Tình trạng thương mại với Hoa Kỳ một năm sau khi hiệp định thương mại có hiệu lực

Mục Lục Trang Lời nói đầu 3 Chương I: Lợi ích của việc mở rộng quan hệ 5 Việt Nam- Hoa Kỳ I. Tầm quan trọng của việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế 5 1.Những xu hướng vận động của nền kinh tế thế giới 5 2.Tác dụng của mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế 7 3.Hội nhập là tất yếu để phát triển II. Lợi ích của việc phát triển thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ 10 1.Giới thiệu chung về Hoa Kỳ 10 2.Lợi ích Việt Nam thu được trong quan hệ với Hoa Kỳ 16 3.Lợi ích của Hoa Kỳ trong quan hệ vớ

doc87 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1210 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tình trạng thương mại với Hoa Kỳ một năm sau khi hiệp định thương mại có hiệu lực, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i Việt Nam 19 Chương II: Thực trạng thương mại 23 Việt Nam- Hoa Kỳ I. Giai đoạn trước khi hiệp định thương mại được kí kết 23 1. Trước khi Hoa Kỳ bỏ lệnh cấm vận 23 2.Sau khi Hoa Kỳ bỏ lệnh cấm vận 25 3. Sau khi bình thường hoá quan hệ hai nước 28 II.Khi hiệp định thương mại được kí kết và chính thức có hiệu lực 36 1.Khái quát hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ 38 2.Đánh giá chung tình hình thực hiện 40 3.Những cơ hội cho cả hai nước 41 4.Những trở ngại phát sinh 46 5.Những nguyên nhân 61 Chương III: Những biện pháp để giải quyết 64 những tồn tại trong quan hệ thương mại Việt- Mỹ I. Nhà nước 64 1.Pháp lý 64 2.Vốn 65 3.Thông tin 65 4.Chính sách 65 5.Nhân lực 66 II. Doanh nghiệp 67 1.Sản xuất tốt 68 2.Tiếp cận thị trường 68 3.Chú trọng sản phẩm có lợi thế cạnh tranh 68 4.Vệ sinh 69 5.Xúc tiến thương mại 69 6.Luật pháp 70 7.Làm quen với các vụ kiện 70 III.Tìm hiểu yếu tố môi trường kinh doanh của Mỹ 71 1.Con người 72 2.Nguyên tắc thương mại 72 3.Luật pháp chi phối 73 IV.Tăng cường đào tạo đội ngũ 76 V.Mở rộng quan hệ làm ăn với các nước khác 76 trong khu vực và trên thế giới Kết Luận 78 Tài liệu tham khảo 79 Lời nói đầu Kể từ khi Việt Nam áp dụng chính sách mở cửa nền kinh tế, quan hệ thương mại song phương giữa Việt Nam và Mỹ được cải thiện và xúc tiến theo chiều hướng tích cực với tốc độ nhanh. Nhưng phải đến tháng 7/ 1995, khi Việt Nam và Mỹ thiết lập quan hệ ngoại giao, hoạt động kinh tế giữa hai nước mới thực sự phát triển. Đối tác kinh tế quan trọng mà Việt Nam thực sự không thể không tiếp cận là Mỹ và ngược lại, Mỹ không thể bỏ lỡ cơ hội để chiếm ưu thế trong những hoạt động kinh tế tại Việt Nam. Hiệp định thương mại Việt- Mỹ, được ký kết ngày 13/ 7/ 2000 sau gần 4 năm đàm phán, là một bước đột phá thể hiện nỗ lực của hai nước trong bình thường hoá quan hệ kinh tế thương mại. Hiệp định có hiệu lực từ cuối 2001 hứa hẹn nhiều cơ hội để doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập và mở rộng quan hệ với thị trường Hoa Kỳ. Đây là một thị trường lớn đầy tiềm năng song cũng nhiều điểm đặc thù. Hiệp định có hiệu lực đã được hơn 1 năm, một quãng thời gian mới không lâu nhưng trong quan hệ thương mại Việt- Mỹ lại nảy sinh một số vấn đề gây một số thiệt hại đáng tiếc cho doanh nghiệp của ta, thu hút sự chú ý của công chúng. Khoá luận này xin đề cập đề tài" Tình trạng thương mại với Hoa Kỳ một năm sau khi hiệp định thương mại có hiệu lực".Bằng phương pháp phân tích, thống kê, tổng hợp, khoá luận này muốn giúp cho độc giả hiểu rõ hơn về những nội dung của Hiệp định thương mại Việt -Mỹ.Qua đó sẽ xác định được quan điểm đúng đắn hơn khi theo dõi qua phương tiện thông tin đại chúng diễn biến của những vấn đề đang phát sinh trong bức tranh toàn cảnh quan hệ thương mại hai nước. Khoá luận được kết cấu theo 3 chương như sau: Chương I: Lợi ích của việc mở rộng quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ Chương II: Thực trạng thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ Chương III: Những giải pháp để giải quyết những tồn tại trong quan hệ thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ Để hoàn thành bản khoá luận này, em xin chân thành cảm ơn PGS- NGUT Vũ Hữu Tửu- giáo viên trường Đại học Ngoại Thương người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt quá trình làm việc. Tôi cũng xin gửi lời cám ơn tới các bác công tác tại Bộ thương mại, nơi đã cung cấp kịp thời cho tôi những tài liệu cần thiết. Chương I Lợi ích của việc mở rộng quan hệ Việt Nam- Hoa Kỳ I/ Tầm quan trọng của việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế: Nền kinh tế thế giới là tổng thể hữu cơ của các nền kinh tế quốc gia độc lập trên cơ sở sự phát triển của phân công lao động quốc tế thông qua các mối quan hệ kinh tế quốc tế ( các quan hệ vật chất và quan hệ tài chính). Quan hệ kinh tế đối ngoại là toàn bộ các quan hệ kinh tế của một quốc gia trong quan hệ với phần còn lại của thế giới ( các quốc gia khác và các tổ chức kinh tế quốc tế). Kinh tế đối ngoại có vai trò hết sức quan trọng trong việc khai thác lợi thế so sánh của mỗi quốc gia, thu hút nguồn vốn bên ngoài, chuyển giao công nghệ và trình độ quản lý tiên tiến của thế giới, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tăng trưởng với tốc độ cao. 1- Những xu hướng vận động của nền kinh tế thế giới: Nền kinh tế thế giới ngày nay chịu tác động của rất nhiều nhân tố khác nhau, cả nhân tố kinh tế, xã hội, kỹ thuật, chính trị cũng như các nhân tố tự nhiên. Bởi vậy sự vận động của nền kinh tế thế giới cũng đang diễn ra với nhiều xu hướng khác nhau. Dưới đây là một số xu hướng chính: 1.1 Xu hướng thứ nhất: Cuộc cách mạng khoa học công nghệ tiếp tục phát triển với tốc độ vũ bão đưa đến sự đột biến trong tăng trưởng kinh tế, gây ra biến đổi kinh tế sâu sắc trong mỗi quốc gia. 1.2 Xu hướng thứ hai: Quá trình quốc tế hoá tiếp tục diễn ra với quy mô ngày càng lớn, với một tốc độ ngày càng cao trong tất cả mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế thế giới như buôn bán, sản xuất, nghiên cứu khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo, văn hoá và lối sống...Điều này làm cho nền kinh tế thế giới trở thành một chính thể thống nhất, trong đó mỗi quốc gia là một bộ phận, giữa chúng có sự tuỳ thuộc lẫn nhau. Quá trình quốc tế hoá này diễn ra ở những cấp độ khác nhau với xu hướng khu vực hoá. Các vấn đề toàn cầu hoá ngày càng trở nên gay gắt: không những vấn đề chiến tranh hoà bình, vấn đề lương thực, vấn đề môi trường sinh thái, vấn đề dân số mà các vấn đề nợ nước ngoài, vấn đề bệnh tật của xã hội hiện đại. Xu hướng khu vực hoá thể hiện ở việc hình thành các liên kết kinh tế khu vực với các hình thức đa dạng: liên minh châu Âu ( EU), Hiệp hội thương mại tự do Bắc Mỹ ( NAFTA), Diễn đàn kinh tế châu á - Thái Bình Dương ( APEC)...Xu hướng quốc tế hoá đặt ra một yêu cầu tất yếu: mỗi quốc gia phải mở cửa ra thị trường thế giới và chủ động tham gia vào phân công lao động quốc tế và khu vực để có được khuôn khổ phù hợp cho sự phát triển. 1.3 Xu hướng thú ba: Thế giới chuyển từ đối đầu sang đối thoại, từ biệt lập sang hợp tác. Các quốc gia ngày càng ưu tiên cho sự phát triển kinh tế với sự gia tăng các hình thức hợp tác kinh tế quốc tế như sự trao đổi thương mại, hợp tác đầu tư, chuyển giao khoa học công nghệ...Sự dung hoà lợi ích, vận dụng các biện pháp kinh tế để giải quyết tranh chấp hợp tác với nhau để có lợi nhiều hơn là phương châm phổ biến trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế. Tuy nhiên sự cạnh tranh kinh tế cũng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, hình thành khái niệm chiến tranh kinh tế. Chiến tranh kinh tế có nhiều mục đích khác nhau, nhiều phương thức khác nhau với sự đan xen về không gian và thời gian. Các quyền lợi ở lãnh hải, thềm lục địa, quần đảo... trở thành đối tượng cạnh tranh chủ yếu. Mâu thuẫn giữa các cường quốc, các trung tâm kinh tế, các tập đoàn xuyên quốc gia ngày càng gay gắt. 1.4 Xu hướng thứ tư: Sự phát triển của vòng cung châu á- Thái Bình Dương với các quốc gia có nền kinh tế hết sức năng động, đạt nhịp độ phát triển cao qua nhiều năm, làm trung tâm kinh tế thế giới dịch chuyển về khu vực này. Người ta dự báo rằng thế kỉ 21 là thế kỉ của châu á- Thái Bình Dương. Điều đó tạo cho việc hình thành những quan hệ kinh tế quốc tế mới tạo nên những khả năng mới cho sự phát triển, đồng thời cũng đặt ra những thách thức mới cho tất cả các quốc gia. 2. Tác dụng của việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế 2.1 Đối với các nước công nghiệp phát triển Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại giúp cho việc bành trướng nhanh chóng sức mạnh kinh tế của mình như tìm kiếm thị trường mới để giải quyết khủng hoảng thừa của hàng hoá, để tìm kiếm nơi đầu tư thuận lợi hơn, đem lại lợi nhuận cao, giảm được chi phí sản xuất do sử dụng lao động và tài nguyên rẻ ở các nước đang phát triển. 2.2 Đối với các nước đang phát triển Việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế nhằm tiếp thu vốn và công nghệ tiên tiến để thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá nền kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng năng động, tăng trưởng với tốc độ cao. Hơn nữa, thị trường nội địa của các nước này qua chật hẹp không đủ để đảm bảo phát triển nền công nghiệp với quy mô sản xuất hàng loạt. Điều đó cho thấy chỉ có mở rộng hoạt động kinh tế quốc tế mới khắc phục được hạn chế trên. Việc mở rộng này cũng nhằm khai thác triệt để các thế mạnh của đất nước, nâng cao đời sống, tạo điều kiện củng cố hoà bình. 3. Hội nhập là vấn đề tất yếu để phát triển thế giới trong thế kỷ 21 3.1 Khái quát tình hình hội nhập trong thương mại thế giới năm 2001 Năm 2001 là một năm có những biến động mạnh đối với nền kinh tế toàn cầu. Sự kiện khủng bố vào nước Mỹ 11/ 09/ 2001 càng làm trầm trọng thêm quá trình suy giảm của ba trung tâm kinh tế thế giới: Mỹ, Nhật Bản, EU. Một đặc điểm bao trùm của thương mại 2001 là sự giảm sút rõ rệt của dòng chu chuyển hàng hoá và dịch vụ quốc tế do những biến động đối với kinh tế thế giới. Nếu so với mức tăng trưởng khá cao của hai năm trước đó là 5,3% của 1999 và 12,4% của 2000, mức tăng trưởng của thương mại thế giới năm nay là rất thấp. Trước sự kiện 11/ 09/2001, IMF dự tính tăng trưởng của thương mại thế giới là 4%, nhưng sau sự kiện này đã phải điều chỉnh lại chỉ còn 1%. Chính vì thế, tính bất ổn định và tính không chắc chắn của thương mại toàn cầu ngày càng tăng lên. Do tính liên kết và phụ thuộc lẫn nhau của các nền kinh tế và khu vực trên thế giới hiện nay ngày càng cao nên những biến động không tốt và các cú sốc của các trung tâm kinh tế thế giới đã làm ảnh hưởng xấu và nhanh đến phát triển kinh tế và thương mại của các khối nước và các khu vực kinh tế khác. Trái ngược với bức tranh u ám của tăng trưởng thương mại thế giới do tình hình kinh tế sa sút, tiến trình tự do hoá thương mại toàn cầu 2001 có vẻ sáng sủa và lạc quan hơn. Biểu hiện nổi bật có thế nói đến là Hội nghị Bộ trưởng thương mại các nước về việc khởi động vòng đàm phán mới của Tổ chức thương mại thế giới ( WTO) ở Đô ha vào tháng 11/ 2001 đã thành công. Hội nghị lần này đã đi đến thoả thuận về một chương trình làm việc mà theo đánh giá của ông Tổng giám đốc Mike More của WTO là “ to lớn và cân đối”. Một sự kiện nổi bật nữa mà không thể không đề cập là việc Trung Quốc trở thành thành viên thứ 143 của WTO sau 15 năm nỗ lực và cố gắng phấn đấu. Thêm Trung Quốc, trật tự thương mại tự do của thế giới sẽ có thêm một bạn hàng khổng lồ và có ảnh hưởng mạnh mẽ đến cạnh tranh các hàng xuất khẩu trên thị trường thương mại toàn cầu. Các khu vực và hiệp ước thương mại mới trên thế giới tiếp tục được thành lập hay xúc tiến thành lập, khẳng định xu hướng toàn cầu hoá ngày càng mạnh mẽ trên thế giới. Ngoài các hiệp ước thương mại tự do đã được khởi xướng và xúc tiến trong các năm trước, nhiều hiệp ước thương mại tự do mới giữa các nước tiếp tục được ra đời. Tiến trình tự do hoá thương mại một lần nữa được khẳng định đối với khu vực châu á- Thái Bình Dương. Khu vực thương mại tự do Tây bán cầu ( FTAA) cũng có được sự ủng hộ tích cực và có dấu hiệu tốt để trở thành hiện thực khi hiệp hội các nước Trung Mỹ và Caribê họp vào 12/12/2001 đã phê chuẩn đề án khu thương mại tự do này có kèm theo sự bảo hộ cho các nền kinh tế đang phát triển. Năm 2001 cũng là năm có nhiều tranh chấp thương mại giữa các khối và các khu vực. Dù sao xu hướng hội nhập và quốc tế hoá của kinh tế thế giới đã ngày càng trở nên rõ ràng. Các đàm phán về khu vực kinh tế và thương mại tự do sẽ tiếp tục được ủng hộ và đẩy mạnh trong tương lai. 3.2 Khái quát tình hình hội nhập trong thương mại thế giới 2002 Kinh tế thế giới phục hồi, tăng trưởng GDP toàn cầu là 2,8% so với mức 2,2% của năm 2001. Tăng trưởng giá trị thương mại thế giới (kể cả hàng hoá và dịch vụ là 2,1% so với mức 0,1% của năm 2001. Thương mại quốc tế đã có chiều hướng phục hồi trong năm 2002. Thế giới đã lại chứng kiến những bước thăng trầm của 3 nền kinh tế lớn nhất: Mỹ, EU và Nhật Bản. Kinh tế phát triển với những đặc điểm sau: chiến tranh xung đột vũ trang khu vực, tranh chấp biên giới lãnh thổ vẫn tiếp tục là thách thức gay gắt nhất đối với sự phát triển kinh tế của từng nước, từng khu vực và toàn thế giới, giá dầu biến động mạnh do nguy cơ chiến tranh ở vùng Vịnh gây tác động mạnh và trực tiếp tới kinh tế toàn thế giới. Làn sóng toàn cầu hoá và liên kết khu vực vẫn diễn ra mạnh mẽ, hội nhập và tự do hoá thương mại đang trở thành trào lưu lôi cuốn tất cả các nước trên thế giới. Mỹ sẽ tiếp tục dẫn dắt sự phục hồi kinh tế toàn cầu nhưng với động lực kém hơn nhiều. Trong khuôn khổ diễn đàn hợp tác APEC, Mê hi cô đưa ra chủ trương " mở rộng lợi ích hợp tác vì tăng trưởng và phát triển" trong đó đề cập tới nhiều nội dung hợp tác cụ thể và thiết thực. Mỹ đề xuất sáng kiến " Vì sự năng động của ASEAN", Pakistan bày tỏ mong muốn tham gia diễn đàn khu vực ARF, Xri lanka mong muốn có quan hệ với ASEAN. Thái Lan và My an ma vừa thiết lập quan hệ hợp tác với tổ chức hợp tác khu vực Nam á ( SAARC). Tất cả những yếu tố này là thực tiễn sinh động thể hiện xu hướng liên kết và hợp tác. Như vậy so sánh diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế thế giới trong 2 năm qua, bên cạnh những chiến tranh, tranh chấp thương mại, xung đột... thì trào lưu của tiến trình hội nhập vẫn diễn ra ngày càng mạnh mẽ chi phối hoạt động kinh tế. Đây là điều tất yếu mà mỗi quốc gia phải làm để tồn tại và phát triển. Chính vì thế, việc Việt Nam và Mỹ mở rộng quan hệ cũng là một điều dễ hiểu mà đỉnh cao của mối quan hệ này là sự ra đời của Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ. II/ Lợi ích của việc phát triển thương mại Việt- Mỹ: 1/ Giới thiệu chung về Hoa Kỳ: Mỹ là một thực thể khó đánh giá đối với chúng ta, khó cả về mặt chính trị, xã hội lẫn kinh tế. Trước đây, chúng ta nghiên cứu Mỹ về khía cạnh để chiến thắng Mỹ chứ không phải vì mục đích kinh tế. Ngày nay, chúng ta phải hiểu thấu đáo mọi khía cạnh về Mỹ để thiết lập quan hệ kinh tế- thương mại với Mỹ. Dưới đây là một vài nét lớn: 1.1- Vị trí địa lý: Hợp chủng quốc Hoa Kỳ ( the United State of America- USA ) tên gọi đầy đủ của nước Mỹ là một liên bang gồm 50 bang, trong đó có hai bang tách rời là Alaska ( ở vùng Tây Bắc lục địa Mỹ) và đảo Hawaii ở giữa Thái Bình Dương. Mỹ nằm ở trung tâm châu lục Bắc Mỹ, phía Bắc giáp Canada, phía Nam giáp Mêhi cô, phía Đông giáp Đại Tây Dương, và phía Tây giáp Thái Bình Dương. Nước Mỹ có diện tích khoảng 9,3 triệu km2, đứng thứ 4 trên thế giới sau Nga, Canada và Trung Quốc. 1.2- Văn hoá con người: Dân số Mỹ vào khoảng 285 triệu người ( tính đến hết năm 2001) chiếm khoảng 5% dân số toàn cầu, là nước đông dân thứ 3 trên thế giới chỉ sau Trung Quốc và ấn Độ. Mỹ là một quốc gia đa dân tộc, có nền văn hoá đa dạng phong phú, đại đa số là da trắng ( 72,7%) gồm phần lớn là người gốc Tây Ban Nha và những người di cư từ Đức, Anh, Ailen, ý, Thuỵ Điển...số còn lại là da màu ( gốc Phi:11,9%; La Tinh :11,6%; châu á: 3,8%), thổ dân chỉ chiếm khoảng 0,5 %. 51,5% dân số Mỹ là phụ nữ, còn lại là nam giới. Tuổi thọ trung bình của người Mỹ cao nhất thế giới: 74,9 tuổi. Về ngôn ngữ : hầu hết chỉ dùng tiếng Anh, ngoài ra có một số bang phía Nam dùng tiếng Tây Ban Nha. Tuy nhiên, tại đây có đủ các dân tộc trên thế giới họ vẫn hay thích dùng tiếng của mình để giao dịch. Văn hoá hợp chủng nhưng người Hoa Kỳ có cách giao tiếp thống nhất với nhau là thực dụng và chỉ quan tâm đến kết quả công việc, ít để ý đến các lễ nghi như người châu á. Dân số nước Mỹ đa dạng về tôn giáo, trước hết phải kể đến đạo Tin lành ( 61%), tiếp theo là thiên chúa giáo La Mã ( 25%), Do Thái giáo ( 2%), các tôn giáo khác ( 5%), không theo đạo ( 7%). 1.3- Nền kinh tế thị trường Mỹ: Người ta vẫn thường quan niệm nền kinh tế Mỹ được xây dựng từ gốc đến ngọn. Chính sự thông minh và tinh thần sáng tạo cao độ của người Mỹ đã tạo nên những điều kỳ diệu. Trên thực tế, từ năm 1890, Mỹ đã sản xuất nhiều sắt thép hơn cả Anh và Đức cộng lại. Năm 1900, theo một số tiêu chuẩn, Mỹ đã trở thành nước công nghiệp lớn nhất và công dân Mỹ được hưởng mức sống cao nhất thế giới. Năm 1913, nước Mỹ chiếm hơn 1/3 sản lượng công nghiệp thế giới. Sau chiến tranh thế giới I và II, nền kinh tế các nước châu Âu và Nhật bị tàn phá nặng nề. Trong khi đó, nền kinh tế Mỹ lại phát triển mạnh, giàu có lên nhờ chiến tranh: do bán vũ khí, lương thực thực phẩm, do vơ vét của cải ở các châu lục khác chuyển tới cất dấu trong chiến tranh... .Kết thúc chiến tranh thế giới II năm 1945, GNP của Mỹ chiếm đến 42% của toàn cầu. Với sức mạnh tuyệt đối về kinh tế sau chiến tranh, Mỹ bỏ vốn lớn để thành lập các tổ chức tài chính tiền tệ như: Quỹ tiền tề quốc tế ( IMF), Ngân hàng thế giới ( WB)...Thông qua các tổ chức tài chính, kinh tế trên, Mỹ chi phối rất mạnh nền kinh tế toàn cầu. Ngày nay, nền kinh tế Mỹ không còn thống soái trên thế giới như trước đây, nhưng với chỉ khoảng 5% số dân và 6% đất đai trên thế giới, Mỹ vẫn sản xuất khoảng 25% sản lượng công nghiệp, hàng hoá nông nghiệp và dịch vụ thế giới, và tỷ lệ này đã được duy trì suốt 15 năm qua. Mỹ đã không thụt lùi so với các nước khác. GNP tăng 3 lần kể từ sau chiến tranh thế giới II. Đúng hơn là các nước khác đã đuổi kịp hoặc thu hẹp khoảng cách với Mỹ. Tuy nhiên, tổng sản lượng của Mỹ vẫn gấp hơn 2 lần những đối thủ liền kề là Trung Quốc và Nhật. Và kinh tế Mỹ gấp hơn 4 lần các nền kinh tế mạnh sau mình là Đức, ấn Độ, Pháp và ý. Sau sự kiện 11/9/2001, khi toàn bộ nền kinh tế thế giới bị chao đảo thì mọi người nhận ra rằng Mỹ vẫn là điểm tựa của kinh tế thế giới. 1.3.1 Tài chính Đồng đô la Mỹ có vai trò thống trị thế giới. Gần 50% tổng lưu lượng thanh toán và đầu tư quốc tế được thực hiện bằng đồng đô la Mỹ. 24 nước gắn trực tiếp các đồng tiền của họ vào đồng đô la; 55 nước " neo giá" vào đồng đô la để thị trường tự do ấn định tỉ giá; các nước còn lại ở nhiều mức độ khác nhau, vẫn sử dụng các hệ thống dựa vào chỉ tiêu biến động của đồng đô la để tính toán giá trị đồng tiền của mình. Và đặc biệt với một thị trường chứng khoán chi phối hàng năm khoảng 8000 tỉ đô la (trong khi đó các thị trường chứng khoán Nhật chỉ vào khoảng 3800 tỉ đô la, EU là 4000 tỉ đô la) thì mọi biến động của đồng đô la và hệ thống tài chính Mỹ đều có ảnh hưởng đáng kể đến sự biến động của kinh tế thế giới. Wall Street ở New york là một trong những thị trường chứng khoán lớn nhất thế giới. Cùng với EU, Nhật Bản, Mỹ là một trong ba chủ đầu tư lớn nhất toàn cầu. 1.3.2 Công nghiệp Mỹ luôn là nước có vai trò hàng đầu trong rất nhiều lĩnh vực như hoá sinh và công nghệ gen, nghiên cứu và phát triển hàng không vũ trụ, thông tin liên lạc, máy tính và dịch vụ thông tin. Trong những lĩnh vực này, các công ty Mỹ bị cạnh tranh gay gắt trên toàn thế giới. Đôi khi đó là các công ty ngoại quốc được hậu thuẫn của một nhóm các quốc gia và chính phủ của họ. Tuy thế các ngành công nghiệp tư nhân Mỹ vẫn hoạt động khá tốt. Nhiều nước có các thung lũng Silicon của riêng họ, nhưng khu vực nghiên cứu và sản xuất máy tính đầu tiên và lớn nhất vẫn là thung lũng Silicon gần San Francisco, nơi có khoảng 4000 công nhân kỹ thuật cao. Trong ván bài pô kê kinh tế quốc tế, người nước ngoài vẫn chọn Mỹ làm nơi đổi tiền vào trước tiên. Sau đây là một vài số liệu về nền công nghiệp Mỹ: - Công nghiệp năng lượng: chủ yếu là dầu mỏ, khí đốt, than, thuỷ điện, uranium. Lượng dầu khai thác trong nước đáp ứng 50% nhu cầu. Mỹ dẫn đầu về sản xuất điện năng ( khoảng 2800 tỉ kwh) và năng lượng nguyên tử ( 67,1 triệu kwh), đứng thứ hai về thuỷ điện. - Công nghiệp chế tạo: giá trị khoảng 1000 tỷ đôla/năm. Nếu tính cả các công ty Mỹ đầu tư ở nước ngoài thì tổng sản phẩm của ngành công nghiệp chế tạo lên đến 1/2 tổng sản phẩm công nghiệp toàn thế giới. 1.3.3 Nông nghiệp Mỹ là nước nông nghiệp hàng đầu thế giới. Mỹ là nước cung cấp ngũ cốc lớn nhất, vượt xa các nước khác, trồng khoảng 12% tổng số lúa mì trên thế giới, 45% ngô, 18% bông, 10% yến mạch và lúa miến. Tương tự, các chủ nông trại và trang trại chăn nuôi Mỹ sản xuất khoảng 14% sản phẩm sữa trên thế giới, 17% các loại thịt, 27% các loại dầu mỡ thực vật và 53% đậu tương. Điều thật đáng ngạc nhiên là đất có thể được dùng để canh tác ở Mỹ chỉ chiếm chưa đầy 8% đất canh tác thế giới và chỉ có một phần rất nhỏ số dân Mỹ ( dưới 2%) làm nông nghiệp. Mỹ không chỉ nuôi sống dân mình- là một trong số ít các nước công nghiệp làm được như vậy- mà còn nuôi sống nhiều người dân khác trên thế giới. Đây là sự thực, mặc dù các nước khác như Trung Quốc và Nga có nhiều đất nông nghiệp hơn và nhiều người làm nông nghiệp hơn. Xuất khẩu chỉ chiếm chưa đến 1/10 tổng sản phẩm quốc dân nhưng nông nghiệp đóng góp gần như 1/5 con số này. Mỹ đứng đầu thế giới về xuất khẩu lúa mì, bắp, thịt các loại... đứng thứ ba thế giới về xuất khẩu gạo, thuỷ sản, nước trái cây. 1.3.4 Dịch vụ Các loại hình dịch vụ ( dịch vụ điện tử thương mại, dịch vụ thông tin, dịch vụ du lịch, dịch vụ bưu điện, dịch vụ vận tải biển...) chiếm từ 7-22% thị phần dịch vụ quốc tế. Riêng sản phẩm điện ảnh âm nhạc Mỹ cũng chiếm gần 30% trị giá sản phẩm giao dịch trong lĩnh vực này của thế giới. Văn hoá ẩm thực Mỹ phổ biến nhanh trên thế giới không phải vì thức ăn ngon mà về sự phong phú về thức ăn và kiểu ăn. Có thế đơn cử đồ uống của Coca-cola, bánh mì kẹp thịt, khoai tây chiên...Hầu hết các nước trên thế giới ở mức độ khác nhau đều sử dụng thông tin của các hãng truyền thông của Mỹ như CNN, CBS, Network... Doanh thu các ngành dịch vụ hàng năm ước tính hàng ngàn tỉ đô la. Theo dự đoán, năm 2010 thu nhập từ dịch vụ chiếm đến 93% GDP của Mỹ. 1.3.5 Chính sách đối ngoại Các chiến lược kinh tế- thương mại của Mỹ bao giờ cũng được đặt trong các chương trình điều chỉnh tổng thể nhằm thích ứng, thậm chí biến đổi các xu hướng phát triển của thế giới theo hướng có lợi cho kinh tế Mỹ. Do đó, trong các tính toán chiến lược nói chung, các chính sách kinh tế thương mại nói riêng, ta đều nhận thấy ít nhiều ảnh hưởng đối với các tổ chức kinh tế quốc tế và "luật chơi" chung của thế giới. "Luật chơi" này được thể chế hoá bằng các hiệp định của WTO. Nguyên tắc bao trùm chính sách ngoại thương của Mỹ là dùng chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch để chống lại chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch thông qua các công cụ thuế quan, hạn ngạch, các biện pháp kỹ thuật hạn chế xuất nhập khẩu, các luật thương mại...