấp đã giúp cho các địa phương chủ động trong việc vận động quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài.Thời gian cấp giấy chứng nhận đầu tư được rút ngắn. Quy trình thủ tục cũng như quản lí doanh nghiệp đơn giản, dễ dàng hơn so với trước đó nhằm phát huy tự chủ và chịu trách nhiệm của đơn vị. 2.2 Những kết quả đạt được trong thu hút vốn đầu tư ở Việt Nam Dòng vốn FDI liên tiếp thiết lập rồi tự phá kỷ lục về vốn đăng ký.Nếu như năm 2006 mới có 10,2 tỷ USD, đến năm 2007 đã lên tới 21,3 tỷ USD, gần bằng tổng số vốn đầu tư của 5 năm 2001-2005, thì 8 tháng đầu năm nay tổng số vốn đã đăng kí 47,15 tỷ USD, chiếm gần 1 nửa tổng số vốn FDI đổ vào Việt Nam trong vòng 20 năm nay. Cụ thể: có 772 dự án được cấp giấy phép đầu tư (46,324 tỷ USD) và 210 lượt dự án tăng vốn (833,6 triệu USD).Chỉ riêng tháng 8/2008 cả nước có 118 dự án cấp giấy phép đầu tư với tổng vốn đầu tư đăng kí là 1,827 tỷ USD và 22 lượt dự án tăng vốn với số vốn tăng thêm là 45 triệu USD.Bảng số liệu dưới đây cho ta thấy rõ được tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài qua các tháng từ đầu năm tới nay. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã liên tục đạt mức kỷ lục và 8 tháng đầu năm nay được coi là điểm sáng nổi bật trong bức tranh toàn cảnh nền kinh tế: Trong tháng 8 vốn FDI thực hiện là 1 tỷ USD đưa tổng số vốn thực hiện 8 tháng đầu năm lên 7 tỷ USD, tăng 31.2% so với cùng kỳ năm 2007. Sự hiện diện của các nhà ĐTNN đã tạo ra bước chuyển biến mới, tác động tích cực đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của nước ta.Vốn đầu tư đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đồng thời đóng góp một phần không nhỏ trong tăng trưởng GDP. Cơ cấu FDI theo vùng Hầu hết các dự án FDI tập trung vào 2 vùng kinh tế trọng điểm, vùng Đông Nam bộ chiếm 51% vốn đầu tư cả nước do có 3 tỉnh năm trong 10 địa phương thu hút nhiều FDI nhất. Trong khi đó vùng Đông Bắc bộ bao gồm tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh thu hút 27% tổng vốn FDI của cả nước. Cơ cấu FDI theo khu vực kinh tế đầu tư Theo Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch Đầu tư, cùng với việc gia tăng về số vốn thì quy mô đầu tư các dự án cũng tăng lên đáng kể và đạt mức trung bình 70 triệu USD/dự án, cao hơn nhiều so với trước đây. Các dự án đầu tư vào Việt Nam trong 8 tháng đầu năm 2008 tập trung chủ yếu vào lĩnh vực dịch vụ (23,6 tỷ USD, chiếm 50,9% tổng vốn đầu tư); công nhiệp và xây dựng (22,5 tỷ USD, chiếm 48,6% tổng vốn đầu tư đăng kí)…(hình dưới minh hoạ). Đầu tư nước ngoài đã đóng góp đáng kể vào giá trị sản lượng công nghiệp, góp phần nâng cao tốc độ tăng trưởng công nghiệp của cả nước. Với lợi thế máy móc kĩ thật hiện đại, có thị trường ổn định, được khuyến khích bằng cơ chế chính sách ngày càng thông thoáng, khu vực có vốn FDI trong công nghiệp đã và đang phát triển khá nhanh và ổn định, luôn có xu hướng tăng nhanh hơn các khu vực khác. Mặt khác, vai trò của các dự án FDI trong cơ cấu công nghiệp đang ngày càng được củng cố, tỷ trọng của khối doanh nghiệp có vốn FDI trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp tăng dần từ 16,9% năm 1991 lên 26,5% năm 1996, 41,3% năm 2000, 36,4% năm 2006, và 43.8% năm 2007, tương đương