Đối với các nước đang phát triển, các nước có nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi như Trung Quốc, Việt Nam..., Mỹ thi hành chính sách: " cây gậy và củ cà rốt" vừa gây sức ép, vừa hỗ trợ ưu đãi để thông qua các hiệp định thương mại đa phương, song phương buộc các nước này phải cải tổ nền kinh tế, phát triển kinh tế thị trường, đẩy nhanh tiến trình hội nhập đảm bảo lợi ích ổn định lâu dài về tài chính, thương mại, đầu tư cho Mỹ. 1.4 Vài nét về thị trường Mỹ Với thu nhập bình quân đầu người ước tính 32000 đôla (năm 2000), cao điển hình trong nhóm các nước công nghiệp phát triển, dân Mỹ có mức tiêu dùng lớn nhất thế giới. Theo nghiên cứu của một nhóm chuyên gia Liên Hiệp Quốc, nếu sức tiêu dùng của các gia đình Nhật, EU là 1 thì của Mỹ là 1,7. Hàng năm, Mỹ xuất khẩu ra thị trường thế giới một trị giá hàng hoá khoảng gần 900 tỉ đô la(năm 2000), nhiều loại hàng xuất khẩu cần đến nguyên liệu xuất khẩu Mỹ là thị trường tiêu thụ lớn nhất thế giới, hàng năm nhập khẩu hàng hoá hơn 1300 tỉ đô la. Dân Mỹ có mức sống rất khác biệt nên hàng nhập khẩu đa dạng, đa loại phục vụ cho các phân đoạn thị trường khác nhau. Có thể chia thị trường Mỹ theo ba phân đoạn chính như sau: - Phân đoạn thứ nhất: gồm giới thượng lưu thường mua những nhãn hiệu nổi tiếng, có giá rất đắt nhưng đòi hỏi chất lượng rất cao ( thường những mặt hàng này có xuất xứ từ châu Âu: Pháp, Đức, ý...) - Phân đoạn thứ hai: gồm tầng lớp trung lưu có phần dễ tính hơn trong sở thích nhưng chủ yếu vẫn là mẫu mã đẹp, chất lượng cao và giá cả tương đối. - Phân đoạn thứ ba: gồm tầng lớp dân nghèo Mỹ, do đó yếu tố giá cả có tính quyết định tiêu dùng hơn cả . 2- Lợi ích Việt Nam thu được trong quan hệ với Mỹ: 2.1 Phát triển quan hệ ngoại thương theo hướng xuất khẩu: Việt Nam đang tích cực hoà nhập vào nền kinh tế thế giới, chuyển sang nền kinh tế thị trường hướng vào xuất khẩu. Thị trường xuất khẩu của Việt Nam còn rất nhỏ bé do chúng ta chậm hơn các nước khác trong quá trình hội nhập quốc tế. Hoa Kỳ vốn là một thị trường tiêu thụ lớn nhất thế giới. Năm 1996, Mỹ phải nhập khẩu trên 730 tỷ đô la, trong đó các nước thuộc khu vực châu á- Thái Bình Dương là những nhà cung cấp chính. Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường Mỹ sẽ tăng lên khi Việt Nam được hưởng quy chế tối huệ quốc. Ngoài ra Hoa Kỳ còn có thể dành cho Việt Nam hưởng lợi ích từ Hệ thống ưu đãi thuế quan chung ( Generalized System of Preferences- GSP). Đây là một chương trình đem lại lợi ích hầu như một cách độc quyền cho các nước đang phát triển bằng cách Hoa Kỳ loại bỏ thuế quan nhập khẩu đối với một số sản phẩm nào đó, nhằm giúp các nước kém phát triển dễ dàng tiếp cận vào thị trường Mỹ. Những loại hàng nào chỉ ra một cách cụ thể hai điều kiện để được hưởng GSP thì được miễn thuế nhập khẩu. Hai điều kiện đó là: hàng hoá đó thuộc danh mục được hưởng GSP và đáp ứng nguyên tắc xuất xứ từ các nước đang phát triển được hưởng lợi ( Beneficiary Developing Coutry-BDC). Ngoài ra Hoa Kỳ sẽ bật đèn xanh trong việc Việt Nam tham gia vào tổ chức thương mại thế giới (WTO) và Diễn đàn kinh tế châu á- Thái Bình Dương ( APEC). Qua đó, Việt Nam có thể mở rộng thị phần của mình tại thị trường Mỹ cũng như trên thị trường thế giới thông qua việc xuất khẩu những loại hàng hoá mà Việt Nam có lợi thế. 2.2 Tăng khối lượng đầu tư trực tiếp nước ngoài- FDI từ Hoa Kỳ Việt Nam đang phát triển nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, do vậy nhu cầu về vốn, công nghệ là rất lớn. Những nhu cầu này có thể đáp ứng qua hình thức đầu tư hấp dẫn để thu hút nguồn vốn FDI, trong đó có các công ty của Mỹ. Các công ty Mỹ rất có tiềm lực về vốn, công nghệ hiện đại và kinh nghiệm quản lý doanh nghiệp cũng như kinh doanh quốc tế. Do vậy các công ty Hoa Kỳ đầu tư vào Việt Nam, nền kinh tế Việt Nam không chỉ tiếp nhận một khối lượng vốn lớn mà còn tiếp cận được công nghệ "nguồn" hiện đại. Hơn thế các cán bộ Việt Nam có thể học tập được những kinh nghiệm kinh doanh quốc tế hiện đại thông qua tiếp xúc với các chuyên gia nước ngoài, công nhân Việt Nam có thể được tham gia các lớp bồi dưỡng kiến thức, tay nghề do phía Hoa Kỳ tổ chức. Hiện nay Hoa Kỳ là nước nhận FDI nhiều nhất và cũng là nước đầu tư ra nước ngoài lớn nhất. Mặc dù tiềm năng lớn nhưng mức đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ ở Việt Nam vẫn còn ở mức khiêm tốn. Chính vì vậy, nguồn FDI của Hoa Kỳ rất cần thiết và phù hợp với các yêu cầu phát triển của Việt Nam trong thời gian tới. 2.3 " Thêm bạn bớt thù" trong quan hệ kinh tế quốc tế Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, Việt Nam chỉ có quan hệ với các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa và luôn có sự đối đầu với các nước thuộc hệ thống tư bản chủ nghĩa, quan hệ Việt- Mỹ càng căng thẳng hơn khi Mỹ thất bại trong chiến tranh Việt Nam. Vì người Việt Nam vốn yêu chuộng hoà bình nên chúng ta đã thực thi chính sách đối ngoại mở cửa trong quan hệ quốc tế với quan điểm" Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình độc lập và phát triển". Do đó, quan hệ giữa Việt Nam và các nước tư bản chủ nghĩa nói chung và Hoa Kỳ nói riêng được cải thiện đáng kể. Chúng ta bình thường hoá quan hệ với Hoa Kỳ ngoài mục tiêu phát triển kinh tế đối ngoại thì còn có một ý nghĩa chính trị rất quan trọng đó là " thêm bạn bớt thù". Thông qua việc bình thường hoá quan hệ với Hoa Kỳ giảm bớt căng thẳng trong quan hệ quốc tế giữa Việt Nam với các khu vực trên thế giới. Vai trò của Hoa Kỳ như là một người đảm bảo an ninh trong khu vực châu á- Thái Bình Dương thông qua các Hiệp định an ninh với Nhật, úc và các căn cứ quân sự của Mỹ ở khu vực. Thiết lập quan hệ với Mỹ cũng tạo thuận lợi cho việc mở rộng và phát triển quan hệ kinh tế của nước ta với nhiều tổ chức kinh tế tài chính, tiền tệ quốc tế, trước mắt là xúc tiến đàm phán để gia nhập WTO vì theo quy định để được kết nạp vào WTO, cần phải giành được 2/3 số phiếu ủng hộ của các thành viên, phải đàm phán với nhiều nướcvà các tổ chức kinh tế lớn.Nếu không giành được sự ửng hộ của Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản thì khó có thể giành được 2/3 số phiếu thuận Trong khi Việt Nam đang dần khẳng định được vị thế của mình trong cộng đồng quốc tế thì quan hệ Việt Nam- Hoa Kỳ cũng có những bước phát triển mạnh mẽ. Hoa Kỳ đã bãi bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam ( 3/2/1994) và bình thường hoá quan hệ giữa hai bên( 11/7/1995), hai nước đã cử những đoàn chuyên viên cao cấp để bàn về những vấn đề mà hai bên quan tâm. Đầu tháng 5/ 1997, hai bên đã đồng ý cử đại sứ nhằm phát triển quan hệ giữa hai nước. Việt Nam luôn xác định là khép lại quá khứ, xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn tập trung phát triển kinh tế. Như vậy, quan hệ kinh tế Việt- Mỹ là một tất yếu khách quan không những phù hợp với xu thế vận động của thời đại mà còn thể hiện ý nguyện của nhân dân hai nước. 3. Lợi ích của Hoa Kỳ trong quan hệ với Việt Nam: 3.1 Khái quát chung về kinh tế Việt Nam: Việt Nam thuộc một trong số các nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ. Hiện nay, Việt Nam đang từng bước phát triển trên con đường công nghiệp hoá- hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nằm trên một bán đảo gần trung tâm Đông Nam á, quy mô lãnh thổ không nhỏ, khí hậu nhiệt đới gió mùa, nắng lắm, mưa nhiều, địa hình cảnh quan đa dạng. Vị trí địa lý của Việt Nam có thuận lợi đáng kể là nằm trên các đường hàng không và hàng hải quốc tế quan trọng. Hệ thống cảng biển là cửa ngõ không những cho nền kinh tế Việt Nam mà cả các quốc gia lân cận, đặc biệt là vùng Tây Nam lục địa Trung Hoa. Vị trí địa lý của Việt Nam tạo khả năng phát triển các hoạt động trung chuyển, tái xuất khẩu và chuyển khẩu hàng hoá qua các khu vực lân cận. Sự thuận lợi về vị trí địa lý là một tài nguyên vô hình. Tài nguyên thiên nhiên rất phong phú và đa dạng bao gồm đất đai, khoáng sản, tài nguyên rừng, tài nguyên biển...Sự phân bố các tài nguyên là phân tán và trong một số trường hợp ,điều kiện khai thác còn tương đối khó khăn, đòi hỏi có nguồn vốn lớn và công nghệ hiện đại. Dân cư và nguồn lao động Việt Nam liên quan nhiều tới việc hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Quy mô dân số lớn, chiếm 1,3% dân số thế giới, đứng thứ 13 trong số các nước đông dâ._.n nhất. Nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ, tư chất người lao động Việt Nam rất cần cù, sáng tạo với nhiều ngành nghề cổ truyền, tiếp thu nhanh nghề nghiệp mới. Lao động Việt Nam được đào tạo ở nhiều nguồn khác nhau, trình độ văn hoá, khoa học, tay nghề kỹ thuật đang được nâng cao, có khả năng ứng xử linh hoạt, có thể tham gia tích cực vào phân công lao động quốc tế. Tuy nhiên, sức lao động của Việt Nam còn hạn chế về thể lực, về trình độ tổ chức kỷ luật, về khả năng hợp tác trong công việc và còn thiếu nhiều việc làm. Quy mô của nền kinh tế Việt Nam còn rất nhỏ bé cả về chỉ tiêu GDP cũng như kim ngạch xuất khẩu so với nền kinh tế thế giới. Cơ cấu kinh tế còn mang tính chất lạc hậu, trình độ công nghệ thấp, vẫn là một nền kinh tế chủ yếu ở giai đoạn khai thác và khai thác sức lao động, hàm lượng khoa học công nghệ và hàm lượng vốn thấp, cơ sở hạ tầng yếu kém. Nông nghiệp Việt Nam hiện nay vẫn là một nền nông nghiệp chủ yếu dựa vào trồng trọt, còn lại là chăn nuôi; ngành sản xuất này chịu ảnh hưởng trực tiếp của thiên tai nên khó tăng trưởng nhanh. Công nghiệp Việt Nam trong những năm gần đây đã có những tăng trưởng rõ nét. Tuy nhiên, phần lớn trang thiết bị cũ kỹ, cơ sở sản xuất yếu kém, năng suất lao động thấp, chưa đủ mạnh để tham gia thị trường thế giới, cạnh tranh với hàng ngoại nhập. Những thành tựu bước đầu nhưng rất quan trọng đạt được qua hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới cho phép rút ra kết luận rằng: vị trí của Việt Nam trong quan hệ chính trị kinh tế tuỳ thuộc rất nhiều vào việc chúng ta tăng trưởng chính sách và biện pháp kịp thời, đúng đắn đến đâu để kết hợp các nguồn lực trong nước với các nguồn lực bên ngoài nước phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội, để có một chỗ đứng trong nền kinh tế thế giới. Trong phạm vi khu vực Đông Nam á- Tây Thái Bình Dương, Việt Nam có vị trí địa lý chính trị quan trọng: quan hệ hợp tác với Việt Nam là một nước cờ không thể bỏ qua trong trò chơi cân bằng lực lượng của các cường quốc trong tương lai gần để giành giật và phát triển ảnh hưởng của mỗi cường quốc kinh tế ở khu vực này, một khu vực đầy tính năng động và có thể trở thành một trung tâm kinh tế thế giới trong thể kỷ 21. 3.2 Mở rộng thị trường xuất khẩu: Chúng ta đã biết Hoa Kỳ là một nước xuất khẩu lớn nhất thế giới. Hàng hoá của Mỹ xuất hiện trên tất cả các thị trường thế giới và luôn chiếm thị phần đáng kể. Điều này phù hợp với chiến lược thúc đẩy xuất khẩu để tạo công ăn việc làm, tăng trưởng kinh tế nên Hoa Kỳ luôn tìm cách mở rộng thị trường xuất khẩu của mình. Thị trường Việt Nam với gần 80 triệu dân là một thị trường đầy tiềm năng với sức mua của người dân ngày càng tăng. Các công ty nước ngoài đang thực hiện các chiến dịch lớn để chiếm lĩnh thị trường này vì họ có thu được nguồn lợi lớn khi bán hàng hóa trên thị trường Việt Nam trong khi đó các công ty Mỹ chỉ có thị phần rất nhỏ bé so với tiềm năng của mình. Sự chậm trễ này không phải do lỗi của các công ty Mỹ mà do quan hệ của hai nước chưa được bình thường hoá hoàn toàn, còn tồn tại những quy định ngăn cản các công ty hoạt động tại thị trường Việt Nam. 3.3 Việt Nam là thị trường cung cấp một số nguyên vật liệu: Hoa Kỳ là một trong những quốc gia có nguồn tài nguyên giàu có nhất thế giới nhưng Mỹ vẫn có chiến lược bảo đảm nguồn cung cấp cho một số nguyên nhiên vật liệu cần thiết, Hoa Kỳ có những chính sách khuyến khích nhập khẩu vật liệu trong nước. Chính vì vây, nền sản xuất Hoa Kỳ thường phụ thuộc vào các nguồn cung cấp nguyên vật liệu từ nước ngoài. Việc phụ thuộc quá nhiều vào một nước hay một khu vực về một số nguyên liệu dễ gây tình trạng bị động trong sản xuất như cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1970. Do vậy, Hoa Kỳ thực hiện chính sách đa dạng hóa nguồn cung cấp. Trong khi đó, Việt Nam, cũng như các nước đang phát triển trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá đất nước, chủ yếu xuất khẩu sản phẩm thô, tài nguyên thiên nhiên chưa qua chế biến do không có công nghệ hiện đại để chế biến thành sản phẩm tiêu dùng cuối cùng đạt chất lượng cao và cần các ngoại tệ để nhập khẩu thiết bị từ nước ngoài nhằm hiện đại hoá nền sản xuất trong nước. Hiện nay, Hoa Kỳ cũng rất quan tâm đến một số sản phẩm sơ chế của Việt Nam. Các doanh nghiệp của Mỹ có thể nhập được những nguyên vật liệu rẻ làm cho giá thành sản phẩm giảm xuống, tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá Mỹ. Việc nhập khẩu một số sản phẩm sơ chế từ Việt Nam cũng góp phần làm ổn định hơn nguồn cung cấp nguyên liệu cho nền sản xuất Hoa Kỳ. Tóm lại, việc Việt Nam mở rộng quan hệ kinh tế với Hoa Kỳ là một điều tất yếu, phù hợp với trào lưu phát triển của nền kinh tế thế giới trong thế kỷ 21. Quan hệ này đã mang lại lợi ích cho cả hai nước. Kết quả của những nỗ lực, cố gắng của hai bên là sự ra đời của Hiệp định Thương mại Việt- Mỹ, một Hiệp định đã tạo ra một trang mới trong những chặng đường của quan hệ thương mại Việt- Mỹ. Chương II Thực trạng thương mại Việt - Mỹ I/ Giai đoạn trước khi hiệp định thương mại được ký kết: 1. Trước khi Hoa Kỳ bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam (trước 03/02/1994) 1.1 Trước 1975 Hoa Kỳ có quan hệ thương mại với chính quyền Việt Nam Cộng Hoà (Ngụy) cũ. Kim ngạch buôn bán không lớn chủ yếu là hàng nhập khẩu bằng viện trợ của Hoa Kỳ để phục vụ chiến tranh. Phần xuất khẩu có xuất khẩu một số mặt hàng như cao su, gỗ, hải sản, đồ gốm ... song kim ngạch xuất khẩu không đáng kể. 1.2 Sau 1975 Tháng 5/1964, Hoa Kỳ áp dụng "đạo luật buôn bán với kẻ thù" (tức là với các nước cộng sản lúc đó), cấm vận chống miền Bắc nước ta. Theo đạo luật này, Việt Nam bị coi là kẻ thù và những hành động quan hệ với kẻ thù sẽ bị trừng trị. Tất cả mọi trao đổi, giao lưu với Việt Nam trên tất cả các mặt đều bị cấm. 30/4/4975, Hoa Kỳ mở rộng lệnh cấm vận với toàn bộ đất nước Việt Nam. Cấm vận không chỉ áp dụng trong buôn bán mà cả trong các hoạt động tài chính, tín dụng, ngân hàng, tài sản ... Hoa Kỳ xếp Việt Nam vào nhóm S cùng với Cuba, Bắc Triều Tiên - nhóm nước bị hạn chế nhất trên cơ sở "Đạo luật kiểm soát xuất khẩu 1979", đặc biệt là những hạn chế nghiêm ngặt trong xuất khẩu các trang thiết bị tiên tiến, hiện đại, kĩ thuật cao của Hoa Kỳ. Đồng thời Hoa Kỳ khống chế các nước đồng minh và các tổ chức quốc tế do Hoa Kỳ thao túng trong mối quan hệ kinh tế thương mại với Việt Nam. Mặc dù bị Hoa Kỳ cấm vận song thông qua con đường trực tiếp và gián tiếp, Việt Nam vẫn có quan hệ kinh tế với nhiều nước, nhiều tổ chức kinh tế. Và bằng con đường gián tiếp, hàng của Mỹ vẫn vào được thị trường nước ta. Số liệu thống kê của Việt Nam cho thấy: Thời kì 1986 - 1989 xuất khẩu hầu như bằng 0, trong khi nhập khẩu từ Hoa Kỳ đạt giá trị gần 5 triệu đô la Mỹ. Hàng Hoa Kỳ nhập vào nước ta năm 1987 đạt trị giá 23 triệu đô la Mỹ; năm 1988: 15 triệu Đô la Mỹ; năm 1989: 11 triệu Đô la (Nguồn: Bộ Thương mại Hoa Kỳ) 1.3 Những năm đầu thập kỉ 90 Quan hệ ngoại giao cũng như quan hệ kinh tế thương mại đã có những bước tiến vượt bậc. Từ tháng 4/1992, Mỹ xuống thang đi vào lộ trình hướng tới bãi bỏ cấm vận mở đầu bằng việc cho phép xuất khẩu sang Việt Nam hàng hóa đáp ứng nhu cầu thiết yếu của con người và bỏ các hạn chế đối với các Tổ chức phi chính phủ Hoa Kỳ viện trợ nhân đạo cho Việt Nam ( 30/4/1992), tiếp đó cho phép các công ty Mỹ mở văn phòng đại diện và ký các hợp đồng kinh tế ở Việt Nam nhưng chỉ giao dịch kinh doanh sau khi bỏ cấm vận ( 14/12/ 1992): ra quyết định về cấp giấy phép buôn bán với Việt Nam ( 9/ 1993). Để tới được lộ trình này, cả hai phía đã có những nỗ lực vượt bậc theo hướng đưa ra các bước tiến tới bình thường hoá quan hệ với Việt Nam. Tháng 7/ 1993, tổng thống Bill Clinton tuyên bố không can thiệp vào các tổ chức tài chính quốc tế, trước hết là Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới( WB), Ngân hàng phát triển châu á ( ADB) nối lại quan hệ với Việt Nam. Trong thời kỳ này, nhiều đoàn đại biểu thương mại Hoa Kỳ đã đến Việt Nam thăm dò thị trường, tìm kiếm cơ hội, khả năng hợp tác đầu tư và thương mại. Cùng với những nỗ lực cải thiện quan hệ của hai chính phủ, hoạt động ngoại thương cụ thể giữa hai nước trong những năm đầu thập kỷ 90 đã có được những bước tiến ban đầu. Năm 1990, theo thống kê Việt Nam, ta đã xuất được lượng hàng giá trị khoảng 10.000 USD, 1991: 9.000 USD; 1992: 110.000 USD và 1993: 85.000 USD. Về nhập khẩu, trong giai đoạn 1991- 1993, giá trị hàng hoá Hoa Kỳ nhập khẩu vào Việt Nam đã đạt gần 7 triệu USD so với 5 triệu USD của thời kỳ 1986- 1990. Những con số trên cho thấy dấu hiệu khả quan của quan hệ buôn bán giữa hai nước. Tuy nhiên, kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước vẫn là con số quá khiêm tốn, chỉ chiếm 0,14% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam năm 1993 chưa nói đến kim ngạch xuất nhập khẩu khổng lồ của Mỹ. Điều này phản ánh đúng thực trạng là quan hệ buôn bán giữa hai nước vẫn còn là một hạn chế lớn nhất và cơ bản nhất, đó là lệnh cấm vận thương mại của Mỹ. Tuy nhiên, nhiều công ty Mỹ đã có mặt tại Việt Nam và đã chuẩn bị tất cả các điều kiện để tung hàng hoá ra bán khi có lệnh cấm vận được bãi bỏ. 2. Giai đoạn sau khi lệnh cấm vận được bãi bỏ: Ngày 3/ 2/ 1994, tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton chính thức tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận chống Việt Nam. Bộ thương mại Hoa Kỳ đã chuyển Việt Nam từ nhóm Z lên nhóm Y, ít hạn chế thương mại hơn ( gồm Liên Xô cũ, các nước thuộc khối Vacsava cũ, Anbani, Mông Cổ, Lào, Cam pu chia và nay thêm Việt Nam). Bộ vận tải và Bộ thương mại Hoa Kỳ bãi bỏ lệnh cấm tàu biển và máy bay Hoa Kỳ vận chuyển hàng hóa sang Việt Nam; cho phép tàu mang cờ Việt Nam vào cảng Hoa Kỳ nhưng còn hạn chế vào phải xin phép trước 7 ngày và thông báo tàu đến trước 3 ngày. Ngày 11/ 7/ 1995, tổng thống Bill Clinton đã công bố công nhận ngoại giao và bình thường hóa quan hệ ngoại giao bằng việc hai bên chính thức khai trương Đại sứ quán cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Washington và Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội, cử đại diện lâm thời tại thủ đô của nhau. Những sự kiện này mở đầu thời kỳ giao bang đầy đủ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Tháng 10/ 1995, trong chuyến sang Mỹ dự lễ kỉ niệm 50 năm thành lập Liên hợp quốc, Chủ tịch nước ta Lê Đức Anh lần đầu tiên tới thăm Hoa Kỳ và tiếp xúc với nhiều quan chức cấp cao của chính quyền Mỹ. Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm và Bộ trưởng thương mại Lê Văn Triết cũng thăm Hoa Kỳ trong dịp này với mục đích ưu tiên hàng đầu về kinh tế. Năm 1997 ghi nhận những bước tiến quan trọng trong quan hệ giữa hai nước. Hai bên đã ký được hiệp định về bản quyền vào cuối tháng 6/ 1997. Từ 6 đến 8/ 4/ 1997, Bộ trưởng tài chính Hoa Kỳ Robert Rubin đã đến thăm và làm việc tại Việt Nam. Hai bộ trưởng tài chính Việt Nam và Hoa Kỳ thay mặt hai chính phủ ký hiệp định xử lý nợ 145 triệu USD từ thời chính quyền Sài Gòn. Đây là bước quan trọng để tiến tới việc ký hiệp định thương mại và bình thường hoá hoàn toàn về kinh tế. Ngày 9/ 5/ 1997, vị đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Hoa Kỳ đến Hà Nội, cũng như đại sứ đầu tiên của Việt Nam có mặt tại Hoa Kỳ để thực hiện nhiệm kỳ công tác của mình. Việc làm này chứng tỏ sự quan tâm của Mỹ đến việc cải thiện quan hệ giữa hai nước và điều đó phù hợp với mong muốn của nhân dân Mỹ. Nó chứng tỏ rằng hai nước đều có thiện chí khép lại quá khứ, nhìn về tương lai nhằm bình thường hoá quan hệ mọi mặt. Song song với những sự kiện có tính bước ngoặt đó có tới hàng trăm đoàn đại diện kinh tế- thương mại của Hoa Kỳ đã tới Việt Nam để tìm hiểu và mong muốn thiết lập quan hệ làm ăn lâu dài ở Việt Nam. Theo số liệu thống kê của VCCI, trong nửa đầu năm 1995 đã có trên 100 đoàn với gần 300 lượt doanh nhân Hoa Kỳ đến Việt Nam. Các phái đoàn này đều rất quan tâm đến môi trường đầu tư và buôn bán ở thị trường Việt Nam, trên lĩnh vực khác nhau. Thực tế này chứng tỏ quan hệ kinh tế- thương mại giữa hai nước đã bước sang giai đoạn mới với những việc làm cụ thể và đem lại những kết quả thiết thực. Về phía Việt Nam, Việt Nam đã tổ chức được triển lãm hàng xuất khẩu VIETEXPORT '94- San Francisco tại Hoa Kỳ. Triển lãm đã thành công và gây tiếng vang lớn trong dư luận Hoa Kỳ. Triển lãm cũng tạo cơ hội mới cho các nhà doanh nghiệp Việt Nam tìm hiểu cung cách làm ăn với Hoa Kỳ, cách làm ăn chính quy, bài bản trong một nền kinh tế phát triển. Cùng với triển lãm, ta còn tổ chức hội thảo giới thiệu với các nhà doanh nghiệp Hoa Kỳ về môi trường đầu tư kinh doanh ở Việt Nam và hội thảo giới thiệu về thị trường Hoa Kỳ, luật lệ và tập quán buôn bán với Hoa Kỳ cho các nhà doanh nghiệp Việt Nam. Tuy chưa có con số thống kê chính xác là hàng Hoa Kỳ chiếm bao nhiêu thị phần ở Việt Nam, nhưng có thể thấy là hầu hết các hãng nổi tiếng như Microsoft, Nikon, Caltex, Pepsi, Carrier, Coca- Cola... đều đã có mặt ở Việt Nam. Mặc dù đến muộn hơn so với các nước khác song với nguồn vốn lớn, chiến lược Marketing độc đáo, chất lượng cao, các sản phẩm của Hoa Kỳ nhanh chóng giành được cảm tình của người Việt Nam và tăng thị phần trên thị trường này. Đến 1993, chưa có tấn hàng nào của Việt Nam xuất được sang Hoa Kỳ theo con đường chính ngạch. Sau khi huỷ bỏ lệnh cấm vận, hàng Việt Nam mới từ từ thâm nhập vào thị trường rộng lớn này. EPCO là hãng đầu tiên với 2,1 triệu USD tôm, cà phê xuất sang California tính đến cuối năm 1994. Đến 1996, doanh số hàng xuất khẩu sang Hoa Kỳ của EPCO đạt gần 8 triệu USD. EPCO là công ty đầu tiên mở văn phòng đại diện của mình tại Hoa Kỳ, tiếp theo đó là hãng giầy dép Bitis ( Nguồn: Tạp chí thương mại số tháng 7/ 1997). Nhờ hợp tác tốt ở tầm vĩ mô và những nỗ lực của các doanh nghiệp hai nước từ khi lệnh cấm vận được bãi bỏ, hoạt động thương mại giữa hai nước đã có những bước tiến đáng kể. Bảng 1: Kim ngạch XNK Việt Nam- Hoa Kỳ 1994- 1996 đơn vị: triệu USD Chỉ tiêu 1994 1995 1996 Tổng kim ngạch XNK 222,673 451,826 935 Kim ngạch nhập khẩu 172,223 252,860 616 Kim ngạch xuất khẩu 50,450 198,966 319 ( Nguồn: Bộ thương mại Hoa Kỳ) Theo bảng trên cho thấy tốc độ tăng trưởng rất nhanh chưa từng có kể từ trước cả về xuất khẩu và nhập khẩu. Điều đó chứng tỏ lệnh cấm vận được bãi bỏ là điều rất hợp lý để phát triển quan hệ buôn bán hai nước. 3- Khi bình thường hoá quan hệ hai nước: Tháng 7/ 1995, tổng thống Bill Clinton tuyên bố bình thường hoá quan hệ với Việt Nam. Động thái chính trị này đã làm cho quan hệ thương mại giữa hai nước phát triển theo chiều hướng tích cực. 3.1 Xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ: Năm 1995, kim ngạch xuất khẩu sang Hoa Kỳ đạt 198,966 triệu USD ( gần gấp 4 lần năm 1994) , trong đó hàng nông nghiệp chiếm 151,549 triệu USD ( 76,2% giá trị hàng xuất khẩu sang Hoa Kỳ) và hàng phi nông nghiệp là 47,417 triệu USD ( 23,8%). Chỉ trong 9 tháng đầu năm 1996, giá trị kim ngạch xuất khẩu sang Hoa Kỳ đạt 232,595 