với các doanh nghiệp nhà nước. Đã có những dự án lập kỷ lục về vốn đầu tư như dự án Khu liên hiệp gang thép và cảng biển của tập đoàn Formosa (Đài Loan) tại Hà Tĩnh, giai đoạn 1 dự kiến hoàn thành vào năm 2010, có vốn đầu tư 7,879 tỷ USD; nếu tính cả giai đoạn 2 lên đến 15 tỷ USD.Và đứng thứ 2 là dự án liên doanh giữa Công ty Lọc dầu Nghi Sơn với các tập đoàn của Nhật Bản,Kwait đầu tư 6,2 tỷ USD tại Thanh Hoá. Sự tham gia của các dự án FDI vào ngành công nghiệp đã tạo ra một môi trường kinh doanh cạnh tranh, góp phần đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu, đổi mới và sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước. Trong quá trình hợp tác với các doanh nghiệp FDI, các doanh nghiệp trong nước ta tiến hành đổi mới công nghệ sản xuất.Bên cạnh đó FDI trong nghành công nghiệp đã tạo cho Việt Nam một đội ngũ cán bộ công nhân lành nghề, được tiếp xúc với công nghệ mới, kỹ năng sản xuất tiên tiến. Vượt qua cả lĩnh vực công nghiệp – xây dựng, dịch vụ đã vươn lên đứng đầu về thu hút đầt tư trong 7 tháng đầu năm nay với 22,84 tỷ USD, chiếm 51,34% tồn vốn đầu tư đăng kí. Trong đó, tổng vốn rót vào địa ốc lên tới 21,2 tỷ USD, chiếm 47,6% tổng lượng vốn cấp mới, bao gồm 13 tỷ USD đổ vào xây dựng các khu đô thị mới và văn phòng cho thuê, 8,2 tỷ USD đầu tư vào khách sạn, du lịch. Xem xét lại sự bùng nổ USD trong 2 năm qua cho thấy, so sánh mức vốn FDI bỏ vào bất động sản trên tổng vốn đầu tư, tỷ trọng 47,6% trên đã bỏ cách rất xa so với tỷ trọng 35% năm 2007 và 22% trong giai đoạn 20 năm. Trong 10 dự án bất động sản và du lịch lớn nhất, dự án có lượng vốn khiêm tốn nhất là 518 triệu USD. Tiêu biểu nhu Tập đoàn New City (Brunei) đầu tư 4,3 tỷ USD xây dựng khu đô thị mới tại Phú Yên. Dự án Hồ Tràm do Tập đoàn Asian Coast Development Ltd (Canada) đầu tư 4,23 tỷ USD xây dựng khu du lịch nghỉ dưỡng, khách sạn 5 sao, khu thương mại, trung tâm hội nghị quốc tế, văn phòng, căn hộ, biệt thự cao cấp, sân golf… tại Bà rịa vũng tàu. Dự án khu đô thị đại học Berjaya Leisure (Malaysia) đầu tư 3,4 tỷ USD tại TP. Hồ Chí Minh. Cơ cấu FDI theo ngành kinh tế Lượng vốn FDI năm 2008 được tập trung chủ yếu vào một số lĩnh vực như: xây dựng văn phòng, căn hộ, khu công nghiệp, khu chế xuất (chiếm 29,66%), dầu khí (chiếm 23,76%), công nghiệp nặng (19,47%)và du lịch, khách sạn (18,57%). Chỉ riêng 4 lĩnh vực này đã chiếm trên 90% tổng lượng vồn FDI được cấp phép trong năm. Khu vực kinh tế có vốn FDI hiện chiếm 100% về khai thác dầu thô, chiếm sản lượng chủ yếu về sản xuất ô tô, máy giặt, tủ lạnh, điều hoà nhiệt độ, thiết bị văn phòng, máy tính , chiếm 63% xe có động cơ, khoảng 60% sản lượng thép cán; 33% sản lượng máy móc, thiết bị diện tử; 76% sản lượng dụng cụ y tế, 55% sản lượng sợi các loại; 49% sản lượng da giày; 25% sản lượng thực phẩm chế biến và đồ uống... Trong thời gian gần đây, các lĩnh vực công nghiệp như dầu khí, diện, cơ khí, thép, dệt may, rượu - bia - nước giải khát, da giày thuốc lá, nhựa giấy... thu hút thêm nhièu các dự án FDI. Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo nghành 1988-2006 ( tính tới ngày 18/12/2006 - chỉ tính các dự án còn hiệu lực): Ngành Số dự án Tổng vốn đầu tư Đầu tư thực hiện Số lượng Tỷ trọng (%) Số vốn (tỷ USD) Tỷ trọng (%) Số vốn (tỷ USD) Tỷ trọng (%) Công nghiệp 4,602 67.55 38.011 62.85 19.858 68.99 CN dầu khí 31 0.46 1.993 3.30 5.453 18.94 CN nhẹ 1933 28.37 9.702 16.04 3.484 12.11 CN nặng 2007 29.46 18.897 31.25 6.827 23.72 CN thực phẩm 275 4.04 3.252 5.38 1.959 6.80 Xây dựng 356 5.23 4.165 6.89 2.136 7.42 Nông, lâm nghiệp 831 12.20 3.884 6.42 1.915 6.65 Nông – lâm nghiệp 718 10.54 3.558 5.88 1.749 6.08 Thuỷ sản 113 1.66 0.326 0.54 0.166 0.58 Dịch vụ 1380 20.26 18.578 30.72 7.010 24.36 Dịch vụ 594 8.72 1.157 2.51 0.377 1.31 GTVT – Bưu điện 186 2.73 3.373 5.58 0.721 2.50 Khách sạn – Du lịch 164 2.41 3.289 5.44 2.317 8.05 Tài chính – NH 64 0.94 0.840 1.39 0.730 2.54 Văn hoá - y tế – GD 226 3.32 0.980 1.62 0.382 1.33 XD khu đô thị mới 6 0.09 3.078 5.09 0.051 0.18 XDVăn phòng–Căn hộ 120 1.76 4.433 7.33 1.860 6.46 XD hạ tầng KCX-KCN 20 0.29 1.067 1.76 0.573 1.99 Tổng số 6813 100 60.474 100 28.783 100 Cơ cấu FDI theo đối tác đầu tư Năm 2008 Đài Loan tiếp tục đứng đầu tong số 38 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với 112 dự án, vốn đầu tư 8,6 tỷ USD, chiếm 18,6% tổng vốn đăng kí.Tiếp theo là Nhật Bản 78 dự án, vốn đầu tư 7,2 tỷ USD, chiếm 16,2%, Malaysia 5,07 tỷ USD, Brunei 4,3 tỷ USD, Canada 4,2 tỷ USD..., chiếm phần lớn vốn đầu tư vào Việt Nam, sau đó mới đến các nước châu Âu, châu Mỹ. Như vậy tỷ lệ các dự án đầu tư nước ngoài có sử dụng công nghệ cao, công nghệ nguồn còn thấp. Trong số các đối tác nước ngoài thì châu Âu và Hoa Kỳ đầu tư chưa lớn và chưa tương ứng với tiềm năng của họ. Về phía các địa phương Bà Rịa – Vũng Tàu đứng đầu cả nước về thu hút vốn đầu tư với 4 dự án, tổng vốn đăng kí 9,3 tỷ USD. Tiếp theo là TP. HCM, Hà Tĩnh, Thanh Hoá... 5 nhà đầu tư hàng đầu ở Việt Nam hiện nay: STT Nước Số dự án Tổng vốn đầu tư Số lượng Số vốn (Tỷ USD) 1 Đài Loan 112 8.6 2 Nhật Bản 78 7.2 3 Malaysia 28 5.07 4 brunei 14 4.3 5 Canada 4 4.2 Cơ cấu FDI theo hình thức Trong giai đoạn đầu thu hút FDI vào Việt Nam (1988 – 1990), liên doanh vẫn là hình thức đầu tư nước ngoài chủ yếu vao Việt Nam, tiếp đến là hình thức hợp tác kinh doanh. Một trong những nguyên nhân là do trong thời kỳ đầu thu hút FDI các nhà đầu tư nước gnoài chưa am hiểu về môi trường đầu tư của Việt Nam, về những thủ tục pháp lý cần thiết… vì thế họ lựa chọn hình thức liên doanh để tìm hiểu về môi trường đầu tư của Việt Nam thông qua các đối tác liên doanh của mình. Tính tới tháng 12 năm 2006, hình thức 100% vốn nước ngoài chiếm đến 76,18% số dự án; 40,13% tổng vốn đầu tư thực hiện. tiếp theo là hình thức liên doanh; các hình thức đầu tư khác đã xuất hiện hình thức liên doanh kiểu công ty mẹ - con, nhưng chiếm tỷ trọng rất nhỏ. 7 tháng đầu năm nay 100% vốn nước ngoài chiếm 74,5% tổng số dự án…, bảng dưới minh hoạ cụ thể đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hình thức đầu tư. Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo HTĐT (7 tháng đầu năm 2008) Hình thức đầu tư Số dự án Tổng vốn đầu tư Số lượng Tỷ trọng (%) Số vốn (Tỷ USD) Tỷ trọng (%) 100% vốn nước ngoài 487 74.5 27.9 61.8 Liên doanh 15.41 34.1 Hình thức khác 1.89 4.1 Tổng 654 100 45.2 100 2.3 Những bất cập trong thu hút vốn FDI ở Việt Nam Chậm trễ trong vấn đề giải ngân vốn Việc thu hút 98 tỷ USD vốn FDI sau 20 năm đổi mới có vẻ như mới là bề nổi của tảng băng chìm khi số vốn thực hiện thời gian qua chỉ đạt 36,1%. Có không ít dự án lớn đổ bể và không ít dự án sai tiến độ, chậm giải ngân. Đây cũng là cơ sở để lo ngại rằng: chúng ta đang bị “loá mắt” trước số lượng FDI mà quên mất chất lượng hay thực tế thực hiện. Biểu đồ số liệu dưới đây so sánh tổng vốn FDI thực hiện so cới tổng FDI đăng ký từ năm 2006 đến nay: 7 tỷ USD vốn FDI giải ngân trong 8 tháng đầu năm nay là mức cao nhất từ trước tới nay nhưng lại quá khiêm tốn so với con số 47,15 tỷ USD vốn đăng ký. Nếu vốn FDI không giải ngân được nhiều thì rõ ràng sẽ gây tình trạng ứ đọng, ách tắc vốn. Nó còn bất lợi cho cả việc chúng ta tiếp nhận vốn mà không phù hợp với năng lực tiếp nhận. Tỷ lệ giải ngân các tỉnh phía Bắc thấp, như Bắc Giang chỉ đạt 23,32%, Quảng Ninh chỉ đạt 38,3,%, Hải Dương 43,4%. Thực tế với hơn 8.590 dự án còn hiệu lực trong vòng 20 năm qua, chỉ có khoảng 50% dự án được triển khai, tổng vốn đầu tư thực hiện đạt 30 tỷ USD, chiếm 36,1% vốn đăng ký. Ngay cả những nhà đầu tư hàng đầu hiện nay như: Đài Loan, Hàn Quốc tỷ lệ vốn thực hiện so với vốn đăng ký cũng rất khiêm tốn, chỉ xấp xỉ 30%. Đằng sau tốc độ giải ngân thấp chính là những tồn đọng lâu nay của nền kinh tế như cơ sở hạ tầng, công nghiệp phụ trợ yếu kém, lao động tay nghề chưa cao. Nông nghiệp khó thu hút đầu tư Trong tổng vốn FDI đăng ký khoảng hơn 21,3 tỷ USD vào Việt Nam năm 2007, tỷ lệ FDI vào lĩnh vực nông nghiệp chỉ chiếm 5,4%. Theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch Đầu tư cũng cho thấy, trong 47,15 tỷ USD vốn FDI cả nước thu được 8 tháng đầu năm 2008, tỷ lệ FDI vào nông – lâm – ngư nghiệp còn thấp hơn nhiều, chỉ chiếm 0,5%, đa số còn lại tập trung chủ yéu ở lĩnh vực dịch vụ (50,9%), công nghiệp và xây dựng (48,6%)… Phần lớn FDI vào nông nghiệp chủ yếu là của các DN vừa và nhỏ với mức vốn dưới 2 triệu USD, thậm chí có công ty vốn dưới 500.000 USD (Công ty TNHH Shin Wall của Hàn Quốc); các DN có mức đầu tư từ 5 triệu USD trở lên chỉ chiếm 18%, trong đó doanh nghiệp liên doanh vốn bình quân gấp 1,8 lần so với DN 100% vốn nước ngoài. Không những thế tốc độ thực hiện các dự án FDI trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp rất chậm, số vốn thực hiện cũng thấp so với vốn đăng ký. Chẳng hạn Công ty TNHH Trương Thái (Đài Loan) đăng ký mức vốn đầu tư 1 triệu USD năm 2004, thế nhưng đến hết năm 2006 DN này mới chỉ thực hiện 570.000 USD. Cả giai đoạn 1988 – 2007, nông nghiệp mới thu hút 933 dự án với tổng vốn 4,4 tỷ USD, đáng buồn hơn là trong số vốn ít ỏi đó, chỉ có khoảng 2 tỷ USD được giải ngân. Do luôn tiềm ẩn rủi ro từ nhiều phía (điều kiện tự nhiên, thị trường, lãi suất thấp, thu hồi vốn chậm vì phải theo chu kỳ cây trồng - vật nuôi…) nên có tới 30% số dự án bị giải thể so với mức bình quân chung của cả nước là 20%. Bên cạnh đó, vốn FDI vào nông nhiệp thấp và thiếu ổn định, chủ yếu tập trung vào vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và phía Bắc, các tỉnh vùng sâu, vùng xa tỷ trọng rất thấp. Một số dự án trồng rừng nguyên liệu, chế biến nông sản không mang lại hiệu quả, trong khi đó lại có khá nhiều dự án tác động nghiêm trọng đến cảnh quan