triệu USD, trong đó hàng nông nghiệp chỉ còn chiếm 45,7% ( 106,392 triệu USD) và hàng phi nông nghiệp đã chiếm 54,3% ( 126,203 triệu USD). ( Nguồn: Số liệu Bộ thương mại). Bảng 2: Cơ cấu hàng xuất khẩu Việt Nam sang Hoa Kỳ giai đoạn 1994- 1996 Đơn vị: triệu USD Chỉ tiêu 1994 1995 1996 * Tổng kim ngạch XNK 50,450 198,966 232,595 1. Nông, lâm thuỷ sản 37,721 170,407 120,960 2. Công nghiệp nhẹ 3,891 24,401 47,960 3. Công nghiệp nặng và khoáng sản 0,106 0,799 56,139 4. Hàng có giá trị thấp và các hàng khác 8,732 3,359 7,529 (Nguồn: Bộ thương mại Hoa Kỳ (*) số liệu từ tháng 1 đến tháng 9/ 1996) Theo bảng trên, mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Hoa Kỳ là thuộc nhóm nông, lâm, thuỷ sản với kim ngạch tương ứng chiếm 74,8%; 85,6% và 52% tổng kim ngạch xuất khẩu. Hàng công nghiệp nhẹ của Việt Nam cũng đã bắt đầu xâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ với sự tăng đột biến sau 1 năm bình thường hoá quan hệ. Hàng thực phẩm chế biến và bia cũng đã chen chân được vào thị trường đặc biệt khó tính trong lĩnh vực này. Công ty bia Huế dưới nhãn hiệu" Hue beer" đã sớm có mặt trên thị trường Hoa Kỳ. Bia Sài Gòn cũng vậy. Công ty nhập khẩu thực phẩm hàng đầu Hoa Kỳ- công ty liên doanh M.E FOX và Heritage Beverage đã nhận làm đại lý độc quyền của công ty bia Sài Gòn tại Hoa Kỳ. Trong năm 1996, ta đã bắt đầu xuất dầu thô sang Hoa Kỳ và đạt trị giá 55,5 triệu USD trong 9 tháng đầu năm, báo hiệu sự tăng kim ngạch nhóm mặt hàng này trong tương lai. Tuy xuất hiện muộn, song giá trị mặt hàng chiếm vị trí thứ hai sau cà phê trong doanh mục các mặt hàng Hoa Kỳ nhập khẩu nhiều nhất từ Việt Nam. Vậy đa số các mặt hàng xuất khẩu sang Hoa Kỳ trong 3 năm qua là các mặt hàng Việt Nam có khả năng và lợi thế sản xuất do tận dụng được điều kiện tài nguyên thiên nhiên và giá trị nhân công rẻ. Bảng 3: Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Hoa Kỳ Đơn vị: triệu USD Chỉ tiêu 1994 1995 1996 1.Gia vị, cà phê và chè 31,193 146,455 110,910 2. Cá và hải sản 5,802 19,583 33,990 3. Dầu thô 1,105 0,015 80,650 4.Hàng dệt may 2,436 15,092 20,031 5. Giầy dép 0,069 3,308 39,169 (Nguồn: Công ty du lịch thông tin thương mại toàn cầu ( GTCI)) - Cà phê, chè, gia vị: (mã HS 09- 0111) là những mặt hàng được Hoa Kỳ khuyến khích nhập khẩu, vì thế được miễn thuế hoàn toàn, kể cả với hàng của Việt Nam. Việt Nam đã tận dụng lợi thế này là tăng cường xuất khẩu vào Hoa Kỳ. Đặc biệt là mặt hàng cà phê trong 3 năm liền đều đứng đầu danh sách các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam vào Hoa Kỳ. Nếu năm 1994, kim ngạch xuất khẩu cà phê đạt 19,969 triệu USD thì năm 1995 đạt 145,174 triệu USD và năm 1996 đạt 109,4 triệu USD. So với tiềm năng nhập khẩu cà phê của Hoa Kỳ là 1,8 tỷ USD hàng năm thì kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này chỉ đáp ứng một phần rất nhỏ nhu cầu của Hoa Kỳ. - Hàng thuỷ sản ( mã HS 03- 0613) Sau khi bình thường hóa quan hệ, kim ngạch thuỷ sản 1995 đã tăng lên 3 lần so với năm 1994 và năm 1996 con số này tăng gần gấp 2 lần so với 1995. Hoa Kỳ khuyến khích nhập khẩu mặt hàng này nhưng đòi hỏi chủ yếu là hàng cao cấp và sẵn sàng trả giá cao hơn các thị trường khác. Do đó hàng Việt Nam ta với chất lượng thấp, pha tạp nhiều chủng loại nên khi thâm nhập vào thị trường này vẫn còn có nhiều khó khăn. Việt Nam cần phải nâng cao chất lượng chế biến thuỷ sản đặc biệt là tôm cá đông lạnh để xâm nhập sâu vào thị trường Hoa Kỳ, vì đây là một thị trường lớn và đầy tiềm năng với kim ngạch nhập khẩu hàng năm là 2,5 tỷ USD. - Giầy dép: 1 năm sau khi bình thường hoá quan hệ Việt- Mỹ, kim ngạch xuất khẩu ngành này đã tăng vọt. Nguyên nhân là do sự khác biệt giữa các mức thuế MFN và phi MFN đối với mặt hàng này. Các mức chênh lệch về thuế tương đối nhỏ này cho phép Việt Nam cạnh tranh với các nước đã được hưởng MFN. Ngoài ra hàm lượng lao động cao đối với sản phẩm giầy dép đã tạo ra cho Việt Nam một lợi thế cạnh tranh. - Hàng dệt may ( mã số HS 62- 0520) Theo bảng trên thì thấy mặt hàng này có sự chuyển biến tôt đẹp, nhưng nếu so với tổng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường khổng lồ Hoa Kỳ thì khá nhỏ, chỉ chiếm 2,9 %. Còn nếu so với các đối thủ khác nhập khẩu vào Hoa Kỳ như Trung Quốc ( 6,1 tỷ USD), Hồng Kông ( 4 tỷ USD), Hàn Quốc ( 2,5 tỷ USD), Đài Loan( 2,3%) thì hàng may mặc Việt Nam vẫn chưa xâm nhập sâu được vào thị trường Hoa Kỳ. Nguyên nhân chính là do mức thuế phi MFN đối với hàng dệt kim cao hơn rất nhiều so với mức thuế MFN đối với mặt hàng này. - Dầu thô: Kim ngạch rất nhỏ bé, hầu như không có gì trong 2 năm 1994- 1995 nhưng lại tăng vọt lên Hoa Kỳ nhập khẩu nhiều nhất từ Việt Nam. Mức xuất khẩu này cao hơn so với xuất khẩu sang châu Âu năm 1995( 21,49 triệu USD) nhưng vẫn thấp hơn rất nhiều so với mặt hàng này xuất khẩu sang Nhật Bản ( đạt 709,722 triệu USD trong năm 1996). 3.2 Nhập khẩu của Việt Nam từ Hoa Kỳ: Ngay từ đầu tiên ngay khi Hoa Kỳ huỷ bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam, hàng nhập khẩu từ Hoa Kỳ đã tăng mạnh về số lượng và phong phú, đa dạng về chủng loại. Năm 1993, chỉ có 4 mặt hàng được phép xuất khẩu sang Việt Nam, nhưng trong năm 1994 số nhóm hàng đã tăng lên đến con số 35. Trong đó có 12 nhóm mặt hàng Việt Nam thường nhập khẩu với giá trị lớn. Nếu kim ngạch nhập khẩu hàng từ Hoa Kỳ 1994 đạt trị giá 172,223 USD thì sang năm 1995 con số này đã tăng vọt lên 252,86 triệu USD. Trong năm 1996, riêng trong 9 tháng đầu năm, hàng nhập khẩu từ Hoa Kỳ đã gấp 2 lần cả năm 1995, đạt 530,597 triệu USD. Nhìn vào bảng 1 có thể thấy Việt Nam luôn nhập siêu lớn trong buôn bán với Hoa Kỳ. Nếu 1994, con số này là 121,773 triệu USD thì năm 1995 con số này giảm đáng kể chỉ ở mức 53,894 triệu USD nhưng lại tăng đột biến vào 1996 với số lượng 298 triệu USD trong 9 tháng đầu năm. Lượng nhập siêu cao do Việt Nam nhập khẩu hàng phi nông nghiệp với kim ngạch lớn, trong đó chủ yếu là máy móc, thiết bị. Trong cơ cấu xuất khẩu sang Hoa Kỳ, hàng nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn; ngược lại hàng phi nông nghiệp lại chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nhập khẩu Việt Nam từ Hoa Kỳ. Theo đó năm 1994, 1995, 1996 kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam trong lĩnh vực hành phi nông nghiệp tương ứng là 115,196 triệu USD; 229,291 triệu USD và 501,77 triệu USD, chiếm tỷ trọng lần lượt là 90,11%, 90,68% và 94,57%. Hàng phi nông nghiệp không chỉ tăng mạnh về giá trị tuyệt đối qua các năm mà còn tăng cả về tỷ trọng trong tổng kim ngạch nhập khẩu. Riêng 1994, 1996 lượng nhập siêu cao chủ yếu do Việt Nam mua máy bay của Hoa Kỳ với tổng kim ngạch lớn tương ứng là 72 triệu USD và 281,076 triệu USD. Bảng 4: Cơ cấu hàng nhập khẩu của Việt Nam từ Hoa Kỳ đơnvị: triệu USD TT Nhóm hàng 1994 1995 1996(*) 1 Máy móc thiết bị, phương tiện vận tải và phụ kiện 107,012 115,411 344,796 2 Nguyên vật liệu phụ sản xuất 36,376 55,386 77,446 3 Hàng tiêu dùng 5,239 21,711 36,944 4 Hàng xuất khẩu từ thiện 4,162 6,679 0,580 5 Hàng có giá trị thấp và các hàng nhập khẩu khác 19,434 53,673 66,831 Tổng kim ngạch nhập khẩu 172,233 252,860 530,597 (Nguồn: Bộ thương mại Hoa Kỳ (*) số liệu từ tháng 1-9/1996) Theo bảng 4, nhóm hàng máy móc thiết bị nói chung chiếm phần lớn tổng số kim ngạch nhập khẩu từ Hoa Kỳ. Điều này phản ánh đúng định hướng nhập khẩu của ta cũng như đặc điểm cơ cấu nhập khẩu của Hoa Kỳ. Nhóm mặt hàng nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất cũng chiếm phần kim ngạch đáng kể, chủ yếu là phân bón, bông sợi, xăng dầu, sắt, thép, một số loại hoá chất... những mặt hàng trong nước chưa sản xuất được và sản xuất chưa đủ đáp ứng nhu cầu tiêu thụ. Các mặt hàng tiêu dùng cũng được nhập với kim ngạch năm sau tăng mạnh so với năm trước. Đặc biệt trong danh mục trên còn có hàng xuất từ thiện, chủ yếu là thuốc men, bột dinh dưỡng...Giá trị nhập tương đối lớn nhưng sang 1996 giảm mạnh. Như vậy, chỉ trong 3 năm sau khi Hoa Kỳ chính thức bãi bỏ lệnh cấm vận và công nhận bình thường hoá quan hệ với Việt Nam thì quan hệ thương mại giữa hai nước không những phát triển rất nhanh về khối lượng mà còn có sự thay đổi lớn về cơ cấu hàng xuất nhập khẩu. Năm 1996 không chỉ đánh dấu sự tăng trưởng trong thương mại Việt Mỹ mà còn là 1 năm với những sự kiện đáng ghi nhớ liên quan đến sự ra đời của Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ. Tháng 04/1996, Mỹ trao cho Việt Nam văn bản "Những yếu tố bình thường hoá quan hệ kinh tế thương mại với Việt Nam". Tháng 7/1996, Việt Nam trao cho Mỹ văn bản "Năm nguyên tắc bình thường hoá quan hệ kinh tế thương mại và đàm phán Hiệp định Thương mại với Mỹ". Tháng 9/1996, bắt đầu quá trình đàm phán hiệp định thương mại song phương với vòng 1 từ 21/9 đến 26/9 và vòng đàm phán 2 từ 9/12 đến 11/12 tại Hà Nội. Trong 3 năm khi mà Hiệp định Thương mại đang trải qua 7 vòng đàm phán tiếp theo thì quan hệ thương mại Việt-Mỹ cũng có một số thay đổi. Bảng 5: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ 1997- 1999 đơn vị: triệu USD Năm 1997 1998 1999 Kim ngạch xuất khẩu ( triệu USD) 372 519,5 601,9 So sánh với năm trước ( %) 120,8 139,7 108,8 ( Nguồn: Số liệu của Bộ thương mại Việt Nam và tính toán của người viết) Qua những số liệu ở bảng 5, ta nhận thấy doanh số xuất nhập khẩu của Việt Nam sang Mỹ liên tục gia tăng với mức tăng của 1998 là đột biến so với 1997 nhưng lại tăng thấp hơn vào 1999. Bảng 6: Tỉ trọng hoạt động xuất khẩu của hàng hoá Việt Nam vào Mỹ 1997- 1999 đơn vị: triệu USD Năm Kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ ( triệu đô la) Tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam ( triệu đôla) Tỉ trọng % 1997 372 8.850 4,2 1998 519,5 9.361 5,5 1999 601,9 11.523 5,22 ( Nguồn: niên giám thống kê, số liệu của Bộ thương mại Việt Nam và tính toán của người viết) Rõ ràng tỉ trọng xuất khẩu năm 1998 có sự khởi sắc lớn so với năm 1997 nhưng lại giảm ít so với 1999. Trong khi Mỹ là thị trường nhập khẩu lớn nhất toàn cầu thì kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam vào Mỹ quả nhỏ bé ( bảng 7) chưa đầy 0,05% so với hàng nhập khẩu vào Mỹ. Bảng 7: Tỉ trọng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ giai đoạn 1997- 1999 Năm Trị giá xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ ( triệu USD) Tổng giá trị nhập khẩu của Mỹ ( triệu USD) Tỉ trọng% 1997 372 1.055.800 0,035 1998 519,5 1.117.500 0,046 1999 601,9 1.244.200 0,048 ( Nguồn: phòng thương mại Mỹ, bộ phận phân tích kinh tế) Chính vì thế mà một tài liệu do quỹ Standley Foundation đã viết: " Việt Nam là một đối tác thương mại tương đối không quan trọng đối với Mỹ" ( Standley Foundation, trang 42). Giai đoạn này cũng đánh dấu bước tiến mới trong quan hệ hai nước khi tổng thống Mỹ tuyên bố bãi bỏ việc áp dụng điều luật tổ chức bổ sung Jackson- Vanik đối với Việt Nam vào ngày 10/ 3/ 1998. Từ đây, hàng năm quyết định này đều được tiếp tục gia hạn. Năm 1999, Việt Nam giành cho Mỹ quy chế tối huệ quốc trong buôn bán, được gia hạn hàng năm. II/ Giai đoạn khi hiệp định thương mại được ký kết: Ngày 13/7/2000, bản hiệp định thương mại đã được ký kết tại Washington giữa bộ trưởng thương mại Việt Nam là ông Vũ Khoan và đại diện thương mại Hoa Kỳ là bà Charlene Barshefsky. Hiệp định này đã đánh dấu một cột mốc quan trọng trong tiến trình hợp tác toàn diện giữa hai quốc gia sau một quá trình làm việc đầy thiện chí giữa hai chính phủ. Có thể chín vòng đàm phán trong ba năm với rất nhiều cuộc xúc tiến gặp gỡ giữa các quan chức của hai bên để đi đến một kết thúc như vậy là quá dài, nhưng cũng phải thừa nhận rằng Bản hiệp định là yếu tố quan trọng cho thấy Việt Nam chúng ta đã đạt được một thắng lợi trên phương diện mở rộng quan hệ kinh tế thương mại quốc tế. Chính vì thế, sự kiện trên được tờ Thời báo Kinh tế Sài Gòn bầu chọn là một trong mười sự kiện kinh tế nổi bật trong năm 2000. Bước phát triển tiếp theo trong quan hệ hai nước được thể hiện rõ hơn khi lần đầu tiên tổng thống Mỹ Bill Clinton tới thăm Việt Nam từ 19 đến 21/ 11/ 2000. Bảng 8: Kim ngạch buôn bán Việt Nam- Hoa Kỳ 2000 đơn vị: triệu USD Nhóm hàng xuất khẩu sang Việt Nam nhập khẩu từ Việt Nam thực phẩm và động vật sống 37,35 496,68 đồ uống và thuốc lá 0,53 0,52 nguyên liệu thô 30,25 7,03 nhiên liệu khoáng, dầu nhờn 0,18 88,41 dầu mỡ động thực vật 0,17 0,08 hoá chất và các sản phẩm liên quan 71,61 0,17 hàng chế tạo( phân loại theo nguyên liệu) 22,78 15,71 máy móc và thiết bị vận tải 149,43 3,32 các sản phẩm chế tạo khác 48,28 198,42 hàng hoá và giao dịch 7,13 10,77 Tổng 367,72 821,66 ( Nguồn: Kinh doanh Hoa Kỳ 2002- Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam) Như là một tiến trình tất yếu, cuối năm 2001, Quốc hội Việt Nam và Mỹ thông qua Hiệp định thương mại Việt- Mỹ và bắt đầu từ 10/12/ 2001, hiệp định chính thức có hiệu lực. Hơn một năm qua, rất nhiều cuộc hội thảo được tổ chức nhằm mục đích phổ biến nội dung hiệp định và vạch ra phương hướng, lộ trình nhằm thực thi hiệp định một cách có hiệu quả. 1. Khái quát về hiệp định thương mại Việt Mỹ: Hiệp định thương mại Việt- Mỹ dài gần 120 trang, gồm 7 chương, 64 điều và kèm theo nhiều phụ lục đề cập đến 4 nội dung chủ yếu: thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ, quan hệ đầu tư. Như vậy bản hiệp định thương mịa này không chỉ đề cập đến lĩnh vực thương mại hàng hoá. Khái niệm" thương mại" ở đây được đề cập theo nghĩa rộng, hiện đại, theo tiêu chuẩn của WTO và có tính đến đặc thù của phát triển kinh tế Việt Nam. Bản Hiệp định thương mại thực ra là một văn bản luật, các điều khoản là những điều luật làm cơ sở pháp lý cho hoạt động thương mại giữa hai quốc gia. Nói rộng hơn nữa, bản Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ sẽ là văn bản "luật" làm cơ sở cho những hiệp định( luật) sau này mỗi khi Việt Nam tiến hành đàm phán thương mại đa phương với từng quốc gia lãnh thổ thành viên WTO cho quá trình Việt Nam gia nhập tổ chức này bởi bản hiệp định đã được cấu thành từ cơ sở pháp lý của tổ chức WTO. Do đó, Việt Nam đã cam kết hai nguyên tắc cơ bản: - đồng ý áp dụng các luật lệ, quy định của WTO làm cơ sở pháp lý cho hoạt động thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. - cam kết mở cửa thị trường, cụ thể là thị trường hàng hoá, dịch vụ, hoạt động đầu tư...theo đúng nguyên tắc của WTO. Mở đầu cho bản hiệp định là phần khai đoạn minh thị quyết tâm giữa chính phủ Việt Nam và chính phủ Hoa Kỳ để đi đến thiết lập và phát triển quan hệ kinh tế thương mại đôi bên cùng có lơị trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, xác định những nhân tố quan trọng và cần thiết cho việc tăng cường mối quan hệ song phương. Hai chính phủ tin tưởng hiệp định thương mại sẽ là phương tiện phục vụ tốt nhất cho lợi ích chung của các bên. Hoa Kì còn thừa nhận Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, đang trong quá trình chuyển đổi từ một nền kinh tế kế hoạc tập trung sang một nền kinh tế thị truờng để đồng ý chấp nhận những điều kiện ưu đãi mà các nguyên tắc của WTO qui định. Ngoài ra Hoa Kỳ cũng ghi nhận và mong muốn hỗ trợ Việt Nam trong quá trình tiến tới trở thành thành viên của WTO. Như vậy, tinh thần của Hiệp định thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã thể hiện định hướng nòng cốt của tư tưởng toàn cầu hoá thương mại do WTO khuyến khích. Mọi hoạt động thương mại xuyên suốt bản hiệp định dựa trên hai nguyên tắc cơ bản của hệ thống thương mại đa phương của nguyên tắc không phân biệt đối xử là qui chế tối huệ quốc và qui chế sự đãi ngộ quốc gia. Qui chế tối huệ quốc( Most Favour Nation: MFN) yêu cầu các bên cam kết " dành ngay lập tức" và vô điều kiện cho hàng hoá...có xuất xứ , hoặc được xuất khẩu từ lãnh thổ của bên kia sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử dành cho hàng hoá có xuất xứ tại, hoặc được xuất khẩu từ lãnh thổ của bất kì nước thứ ba...".Điều đó có nghĩa là hàng hoá, dịch vụ có xuất._.ương hiệu đó vào lãnh thổ mà họ đã đăng ký quyền sở hữu.Ví dụ, sản phẩm "bia Saigon" đã được công ty Rice Field Corp đăng ký ở Mỹ thì đương nhiên công ty bia Saigòn không thể bán sản phẩm của họ vào thị trường Mỹ...Như vậy mất thưong hiệu cũng có nghĩa là mất luôn thị trường, khi đó doanh nghiệp "mất" thị trường phải từ bỏ thị trưòng hoặc tìm một thương hiệu nào khác để thay thế. Ngoài ra còn phải kể đến một nguy cơ khác là nếu doanh nghiệp nào" mất" thương hiệu mà muốn đòi lại thương hiệu của mình thì phải lao vào vòng kiện tụng,rẳc rối nhất là khi có sự xung đột pháp luật giữa các quốc gia hết sức tốn kém,chi phí có thể từ 10.000 USD đến hàng trăm nghìn USD, trong khoảng thời gian từ một năm trở lên, Nguy cơ bị đánh cắp thưong hiệu xảy ra từ trước khi hiệp định thương mại được kí kết. Sau khi hiệp định này có hiệu lực thì nguy cơ bị đánh mất thương hiệu ngay trên đất Mỹ cũng tăng theo.Nếu đánh mất thương hiệu thì cơ hội thâm nhập vào thị trường Mỹ- một thị trường còn đầy mới mẻ đối với các doanh nghiệp Việt Nam sẽ càng trở lên khó khăn hơn.Nhận thức rõ nguy cơ này mà các vấn đề về bảo vệ thương hiệu được đưa lên các phương tiện thông tin đại chúng ngày càng thường xuyên hơn.Cho đến giờ đã có rất nhiều hội thảo, triển lãm bàn về vấn đề bảo vệ thương hiệu.Điều này không những thu hút sự chú ý của các doanh nghiệp mà cả công chúng. 5 . Những nguyên nhân: Đến nay các doanh nghiệp bắt đầu nhận thấy vào thị trường Mỹ có lắm lợi ích và cũng đầy thử thách. Đây là một trong những vấn đề bình thường trong làm ăn kinh doanh trên thế giới ngày nay nhưng tình hình của các doanh nghiệp Việt Nam có phần phức tạp hơn. Nguyên nhân khách quan là do sự chênh lệch quá lớn của hai nền kinh tế, Mỹ vẫn thực sự chưa bình thường hoá quan hệ với Việt Nam, vẫn giữ tư tưởng thù địch. Ngoài ra cũng cần phải xét đến những nguyên nhân chủ quan sau 5.1 Hiệu quả ,chất lượng, sức cạnh tranh của nền kinh tế nói chung và của các doanh nghiệp nhìn chung còn yếu kém. Thực tế trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam còn ở mức rất thấp so với nhiều nước thành viên WTO, APEC, ASEAN.Theo đánh giá của tổ chức Diễn đàn kinh tế thế giới(WEF) công bố cuối năm 2001 thì năng lực cạnh tranh tổng thể của kinh tế Việt Nam còn thấp kém,hạn chế ở mức 62/75 nước. Trong khi đó Hoa Kỳ có một nền kinh tế hùng mạnh nhất thế giới với GDP trên 9000 tỷ USD gấp 300 lần GDP của Việt Nam 5.2 Lĩnh vực dịch vụ của chúng ta còn quá yếu kém Vì dịch vụ là lĩnh vực lợi thế vượt trội của Hoa Kỳ nên sức ép cạnh tranh là rất lớn 5.3 Quy định pháp lý về vấn đề sở hữu trí tuệ của ta còn thiếu và chưa đồng bộ theo yêu cầu của WTO, việc xử lý các sai phạm về bản quyền tác giả còn chưa nghiêm, tình trạng làm nhái theo mẫu nước ngoài khá phổ biến, chưa kịp thời ngăn chặn. 5.4 Luật pháp , chính sách, cơ chế quản lý kinh tế còn chưa hoàn chỉnh đồng bộ 5.5 Nhân lực còn hạn chế Trình độ hiểu biết của đội ngũ cán bộ còn yếu. Đội ngũ công nhân lành nghề còn chưa được chú trọng đào tạo và thiếu trầm trọng. Mặt khác, chúng ta để lãng phí khá nhiều nguồn lực có trí tuệ trong nước do chế độ sử dụng và đãi ngộ không hợp lý, chưa có chính sách thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn tri thức, chất xám bên ngoài của lực lượng Việt kiều ở nước ngoài. 5.6 Bộ máy quản lý và thủ tục hành chính Tuy có sắp xếp, cải tiến song nhìn chung bộ máy quản lý điều hành còn cồng kềnh và trùng lặp trong quy định chức năng. Công tác dự báo thông tin, hoạch định chính sách còn chậm 5.7 Chúng ta vừa phải hội nhập để phát triển kinh tế vừa phải chú trọng bảo vệ độc lập ,chủ quyền đất nước và định hướng xã hội chủ nghĩa tức là hội nhập mà không hoà tan. Để dung hoà điều này là một việc làm rất khó Chương III Những biện pháp để giải quyết tồn tại trong quan hệ thương mại Việt Mỹ Như vậy tính cho đến thời gian này thì hiệp định thương mại Việt Mỹ đã có hiệu lực được gần 15 tháng. Bên cạnh những cơ hội lớn trong giao lưu kinh tế thương mại song phương và đa phương thì những thách thức không phải là nhỏ. Những tranh chấp thương mại đã phát sinh, vẫn còn đang trong quá trình đàm phán để giải quyết và vẫn còn chưa biết bao giờ sẽ kết thúc. Chúng ta sẽ còn phải làm quen với những thách thức này vì những vụ tranh chấp thương mại trên không phải là những trở ngại đầu tiên và cũng không phải là những trở ngại cuối cùng trên con đường nước ta đang đi để hoà nhập kinh tế quốc tế. Để tiếp tục phát huy lợi ích của Hiệp định thương mại và cũng để tránh những trường hợp mang lại hậu quả đáng tiếc cho các doanh nghiệp của ta, Việt nam không còn cách nào khác là phải có sự tự chuyển đổi cho thích nghi phù hợp với xu hướng phát triển của thương mại thế giới và rút ngắn khoảng cách chênh lệch kinh tế hai nước. Điều này sẽ phải là kết quả tổng hợp của sự nỗ lực của nhà nước,doanh nghiệp, cá nhân với các giải pháp mang tính chiến lược ở cả tầm vi mô và vĩ mô. I/ Nhà nước: 1. Về mặt pháp lý: Với tư cách là chủ thể trong quản lý nền kinh tế quốc dân, cần nhanh chóng giải quyết môi trường pháp lý cho doanh nghiệp phát triển như: * Bổ sung luật và những văn bản dưới luật còn thiếu * Rà soát lại những văn bản luật và dưới luật để kịp thời sửa đổi, bổ sung cho phù hợp tình hình hiện tại và thông lệ quốc tế. Chẳng hạn, chính phủ nên bổ sung sửa đổi điều 69 Luật lao động, điều chỉnh hạn mức tăng ca từ 200 giờ/năm lên 400 giờ/năm để các doanh nghiệp dệt may không vi phạm luật lao động mà vẫn đảm bảo thời hạn giao hàng cho các nhà nhập khẩu Mỹ. Để đối phó với chiến tranh thương mại,nhà nước cần phải xây dựng được một khung pháp lý chống phá giá, phòng ngừa các doanh nghiệp nước ngoài bán phá giá tại thị trường Việt Nam, cũng như ngăn chặn kịp thời các doanh nghiệp trong nước tự phá giá, tạo cớ cho phía đối tác kiện tụng, gây ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh. 2.Về chính sách vốn Nhà nước cần có một chính sách tín dụng công bằng đối với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, cung cấp thông tin và tư vấn cho các doanh nghiệp lựa chọn,tiếp nhận công nghệ và trang thiết bị tiên tiến. 3.Trên lĩnh vực thông tin Nhà nước cần phổ biến rộng rãi nội dung hiệp định cho các doanh nghiệp, các đoàn thể xã hội và nhân dân , để nhận thức rõ những thuận lợi và thách thức trong việc thực thi hiệp định tạo ra sự nhất trí về nhận thức tư tưởng, kịp thời có kế hoạch triển khai thực hiện theo chức năng ở các cấp, các ngành, địa phương, cơ sở đạt hiệu quả. Ngoài ra, nhà nước cần mở rộng cung cấp thông tin và giới thiệu các doanh nghiệp Việt Nam về luật lệ thưong mại của Hoa Kỳ, kể cả của các bang. 4.Về mặt chính sách Nhà nước cần có sự hỗ trợ toàn diện doanh nghiệp thâm nhập thị trường Mỹ. Hỗ trợ không chỉ về mặt thông tin như đã đề cập ở trên mà còn hỗ trợ về: * nghiệp vụ xuất nhập khẩu và tiếp thị bao gồm bao bì đóng gói, nhãn hiệu hàng hoá, đơn vị tính, bảo quản, lựa chọn phương thức vận chuyển, mở và thanh toán L/C, tìm đối tác, chọn kênh quảng cáo sản phẩm, khảo sát thị trường, tham gia hội chợ triển lãm, mở trang web... * tài chính bao gồm hình thành các quỹ tín dụng xuất khẩu , đặc biệt ưu tiên cho những doanh nghiệp đã từng xuất khẩu thành công sang thị trường Mỹ. Thậm chí có thể mạnh dạn đầu tư cho một số doanh nghiệp xuất khẩu được sản phẩm nhằm tạo bàn đạp mở rộng thị phần sang Mỹ. * tổ chức, sắp xếp lại một số bộ phận thuộc các cơ quan thúc đẩy thương mại như phòng công nghiệp và thương mại, Bộ thương mại, Hải quan, tài chính và cơ quan thương vụ ở Mỹ 5.Về chính sách phát triển nguồn nhân lực Nhà nước cần đẩy mạnh hơn nữa để việc thực hiện hội nhập có hiệu quả. Trên cơ sở đánh giá thực trạng cần nhanh chóng quy hoạch, đào tạo lại, đào tạo bố sung để điều chỉnh bố trí lại đội ngũ cán bộ( hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật, cán bộ làm công tác hội nhập, điều hành quản lý...) đồng thời đẩy mạnh việc đào tạo nghề nâng cao trình độ đội ngũ công nhân. Ngoài việc am hiểu về luật pháp của thị trường Mỹ cũng như luật thương mại quốc tế, cần phải có một đội ngũ chuyên viên thành thạo, đủ sức đối phó với các vụ kiện, sớm nắm bắt được thông tin để tư vấn cho các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp điều chỉnh kịp thời biến động của thị trường, học tập kinh nghiệm xử lý của các nước cũng bị kiện như mình. Thêm vào đó, nhà nước cũng cần có biện pháp huy động có hiệu quả cộng đồng ngưòi Việt Nam đang sinh sống ở nước ngoài và Hoa Kỳ tham gia vào việc xây dựng đất nước, lôi kéo bà con hướng về đất nước, vì sự nghiệp ích nước lợi nhà. Phần lớn Việt kiều ở Hoa Kỳ là những người có trình độ học vấn cao, nhiều người là chuyên gia, cố vấn, luật sư cho các hãng kinh doanh của Hoa Kỳ, khi có chính sách động viên tốt thì có thể khai thác được ưu thế này làm cầu nối để triển khai buôn bán và hợp tác kinh tế kỹ thuật với Hoa Kỳ. Trong bài trả lời phỏng vấn đăng trên tạp chí thương mại tết Nhâm Ngọ, ông Nguyễn Ngọc Mỹ- chủ nhiệm câu lạc bộ Việt kiều, thành viên hội đồng quản trị hiệp hội doanh nghiệp Việt kiều tại thành phố Hồ Chí Minh đã nêu bật được vai trò của Việt kiều trong việc đóng góp giúp doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập thị trường Mỹ.