môi trường tự nhiên. Vấn đề hiện nay: Việc phân bổ FDI chưa đồng đều giữa các vùng, miền. Phần lớn các dự án tập trung ở khu vực đồng bằng, không những thế các dự án FDI chưa khai thác tiềm năng, lợi thế của các vùng, chưa có dự án đầu tư vào KH – CN cao. Một số dự án trồng rừng, nguyên liệu chế biến nông sản đạt hiệu quả thấp. Ngoài ra còn khá nhiều dự án tác động nghêm trọng đến cảnh quan, môi trường tự nhiên. Môi trường đầu tư của nước ta đã được cải thiện khá nhiều trong thời gian qua, song chừng đó là chưa đủ. Chất lượng nguồn nhân lực còn hạn chế làm giảm khả năng cạnh tranh và lợi thế của nước ta về mặt lao động; cơ sở hạ tầng còn yếu kém, nhất là việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp ở một số địa phương và đặc biệt công tác giải phóng mặt bằng nhìn chung còn chậm, làm ảnh hưởng tới tiến độ triển khai dự án cũng như việc thu hút đầu tư nước ngoài. 3.Thuận lợi và khó khăn khi vốn FDI vào Việt Nam . 3.1. Một số thuận lợi  * Việt nam đã ký các cam kết liên quan đến đầu tư nước ngoài Việt Nam đã ký các hiệp định song phương và đa phương về đầu tư nước ngoài như: Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMS), hiệp định đầu tư Việt Nam - Nhật Bản, hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN, hiệp định giữa Việt Nam và Bulgaria về khuyến khích và bảo hộ đầu tư, hiệp định khung về quan hệ Việt Nam - Uỷ ban Châu Âu (EC), hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan (CEPT), Hiệp định chung về thương mại và dịch vụ (GAT), hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ….. Trong những cam kết đó đặc biệt phải kể đến là hiệp định thương mại tự do của WTO. Các hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư được dựa trên các nguyên tắc: - Tạo điều kiện thuận lợi khuyến khích đầu tư của bên ký kết bằng việc chấp nhận đầu tư đó trên nguyên tắc công bằng, thoả đáng, không gây phương hại bằng biện pháp bất hợp lý và phân biệt đối xử. - Không trưng thu, trưng dụng tài sản của nhà đầu tư bằng các biện pháp hành chính, trừ trường hợp vì mục đích công cộng thì tuân thủ phương châm không phân biệt đối xẻ và bồi thường nhanh chóng, đầy đủ theo đúng giá thị trường, phù hợp với thủ tục luật định. - Đảm bảo quyền chuyển vốn, lợi nhuận và các khoản thu nhập hợp pháp khác của nhà đầu tư về nước theo nguyên tắc “không chậm trễ và bằng đồng tiền tự do chuyển đổi” - Công nhận quyền của nhà đầu tư trong việc đưa vụ tranh chấp với cơ quan nhà nước ra toà hành chính, trọng tài hoặc bất kỳ cơ chế giải quyết tranh chấp nào do nhà đầu tư lựa chọn. * Môi trường xã hội và chính trị ổn định Sự ổn định về chính trị và xã hội là yêu cầu đầu tiên quan trọng nhất, quyết định đối với việc thu hút các TNCs. Một quốc gia có môi trường chính trị ổn định thì các nhà đầu tư mới yêu tâm đầu tư. Nếu môi trường không ổn định, thường xuyên có bạo loạn thì khó có thể bảo toàn vốn cũng như không thể tiến hành sản xuất kinh doanh để sinh lời. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của nhà nước, nền chính trị xã hội của nước ta luôn ổn định. Theo đánh giá thì Việt Nam được coi là nước có sự ổn định về chính trị và xã hội đặc biệt cao, không tiềm ẩn xung đột về tôn giáo và sắc tộc. Đó là điều kiện cơ bản để đảm bảo cho sự phát triển của kinh tế đối ngoại, thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài * Đường lối đối ngoại mở rộng và tích cực Cùng với sự ổn đinh về chính trị-xã hội , Việt Nam có đường lối đối ngoại mở rộng, đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược mở cửa hướng về xuất khẩu, mở rộng quan hệ hợp tác đầu tư nước ngoài. Với phương châm “Việt nam muốn làm bạn và đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế” nước ta đã chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình thích hợp và thực hiện đúng các cam kết quốc tế trong quan hệ đa phương và song phương. Việt Nam đã là thành viên thứ 7 của ASEAN từ ngày 28/7/1995, gia nhập APEC tháng 11/1998, là thành viên đầu tiên của ASEM, là thành viên của WTO từ ngày 7/11/2006. Hiện nay, chúng ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 170 nước, quan hệ buôn bán với hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ và tiếp nhận đầu tư của gần 80 quốc gia. Chính việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước đã tạo điều kiện cần thiết và thuận lợi để thu hút đầu tư nước ngoài . * Có những lợi thế so sánh Việt Nam có điều kiện tự nhiên và trí địa lý đặc biệt thuận lợi. Nằm ở vị trí trung tâm của vùng Đông Nam Á. Các tuyến đường hàng không và hàng hải trên thế giới đều rất gần Việt Nam, tạo điều kiện cho giao thương buôn bán với các nước trong khu vực và trên thế giới. Mặt khác, Việt Nam có nguồn tài nguyên vô cùng đa dạng và đứng thứ 7 trong số 15 quốc gia giầu tài nguyên nhất thế giới. Người lao động Việt Nam rất sáng tạo trong công việc 3.2. Một số khó khăn Bên cạnh những mặt thuận lợi thì thực tế còn gặp rất nhiều khó khăn, trong đó một số vấn đề khó khăn đặc biệt phải kể đến nhu sau: * Nền kinh tế thị trường còn sơ khai Hơn 20 năm qua nền kinh tế của Việt Nam đã thành công trong việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường của Việt Nam còn rất sơ khai. Tính chất sơ khai được biểu hiện ở những khía cạnh như: Thị trường hàng hoá dịch vụ đã hình thành nhưng còn hạn hẹp và còn nhiều hiện tượng tiêu cực (hàng giả, hàng lậu, hàng nhái nhãn hiệu làm rối loạn thị trường). Thị trường hàng hoá sức lao động mới manh nha. Một số trung tâm giới thiệu việc làm và xuất khẩu lao động mới xuất hiện nhưng đã nảy sinh nhiều hiện tượng khủng hoảng. Nét nổi bật của thị trường này là sức cung về lao động lành nghề nhỏ hơn rất nhiều so với mức cầu. Thị trường tiền tệ và thị trường vốn đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn nhiều trắc trở. Rất nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân rất thiếu vốn nhưng không vay được vì vướng về thủ tục. Trong khi nhiều ngân hàng thương mại lại không thể cho vay nên để dư nợ quá hạn đến mức báo động. Thị trường chứng khoán đã đi vào hoạt động nhưng vẫn còn thiếu “hàng hoá” để mua bán và chưa được kiểm soát chặt chẽ. * Năng lực của đối tác Việt Nam còn nhiều hạn chế Các đối tác Việt Nam hiện nay vẫn còn chủ yếu tập trung vào các doanh nghiệp nhà nước (chiếm 98%). Trên thực tế trình độ năng lực của các doanh nghiệp này còn nhiều hạn chế và yếu kém. Theo kết quả điều tra của viện._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6000.doc
Tài liệu liên quan