ông nhấn mạnh Việt kiều sẽ là trung gian tức là có thể làm đại diện,làm marketing, làm nhà phân phối... cho các doanh nghiệp Việt Nam tại Mỹ. Họ chính là khâu tiền phương rất tốt vì họ sinh sống và làm việc ở đó, có những thông tin về thị trường cập nhật hơn các doanh nghiệp trong nước và tiết kiệm được chi phí. Hiện tại ,câu lạc bộ Việt kiều đã và sẽ tổ chức các cac buổi hội thảo xoay quanh các vấn đề đầu tư, thương mại, các luật định của thị trường Mỹ. Nếu nhà nước tạo điều kiện thuận lợi, quan tâm nhằm duy trì các hoạt động như vậy thì đây sẽ là nơi gặp gỡ hữu ích cho các doanh nghiệp Việt Nam học hỏi kinh nghiệm tránh vướng vào các rắc rối đáng tiếc có thể xảy ra. Nhận thức rõ điều này ngày 12/3/2003, Chính phủ đã ban hành chương trình tổng thể thực hiện hiệp định thương mại Việt Mỹ với các nội dung là: phổ biến hiệp định, rà soát văn bản pháp luật, lộ trình mở cửa thị trường theo cam kết trong hiệp định và nâng cao khả năng cạnh tranh, kiểm tra chất lượng hàng hoá xuất nhập khẩu và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, xúc tiến thương mại,đầu tư,du lịch, an ninh quốc phòng, đào tạo nguồn nhân lực. Hy vọng là những chương trình này sẽ được thực thi có hiệu quả II/ Doanh nghiệp: Trong điều kiện của Việt Nam, hoạt động của các doanh nghiệp phụ thuộc trước tiên vào sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước,nhất là các đường lối, chủ trương, chính sách và sự chỉ đạo của các bộ ,ngành. Nếu sự lãnh đạo và chỉ đạo đó tạo được chân trời rộng lớn, tạo được động lực và chỗ dựa cho các doanh nghiệp hoạt động thì rõ ràng vấn đề còn lại là của các doanh nghiệp Các doanh nghiệp có rất nhiều việc phải làm để phát huy vai trò của mình, để nâng cao năng lực quản lí và cạnh tranh.Nếu không có sự chuẩn bị tích cực và cụ thể thì chắc chắn doanh nghiệp Việt Nam sẽ không được hưởng lợi nhiều từ bản hiệp định này mà ngược lại dễ có thể biến thị trường nội địa rộng lớn của mình thành nơi tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu và sản xuất gia công một cách thuần tuý và tràn lan 1.Trước tiên doanh nghiệp phải sản xuất kinh doanh tốt, có chất lượng và có uy tín. Tuy nhiên đây không phải là một điều đơn giản. Có người cho rằng, cứ có sản phẩm chất lượng tốt, đạt yêu cầu tiêu chuẩn an toàn, vệ sinh thực phẩm của Mỹ( trường hợp thuỷ sản) được người tiêu dùng Mỹ chấp nhận thì vẫn có thể tiếp tục xuất khẩu sang Mỹ. Thực tế có thể là như vậy nhưng trong làm ăn kinh doanh nên tránh trước những rắc rối kiện tụng, nhất là ở Mỹ. Để tránh được những rắc rối như vậy, các doanh nghiệp Việt Nam phải nhanh chóng tự lớn lên về công nghệ, về hiểu biết và kinh nghiệm quản trị kinh doanh, về luật và lệ của nước mình và nước sở tại để tiến vào làm ăn kinh doanh, về luật lệ quốc tế và Mỹ để chiến thắng trong kiện tụng, nếu buộc phải làm như vậy. 2.Doanh nghiệp không những phải sản xuất ra những sản phẩm tốt mà còn phải biết lựa chọn phương thức tiếp cận và mặt hàng thích hợp, tạo dựng thương hiệu riêng Cần chú ý đến việc tô điểm cho sản phẩm thông qua quảng cáo tiếp thị tốt, nhãn mác rõ ràng, giao hàng đúng thời hạn, bán những hàng mà ngưòi sở tại ưa thích. 3.Trước khi sản xuất doanh nghiệp cần xác định các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh Cần tập trung phát triển mạnh các sản phẩm chủ lực theo lợi thế so sánh nhằm nâng cao năng suất, giảm giá thành, hình thành thương hiệu nhằm nâng cao sức cạnh tranh, đáp ứng yêu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu.Theo đánh giá hiện nay các mặt hàng như dệt may, giầy dép, thuỷ sản, cà phê, chè , hạt tiêu, hạt điều, rau quả, hàng thủ công mỹ nghệ, vật liệu xây dựng, đồ gốm, đồ gỗ, đồ da, sữa , đồ uống...chiếm khoảng 90% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ, trong những năm trước mắt, những mặt hàng trên vẫn là những mặt hàng xuất khẩu quan trọng của ta. Do vậy cần đẩy mạnh công tác cung cấp thông tin, xúc tiến thương mại, đồng thời đổi mới công nghệ, trình độ quản lý để tăng sức cạnh tranh của mặt hàng này và phát triển các mặt hàng mới. 4.Phải tận dụng nguồn lao động dồi dào,giá nhân công rẻ, tiết kiệm chi phí đầu vào như điện, nước, thông tin vận tải... đồng thời không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm Bằng cách đầu tư thiết bị máy móc đạt tiêu chuẩn vệ sinh, đổi mới công nghệ chế biến, thực hiện nghiêm ngặt các tiêu chuẩn về an toàn vệ sinh thực phẩm nhằm xây dựng được 3 tiêu chuẩn: hệ thống quản lí chất lượng ISO 9000, hệ thống quản lí chất lượng môi trường ISO 1400, hệ thống tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội SA 8000.Đây chính là những giấy thông hành để đưa hàng vào Mỹ. 5.Trong hoạt động xúc tiến thương mại, các doanh nghiệp cần làm tốt công tác tiếp thị ở tầm vi mô như lập bộ phận nghiên cứu thị trường, tiếp thị qua hội chợ triển lãm, tiếp thị qua mạng Internet, gửi thư giới thiệu những mặt hàng mới, xây dựng bộ phận đại điện thương mại của công ty ở thị trường Mỹ, tiếp cận các siêu thị và hãng kinh doanh siêu thị để giới thiệu sản phẩm Việt Nam, từng bước củng cố thương hiệu sản phẩm của công ty trên thị trường thế giới Việc các cơ quan kinh doanh,các tổ chức thương mại trong nước chuẩn bị các bước tiếp cận thị trường Mỹ cũng cần được tổ chức thật chu đáo, nhất là đối với các doanh nghiệp nhà nước. Không thể biến việc chuẩn bị thị trường thành các chuyến "đi du lịch Mỹ không mất tiền túi", không nênkéo bầu đoàn thê tử lao vào những" cỗ máy ngốn tiền" mà không tính tới hiệu quả kinh tế và những đồng tiền mà mình sử dụng. Nhiều Việt kiều cho hay rất ngạc nhiên khi biết tin có đoàn Việt Nam sang đây trong đàm phán với đối tác đã tuyên bố là không cần biết chất lượng và giá cả mặt hàng mà cấc bạn hàng khác của Mỹ đưa ra, cho dù những mặt hàng của họ tương tự chủng loại hàng hoá của công ty anh ta. Anh này nói rằng giá của công ty anh ta định ra là vậy, bạn hàng không chấp nhận thì thôi, anh ta không cần, anh chẳng mất gì khi đối tác không chấp nhận sản phẩm mà công ty anh ta chào hàng.Gặp được khách hàng là đã hoàn thành nhiệm vụ và anh đã biết thế nào là nước Mỹ. 6.Để doanh nghiệp và hàng hoá Việt Nam vào được thị trưòng Mỹ, ngoài việc nắm vững nhu cầu thị trường, các doanh nghiệp Việt Nam phải làm quen với tập quán, tác phong khi đàm phán, kí kết hợp đồng với các nhà kinh doanh Mỹ phải tìm hiểu và nắm vững luật pháp, chính sách ngoại thương của Hoa Kỳ. Đây là quốc gia có hệ thống pháp luật, chính sách về thương mại khá rắc rối và phức tạp. 7.Dù không hề muốn nhưng các doanh nghiệp cũng cần phải làm quen với các vụ kiện tụng, giải quyết tốt các tranh chấp Bởi vậy, các doanh nghiệp Việt Nam phải xây dựng được một cơ chế thống nhất. Trước hết , phải đoàn kết, thực hiện nghiêm chỉnh những quy định và tiêu chí về chất lượng sản phẩm, quy trình và điều kiện sản xuất, an toàn vệ sinh...phải tích hợp hai hệ thống quản trị chất lượng và quản trị môi trường trong quá trình sản xuất để cho ra các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đáp ứng mục tiêu và chức năng đã xác định, thoả mãn nhu cầu của khách hàng, phù hợp với tiêu chuẩn quy định kỹ thuật, mang lại lợi nhuận và đủ sức cạnh tranh...Tiếp đó, các doanh nghiệp cần thực hiện nghiêm túc hiệp định chống gian lận thương mại và tuân thủ các luật lệ thương mại quốc tế, không để xảy ra việc tiến hành điều tra, gian lận như bán phá giá hay sai lệch xuất xứ hàng hoá..từ phía các đối tác.Đồng thời, phải chú ý việc lưu trữ những hồ, tài liệu trong hoạt động kinh doanh, khi cần có thể làm bằng chứng chứng minh.Bên cạnh đó, cần nhanh chóng đăng ký thương hiệu, nhãn mác để tránh được chuyện tranh chấp thương hiệu. Năm 2003 là năm thứ hai thực hiện Hiệp định, ngoài các điểm đã thực hiện từ năm thứ nhất , năm nay phải tiếp tục thực hiện thêm một số điểm nữa trên lộ trình cụ thể.Những lộ trình này là áp lực rất lớn với các doanh nghiệp. áp lực này còn tăng hơn nữa do tranh chấp nảy sinh từ năm 2002 đến nay vẫn chưa được giải quyết. Điều này khiến cho các doanh nghiệp phải có sự tự chuyển biến trên nhiều mặt thích hợp. Một trong những giải pháp là nâng cao vai trò hiệp hội ngành nghề để phát huy sức mạnh trong ứng phó với các bất trắc, đồng thời chủ động điều chỉnh lượng xuất khẩu cho thị trường để tránh được nhân tố không ổn định trong kinh doanh. III/ Tìm hiểu đầy đủ các yếu tố môi trường kinh doanh của thị trường Mỹ: Nước Mỹ với lãnh thổ rộng mênh mông, với nhiều màu sắc dân phân bố không đồng đều ở cả 50 bang nên nhu cầu hàng hóa cũng khác nhau. Mỗi bang tương tự một quốc gia riêng với những luật lệ riêng, mức thuế và các chính sách thương mại riêng... Hoạt động ngoại thương của Mỹ được điều tiết bởi hệ thống pháp luật rất phức tạp, chi tiết nhưng cũng đầy hiệu quả. Cho nên muốn giảm thiểu những rắc rối khi thâm nhập trực tiếp vào thị trường Mỹ đòi hỏi các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam phải nắm vững và thường xuyên cập nhật về quy chế nhập khẩu hàng hoá của Mỹ ,đặc biệt lưu ý về hệ thống thuế nhập khẩu; quy định về xuất xứ hàng nhập khẩu; về quyền sở hữu trí tuệ của hàng hoá; các tiêu chuẩn kỹ thuật quy định với hàng nhập khẩu vào Mỹ. Chính vì không quan tâm đúng mức tới các vấn đề này mà không ít tên gọi xuất xứ và nhãn hiệu hàng hoá của Việt Nam đã bị chiếm đoạt tại Mỹ như trường hợp cà phê Trung Nguyên, bia Sài Gòn, thuốc lá Vinataba...Biện pháp hữu hiệu nhất để bảo vệ thương hiệu với chi phí thấp là đăng ký nhãn hiệu sản phẩm củamình tại Mỹ qua mạng hoặc thuê các công ty tư vấn về Luật Sở hữu trí tuệ của Việt Nam. 1. Con người: Cần chú ý khi tiếp xúc làm ăn với người Mỹ * Người Mỹ rất tự do, ghét công thức, gò bó và rất coi trọng ngưòi có cá tính, Nhưng người Mỹ rất tôn trọng pháp luật.Họ tự do trong phạm vi pháp luật cho phép và ngưòi thực thi luật pháp cũng có tinh thần tôn trọng luật pháp như mọi công dân bình thường * Đối với những nhà kinh doanh thì càng phải chú ý nhiều đến ăn mặc. ở Mỹ, nhiều ông chủ tư bản nhìn đôi giày của người đối tác để quyết định làm ăn. * Trong giao tiếp làm ăn, người Mỹ rất thích sự chính xác ,cụ thể.Họ thích cách nói" 5 hoặc 6", chứ không thích" khoảng 5 hoặc 6". Việc nói chuyện vòng vo bị coi làm mất thời gian. Người Mỹ có thể bàn việc làm ăn xuyên qua bữa ăn, tiệc tùng, họp mặt. * Người Mỹ không bao giờ làm việc gì không có mục đích. Một doanh nhân Việt Nam đã mất một đối tác Mỹ chỉ vì sơ suất không hiểu tâm lý này. Sau khi bàn bạc và thống nhất một dự án hợp tác làm ăn, anh doanh nhân trẻ mời đối tác người Mỹ đi chơi. Ông người Mỹ hỏi:" Đi đâu?".Anh doanh nhân nói:" thì cứ đi sẽ khắc biết". Ông người Mỹ gặng hỏi:" Đi đâu mới được chứ?"" cứ đi quẩn quanh thấy gì hay hay chúng ta vào". Sau chuyến đi đó, ông người Mỹ trở về nước và...không quay trở lại. Ông đó cho rằng đối tác của ông ta là người không có triển vọng, một người hoạt động không có mục đích trong đời thường thì trong kinh doanh anh ta sẽ không có kế hoạch, chiến lược gì cả. * Trong làm ăn tránh "tiền hậu bất nhất", nếu không họ sẽ nghĩ bạn là " kẻ lừa đảo". Phải cân nhắc cẩn thận khi trả lời họ. Không nên "nói đi, nói lại"dù mình có bị thiệt. ở Mỹ luật lệ làm ăn rất nghiêm và tuyệt đối cấm hối lộ dưới bất cứ hình thức nào. Làm ăn với người Mỹ xin đừng chờ đợi sẽ nhận được những món quà "trên mức tình cảm" khác với các đối tác châu á khác. 2. Các nguyên tắc thương mại: Chính sách chính thức của Mỹ là đưa một số nguyên tắc nhất định vào các hiệp định thương mại, những nguyên tắc này là những "hòn đá tảng" của GATT 2.1 Nguyên tắc chống phân biệt Theo nguyên tắc này, mà ta vẫn được biết như là quy chế tối huệ quốc( MFN), tất cả những bạn hàng thương mại phải được đối xử với cùng một tập quán hải quan và thuế quan được dành cho "các nước được ưu đãi nhất" 2.2 Nguyên tắc có đi có lại Theo đó quốc gia này không thể điều chỉnh các quan hệ bên trong của mình lớn hơn việc thực thi các hiệp định về thương mại so với các nước khác. 3. Các vấn đề luật pháp chi phối: 3.1 Luật thuế và hải quan( Tariff and Customs Laws): Cần hiểu rõ hệ thống danh bạ thuế quan thống nhất của Mỹ để biết được sản phẩm của mình xuất khẩu vào Mỹ phải chịu thuế suất bao nhiêu. Vì danh bạ thường thay đổi, các doanh nghiệp phải có bản mới nhất để nghiên cứu. Khi biết được mức thuế phải nộp đối với hàng hoá của mình, các doanh nghiệp cần biết mình phải cạnh tranh với những nhà sản xuất kinh doanh nào về mặt hàng đó tại Mỹ, đặc biệt là các nước đang phát triển như nước ta, được hưởng thuế quan chế độ ưu đãi phổ cập( GSP). Tiếp theo lại phải biết rõ cách tính giá trị hàng hoá để thu thuế của hải quan Mỹ.Hiện nay, Mỹ dùng phương pháp định giá theo" giá trị giao dịch"( transaction value) để làm cơ sở chính cho việc định giá hàng nhập khẩu để tính thuế. Những quy định về nhãn, mã là những quy định mà các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá vào Mỹ cần hết sức lưu ý: mọi hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ ngoại quốc phải ghi rõ ràng, không tẩy xoá được,ở chỗ dễ nhìn thấy trên bao bì xuất nhập khẩu tên người mua cuối cùng ở Mỹ, tên bằng tiếng Anh nước xuất xứ hàng hoá đó. Trên các bao bì,vật dùng chứa đựng bao bì tiêu dùng của hàng hoá tới tay người mua cuối cùng cũng phải ghi rõ xuất xứ của hàng hóa bên trong. Nếu không tuân thủ quy định này sẽ bị phạt mức 10% trị giá lô hàng, phải thực hiện thêm một số yêu cầu và vẫn phải thực hiện nghĩa vụ mác mã.Hàng nhập khẩu không đáp ứng yêu cầu về mác, mã sẽ bị giữ lại ở khu vực hải quan Mỹ cho đến khi người nhập khẩu thu xếp tái xuất, phá huỷ hoặc tới khi hàng được xem là bỏ để Chính phủ định đoạt toàn bộ hoặc từng phần.Ai cố tình vi phạm hoặc che giấu sẽ bị phạt tiền 5.000 USD hoặc bỏ tù;trường hợp có sự phối hợp với nước ngoài để thay đổi, tẩy xoá mác mã về xuất xứ hàng hoá thì bị phạt 100.000 USD lần đầu, nếu tái phạm sẽ bị phạt 250.000 USD. Nhận thức được tầm quan trọng của mã số, mã vạch của hàng hoá xuất khẩu nên Hội mã số mã vạch Việt Nam chủ trương phối hợp với hội hữu nghị Việt Nam - Hoa Kỳ, Phòng thương mại Mỹ tại Hà Nội( AMCHAM) và Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam(VCCI) để mở các lớp phổ biến mã sản phẩm đa năng UPC và những thông tin cần thiết về thị trường Mỹ cho doanh nghiệp muốn hội nhập thị trường Mỹ. 3.2 Luật khắc phục những bất lợi trong thương mại của Mỹ( Trade Remedy Act) bao gồm luật thuế đối kháng( Countervailing Duty Law- CVD) và luật chống bán phá giá * Luật thuế đối kháng được áp dụng nếu Bộ thương mại Mỹ điều tra xác định rằng có tình trạng trợ cấp trực tiếp hoặc gián tiếp cho việc chế tạo,sản xuất, xuất khẩu một mặt hàng nào đó vào Mỹ của nước xuất khẩu; ngành công nghiệp Mỹ sản xuất ra hàng đó hoặc liên quan đến hàng đó bị tổn thương hoặc đe doạ bị tổn thương về mặt vật chất; xác định mức độ mà nước xuất khẩu ấy trợ cấp thì Mỹ sẽ áp đặt ngay mức thuế đối kháng. Đây là mức thuế đánh bổ sung thêm vào mức thuế hiện hành, mức thuế đối kháng bằng mức trợ cấp của nước xuất khẩu mà Bộ thương mại điều tra được trình Tổng thống phê duyệt. * Luật chống bán phá giá( Antidumping Laws- AD) ra đời nhằm bảo vệ nền công nghiệp trong nước của Mỹ. Luật này cho phép đánh một mức thuế bổ sung vào mức thuế hiện hành khi Bộ thương mại Mỹ điều tra và khẳng định rằng, hàng đang bán hoặc sẽ bán vào nước Mỹ thấp hơn giá trị thực sự của nó( phá giá) hoặc uỷ ban thương mại quốc tế Mỹ( ITC) khẳng định rằng, một ngành công nghiệp trong nước bị tổn thương hoặc đe doạ bị tổn thương về mặt vật chất do Mỹ nhập khẩu mặt hàng bán phá giá ấy. Sau khi điều tra và khẳng định có bán phá giá, Mỹ sẽ áp dụng ngay thuế chống bán phá giá với mức thuế ngang với mức hàng đó đã bán thấp hơn giá trị đích thực của nó trong tương quan so sánh với giá bán tại Mỹ * Ngoài ra cũng cần chú ý đến điều luật về quyền tự vệ( Safeguard) và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ Mỹ được quyền áp dụng quyền tự vệ theo điều 19 của hiệp định chung về thưong mại và thuế quan( GATT), có nghĩa là tuy đã cho các nước hưởng ưu đãi về thuế và phi thuế quan( MFN và GSP) nhưng nếu xét thấy sản xuất trong nước bị phương hại, Mỹ sẽ dành quyền đơn phương huỷ bỏ các ưu đãi đó và áp dụng các biện pháp hạn chế hoặc cấm nhập khẩu các loại hàng hoá đó vào Mỹ( như việc Mỹ vừa quyết định liên quan đến việc nhập khẩu cá da trơn của Việt Nam) Về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, Mỹ có quy chế nghiêm cấm việc sử dụng bất hợp pháp quyền tác giả, mẫu mã , kiểu dáng công nghiệp. Trường hợp vi phạm bản quyền, làm giả mạo mẫu mã, nhãn hiệu sẽ bị trừng phạt nặng.Luật sở hữu trí tuệ của Mỹ rất phức tạp vì bên cạnh luật của liên bang còn có luật của từng bang, cùng với luật do các cơ quan lập pháp và hành pháp ban hành còn có luật án lệ. Một số nguyên tắc xác lập quyền và bảo hộ của Mỹ cũng khác với Việt Nam và nhiều nước IV/ Tăng cường bồi dưỡng và đào tạo đội ngũ: Trước hết là nâng cao đào tạo chú trọng đổi mới cơ cấu đào tạo phục vụ chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá và hướng tới nền kinh tế trí thức. Tập trung đào tạo nhân lực có trình độ cao, công nhân kỹ thuật có tay nghề điêu luyện, có khả năng tiếp cận với công nghệ tiên tiến đáp ứng nhu cầu phát triển của các ngành kinh tế. Ưu tiên cho đào tạo một số ngành công nghiệp mũi nhọn. Mở rộng hợp tác quốc tế trong công tác đào tạo dưới các hình thức như: liên kết đào tạo ở trong nước, gửi đi đào tạo ở nước ngoài, trao đổi chuyên gia, tổ chức hoặc cử đại biểu tham dự các hội thảo quốc tế. Chú trọng các môn học hình thành và phát triển các năng lực chung, kỹ năng cơ bản nhất là các kỹ năng sống và các kỹ năng xã hội. Để hội nhập khu vực và quốc tế, cần đào tạo ngoại ngữ, hướng dẫn cách sử dụng các tiến bộ trong công nghệ thông tin cho những người làm công tác ngoại thương vì đội ngũ cán bộ của nhiều doanh nghiệp có trình độ tiếng Anh kém, điều này có ảnh hưởng đến hiệu quả các chuyến giao dịch, việc tiếp cận với Internet của nhiều doanh nghiệp còn hạn chế trong khi đó thế giới hiện nay đang phổ biến việc giao dịch trên mạng. V/ Mở rộng quan hệ bạn hàng với các nước trong khu vực và trên thế giới: Việt Nam đang trên đà hội nhập. Ngoài việc chú trọng vào các thị trường xuất khẩu truyền thống và chủ yếu như Hoa Kỳ, Nhật, EU, chúng ta cũng cần phải tìm kiếm các thị trường mới như Nga,Mêhico,Singapore..., biết cách khai thác các tiềm năng mới đồng thời với việc thiết lập các quan hệ bạn hàng mới. Như thế chúng ta vừa phát triển kinh tế vừa giảm thiểu đến mức tối đa khả năng phụ thuộc vào một thị trường cụ thể nếu có các tranh chấp thương mại xảy ra. Thương trường là chiến trường. Có thêm bạn hàng mới chúng ta sẽ không bị cô lập trong các cuộc chiến thương mại.Kinh nghiệm của các nước họ sẽ là bài học quý báu cho chúng ta. Kết luận Như vậy là hiệp định thưong mại Việt Nam- Hoa Kỳ đã đi đựoc một chặng đường.Hơn một năm qua, thực tế thương mại đã cho thấy quá trình thực thi hiệp định vừa là quá trình hợp tác vừa là quá trình đấu tranh. Cơ hội nhiều mà thách thức cũng không phải là ít. Hiệp định đã đem lại những thắng lợi về việc công nhận chủ quyền Dân tộc Việt Nam( kể cả chủ quyền chính trị, kinh tế , pháp luật...) nhưng cũng để lại nhiều điều chưa xác định được rõ ràng và dứt khoát. Những thế lực vẫn giữ tư tưởng thù địch với chúng ta đã khoét sâu vào những điều đó.Chúng đã nêu lên vụ cá tra, cá basa, vụ mất thương hiệu... Dần dần những vụ đó đã rõ ràng,về phía ta cũng rút được ra những kinh nghiệm quý báu trong việc đối phó với những vấn đề tương tự trong tiến trình mở rộng quan hệ kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Mục tiêu trước mắt là phấn đấu để gia nhập WTO vào năm 2005. Có thể chặng đường này sẽ khó khăn vất vả hơn, mất nhiều thời gian và nỗ lực hơn nhưng chúng ta tin tưởng rằng với những thành tựu đang đạt được trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, với tinh thần nhìn thẳng vào khó khăn thách thức, biến thách thức thành thời cơ, dưói sự lãnh đạo của Đảng chúng ta sẽ từng bước nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ năng động và hoạt động hiệu quả hơn trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, tạo ra sức mạnh tổng hợp của dân tộc, thực hiện thắng lợi các mục tiêu đã đề ra. Tài liệu tham khảo A- Sách: 1- Khái quát về kinh tế Mỹ PTS Nguyễn Tiến Lộc Nhà XB Chính trị quốc gia , 1998 2- Tình hình kinh tế Mỹ: Nước Mỹ và thế giới Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, 1993 3-Kinh doanh với Hoa Kỳ 2002 Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam ,2002 4-Kinh tế thế giới 2001-2002 đặc điểm và triển vọng TS Kim Ngọc Nhà XB Chính trị quốc gia, 2002 5-Tìm hiểu về hiệp định giữa CHXHCN Việt Nam và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ về quan hệ thương mại Nhà XB Thống kê, 2001 6--Quan hệ kinh tế Việt Nam-Hoa Kỳ TS Đỗ Đức Định Nhà XB Thế giới, 2000 7-Hiệp định giưã CHXHCN Việt Nam và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ về quan hệ thương mại Nhà XB Chính trị quốc gia, 2002 8-Quan hệ kinh tế quốc tế GS-PTS Tô Xuân Dân PTS Vũ Chí Lộc Nhà XB Hà Nội 9-Pháp luật kinh doanh theo hiêp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ Phạm Minh Nhà XB Thống kê, 2001 10-Tìm hiểu pháp luật Hoa Kỳ trong điều kiện Việt Nam hội nhập kinh tế khu vực và thế giới Phạm Duy Nghĩa Nhà XB Chính trị quốc gia,2001 B-Báo vàTạp chí: 1-Tạp chí Châu Mỹ ngày nay 2-Tạp chí thuế nhà nước 3- Tạp chí kinh tế và phát triển 4-Tạp chí Thương nghiệp-Thị trường Việt Nam 5-Thời báo kinh tế Việt nam 6- Vietnam news 7-Tạp chí thương mại 8-Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền Tệ C-Và một số tài liệu khác ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33279.doc